Xương Rồng Đốt Rương
Quyển 3 - Chương 3
Mạnh Kình Tùng cảm thấy lời ông già này quá khoa trương, cũng không để vào đâu, phân phó Liễu Quan Quốc tiếp tục hỏi thăm dân trại, bản thân thì rùn người xuống, chui vào động.
Trong động toàn người là người, còn có trang thiết bị và dây kéo. Mạnh Kình Tùng nhất thời không nắm được trọng điểm, không biết nên đi về phía nào, đang lưỡng lự thì Khưu Đống bước vội lên đón, vội vàng báo cáo với y: “Trợ lý Mạnh, đã kiểm tra mọi góc, còn có anh em leo lên trên xem xét, đều không có gì khác thường.”
Mạnh Kình Tùng không yên lòng, vừa nghe vừa ừ à, mắt liếc ra xung quanh, chợt trông thấy Thần Côn.
Giữa cả đám người bận rộn, lão thật đúng là hạc giữa bầy gà, bắt mắt dễ thấy nhất, chỉ thấy lão ngồi xếp bằng trên một tảng đá lớn, hai bàn tay chống lên đầu gối, mắt nhắm lại, lúc thì gật gù đắc ý, lúc thì lẩm bà lẩm bẩm, Thẩm Bang và Thẩm Vạn Cổ thì y như ông hầm ông hừ, đứng hai bên lão, thỉnh thoảng giúp người khác chuyển đồ, kéo dây.
Chẳng lẽ lão già này có chỗ nào hơn người? Mạnh Kình Tùng sinh lòng nghi hoặc, vẫy vẫy tay với Thẩm Bang.
Thẩm Bang chạy vội qua, động tác lanh lẹ như khỉ.
Mạnh Kình Tùng trỏ vào Thần Côn: “Ông ta đang lẩm bẩm gì thế?”
“À, chú ấy bảo là không chừng mọi người đều bị che mắt rồi, Bạch Thủy Tiêu lừa dối người trong trại, cô ta hẳn không lạc động ở đây.”
Mạnh Kình Tùng ngẩn người: “Dựa vào đâu mà nói như vậy? Có chứng cớ gì không?”
Vẻ mặt Thẩm Bang khó xử, cảm thấy nói không nên lời, đây cũng là lý do vì sao gã không báo cáo ngay lập tức: “Chú ấy nói… chú ấy dùng tâm cảm nhận, trong lòng không có chập chờn gì, bởi vậy nên cái động này không có gì đặc biệt hết.”
Lý do chó má gì vậy, Mạnh Kình Tùng phát cáu, nhưng kể ra cũng kỳ, sau khi xua Thẩm Bang đi, lý do này cứ quẩn đi quẩn lại trong đầu y, lại nghĩ tới lời Khưu Đống nói trước đó, càng thấy lời này có lý: Bạch Thủy Tiêu nói dối như cuội, mặt ngoài và bên trong chênh lệch nhau quá lớn, bất kỳ tin tức nào của cô ta đều cần chứng thực nhiều lần, không thể dễ dàng tin vào.
Y ra khỏi động, vẫy tay với ông già hói nửa, ông già kia cảm thấy hãnh diện hết sức, lúc đi tới bước chân như đạp gió, vẻ mặt kiêu ngạo.
Mạnh Kình Tùng hỏi ông ta: “Lúc Bạch Thủy Tiêu trúng gió lạc động ở đây, có ai khác nhìn thấy không?”
Ông già xua tay: “Hông (không), hông có, thần động lén lút làm, sao có thể để người khác nhìn thấy.”
“Vậy sao các ông biết là cái động này?”
“Tìm được một chiếc giài (giày) ở trước cửa động nài, về sau cô nhóc họ Bạch cũng nói là ở đai (đây).”
Không ai khác nhìn thấy, tự mình nói ra, giày có khi nào cũng là tự mình cởi ra để đây không?
Mạnh Kình Tùng trầm ngâm một lúc đó: “Trước đó cô ta còn bình thường, chính là từ sau ngày đó thì không giống như trước nữa.”
Ông già hói nửa gật đầu như giã tỏi: “Đống đống (đúng đúng).”
Dừng một chút lại bổ sung: “Bà ngoài con bé cũng nói lúc tiễn nó đi vẫn còn bình thường.”
Tiễn cô ta đi? Đi đâu? Mạnh Kình Tùng nghe không hiểu.
Ông già hăng say giải thích: “Chà (nhà) bà ngoài con bé ở dốc cũ, chuyến ấy nó phải đi thăm người thân bà ngoài, lúc đi vẫn bình thường, lúc bà ngoài tiễn nó đi nó cũng vẫn bình thường, cơ mà lúc trở lại trại thì đã hỏng.”
Mạnh Kình Tùng cảm thấy đã có chút đầu mối, y lại nhìn về phía cửa động: “Động này cách trại các ông gần như vậy, trước Bạch Thủy Tiêu có cô gái nào khác từng lạc động không?”
“Hông (không) có,” ông già lại hưng phấn, “Chúng tôi đều hưa (chưa) từng nghe nói tới lạc động, là lão vu bà ngoài con bé nói phải đánh nhau với thần động cướp hồn, chúng tôi mới biết. Mọi người vây xem đều rất ngạc nhiên, sau đó hông cướp được, bà ngoài nó khóc đến ngã cả xuống.”
“Vậy giờ thì sao, bà ngoài cô ta đâu?”
“Chết rồi, chết mùa đông năm ngoái, già rồi, không vượt qua được.”
Một người già mà còn khóc đến ngã xuống, đúng là thật lòng thật dạ, khả năng hợp mưu diễn kịch với Bạch Thủy Tiêu không lớn, xem ra Bạch Thủy Tiêu đã gặp chuyện không may trên đoạn đường từ dốc cũ về trại Lạp Khoa.
