Vương Quốc Bí Ẩn
Chương 2: Tấm tơ nhện mặt trăng
Vị thần rừng vẫn chưa nói cho hoàng hậu nghe tất cả sự thật. Người lo sợ rằng hoàng hậu sẽ trả lại tấm tơ nhện mặt trăng nếu bà biết điều gì có thế xảy ra. Người chưa nói cho hoàng hậu biết rằng, khi đứa trẻ mới sinh ra mà được bọc trong tấm tơ nhện này thì đứa bé đó sẽ luôn luôn ở hai thế giới cùng một lúc. Một mặt là thế giới con người, còn mặt kia ở thế giới phép thuật - một bên là của những linh hồn tốt và bên kia là những linh hồn không mấy tốt đẹp. Tệ nhất trong số chúng là bọn viridee.
Ngay khi Timoken rời khỏi vương quốc, bọn viridee đánh hơi được rằng tâm mạng nhện cũng đã bị mang đi cùng với cậu. Chúng có thể đánh hơi thấy nó.
Timoken và Zobayza không biết đến bọn viridee và mục đích hiểm độc của chúng, họ trôi bồng bềnh trên bầu trời rộng lớn, ngạc nhiên khi thấy bầu trời cao hơn họ tưởng rất nhiều, mặc dù tâm trí của họ đang rất buồn phiền vì ký ức về cái chết của cha và họ buộc phải xa mẹ. Cả hai chị em Timoken không thể thốt nên lời nào. Họ chìm sâu vào im lặng, từ giờ này sang giờ khác, không định hướng nên đi về đâu và khi nào nên quay về mặt đất. Cha của chúng kể rằng, mỗi ngày mặt trời di chuyển trên bầu trời theo hình vòng cung, từ phía đông sang phía tây. Vượt ra ngoài khu rừng Châu Phi - phía bắc, phía tây và phía đông - nơi đó là một sa mạc rộng lớn không sinh vật nào có thể sống được. Và ở phía nam, khi mặt trời lên đến đỉnh cao nhất, đó là thế giới của nước. Tại đây, muôn loài có thể sinh sống được như: chim, cá và những sinh vật lạ to như tòa lâu đài.
Timoken thấy rằng, mặt trời bây giờ đang hạ thấp về hướng tây và cậu thầm ước mình đang ở phía nam, nơi mà những đám mây của buổi tối đang cuộn về. Tay của Zobayda đã mỏi nhừ, cô bắt đầu nới lỏng vòng tay đang ôm thắt lưng Timoken. Timoken ghì chặt lấy chị mình, nhưng mí mắt của cậu đã muốn sụp xuống và cậu chỉ mong sao được nhắm chúng lại.
Hạ xuống, Timoken nghĩ. Mình phải hạ xuống thôi. Ngay lập tức, cậu thấy mình rơi xuyên qua những tầng mây. Cậu có thể nghe thấy tiếng sóng vỡ ra bên dưới, cậu có thể cảm nhận được cơn xoáy của một vùng nước khổng lổ và cảm thấy một điều gì đó hoàn toàn xa lạ như một luồng không khí lạnh, ẩm ướt dâng lên làm cậu sực tỉnh. Chân của Zobayda chạm mặt nước trước, và cô tỉnh dậy.
“Timoken!” Zobayda hét lên. “Rời khỏi đây ngay! Cái thứ quái quỷ bên dưới sẽ giết chúng ta mất.” Cô có thể cảm thấy những cái móng vuốt lạnh như băng chộp lấy gót chân mình.
Timoken ước mình thoát khỏi thế giới đáng sợ của nước. Cậu cảm thấy chân mình lướt trên mặt biển, nhưng cậu không thể bay lên cao hơn được. Những cái móng vuốt đói khát đã bắt được chân cậu. Cái lạnh làm cậu chóng mặt, cậu không thể bay được nữa.
“Em không thể bay được nữa!” Timoken rên rỉ.
“Em phải bay,” chị cậu gào lên. “Timoken, em phải bay!”
Giọng nói tuyệt vọng của Zobayda đánh thức Timoken. Cậu biết mình phải nỗ lực đột phá. Với tất cả sức mạnh còn lại trong cái đầu mệt mỏi của mình, cậu buộc mình phải thoát khỏi vùng nước. Có tiếng ùng ục, tiếng rền rĩ dữ tợn và rồi những cái vuốt lạnh băng đó đã từ từ thả chân cậu ra. Bên dưới mặt biển, hai con cua khổng lổ đã lặn xuống đáy biển.
