Linh Hồn Ác
Chương 65
Vẫn chưa tới mười ba giờ khi Brolin bước qua cửa của Powell’s và đi vào thế giới tĩnh lặng của kiến thức. Powell’s là một hiệu sách có thể khiến chính Alexandre Đại đế phải tái mặt vì sự phong phú và đa dạng của nó. Hiệu sách quá rộng và các giá sách sắp xếp quá ngoắt ngoéo làm cho người ta rất dễ bị lạc, đến mức một số sinh viên ở Portland đặt cho nó biệt hiệu “Thành phố sách".
Brolin chào một nhân viên đứng sau quầy hàng nhỏ nổi bật với một dấu hỏi khổng lồ màu trắng trên nền đen, và chỉ sau vài giây, anh tìm thấy khu vực bán sách lý - hóa. Anh bắt đầu dò tìm, đọc mục lục của các cuốn sách mà tựa đề có vẻ mang tính bao quát. Rồi anh lọc ra, xếp thành chồng một số cuốn mà anh nghĩ có thể nhặt nhạnh được vài thông tin.
Anh phải tìm ra xà phòng chứa asen và kali cacbonat gắn với cái gì. Carl DiMestro đã vất vả tách các yếu tố này từ những sợi lông động vật được tìm thấy trên một thứ đồ lót, tất nhiên đây không phải là một chiến công, nhưng việc chỉ dẫn này tồn tại là một phép màu. Hay đúng hơn, việc họ tìm được chúng là một phép màu. Brolin lại nghĩ tới bản mô tả tâm lý và nhận dạng và tự chúc mừng mình về chiến thắng nhỏ ấy. Nó xứng đáng được truyền tới tai các thầy cô giáo của anh ở Quantico, đây sẽ là một ví dụ tuyệt vời về đóng góp của mô tả nhân dạng vào cuộc điều tra và về các kết quả ngay lập tức của nó. Với điều kiện nó nhanh chóng dẫn tới việc bắt được hung thủ.
Xà phòng chứa asen và kali cacbonat.
Hướng đi này không chắc chắn, nhưng chỉ cần một chút may mắn là nó có thể đem lại kết quả. Nếu Brolin tìm ra nơi và mục đích sử dụng các sản phẩm này, xác định loại nhà máy hay nghề nghiệp sử dụng chúng, hoặc ít nhất là chúng có thể được sử dụng vào việc gì, thì sau đó anh sẽ có hy vọng chạm tới kẻ giết người. Chưa có gì chắc chắn cả, tất cả mới chỉ là suy đoán. Brolin xuất phát từ nguyên tắc là kẻ giết người có một con chó, và xung quanh nơi ở của hắn có một khu công nghiệp hoặc ít nhất là một xưởng có sử dụng xà phòng và cacbonat. Con chó không cần đi quá xa và lông của nó đã có thể dính đầy các chất này.
Vậy mà Carl DiMestro nói rằng các sợi lông ngấm đẫm các thành phần đó. Có thể con chó đã lăn vào một vũng nước, hoặc nghề của kẻ giết người khiến hắn phải tiếp xúc với các chất này. Sau đó hắn vuốt ve con chó, đặt bánh xà phòng chứa asen và kali cacbonat lên trên lông. Khi ấy, chỉ cần có vài sợi lông dính vào quần áo của kẻ giết người, thế là sự việc diễn ra.
Tất cả chỉ dựa trên xác suất, phán đoán.
Nhưng đây là tất cả những gì anh có, hơn nữa, đây là lời giải thích lô gic nhất.
Sau một giờ nghiên cứu, Brolin đã lấy ra đặt vào khoảng ba chục cuốn sách. Powell’s là một cửa hàng bán sách và người ta không đến đây để nghiên cứu, vì thế chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi một nhân viên lại gần anh, vẻ soi mói.
- Tôi có thể giúp gì được anh?
Brolin lắc đầu và lục túi trong của áo vest, rút ra tấm biển hiệu thanh tra.
- Trừ khi anh biết xà phòng chứa asen và kali cacbonat dùng để làm gì…
Anh nhân viên chừng ba mươi tuổi, đeo cặp kính to gọng đỏ, mái tóc dài vén qua tai, nhăn mặt tỏ ý “để tôi suy nghĩ một chút" hoặc gần như thế.