“Dốc cũ ở đâu?”
Câu này quá thử thách đối với khả năng địa lý của ông già, ông già há miệng, không biết phải nói từ đâu, cũng may bên cạnh có quỷ non cơ trí, nhanh chóng lấy bản đồ nơi này ra, có hai bản, một bản là kiểu thông hành, một bản là của quỷ non.
Ông già xem không hiểu thước tỉ lệ, chữ biết cũng có hạn, tất nhiên là thích bản của quỷ non hơn, núi là núi cây là cây, rất dễ nhận biết.
Ông ta nheo mắt, đầu ngón tay sần sùi với móng tay đen đen lướt trên mặt bản đồ, lúc lúc lại kinh ngạc: “Ôi, đai có phải là Mương Đất Hố Trời không? Á, sông nài lúc trời mưa nước lớn lắm, năm ngoái tôi đi họp chợ, suýt nữa bị nước cuốn mất…”
Mạnh Kình Tùng sốt ruột vô cùng, lại không thể thúc giục ông ta, đang nóng lòng thì đầu ngón tay ông già chọc mạnh hai cái vào một chỗ: “Đai, ở đai, hẳn là ở quanh đai.”
Mạnh Kình Tùng nhìn theo, trong lòng bốc lên cảm giác dị thường: “Ông chắc chứ?”
Ông già rất tự tin: “Tôi sống trong núi mấy chục năm nay rồi, chánh (chính) đai, chánh đai.”
Tim Mạnh Kình Tùng đập như nổi trống.
Y không biết có phải mình cả nghĩ quá rồi không: vị trí ông già chỉ vượt qua cả hai vách rìa lớn nhỏ của dân Miêu trong truyền thuyết, lại cách vị trí hiện thời của ngọn núi treo túi mật trong bản đồ núi rất…gần.
***
Mạnh Thiên Tư nói liều lượng bình thường không hạ gục nổi mình cũng không phải khoác lác.
Từ nhỏ cô đã tiếp thu sự huấn luyện nghiêm khắc của bảy vị cô bác, ăn vô số thảo dược quý hiếm, sức chịu đựng khi bị thương của cô tốt hơn người thường, lành khỏi cũng nhanh hơn, khả năng tiếp nhận một số khói mê khí độc cũng tốt hơn – miễn là không phải cả đống bột phấn tinh luyện bất chợt phun về phía cô như đêm qua.
“Nhang cao” này làm bằng loại cổ mộc vô cùng hiếm thấy của miền núi, nghe đồn, cổ Miêu đa số là dùng cổ trùng, duy chỉ có cổ tình là cần dùng đến cổ mộc, chủ yếu là vì loài thực vật này có tác dụng mê hoặc và làm loạn óc, thao túng được tâm trí con người.
Có điều, đúng như lời Bạch Thủy Tiêu nói, liều lượng rất khó khống chế, hơn nữa còn tùy vào từng người, sơ ý một chút là sẽ khiến người đó bị ngu dại, bởi vậy nên chỉ có thể gắng sức càng ít càng tốt, đốt chậm phóng chậm, chín que nhang cao nhìn thì đáng sợ song thực ra đều rất nhỏ, lại cháy rất chậm, đến mãi gần trưa, đợt một mới vật vã đốt xong, mà đối với Mạnh Thiên Tư mà nói thì chẳng khác nào mưa bụi chỉ làm ướt được bề mặt, không thể thấm qua da thịt vào đến tim phổi, mặc dù nhìn mắt cô cũng coi như mờ sương sũng nước, cả người có vẻ ngơ ngẩn, nhưng lúc Bạch Thủy Tiêu thử hỏi cô “Cô là ai”, cô vẫn có thể rất chuẩn xác mà đáp “Bà ngoại cô”.
Làm Bạch Thủy Tiêu tức điên, sai Kim Châu Ngân Châu bỏ thêm cho cô hai que nữa.
Trại này rất hẻo lánh, trong vòng mười dặm xung quanh không có hộ gia đình nào, trước khi trúng khói mê, Mạnh Thiên Tư vừa bị trói vừa bị nhốt, giờ lại còn đốt “nhang cao”, có thể nói là ba vòng đảm bảo, Bạch Thủy Tiêu cũng không sợ cô chạy trốn – dù sao căn cứ vào phản ứng của đợt một, nhang cao này không đến hoàng hôn sẽ không có hiệu quả gì lớn, Bạch Thủy Tiêu không đủ kiên nhẫn trông giữ bên cạnh cuối cùng khóa cửa rồi dẫn Kim Châu Ngân Châu đi làm việc của mình.
Mạnh Thiên Tư ngoài miệng càn rỡ nhưng trong lòng cũng đang đấu tranh dữ dội: cứ đốt tiếp như thế, gân cốt của cô sẽ chịu không nổi mất, cô đã bắt đầu xuất hiện ảo giác vụn vặt, cứ cảm thấy ở chân tường có một đàn kiến nhỏ đang bò lên mặt tường, lúc thì xếp thành hình chữ Nhất (一), lúc thì xếp thành hình chữ Nhân (人).
Nhưng cứ ra chiêu rời đi như vậy, cô lại cực kỳ không cam lòng: Đến cả kẻ chủ mưu phía sau là ai cũng không tìm ra, lại còn khiến gà bay chó sủa, thực sự chẳng vinh quang chút nào, hơn nữa, như thế chẳng phải uổng phí lần thâm nhập vào lòng địch này của cô sao? Thế có khác nào bị bắt cóc chơi không.