Timoken và Zobayda bay lướt đi trên những ngọn sóng cho đến khi chân họ chạm bờ cát. Timoken thở dài nhẹ nhõm và ngã dài xuống nền cát khô. Zobayda lăn đến bên cạnh cậu, nắm lấy tay cậu. Cả hai cùng chìm vào giấc ngủ.
Hai đứa trẻ ngủ say trên cát còn ấm nắng mặt trời. Nhưng khi đêm xuống, không khí trở nên lạnh giá và mặt đất càng lúc càng lạnh hơn. Hai đứa trẻ tỉnh dậy, lạnh run. Chúng đã rời vương quốc bí ẩn trong bộ quần áo mỏng manh và rất ít đồ đạc mang theo trong túi.
Timoken lôi những bộ quần áo trong chiếc túi da dê ra. Những bộ quần áo đều được làm từ lụa mỏng. Khi soạn đồ, hoàng hậu hẳn là quá bối rối và đau buồn nên không thể nghĩ đến những đêm lạnh giá như thế này. Cuối cùng, Timoken nhìn thấy tấm tơ nhện mặt trăng. Trong bàn tay lạnh cóng của Timoken, tấm mạng nhện thật ấm và dễ chịu. Cậu giũ nó ra. Tấm tơ biến thành một tấm màng rộng lấp lánh. Tấm màng mềm mại ấy rơi xuống nhẹ nhàng và bao bọc lấy hai đứa trẻ như một cái chăn.
“Mẹ nói tấm tơ là phép thuật,” Zobayda nói.
Timoken chú ý đến những nếp gấp phát sáng của tấm tơ, ở ngay chính giữa, nơi mạng nhện được hình thành, cậu trông thấy một gương mặt thật đặc biệt. Trên khuôn mặt có cặp mắt to màu vàng nghệ, cái mũi dài và một cái miệng mỏng trông như đang cười.
“Người là gì vậy?” Timoken hỏi nhò.
“Ta là vị thần rừng cuối cùng,” giọng nói cất lên ngân vang. “Và cậu là một tác phẩm của ta. Hãy tin vào chính mình, Timoken. Con đường của cậu rất dài và nguy hiểm, vì vậy, hãy giữ ta bên cạnh và cậu sẽ sống sót. Ta có rất nhiều quyền năng.”
“Em đang nhìn cái gì vậy?” Zobayda ngái ngủ hỏi. Cô nhúc nhích chân trong tâm tơ nhện và đôi mắt màu vàng ấy rung rinh, rồi khuôn mặt nhỏ biến mất.
Trước khi Timoken có thể giải thích được những gì cậu đã nhìn thấy, cậu nhận thấy rằng mình đang bị theo dõi. Có tiếng chân giẫm lên cát nghe lạo xạo, và chỉ trong tích tắc, bọn trẻ đã bị bao vây. Một nhóm quân lính nhìn xuống lũ trẻ. Những mũi giáo nhọn hoắc của chúng loang loáng dưới ánh trăng, nhưng mặt của bọn họ thì phủ bóng bởi cái mũ cao bằng da. Timoken có thể nhìn thấy mắt của bọn chúng, những cặp mắt đáng sợ và sững sốt.
Những tên lính bắt đầu thì thầm trao đổi với nhau. Lúc đầu, Timoken không thể hiểu họ nói gì, nhưng rồi cậu dần hiểu được ngôn ngữ lầm bầm, kỳ lạ của chúng.
“Nó làm đau mắt tôi,” tên thứ nhất nói.
“Nó làm mặt tôi nóng rang,” một tên khác nói.
“Tôi không thở được,” tên thứ ba thở hổn hển.
Những tên lính bắt đầu lùi lại, nhưng có một tên chĩa mũi giáo nhọn về phía bọn trẻ. Chúng hét lên, theo bản năng, hai đứa trẻ kéo tấm mạng nhện lên che đến cằm. Tên lính khịt mũi và dí sát ngọn giáo vào mặt hai đứa trẻ. Trống ngực Timoken đập thình thịch, cậu chờ cho vũ khí cắt ngang cổ mình. Nhưng khi ngọn giáo chạm phải tấm mạng nhện, một tia sáng loé lên. Tên lính kêu lên đau đớn và nhảy ra xa, đánh rơi ngọn giáo. “Những đứa trẻ ma quỷ,” hắn rít lên.
Những tên lính còn lại hoảng sợ kêu lên và bỏ chạy. Bọn trẻ có thể nghe thấy tiếng chân chúng trượt ngã ở chỗ cát sâu cho tới khi những tên lính bị mất hút trong sự im lặng của đêm tối trên sa mạc.