- Kali cacbonat được dùng để sản xuất một số loại thủy tinh và hình như cả nước hoa nữa. Tôi đã xem trên một phim tài liệu cách đây vài hôm. Thế thôi. Còn về xà phòng chứa asen, tôi chẳng biết gì cả. Để phục vụ điều tra ư?
- Hừmmm…Anh nói là để sản xuất thủy tinh?
- Và nước hoa nữa, hình như thế.
- Anh có sách nào nói về sản xuất thủy tinh không?
- Ồ có, nhất định là có.
Brolin sửng sốt khi thấy người bán hàng dễ dàng định hướng giữa vô vàn sách tham khảo trong cửa hàng. Chẳng cần mất nhiều thời gian, người bán hàng chìa cho viên thanh tra một cuốn sách nhan đề Sản xuất thủy tinh, từ thợ thổi đến công nghiệp hóa.
- Đây. Tôi sẽ hỏi đồng nghiệp của tôi về xà phòng, anh ấy biết khá nhiều về hóa học.
Brolin cảm ơn và bắt tay vào đọc cuốn sách dày, bắt đầu từ phần chỉ dẫn. Anh giở nhiều trang, nhưng không có gì đáng chú ý cả, có rất nhiều dữ liệu, vài bức ảnh và hình vẽ nhiều màu.
Anh nhân viên bán hàng đeo kính gọng đỏ trở lại sau vài phút với tách cà phê nóng hổi trên tay.
- Anh uống đi, nó rất tốt cho những lúc nghiên cứu, anh ta nói.
Sự quan tâm khiến Brolin cảm động, anh chợt thoát được khỏi bản chất đa nghi và ít nói của mình.
- Cảm ơn, anh tốt quá. Cuốn sách này quả là ác mộng! Tám trăm trang sách chữ nhỏ, liệu có ai mua nó không? Anh vừa nhấp cốc cà phê vừa đùa.
- Anh yên tâm đi, chúng tôi dùng cuốn sách này để kê một cái bàn. Tôi đã hỏi một đồng nghiệp về xà phòng chứa asen. Anh ấy không biết nhiều công dụng, nhưng đây là một chất sát khuẩn. Kali cacbonat cũng có thể được dùng làm chất bảo quản, nhất là đối với các xác ướp, anh ấy nói như vậy. Cần phải nói thêm rằng anh ấy say mê lịch sử cổ đại, đặc biệt là Ai Cập thời các pharaon. Kali cacbonat có thể được dùng để giúp xác ướp không bị khô. Tóm lại, đây là một trong các chất cần thiết.
- Cho xác ướp?
Nơi nào ở Portland người ta làm việc với cả các xác ướp nhỉ? Theo như anh biết, không bảo tàng nào trong thành phố có xác ướp. Và tại sao lại dùng cả chất diệt khuẩn như xà phòng chứa asen? Loại nhà máy nào có thể kết hợp cả hai? Để thu được gì?
Brolin xem xét một số lượng lớn nghề nghiệp, nhưng không tìm ra nghề nào có thể sử dụng các sản phẩm loại này. Nhưng làm sao mà biết được? Nhiều cơ sở chuyên nghiệp có “bí quyết" riêng của họ, cách pha trộn riêng…
Một chất sát khuẩn và một chất chống khô.
Và…
Bỗng đầu óc Brolin sáng lên. Anh so sánh các dữ liệu và một giả thiết chợt hình thành sau khi đối chiếu.
Kẻ giết người đã cắt tay chân của các nạn nhân rất cẩn thận, tỏ ra có kiến thức chuẩn xác về giải phẫu học. Hắn đặc biệt chú ý đến da và xương, bỏ qua các tĩnh mạch, cơ và toàn bộ phần thịt.
Và các vệt phấn xung quanh chân của Elizabeth Stinger. Hắn không dùng phấn để vẽ một ngôi sao năm cánh hay bất cứ thứ gì khác, mà để đo! Hắn lấy các số đo của cô gái và dùng phấn để đánh dấu phần da!
Phải, đúng như thế. Da, xương, các số đo và các chất sát khuẩn, kèm theo một chất chống khô, chỉ có một cách lý giải.
- Không được gì sao? Nhân viên bán hàng lo lắng. Anh uống thêm cà phê nhé?
Brolin cảm thấy căn phòng quay tròn quanh anh ngày càng nhanh theo mức độ kinh hoàng. Giờ thì anh đã biết.