Cô suy đi nghĩ lại, tâm lý hi vọng vào may mắn chiếm thế thượng phong: Chịu đựng chút đi, chờ thêm lát nữa, biết đâu kẻ chủ mưu thiếu kiên nhẫn sẽ đến gặp cô thì sao? Lại biết đâu Mạnh Kình Tùng đang trên đường tới rồi, có y ra tay, cô việc gì phải tốn công?
…
Hơn bốn giờ chiều, mặt trời ngả về tây, nắng chiều xuyên qua cửa sổ, lồng lên người Mạnh Thiên Tư, cô mơ màng mở mắt, trông thấy cả người phủ lửa.
Nhang cao này thật sự rất lợi hại, cô ngơ ngẩn biết đây là ảo giác, nhưng lại không ngừng cảm thấy ngọn lửa trên người thật chướng mắt, nhịn không được đưa tay phủi đi, phủi phủi mấy cái lại chuyên tâm vào – phải biết rằng người trúng phải khói mê sợ nhất là chuyên tâm, trái tim như rễ mầm, vốn phải sinh trưởng ở chỗ thực, nếu chuyên tâm vào chỗ ảo thì chính là bị bật gốc khỏi hiện thực, nếu tâm niệm không vững vàng, lại bị người có dụng tâm dẫn dụ, sẽ rất dễ đi theo.
Phủi đến nóng nảy, chợt có người đẩy vai cô, một giọng nam quen tai gọi cô: “Cô Mạnh! Cô Mạnh?”
Mạnh Thiên Tư tò mò quay đầu.
Quái thật, nhìn thân hình, bả vai, khung xương, rõ ràng là đàn ông, nhưng cái đầu hắn đỡ trên cổ lại là một quả cầu thịt bóng lộn trắng xứ. Quanh người hắn và giữa không trung đều là những tấm da mặt mỏng dính đang vỗ cánh, những khuôn mặt này cô đều biết cả, có Mạnh Kình Tùng, Tân Từ, me lớn, u hai Đường Ngọc Như, thậm chí cả Bạch Thủy Tiêu…
Lúc gã trai kia nói chuyện với cô, thường xuyên có một tấm da mặt bay vèo tới, tấm da dán lên mặt quả cầu thịt, lại vèo một cái tróc ra bay đi, tấm da mặt thứ hai lại dán lên, thế nên nhân vật nói chuyện với cô cứ biến đổi liên tục, nửa câu trước là u bảy nói, nửa câu sau lại đổi thành Liễu Quan Quốc…
Hiện giờ, là Thẩm Vạn Cổ đang hỏi: “Cô Mạnh, cô không sao chứ?”
Chắc chắn là Bạch Thủy Tiêu, lại giở trò gì đây, cho là cô sẽ bị mánh khóe này dọa sợ à? Nực cười.
Mạnh Thiên Tư nhíu chặt mày, nghiêng đầu quan sát rìa quai hàm hắn, rốt cuộc cũng nhìn ra đầu mối: Tấm da mặt này là từ từ vén từ cằm lên, sau đó tróc ra bay đi.
Người mở miệng lại đổi thành Thần Côn, dựng ngón tay lên nói với cô: “Nào, cô Mạnh, thần chí cô bây giờ đang hơi mơ hồ, mắt cô nhìn vào ngón tay này của tôi đi, tôi di chuyển đến đâu cô nhìn theo đến đó…”
Tróc ra rồi tróc ra rồi, tấm da mặt này lại tróc ra rồi, Mạnh Thiên Tư nhanh tay nhanh mắt, đưa tay chộp mạnh lên má hắn, quả nhiên, tấm da này không bay đi nữa, hốt hoảng vùng vẫy giãy giụa, Mạnh Thiên Tư cười khẩy: “Để xem mi còn chạy đi đâu.”
Giang Luyện cụp mắt, nhìn phần thịt quai hàm bị chộp cho biến dạng của mình, trong lòng lặng lẽ rủa một câu: Tiên sư.
***
Giang Luyện đuổi theo đoạn đường này thật đúng là mệt như chó.
Ban đầu, hắn tưởng rằng Bạch Thủy Tiêu là muốn bỏ rơi ba người họ, một mình lái xe đào tẩu, sau đó lại phát hiện ra, con ả này rất thông minh, cô ta ngại mục tiêu xe quá lớn, sau khi kéo Mạnh Thiên Tư xuống xe thì tạo thành một hiện trường giả xe ngã vào ao nước rồi cõng Mạnh Thiên Tư vào rừng.
Giả sử tiếp đó là vượt rừng băng núi thì cũng không khó tìm tung tích, song, Bạch Thủy Tiêu lại xảo quyệt ở chỗ, cô ta không chỉ thay đổi đường nhỏ mà còn sử dụng giúp sức: tỷ như dùng thừng trượt khi vượt núi, qua rồi lập tức thu thừng, cô ta qua rất nhanh nhưng Giang Luyện lại chỉ có thể leo núi.
Lại tỷ như lúc qua sông có đò lạp lạp (*), còn lợi dụng một vài lối đi hang động, trong núi thẳm không tránh khỏi tín hiệu không thông, cô ta sẽ giấu pháo hiệu đi trước, pháo hiệu vừa bắn lên trời là có máy kéo tới đón ngay, ngay sau đó lại đổi xe, nói chung là chuyển qua chuyển lại – cũng chẳng thể trách quỷ non không tra ra được manh mối, đến Giang Luyện theo sát cả một đường như vậy còn mất dấu mấy lần, lộn ra lộn vào mãi, đến lúc gà gáy ba lần, rốt cuộc mới lần mò ra trại này.