“Tấm mạng nhện đã cứu sống chúng ta,” Zobayda nói, nhìn vào tấm chăn lấp lánh bằng tơ nhện.
“Chúng ta sẽ luôn được an toàn,” Timoken vừa nói vừa nằm xuống nền cát.
Bọn trẻ lại tiếp tục chìm vào giấc ngủ sâu và dài. Chúng tỉnh dậy và thấy mình đang ở trong một quang cảnh lạ hoắc, toàn những cồn cát rộng lớn cuồn cuộn. Timoken chạy lên đỉnh một cồn cát và nhìn xung quanh. Khắp tất cả mọi bề, sa mạc trải dài với những nếp gấp vàng óng cho tới tận đường chân trời. Không có thứ gì chuyển động. Không một ngọn cỏ, cành cây hay thậm chí là dấu vết bất cứ dòng suối nào. Dấu chân của những tên lính đã bị gió xóa sạch, vì thế, bọn trẻ chẳng thể nào biết được chúng đã chạy về hướng nào. Timoken gieo mình xuống cồn cát, trượt ngã, cười đùa khi chân cậu lún sâu xuống cát.
Zobayda tìm thấy thức ăn trong chiếc túi da dê: trái cây khô và thịt, đậu và bánh hạt kê. Nhưng không có gì uống.
“Có lẽ chúng ta sẽ phải tìm một con suối,” Timoken nói, “hoặc có thể trời sẽ mưa.” Cậu đã quên mất lời cha dạy, rằng không gì có thể sống được ở sa mạc.
Chúng cẩn thận để dành thức ăn. Chuyến đi có thể sẽ kéo dài thêm nhiều ngày nữa. Zobayda gói những thức ăn còn lại vào tấm tơ nhện mặt trăng; bây giờ thì tấm tơ lại trở lại mát lạnh, mặc dù trời đang nóng dần.
Bọn trẻ không biết phải đi đâu. Zobayda đề nghị họ nên bay. Bay lên cao sẽ giúp chúng nhìn xa và rõ hơn, chúng có thể tìm một ngôi làng, một con suối, hay có khi là một khu rùng.
Timoken đeo chiếc túi ngang vai, Zobayda ôm lấy eo cậu. Timoken khuỵu gối xuống và bật nhẹ khỏi cát. Lên cao và cao nữa và cao nữa. Cậu bay về hướng bắc một lúc lâu, nhưng khi cậu nhìn xuống thì bên dưới vẫn là sa mạc mênh mông. Cậu bay về hướng tây rồi hướng đông, nhưng vẫn chỉ nhìn thấy một quang cảnh cằn cỗi trải dài cả ngàn dặm. Sức nóng ở trên cao làm cậu chóng mặt. Cậu có thể cảm thấy da mặt mình bỏng rát. Timoken để mặc cho mình từ từ hạ xuống, nhưng trước khi chân cậu chạm mặt đất, một con chim khổng lồ sà xuống từ trên trời. Những cái móng vuốt to bè của nó bấu lấy vai Timoken, rồi nó bắt đầu lắc mạnh cậu.
Timoken gần như bất tỉnh vì đau đớn. Cậu có thể nghe thấy giọng nói của chị mình đang hét lên về phía cậu: “Tấm mạng nhện, Timoken. Dùng tấm mạng nhện!”
Cậu thọc tay vào túi, ngón tay của cậu chạm được vào tấm mạng nhện, một giọng nói vang lên trong đầu cậu, Không, không, không được. Đó là thứ chúng muốn. Con chim sẽ lấy nó mất.
“Tấm mạng nhện!” Zobayda hét lên một lần nữa.
“Nó sẽ bảo vệ chúng ta!” Cô trượt tay quanh thắt lưng Timoken để tìm túi đồ. Nhưng Timoken hất tay cô ra, cậu gào to: “Không, Zobayda! Không phải lúc này! Con chim sẽ cướp nó mất!”
“Con chim đó sẽ giết chúng ta,” Zobayda hét lên. “Chúng ta có thể làm gì khác đây?”
“Hãy dùng ngón tay của chị,” Timoken rên rỉ, yếu đi vì cơn đau. Cậu biết rằng mình sẽ sớm bất tỉnh.