Kẻ giết người không mang tay chân nạn nhân về làm chiến lợi phẩm.
Còn tàn bạo hơn nhiều.
Toàn bộ người anh bị chao đảo bởi một cơn rùng mình vì kinh tởm.
Brolin chào một nhân viên đứng sau quầy hàng nhỏ nổi bật với một dấu hỏi khổng lồ màu trắng trên nền đen, và chỉ sau vài giây, anh tìm thấy khu vực bán sách lý - hóa. Anh bắt đầu dò tìm, đọc mục lục của các cuốn sách mà tựa đề có vẻ mang tính bao quát. Rồi anh lọc ra, xếp thành chồng một số cuốn mà anh nghĩ có thể nhặt nhạnh được vài thông tin.
Anh phải tìm ra xà phòng chứa asen và kali cacbonat gắn với cái gì. Carl DiMestro đã vất vả tách các yếu tố này từ những sợi lông động vật được tìm thấy trên một thứ đồ lót, tất nhiên đây không phải là một chiến công, nhưng việc chỉ dẫn này tồn tại là một phép màu. Hay đúng hơn, việc họ tìm được chúng là một phép màu. Brolin lại nghĩ tới bản mô tả tâm lý và nhận dạng và tự chúc mừng mình về chiến thắng nhỏ ấy. Nó xứng đáng được truyền tới tai các thầy cô giáo của anh ở Quantico, đây sẽ là một ví dụ tuyệt vời về đóng góp của mô tả nhân dạng vào cuộc điều tra và về các kết quả ngay lập tức của nó. Với điều kiện nó nhanh chóng dẫn tới việc bắt được hung thủ.
Xà phòng chứa asen và kali cacbonat.
Hướng đi này không chắc chắn, nhưng chỉ cần một chút may mắn là nó có thể đem lại kết quả. Nếu Brolin tìm ra nơi và mục đích sử dụng các sản phẩm này, xác định loại nhà máy hay nghề nghiệp sử dụng chúng, hoặc ít nhất là chúng có thể được sử dụng vào việc gì, thì sau đó anh sẽ có hy vọng chạm tới kẻ giết người. Chưa có gì chắc chắn cả, tất cả mới chỉ là suy đoán. Brolin xuất phát từ nguyên tắc là kẻ giết người có một con chó, và xung quanh nơi ở của hắn có một khu công nghiệp hoặc ít nhất là một xưởng có sử dụng xà phòng và cacbonat. Con chó không cần đi quá xa và lông của nó đã có thể dính đầy các chất này.
Vậy mà Carl DiMestro nói rằng các sợi lông ngấm đẫm các thành phần đó. Có thể con chó đã lăn vào một vũng nước, hoặc nghề của kẻ giết người khiến hắn phải tiếp xúc với các chất này. Sau đó hắn vuốt ve con chó, đặt bánh xà phòng chứa asen và kali cacbonat lên trên lông. Khi ấy, chỉ cần có vài sợi lông dính vào quần áo của kẻ giết người, thế là sự việc diễn ra.
Tất cả chỉ dựa trên xác suất, phán đoán.
Nhưng đây là tất cả những gì anh có, hơn nữa, đây là lời giải thích lô gic nhất.
Sau một giờ nghiên cứu, Brolin đã lấy ra đặt vào khoảng ba chục cuốn sách. Powell’s là một cửa hàng bán sách và người ta không đến đây để nghiên cứu, vì thế chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi một nhân viên lại gần anh, vẻ soi mói.
- Tôi có thể giúp gì được anh?
Brolin lắc đầu và lục túi trong của áo vest, rút ra tấm biển hiệu thanh tra.
- Trừ khi anh biết xà phòng chứa asen và kali cacbonat dùng để làm gì…
Anh nhân viên chừng ba mươi tuổi, đeo cặp kính to gọng đỏ, mái tóc dài vén qua tai, nhăn mặt tỏ ý “để tôi suy nghĩ một chút" hoặc gần như thế.
- Kali cacbonat được dùng để sản xuất một số loại thủy tinh và hình như cả nước hoa nữa. Tôi đã xem trên một phim tài liệu cách đây vài hôm. Thế thôi. Còn về xà phòng chứa asen, tôi chẳng biết gì cả. Để phục vụ điều tra ư?
- Hừmmm…Anh nói là để sản xuất thủy tinh?