(*) Đò lạp lạp là loại đò đặc trưng của miền sông nước dọc sông Tương, mũi đò dựng một cây gậy trúc, trên gậy treo một cái khuyên sắt, hai bên bờ sông vắt ngang một đoạn chão sắt, lúc có người sang đò thì treo khuyên sắt lên chão sắt, người trên thuyền dùng một thanh gỗ đặc chế dựa thế sợi chão chậm rãi dắt đò sang bờ bên kia.
Vào trại rồi, càng thêm nhức đầu.
Trại Bát Kháng của lão Ca đã cho hắn cảm giác rất hoang vắng rồi, trại này lại càng hẻo lánh hơn, dùng “ngăn cách với đời” để hình dung cũng chẳng ngoa, càng khiến hắn kinh ngạc hơn là, trại này vẫn chưa bước vào thời kỳ cắm điện, không có cột điện cũng không có dây điện.
Người ở đây cũng lạ, bình thường thì người miền núi đều ôn hòa chất phác, nhưng trong trại này, trong nhà ngoài nhà hắn đều chỉ thấy mặt mày ai nấy đều có phần dữ tợn: Hắn men theo tường bao của một hộ thợ bạc đang phát ra những tiếng gõ đập nhịp nhàng, trông thấy, người tời đoạn bạc ở trần nửa thân trên, sau lưng có vết sẹo dài chừng mười tấc; hắn trông thấy có một bà già tựa cửa bện hoa, bện chán rồi, thành thục châm điếu thuốc, xem logo bao thuốc, lại còn là thuốc lá Tây; còn trông thấy một người phụ nữ trung niên tóc tai bù xù, chân trần, mặc áo hai dây đỏ, mỗi bước đi vạt váy đều tung lên, chân bên trong một to một nhỏ, cái chân nhỏ kia trông như cuống đay, còn đặc biệt vặn vẹo.
Nói chung là chẳng giống một cái trại bình thường chút nào, quần áo trang phục cũng đủ loại, người nào người nấy ánh mắt đều lạnh nhạt, khí chất âm u, điều này khiến Giang Luyện sinh lòng cảnh giác. Hắn không dám để lộ tung tích, che che giấu giấu như làm trộm, vượt qua một nhà, lại một nhà, trong lòng dần mất hi vọng: Thời gian dài vậy cũng đủ để Mạnh Thiên Tư bị giết chôn tám mươi lần rồi.
Nhưng rồi lại ôm hi vọng: Muốn giết thì đã sớm giết rồi, mất nhiều công sức bắt cóc như vậy không đến nỗi chỉ vì muốn mạng cô thôi đâu chứ.
Thời gian không phụ lòng người, rốt cuộc cũng nhìn thấy Bạch Thủy Tiêu trong một căn nhà. Hắn cũng không hành động thiếu suy nghĩ, đợi rồi lại đợi, đến khi cô ta theo một mụ già ra ngoài, hai cô bé ở lại giữ nhà lại ham chơi, loay hoay chỗ cổng lớn tìm chim sẻ gì đó – hắn tìm cơ hội vượt tường vào trong vào gian phòng gần nhất tìm thử, vậy mà lại tìm thấy thật.
Chỉ là cảnh tượng rất kỳ dị, đốt chừng mười cột nhang cao thấp không đều, trong không khí lững lờ mùi hương ngọt nhạt. Giang Luyện cảm thấy chắc chắn không phải thứ gì tốt lành, vội tắt từng cái đi, lại cởi áo khoác vẫy vẫy trong phòng một hồi cho mùi hương này nhanh chóng tản đi, lúc này mới cúi người quỳ gối, cởi thừng trói cho Mạnh Thiên Tư.
…
Giang Luyện thò tay nắm lấy cổ tay Mạnh Thiên Tư, cương quyết kéo tay cô ra khỏi mặt mình. Vẻ mặt Mạnh Thiên Tư tiếc hận nhìn không trung, lẩm bẩm: “Trượt tay mất rồi.”
Đáng chết, xem ra cô là tạm thời mơ hồ, Giang Luyện đau đầu.
Trại này hơi kỳ quặc, Giang Luyện trực giác không thể làm huyên náo gà bay chó sủa, có thể lặng lẽ ra vào không một tiếng động là tốt nhất, nhưng mang Mạnh Thiên Tư đi thế nào là một vấn đề: Một mình hắn tránh thoát nhiều tai mắt như vậy đã rất trầy trật rồi, sao mang theo nổi một người điên điên khùng khùng như vậy được…
Giang Luyện cau mày nhìn Mạnh Thiên Tư: Cô cắn môi, mắt nhìn chằm chằm một chỗ trong không trung, bỗng ra tay như chớp, bắt mạnh một cái vào không khí – ờ, thân thủ còn linh hoạt lắm đấy – sau đó nhìn chằm chằm nắm tay trống không, cười đến là đắc ý, gần như gian trá.
Đương nhiên Giang Luyện không biết “da mặt” mình đang liều mạng vùng vẫy, nước mắt giàn giụa trong bàn tay cô, trong đầu hắn nhanh chóng xoay chuyển ý niệm nghĩ cách đối phó, thừa dịp cô xoay người đi bắt một chỗ không khí khác, quyết định thật nhanh, bổ thẳng một chưởng xuống gáy cô.
Mạnh Thiên Tư đến rên cũng không rên được một tiếng, cứ thế mềm oặt ngã xuống.
Giang Luyện thở phào một hơi, mang một người không động đậy được dù sao cũng thuận tiện hơn là mang một người quấy đông nhiễu tây. Hắn nhặt đống thừng tán loạn trên mặt đất lên nhét bừa vào lòng, lại lấy diêm trên bàn châm lại nhang lên, lúc này mới bế cô đi ra.
Đóng kín cửa, bấm lại ổ khóa nãy vừa cạy, cố cho tất cả đều nhìn như thường, vậy nhưng vừa rẽ qua góc nhà, chợt nghe ngoài cổng có tiếng cọt kẹt, hai cô bé choai choai vừa cúi đầu bện rạ mạch vừa tiến vào.