“Ngón tay của chị,” Zobayda lẩm bẩm. Một tay bám lấy em trai, cắm ngón tay đeo nhẫn của mình vào bên dưới lông của con chim. Vừa làm, cô vừa đọc:
“Đôi cánh Nhăn nheo, vỗ và lộn nhào, cái mỏ Héo hon, Co lại và rít lên”
Con chim thua cuộc, kêu lên thất thanh, rồi từ từ buông vai của Timoken ra. Cậu chỉ mở mắt đủ để thấy một con vật lông lá, không lớn hơn con chuột, xoay vòng hướng về mặt đất.
“Được rồi,” Zobayda mừng rỡ reo lên ngạc nhiên vì ngón tay đeo nhẫn của mình.
“Vừa kịp lúc,” em trai cậu càu nhàu khi họ hướng thẳng xuống đất. Bị chi phối bởi cơn đau ở vai, cậu bị mất kiểm soát về hướng bay của mình và họ hạ cánh bằng một cú ngã lăn trên đất.
Zobayda ngồi dậy và nhìn chiếc nhẫn của mình. Đôi mắt màu vàng trên chiếc nhẫn nháy mắt với cô.
“Ổ!” Zobayda nhảy lên. “Cái mặt trên nhẫn của chị - nó nháy mắt.”
Timoken nhìn đôi cánh bằng bạc trên tay chị mình, cái đầu nhỏ ló ra ở phía trên. “Mẹ có nói gì với chị về chiếc nhẫn không?” cậu hỏi.
“Mẹ bảo nó sẽ giữ cho chị được an toàn,” Zobayda nói.
“Hình ảnh của vị thần rừng cuối cùng,” Timoken kể cho chị nghe. “Em thấy ngài trong tấm mạng nhện.”
Trước khi nghĩ tới việc lên đường tiếp tục, họ ăn trái cây khô với hy vọng nó sẽ làm dịu cái cổ họng khô rát của mình. Sau bữa ăn, chúng lấy hai cái áo choàng mỏng trong chiếc túi da dê ra và quấn lên đầu. Timoken và Zobayda lại lên đường, hướng về phương bắc, tránh xa khỏi ánh nắng như thiêu đốt. Chúng biết rằng, bây giờ, chúng đang bị bao vây bỏi hàng ngàn dặm vùng đất không sự sống. Những tên lính chắc hẳn phải tới từ đâu đó. Có lẽ chúng sống trong hang bên dưới cát? Hoặc là, trong những cái hang không người ở, nơi mà nước ngọt chảy ra từ những kẽ đá và là nơi họ có thể tìm được chỗ trú khỏi ánh nắng gay gắt.
Không bao lâu sau, Zobayda khuỵu xuống cát và gào lên: “Chị khát đến chết mất, Timoken! Chúng ta phải làm gì đây?”
Cổ họng của Timoken cũng đã khô rang, cậu không thể trả lời. Ở đây có bao giờ mưa không nhỉ? Đám mây trắng trên trời cao trôi ngang qua mà không quan tâm đến người bên dưới, không để cho giọt nước mưa nào trong hàng triệu giọt nước mưa rơi xuống sao? Chúng ta sẽ chết, Timoken nghĩ, nếu không có gì xảy ra.
Có lẽ, đây là thời khắc quan trọng cứu sống cuộc đời của Timoken. Cậu nhận thấy rằng mình không thể chịu thua. Sẽ thật dễ dàng sẽ nằm xuống cát và không bao giờ tỉnh dậy nữa. Nhưng thần rừng đã bảo cậu phải tin vào chính mình. Và cậu sẽ làm như thế. Người thường không thể bay được, nhưng cậu có thể. Vậy còn có gì khác mà cậu có thể làm được? Cậu lấy tấm tơ nhện mặt trăng trong túi da dê ra và trải nó xuống đất.
“Em đang làm gì vậy?” Zobayda thều thào. “Hãy tiết kiệm sức lực.”
Timoken nắm lấy một đầu tấm tơ và xoay gót. Cậu xoay vòng rồi xoay vòng, nhanh dần, nhanh dần. Tấm tơ nhện xoay vòng trong bầu không khí nóng hừng hực, tạo ra những luồng gió thổi lướt qua má Zobayda. Cô ngồi dậy và theo dõi em trai mình. Làm thế nào mà Timoken có thể xoay vòng nhanh như thế dưới sức nóng như thiêu như đốt này nhỉ? Timoken cứ như một cây cột xoay tròn, còn tấm tơ nhện thì biến thành một bánh xe bằng bạc.