- Và nước hoa nữa, hình như thế.
- Anh có sách nào nói về sản xuất thủy tinh không?
- Ồ có, nhất định là có.
Brolin sửng sốt khi thấy người bán hàng dễ dàng định hướng giữa vô vàn sách tham khảo trong cửa hàng. Chẳng cần mất nhiều thời gian, người bán hàng chìa cho viên thanh tra một cuốn sách nhan đề Sản xuất thủy tinh, từ thợ thổi đến công nghiệp hóa.
- Đây. Tôi sẽ hỏi đồng nghiệp của tôi về xà phòng, anh ấy biết khá nhiều về hóa học.
Brolin cảm ơn và bắt tay vào đọc cuốn sách dày, bắt đầu từ phần chỉ dẫn. Anh giở nhiều trang, nhưng không có gì đáng chú ý cả, có rất nhiều dữ liệu, vài bức ảnh và hình vẽ nhiều màu.
Anh nhân viên bán hàng đeo kính gọng đỏ trở lại sau vài phút với tách cà phê nóng hổi trên tay.
- Anh uống đi, nó rất tốt cho những lúc nghiên cứu, anh ta nói.
Sự quan tâm khiến Brolin cảm động, anh chợt thoát được khỏi bản chất đa nghi và ít nói của mình.
- Cảm ơn, anh tốt quá. Cuốn sách này quả là ác mộng! Tám trăm trang sách chữ nhỏ, liệu có ai mua nó không? Anh vừa nhấp cốc cà phê vừa đùa.
- Anh yên tâm đi, chúng tôi dùng cuốn sách này để kê một cái bàn. Tôi đã hỏi một đồng nghiệp về xà phòng chứa asen. Anh ấy không biết nhiều công dụng, nhưng đây là một chất sát khuẩn. Kali cacbonat cũng có thể được dùng làm chất bảo quản, nhất là đối với các xác ướp, anh ấy nói như vậy. Cần phải nói thêm rằng anh ấy say mê lịch sử cổ đại, đặc biệt là Ai Cập thời các pharaon. Kali cacbonat có thể được dùng để giúp xác ướp không bị khô. Tóm lại, đây là một trong các chất cần thiết.
- Cho xác ướp?
Nơi nào ở Portland người ta làm việc với cả các xác ướp nhỉ? Theo như anh biết, không bảo tàng nào trong thành phố có xác ướp. Và tại sao lại dùng cả chất diệt khuẩn như xà phòng chứa asen? Loại nhà máy nào có thể kết hợp cả hai? Để thu được gì?
Brolin xem xét một số lượng lớn nghề nghiệp, nhưng không tìm ra nghề nào có thể sử dụng các sản phẩm loại này. Nhưng làm sao mà biết được? Nhiều cơ sở chuyên nghiệp có “bí quyết" riêng của họ, cách pha trộn riêng…
Một chất sát khuẩn và một chất chống khô.
Và…
Bỗng đầu óc Brolin sáng lên. Anh so sánh các dữ liệu và một giả thiết chợt hình thành sau khi đối chiếu.
Kẻ giết người đã cắt tay chân của các nạn nhân rất cẩn thận, tỏ ra có kiến thức chuẩn xác về giải phẫu học. Hắn đặc biệt chú ý đến da và xương, bỏ qua các tĩnh mạch, cơ và toàn bộ phần thịt.
Và các vệt phấn xung quanh chân của Elizabeth Stinger. Hắn không dùng phấn để vẽ một ngôi sao năm cánh hay bất cứ thứ gì khác, mà để đo! Hắn lấy các số đo của cô gái và dùng phấn để đánh dấu phần da!
Phải, đúng như thế. Da, xương, các số đo và các chất sát khuẩn, kèm theo một chất chống khô, chỉ có một cách lý giải.
- Không được gì sao? Nhân viên bán hàng lo lắng. Anh uống thêm cà phê nhé?
Brolin cảm thấy căn phòng quay tròn quanh anh ngày càng nhanh theo mức độ kinh hoàng. Giờ thì anh đã biết.
Kẻ giết người không mang tay chân nạn nhân về làm chiến lợi phẩm.
Còn tàn bạo hơn nhiều.
Toàn bộ người anh bị chao đảo bởi một cơn rùng mình vì kinh tởm.
Tác giả :
Maxime Chattam