Trong động toàn người là người, còn có trang thiết bị và dây kéo. Mạnh Kình Tùng nhất thời không nắm được trọng điểm, không biết nên đi về phía nào, đang lưỡng lự thì Khưu Đống bước vội lên đón, vội vàng báo cáo với y: “Trợ lý Mạnh, đã kiểm tra mọi góc, còn có anh em leo lên trên xem xét, đều không có gì khác thường.”
Mạnh Kình Tùng không yên lòng, vừa nghe vừa ừ à, mắt liếc ra xung quanh, chợt trông thấy Thần Côn.
Giữa cả đám người bận rộn, lão thật đúng là hạc giữa bầy gà, bắt mắt dễ thấy nhất, chỉ thấy lão ngồi xếp bằng trên một tảng đá lớn, hai bàn tay chống lên đầu gối, mắt nhắm lại, lúc thì gật gù đắc ý, lúc thì lẩm bà lẩm bẩm, Thẩm Bang và Thẩm Vạn Cổ thì y như ông hầm ông hừ, đứng hai bên lão, thỉnh thoảng giúp người khác chuyển đồ, kéo dây.
Chẳng lẽ lão già này có chỗ nào hơn người? Mạnh Kình Tùng sinh lòng nghi hoặc, vẫy vẫy tay với Thẩm Bang.
Thẩm Bang chạy vội qua, động tác lanh lẹ như khỉ.
Mạnh Kình Tùng trỏ vào Thần Côn: “Ông ta đang lẩm bẩm gì thế?”
“À, chú ấy bảo là không chừng mọi người đều bị che mắt rồi, Bạch Thủy Tiêu lừa dối người trong trại, cô ta hẳn không lạc động ở đây.”
Mạnh Kình Tùng ngẩn người: “Dựa vào đâu mà nói như vậy? Có chứng cớ gì không?”
Vẻ mặt Thẩm Bang khó xử, cảm thấy nói không nên lời, đây cũng là lý do vì sao gã không báo cáo ngay lập tức: “Chú ấy nói… chú ấy dùng tâm cảm nhận, trong lòng không có chập chờn gì, bởi vậy nên cái động này không có gì đặc biệt hết.”
Lý do chó má gì vậy, Mạnh Kình Tùng phát cáu, nhưng kể ra cũng kỳ, sau khi xua Thẩm Bang đi, lý do này cứ quẩn đi quẩn lại trong đầu y, lại nghĩ tới lời Khưu Đống nói trước đó, càng thấy lời này có lý: Bạch Thủy Tiêu nói dối như cuội, mặt ngoài và bên trong chênh lệch nhau quá lớn, bất kỳ tin tức nào của cô ta đều cần chứng thực nhiều lần, không thể dễ dàng tin vào.
Y ra khỏi động, vẫy tay với ông già hói nửa, ông già kia cảm thấy hãnh diện hết sức, lúc đi tới bước chân như đạp gió, vẻ mặt kiêu ngạo.
Mạnh Kình Tùng hỏi ông ta: “Lúc Bạch Thủy Tiêu trúng gió lạc động ở đây, có ai khác nhìn thấy không?”
Ông già xua tay: “Hông (không), hông có, thần động lén lút làm, sao có thể để người khác nhìn thấy.”
“Vậy sao các ông biết là cái động này?”
“Tìm được một chiếc giài (giày) ở trước cửa động nài, về sau cô nhóc họ Bạch cũng nói là ở đai (đây).”
Không ai khác nhìn thấy, tự mình nói ra, giày có khi nào cũng là tự mình cởi ra để đây không?
Mạnh Kình Tùng trầm ngâm một lúc đó: “Trước đó cô ta còn bình thường, chính là từ sau ngày đó thì không giống như trước nữa.”
Ông già hói nửa gật đầu như giã tỏi: “Đống đống (đúng đúng).”
Dừng một chút lại bổ sung: “Bà ngoài con bé cũng nói lúc tiễn nó đi vẫn còn bình thường.”
Tiễn cô ta đi? Đi đâu? Mạnh Kình Tùng nghe không hiểu.
Ông già hăng say giải thích: “Chà (nhà) bà ngoài con bé ở dốc cũ, chuyến ấy nó phải đi thăm người thân bà ngoài, lúc đi vẫn bình thường, lúc bà ngoài tiễn nó đi nó cũng vẫn bình thường, cơ mà lúc trở lại trại thì đã hỏng.”
Mạnh Kình Tùng cảm thấy đã có chút đầu mối, y lại nhìn về phía cửa động: “Động này cách trại các ông gần như vậy, trước Bạch Thủy Tiêu có cô gái nào khác từng lạc động không?”
“Hông (không) có,” ông già lại hưng phấn, “Chúng tôi đều hưa (chưa) từng nghe nói tới lạc động, là lão vu bà ngoài con bé nói phải đánh nhau với thần động cướp hồn, chúng tôi mới biết. Mọi người vây xem đều rất ngạc nhiên, sau đó hông cướp được, bà ngoài nó khóc đến ngã cả xuống.”
“Vậy giờ thì sao, bà ngoài cô ta đâu?”
“Chết rồi, chết mùa đông năm ngoái, già rồi, không vượt qua được.”
Một người già mà còn khóc đến ngã xuống, đúng là thật lòng thật dạ, khả năng hợp mưu diễn kịch với Bạch Thủy Tiêu không lớn, xem ra Bạch Thủy Tiêu đã gặp chuyện không may trên đoạn đường từ dốc cũ về trại Lạp Khoa.
“Dốc cũ ở đâu?”