Không khí trở nên mát mẻ hơn từng giây. Zobayda đứng dậy và dang rộng hai tay. Cô có thể cảm nhận được những cơn gió mát luồn qua ngón tay đang nóng rát của mình, rồi cô nhắm mắt lại và tận hưởng bầu không khí trong lành. Có tiếng động nhỏ phát ra từ trong không khí. Cô không biết đó là tiếng tấm tơ nhện khuấy động không khí hay là giọng nói của em trai mình?
Rồi đột nhiên có thứ gì đó chạm vào bàn tay đang ngửa lên của Zobayda: một giọt nước nhỏ, rồi một giọt nữa. Cô mở mắt ra. Những giọt mưa từ từ rơi trên đầu cô, lăn xuống má cô. Mưa làm ướt chiếc áo choàng màu xanh cô đang mặc, chảy cả vào giày của cô. Zobayda ngửa đầu lên và để cho mưa rơi thẳng vào miệng. “Timoken!” Zobayda reo lên sung sướng. “Em đúng là một nhà ảo thuật.”
Rồi cả hai cùng phá lên cười thật to. “Giữ lại một ít nước, Zobayda. Em không thể xoay tròn thế này mãi đâu!”
Zobayda rút hết mọi thứ trong chiếc túi da dê ra. Cô mở to miệng túi hết cỡ để cho nước mưa chảy vào. Khi chiếc túi đầy phân nửa, cô nói với em trai mình: “Dừng lại, Timoken, trước khi em biến thành một cái bông vụ. Chúng ta có đủ nước uống cho mấy ngày liền rồi. Hơn nữa, chị cũng đã ướt hết rồi.”
Timoken ngồi phịch xuống đất. Cơn mưa từ từ nhẹ hạt dần, rồi ngưng hẳn. Timoken nằm ngửa ra nhìn bầu trời xanh. “Em đã chọc thủng một đám mây rồi,” cậu nói và cười vui sướng.
Zobayda gói chặt tất cả đồ dùng của họ trong một tấm khăn choàng dài màu đỏ thắm mà hoàng hậu đã gói theo. Cô đội gói đồ lên đầu, rồi dùng tay để giữ thăng bằng. “Em xách túi nước nhé!” Cô nói với Timoken.
Chiếc túi da dê đầy nước trở nên rất nặng. Timoken cố gắng đội nó lên đầu, nhưng nước bập bềnh khiến cậu khó nhìn thấy phía trước. Timoken đành phải mang chiếc túi bằng tay. Và họ lại cùng nhau hướng về hướng bắc. Một lúc sau, một rặng núi hiện ra trước mắt họ, như một đường gợn sóng màu xanh dương chạy dài nơi chân trời.
Cơn mưa của Timoken đã làm thức tỉnh hàng trăm sinh vật đang ngủ sâu bên dưới nền cát nóng. Thằn lằn bò ngang qua chân bọn trẻ, những con rắn trườn quanh những tảng đá, côn trùng đủ mọi kích cỡ và màu sắc xuất hiện trên bầu trời. Chúng bay như đám mây mù trên đầu bọn trẻ, vo ve, rúc rích. Sa mạc như đã được hồi sinh.
Một vài con vật nhỏ, trông như con chuột thò đầu ra khỏi cát. Chúng ngạc nhiên quan sát hai chị em Timoken bằng đôi mắt tròn đen láy. Một con kêu chít chít, Timoken cảm thấy rằng cậu có thể hiểu được tiếng của nó. Cậu dừng lại, đặt chiếc túi xuống và nhìn thẳng vào cái đầu phủ đầy lông.
“Thôi nào, Timoken!” chị cậu gọi. “Những con vậy ấy không có gì để nói với em đâu.”
Ngược lại thì đúng hơn, Timoken nghĩ. Cậu mỉm cười với chú chuột, nét mặt nó trở nên dịu dàng hơn. Chú chuột chui ra khỏi cát và ngồi chồm hổm trước mặt Timoken. Nó nói: “Đi đường bình an nhé!” Hay, có đúng là nó nói vậy không?
“Cảm ơn!” Timoken nói.
“Timoken!” Zobayda đã bỏ cậu một đoạn dài. Nhưng vội vã có ích gì khi bạn đang không biết mình đang đi về đâu? Trò chuyện với ai đó - hay một con vật nào đó - để biết rõ sa mạc, có khi lại giúp ích được chút gì.
Timoken quỳ xuống bên cạnh chú chuột. Nó nhìn cậu bằng ánh mắt thân thiện. Cả những con cùng đàn cũng đã chui ra khỏi cát. Chúng ngẩng đầu nhìn Timoken, khịt khịt mũi thích thú.