Câu này quá thử thách đối với khả năng địa lý của ông già, ông già há miệng, không biết phải nói từ đâu, cũng may bên cạnh có quỷ non cơ trí, nhanh chóng lấy bản đồ nơi này ra, có hai bản, một bản là kiểu thông hành, một bản là của quỷ non.
Ông già xem không hiểu thước tỉ lệ, chữ biết cũng có hạn, tất nhiên là thích bản của quỷ non hơn, núi là núi cây là cây, rất dễ nhận biết.
Ông ta nheo mắt, đầu ngón tay sần sùi với móng tay đen đen lướt trên mặt bản đồ, lúc lúc lại kinh ngạc: “Ôi, đai có phải là Mương Đất Hố Trời không? Á, sông nài lúc trời mưa nước lớn lắm, năm ngoái tôi đi họp chợ, suýt nữa bị nước cuốn mất…”
Mạnh Kình Tùng sốt ruột vô cùng, lại không thể thúc giục ông ta, đang nóng lòng thì đầu ngón tay ông già chọc mạnh hai cái vào một chỗ: “Đai, ở đai, hẳn là ở quanh đai.”
Mạnh Kình Tùng nhìn theo, trong lòng bốc lên cảm giác dị thường: “Ông chắc chứ?”
Ông già rất tự tin: “Tôi sống trong núi mấy chục năm nay rồi, chánh (chính) đai, chánh đai.”
Tim Mạnh Kình Tùng đập như nổi trống.
Y không biết có phải mình cả nghĩ quá rồi không: vị trí ông già chỉ vượt qua cả hai vách rìa lớn nhỏ của dân Miêu trong truyền thuyết, lại cách vị trí hiện thời của ngọn núi treo túi mật trong bản đồ núi rất…gần.
***
Mạnh Thiên Tư nói liều lượng bình thường không hạ gục nổi mình cũng không phải khoác lác.
Từ nhỏ cô đã tiếp thu sự huấn luyện nghiêm khắc của bảy vị cô bác, ăn vô số thảo dược quý hiếm, sức chịu đựng khi bị thương của cô tốt hơn người thường, lành khỏi cũng nhanh hơn, khả năng tiếp nhận một số khói mê khí độc cũng tốt hơn – miễn là không phải cả đống bột phấn tinh luyện bất chợt phun về phía cô như đêm qua.
“Nhang cao” này làm bằng loại cổ mộc vô cùng hiếm thấy của miền núi, nghe đồn, cổ Miêu đa số là dùng cổ trùng, duy chỉ có cổ tình là cần dùng đến cổ mộc, chủ yếu là vì loài thực vật này có tác dụng mê hoặc và làm loạn óc, thao túng được tâm trí con người.
Có điều, đúng như lời Bạch Thủy Tiêu nói, liều lượng rất khó khống chế, hơn nữa còn tùy vào từng người, sơ ý một chút là sẽ khiến người đó bị ngu dại, bởi vậy nên chỉ có thể gắng sức càng ít càng tốt, đốt chậm phóng chậm, chín que nhang cao nhìn thì đáng sợ song thực ra đều rất nhỏ, lại cháy rất chậm, đến mãi gần trưa, đợt một mới vật vã đốt xong, mà đối với Mạnh Thiên Tư mà nói thì chẳng khác nào mưa bụi chỉ làm ướt được bề mặt, không thể thấm qua da thịt vào đến tim phổi, mặc dù nhìn mắt cô cũng coi như mờ sương sũng nước, cả người có vẻ ngơ ngẩn, nhưng lúc Bạch Thủy Tiêu thử hỏi cô “Cô là ai”, cô vẫn có thể rất chuẩn xác mà đáp “Bà ngoại cô”.
Làm Bạch Thủy Tiêu tức điên, sai Kim Châu Ngân Châu bỏ thêm cho cô hai que nữa.
Trại này rất hẻo lánh, trong vòng mười dặm xung quanh không có hộ gia đình nào, trước khi trúng khói mê, Mạnh Thiên Tư vừa bị trói vừa bị nhốt, giờ lại còn đốt “nhang cao”, có thể nói là ba vòng đảm bảo, Bạch Thủy Tiêu cũng không sợ cô chạy trốn – dù sao căn cứ vào phản ứng của đợt một, nhang cao này không đến hoàng hôn sẽ không có hiệu quả gì lớn, Bạch Thủy Tiêu không đủ kiên nhẫn trông giữ bên cạnh cuối cùng khóa cửa rồi dẫn Kim Châu Ngân Châu đi làm việc của mình.
Mạnh Thiên Tư ngoài miệng càn rỡ nhưng trong lòng cũng đang đấu tranh dữ dội: cứ đốt tiếp như thế, gân cốt của cô sẽ chịu không nổi mất, cô đã bắt đầu xuất hiện ảo giác vụn vặt, cứ cảm thấy ở chân tường có một đàn kiến nhỏ đang bò lên mặt tường, lúc thì xếp thành hình chữ Nhất (一), lúc thì xếp thành hình chữ Nhân (人).
Nhưng cứ ra chiêu rời đi như vậy, cô lại cực kỳ không cam lòng: Đến cả kẻ chủ mưu phía sau là ai cũng không tìm ra, lại còn khiến gà bay chó sủa, thực sự chẳng vinh quang chút nào, hơn nữa, như thế chẳng phải uổng phí lần thâm nhập vào lòng địch này của cô sao? Thế có khác nào bị bắt cóc chơi không.
Cô suy đi nghĩ lại, tâm lý hi vọng vào may mắn chiếm thế thượng phong: Chịu đựng chút đi, chờ thêm lát nữa, biết đâu kẻ chủ mưu thiếu kiên nhẫn sẽ đến gặp cô thì sao? Lại biết đâu Mạnh Kình Tùng đang trên đường tới rồi, có y ra tay, cô việc gì phải tốn công?