Timoken hắng giọng và hỏi: “Các bạn là ai thế?” Cậu ngạc nhiên khi thấy từ cổ họng mình phát ra tiếng chít chít.
“Chúng tôi là chúng tôi,” chú chuột nói.
Timoken có thể hiểu rõ được những gì những chú chuột vừa nói. Cậu có thể hiểu được ngôn ngữ của chúng.
“Mọi người gọi chúng tôi là chuột sa mạc,” chú chuột tiếp tục nói.
“Chuột sa mạc?” Timoken lặp lại. “Tôi là con người. Tên tôi là Timoken.” Cậu chỉ tay về phía Zobayda. “Còn đó là chị của tôi.”
Chuột sa mạc nhìn Zobayda. “Cô ấy đang đi sai đường rồi,” chú chuột nói. “Đừng đi theo cô ấy.”
Timoken cau mày: “Sai đường à? Làm sao bạn biết được?”
“Có những linh hồn xấu từ hướng đó,” chú chuột nói. “Bọn viridee.”
“VIRIDEE!” những chú chuột khác đồng thanh nói, rồi đột nhiên cả đàn chuột biến mất. Tất cả những dấu tích còn lại chỉ là một đống cát nhỏ.
“Dừng lại, Zobayda!” Timoken gọi “Chị đang đi sai đường đấy.”
“Làm sao em biết?” Zobayda ngoảnh lại nói.
“Những chú chuột sa mạc nói cho em biết.”
Zobayda dừng lại. Cô quay lại, nhìn chằm chằm vào em trai mình: “Đó không thể là sự thật được.”
“Đó là sự thật, Zobayda!”
Zobayda từ từ quay lại gần em trai mình: “Em có thể hiểu được tiếng của chúng sao?”
Timoken gật đầu: “Em còn có thể nói được tiếng của chúng nữa cơ. Chúng nói với em là có những linh hồn xấu trên đường chị đi. Chúng là viridee.”
Nét mặt của Zobayda chuyển từ nghi ngờ sang kinh ngạc: “Em thật sự có thể nói chuyện với động vật sao?” cô nói, mắt mở to nhìn Timoken. “Em còn có những khả năng nào nữa vậy?”
“Em không biết nữa,” Timoken nhoẻn miệng cười. Cậu nhặt lấy chiếc túi da dê, giữ nó thăng bằng và chắc chắn trên đầu, rồi tự tin nói: “Hãy đi về hướng đông!”
Zobayda nhìn thấy một vòng cung nhợt nhạt bắt đầu nổi lên trên những cồn cát phía đông. Cô đi theo những dấu chân của Timoken, họ cùng nhau đi về hướng mặt trăng.
Ánh sáng dường như tắt lịm thì họ thấy một vật - một hình thù sẫm màu ở phía chân trời, nó di chuyển lắc lư và ngày càng to hon khi nó tiến đến họ. Bản năng của Zobayda mách bảo là họ nên quay đầu và chạy, nhưng Timoken kéo tay cô lại và nói: “Nó sẽ bắt được chúng ta, giờ chúng ta cũng đã quá mệt để chiến đấu. Hơn nữa...”
“Hơn nữa?” Zobayda hỏi.
“Chúng ta vẫn chưa biết đó là cái gì.”
Họ đứng lại và chờ đợi khi vật đó tiến lại gần. Giờ thì họ có thể thấy được bộ răng khổng lồ, con mắt lồi, những bước chân dài đang phi nước đại. Nó bắt đầu khịt mũi, phát ra âm thanh to và dài, giống như sinh vật từ địa ngục.
Zobayda khuỵu gối xuống, gào to: “Lẽ ra chúng ta nên chạy khỏi đây!”
Ngay khi Timoken rời khỏi vương quốc, bọn viridee đánh hơi được rằng tâm mạng nhện cũng đã bị mang đi cùng với cậu. Chúng có thể đánh hơi thấy nó.
Timoken và Zobayza không biết đến bọn viridee và mục đích hiểm độc của chúng, họ trôi bồng bềnh trên bầu trời rộng lớn, ngạc nhiên khi thấy bầu trời cao hơn họ tưởng rất nhiều, mặc dù tâm trí của họ đang rất buồn phiền vì ký ức về cái chết của cha và họ buộc phải xa mẹ. Cả hai chị em Timoken không thể thốt nên lời nào. Họ chìm sâu vào im lặng, từ giờ này sang giờ khác, không định hướng nên đi về đâu và khi nào nên quay về mặt đất. Cha của chúng kể rằng, mỗi ngày mặt trời di chuyển trên bầu trời theo hình vòng cung, từ phía đông sang phía tây. Vượt ra ngoài khu rừng Châu Phi - phía bắc, phía tây và phía đông - nơi đó là một sa mạc rộng lớn không sinh vật nào có thể sống được. Và ở phía nam, khi mặt trời lên đến đỉnh cao nhất, đó là thế giới của nước. Tại đây, muôn loài có thể sinh sống được như: chim, cá và những sinh vật lạ to như tòa lâu đài.
Timoken thấy rằng, mặt trời bây giờ đang hạ thấp về hướng tây và cậu thầm ước mình đang ở phía nam, nơi mà những đám mây của buổi tối đang cuộn về. Tay của Zobayda đã mỏi nhừ, cô bắt đầu nới lỏng vòng tay đang ôm thắt lưng Timoken. Timoken ghì chặt lấy chị mình, nhưng mí mắt của cậu đã muốn sụp xuống và cậu chỉ mong sao được nhắm chúng lại.
Hạ xuống, Timoken nghĩ. Mình phải hạ xuống thôi. Ngay lập tức, cậu thấy mình rơi xuyên qua những tầng mây. Cậu có thể nghe thấy tiếng sóng vỡ ra bên dưới, cậu có thể cảm nhận được cơn xoáy của một vùng nước khổng lổ và cảm thấy một điều gì đó hoàn toàn xa lạ như một luồng không khí lạnh, ẩm ướt dâng lên làm cậu sực tỉnh. Chân của Zobayda chạm mặt nước trước, và cô tỉnh dậy.
“Timoken!” Zobayda hét lên. “Rời khỏi đây ngay! Cái thứ quái quỷ bên dưới sẽ giết chúng ta mất.” Cô có thể cảm thấy những cái móng vuốt lạnh như băng chộp lấy gót chân mình.
Timoken ước mình thoát khỏi thế giới đáng sợ của nước. Cậu cảm thấy chân mình lướt trên mặt biển, nhưng cậu không thể bay lên cao hơn được. Những cái móng vuốt đói khát đã bắt được chân cậu. Cái lạnh làm cậu chóng mặt, cậu không thể bay được nữa.
“Em không thể bay được nữa!” Timoken rên rỉ.
“Em phải bay,” chị cậu gào lên. “Timoken, em phải bay!”
Giọng nói tuyệt vọng của Zobayda đánh thức Timoken. Cậu biết mình phải nỗ lực đột phá. Với tất cả sức mạnh còn lại trong cái đầu mệt mỏi của mình, cậu buộc mình phải thoát khỏi vùng nước. Có tiếng ùng ục, tiếng rền rĩ dữ tợn và rồi những cái vuốt lạnh băng đó đã từ từ thả chân cậu ra. Bên dưới mặt biển, hai con cua khổng lổ đã lặn xuống đáy biển.
Timoken và Zobayda bay lướt đi trên những ngọn sóng cho đến khi chân họ chạm bờ cát. Timoken thở dài nhẹ nhõm và ngã dài xuống nền cát khô. Zobayda lăn đến bên cạnh cậu, nắm lấy tay cậu. Cả hai cùng chìm vào giấc ngủ.
Hai đứa trẻ ngủ say trên cát còn ấm nắng mặt trời. Nhưng khi đêm xuống, không khí trở nên lạnh giá và mặt đất càng lúc càng lạnh hơn. Hai đứa trẻ tỉnh dậy, lạnh run. Chúng đã rời vương quốc bí ẩn trong bộ quần áo mỏng manh và rất ít đồ đạc mang theo trong túi.
Timoken lôi những bộ quần áo trong chiếc túi da dê ra. Những bộ quần áo đều được làm từ lụa mỏng. Khi soạn đồ, hoàng hậu hẳn là quá bối rối và đau buồn nên không thể nghĩ đến những đêm lạnh giá như thế này. Cuối cùng, Timoken nhìn thấy tấm tơ nhện mặt trăng. Trong bàn tay lạnh cóng của Timoken, tấm mạng nhện thật ấm và dễ chịu. Cậu giũ nó ra. Tấm tơ biến thành một tấm màng rộng lấp lánh. Tấm màng mềm mại ấy rơi xuống nhẹ nhàng và bao bọc lấy hai đứa trẻ như một cái chăn.
“Mẹ nói tấm tơ là phép thuật,” Zobayda nói.
Timoken chú ý đến những nếp gấp phát sáng của tấm tơ, ở ngay chính giữa, nơi mạng nhện được hình thành, cậu trông thấy một gương mặt thật đặc biệt. Trên khuôn mặt có cặp mắt to màu vàng nghệ, cái mũi dài và một cái miệng mỏng trông như đang cười.