…
Hơn bốn giờ chiều, mặt trời ngả về tây, nắng chiều xuyên qua cửa sổ, lồng lên người Mạnh Thiên Tư, cô mơ màng mở mắt, trông thấy cả người phủ lửa.
Nhang cao này thật sự rất lợi hại, cô ngơ ngẩn biết đây là ảo giác, nhưng lại không ngừng cảm thấy ngọn lửa trên người thật chướng mắt, nhịn không được đưa tay phủi đi, phủi phủi mấy cái lại chuyên tâm vào – phải biết rằng người trúng phải khói mê sợ nhất là chuyên tâm, trái tim như rễ mầm, vốn phải sinh trưởng ở chỗ thực, nếu chuyên tâm vào chỗ ảo thì chính là bị bật gốc khỏi hiện thực, nếu tâm niệm không vững vàng, lại bị người có dụng tâm dẫn dụ, sẽ rất dễ đi theo.
Phủi đến nóng nảy, chợt có người đẩy vai cô, một giọng nam quen tai gọi cô: “Cô Mạnh! Cô Mạnh?”
Mạnh Thiên Tư tò mò quay đầu.
Quái thật, nhìn thân hình, bả vai, khung xương, rõ ràng là đàn ông, nhưng cái đầu hắn đỡ trên cổ lại là một quả cầu thịt bóng lộn trắng xứ. Quanh người hắn và giữa không trung đều là những tấm da mặt mỏng dính đang vỗ cánh, những khuôn mặt này cô đều biết cả, có Mạnh Kình Tùng, Tân Từ, me lớn, u hai Đường Ngọc Như, thậm chí cả Bạch Thủy Tiêu…
Lúc gã trai kia nói chuyện với cô, thường xuyên có một tấm da mặt bay vèo tới, tấm da dán lên mặt quả cầu thịt, lại vèo một cái tróc ra bay đi, tấm da mặt thứ hai lại dán lên, thế nên nhân vật nói chuyện với cô cứ biến đổi liên tục, nửa câu trước là u bảy nói, nửa câu sau lại đổi thành Liễu Quan Quốc…
Hiện giờ, là Thẩm Vạn Cổ đang hỏi: “Cô Mạnh, cô không sao chứ?”
Chắc chắn là Bạch Thủy Tiêu, lại giở trò gì đây, cho là cô sẽ bị mánh khóe này dọa sợ à? Nực cười.
Mạnh Thiên Tư nhíu chặt mày, nghiêng đầu quan sát rìa quai hàm hắn, rốt cuộc cũng nhìn ra đầu mối: Tấm da mặt này là từ từ vén từ cằm lên, sau đó tróc ra bay đi.
Người mở miệng lại đổi thành Thần Côn, dựng ngón tay lên nói với cô: “Nào, cô Mạnh, thần chí cô bây giờ đang hơi mơ hồ, mắt cô nhìn vào ngón tay này của tôi đi, tôi di chuyển đến đâu cô nhìn theo đến đó…”
Tróc ra rồi tróc ra rồi, tấm da mặt này lại tróc ra rồi, Mạnh Thiên Tư nhanh tay nhanh mắt, đưa tay chộp mạnh lên má hắn, quả nhiên, tấm da này không bay đi nữa, hốt hoảng vùng vẫy giãy giụa, Mạnh Thiên Tư cười khẩy: “Để xem mi còn chạy đi đâu.”
Giang Luyện cụp mắt, nhìn phần thịt quai hàm bị chộp cho biến dạng của mình, trong lòng lặng lẽ rủa một câu: Tiên sư.
***
Giang Luyện đuổi theo đoạn đường này thật đúng là mệt như chó.
Ban đầu, hắn tưởng rằng Bạch Thủy Tiêu là muốn bỏ rơi ba người họ, một mình lái xe đào tẩu, sau đó lại phát hiện ra, con ả này rất thông minh, cô ta ngại mục tiêu xe quá lớn, sau khi kéo Mạnh Thiên Tư xuống xe thì tạo thành một hiện trường giả xe ngã vào ao nước rồi cõng Mạnh Thiên Tư vào rừng.
Giả sử tiếp đó là vượt rừng băng núi thì cũng không khó tìm tung tích, song, Bạch Thủy Tiêu lại xảo quyệt ở chỗ, cô ta không chỉ thay đổi đường nhỏ mà còn sử dụng giúp sức: tỷ như dùng thừng trượt khi vượt núi, qua rồi lập tức thu thừng, cô ta qua rất nhanh nhưng Giang Luyện lại chỉ có thể leo núi.
Lại tỷ như lúc qua sông có đò lạp lạp (*), còn lợi dụng một vài lối đi hang động, trong núi thẳm không tránh khỏi tín hiệu không thông, cô ta sẽ giấu pháo hiệu đi trước, pháo hiệu vừa bắn lên trời là có máy kéo tới đón ngay, ngay sau đó lại đổi xe, nói chung là chuyển qua chuyển lại – cũng chẳng thể trách quỷ non không tra ra được manh mối, đến Giang Luyện theo sát cả một đường như vậy còn mất dấu mấy lần, lộn ra lộn vào mãi, đến lúc gà gáy ba lần, rốt cuộc mới lần mò ra trại này.
(*) Đò lạp lạp là loại đò đặc trưng của miền sông nước dọc sông Tương, mũi đò dựng một cây gậy trúc, trên gậy treo một cái khuyên sắt, hai bên bờ sông vắt ngang một đoạn chão sắt, lúc có người sang đò thì treo khuyên sắt lên chão sắt, người trên thuyền dùng một thanh gỗ đặc chế dựa thế sợi chão chậm rãi dắt đò sang bờ bên kia.
Vào trại rồi, càng thêm nhức đầu.
Trại Bát Kháng của lão Ca đã cho hắn cảm giác rất hoang vắng rồi, trại này lại càng hẻo lánh hơn, dùng “ngăn cách với đời” để hình dung cũng chẳng ngoa, càng khiến hắn kinh ngạc hơn là, trại này vẫn chưa bước vào thời kỳ cắm điện, không có cột điện cũng không có dây điện.
Người ở đây cũng lạ, bình thường thì người miền núi đều ôn hòa chất phác, nhưng trong trại này, trong nhà ngoài nhà hắn đều chỉ thấy mặt mày ai nấy đều có phần dữ tợn: Hắn men theo tường bao của một hộ thợ bạc đang phát ra những tiếng gõ đập nhịp nhàng, trông thấy, người tời đoạn bạc ở trần nửa thân trên, sau lưng có vết sẹo dài chừng mười tấc; hắn trông thấy có một bà già tựa cửa bện hoa, bện chán rồi, thành thục châm điếu thuốc, xem logo bao thuốc, lại còn là thuốc lá Tây; còn trông thấy một người phụ nữ trung niên tóc tai bù xù, chân trần, mặc áo hai dây đỏ, mỗi bước đi vạt váy đều tung lên, chân bên trong một to một nhỏ, cái chân nhỏ kia trông như cuống đay, còn đặc biệt vặn vẹo.
Nói chung là chẳng giống một cái trại bình thường chút nào, quần áo trang phục cũng đủ loại, người nào người nấy ánh mắt đều lạnh nhạt, khí chất âm u, điều này khiến Giang Luyện sinh lòng cảnh giác. Hắn không dám để lộ tung tích, che che giấu giấu như làm trộm, vượt qua một nhà, lại một nhà, trong lòng dần mất hi vọng: Thời gian dài vậy cũng đủ để Mạnh Thiên Tư bị giết chôn tám mươi lần rồi.
Nhưng rồi lại ôm hi vọng: Muốn giết thì đã sớm giết rồi, mất nhiều công sức bắt cóc như vậy không đến nỗi chỉ vì muốn mạng cô thôi đâu chứ.
Thời gian không phụ lòng người, rốt cuộc cũng nhìn thấy Bạch Thủy Tiêu trong một căn nhà. Hắn cũng không hành động thiếu suy nghĩ, đợi rồi lại đợi, đến khi cô ta theo một mụ già ra ngoài, hai cô bé ở lại giữ nhà lại ham chơi, loay hoay chỗ cổng lớn tìm chim sẻ gì đó – hắn tìm cơ hội vượt tường vào trong vào gian phòng gần nhất tìm thử, vậy mà lại tìm thấy thật.
Chỉ là cảnh tượng rất kỳ dị, đốt chừng mười cột nhang cao thấp không đều, trong không khí lững lờ mùi hương ngọt nhạt. Giang Luyện cảm thấy chắc chắn không phải thứ gì tốt lành, vội tắt từng cái đi, lại cởi áo khoác vẫy vẫy trong phòng một hồi cho mùi hương này nhanh chóng tản đi, lúc này mới cúi người quỳ gối, cởi thừng trói cho Mạnh Thiên Tư.
…
Giang Luyện thò tay nắm lấy cổ tay Mạnh Thiên Tư, cương quyết kéo tay cô ra khỏi mặt mình. Vẻ mặt Mạnh Thiên Tư tiếc hận nhìn không trung, lẩm bẩm: “Trượt tay mất rồi.”
Đáng chết, xem ra cô là tạm thời mơ hồ, Giang Luyện đau đầu.
Trại này hơi kỳ quặc, Giang Luyện trực giác không thể làm huyên náo gà bay chó sủa, có thể lặng lẽ ra vào không một tiếng động là tốt nhất, nhưng mang Mạnh Thiên Tư đi thế nào là một vấn đề: Một mình hắn tránh thoát nhiều tai mắt như vậy đã rất trầy trật rồi, sao mang theo nổi một người điên điên khùng khùng như vậy được…
Giang Luyện cau mày nhìn Mạnh Thiên Tư: Cô cắn môi, mắt nhìn chằm chằm một chỗ trong không trung, bỗng ra tay như chớp, bắt mạnh một cái vào không khí – ờ, thân thủ còn linh hoạt lắm đấy – sau đó nhìn chằm chằm nắm tay trống không, cười đến là đắc ý, gần như gian trá.
Đương nhiên Giang Luyện không biết “da mặt” mình đang liều mạng vùng vẫy, nước mắt giàn giụa trong bàn tay cô, trong đầu hắn nhanh chóng xoay chuyển ý niệm nghĩ cách đối phó, thừa dịp cô xoay người đi bắt một chỗ không khí khác, quyết định thật nhanh, bổ thẳng một chưởng xuống gáy cô.
Mạnh Thiên Tư đến rên cũng không rên được một tiếng, cứ thế mềm oặt ngã xuống.
Giang Luyện thở phào một hơi, mang một người không động đậy được dù sao cũng thuận tiện hơn là mang một người quấy đông nhiễu tây. Hắn nhặt đống thừng tán loạn trên mặt đất lên nhét bừa vào lòng, lại lấy diêm trên bàn châm lại nhang lên, lúc này mới bế cô đi ra.
Đóng kín cửa, bấm lại ổ khóa nãy vừa cạy, cố cho tất cả đều nhìn như thường, vậy nhưng vừa rẽ qua góc nhà, chợt nghe ngoài cổng có tiếng cọt kẹt, hai cô bé choai choai vừa cúi đầu bện rạ mạch vừa tiến vào.
Tác giả :
Vĩ Ngư