“Người là gì vậy?” Timoken hỏi nhò.
“Ta là vị thần rừng cuối cùng,” giọng nói cất lên ngân vang. “Và cậu là một tác phẩm của ta. Hãy tin vào chính mình, Timoken. Con đường của cậu rất dài và nguy hiểm, vì vậy, hãy giữ ta bên cạnh và cậu sẽ sống sót. Ta có rất nhiều quyền năng.”
“Em đang nhìn cái gì vậy?” Zobayda ngái ngủ hỏi. Cô nhúc nhích chân trong tâm tơ nhện và đôi mắt màu vàng ấy rung rinh, rồi khuôn mặt nhỏ biến mất.
Trước khi Timoken có thể giải thích được những gì cậu đã nhìn thấy, cậu nhận thấy rằng mình đang bị theo dõi. Có tiếng chân giẫm lên cát nghe lạo xạo, và chỉ trong tích tắc, bọn trẻ đã bị bao vây. Một nhóm quân lính nhìn xuống lũ trẻ. Những mũi giáo nhọn hoắc của chúng loang loáng dưới ánh trăng, nhưng mặt của bọn họ thì phủ bóng bởi cái mũ cao bằng da. Timoken có thể nhìn thấy mắt của bọn chúng, những cặp mắt đáng sợ và sững sốt.
Những tên lính bắt đầu thì thầm trao đổi với nhau. Lúc đầu, Timoken không thể hiểu họ nói gì, nhưng rồi cậu dần hiểu được ngôn ngữ lầm bầm, kỳ lạ của chúng.
“Nó làm đau mắt tôi,” tên thứ nhất nói.
“Nó làm mặt tôi nóng rang,” một tên khác nói.
“Tôi không thở được,” tên thứ ba thở hổn hển.
Những tên lính bắt đầu lùi lại, nhưng có một tên chĩa mũi giáo nhọn về phía bọn trẻ. Chúng hét lên, theo bản năng, hai đứa trẻ kéo tấm mạng nhện lên che đến cằm. Tên lính khịt mũi và dí sát ngọn giáo vào mặt hai đứa trẻ. Trống ngực Timoken đập thình thịch, cậu chờ cho vũ khí cắt ngang cổ mình. Nhưng khi ngọn giáo chạm phải tấm mạng nhện, một tia sáng loé lên. Tên lính kêu lên đau đớn và nhảy ra xa, đánh rơi ngọn giáo. “Những đứa trẻ ma quỷ,” hắn rít lên.
Những tên lính còn lại hoảng sợ kêu lên và bỏ chạy. Bọn trẻ có thể nghe thấy tiếng chân chúng trượt ngã ở chỗ cát sâu cho tới khi những tên lính bị mất hút trong sự im lặng của đêm tối trên sa mạc.
“Tấm mạng nhện đã cứu sống chúng ta,” Zobayda nói, nhìn vào tấm chăn lấp lánh bằng tơ nhện.
“Chúng ta sẽ luôn được an toàn,” Timoken vừa nói vừa nằm xuống nền cát.
Bọn trẻ lại tiếp tục chìm vào giấc ngủ sâu và dài. Chúng tỉnh dậy và thấy mình đang ở trong một quang cảnh lạ hoắc, toàn những cồn cát rộng lớn cuồn cuộn. Timoken chạy lên đỉnh một cồn cát và nhìn xung quanh. Khắp tất cả mọi bề, sa mạc trải dài với những nếp gấp vàng óng cho tới tận đường chân trời. Không có thứ gì chuyển động. Không một ngọn cỏ, cành cây hay thậm chí là dấu vết bất cứ dòng suối nào. Dấu chân của những tên lính đã bị gió xóa sạch, vì thế, bọn trẻ chẳng thể nào biết được chúng đã chạy về hướng nào. Timoken gieo mình xuống cồn cát, trượt ngã, cười đùa khi chân cậu lún sâu xuống cát.
Zobayda tìm thấy thức ăn trong chiếc túi da dê: trái cây khô và thịt, đậu và bánh hạt kê. Nhưng không có gì uống.
“Có lẽ chúng ta sẽ phải tìm một con suối,” Timoken nói, “hoặc có thể trời sẽ mưa.” Cậu đã quên mất lời cha dạy, rằng không gì có thể sống được ở sa mạc.
Chúng cẩn thận để dành thức ăn. Chuyến đi có thể sẽ kéo dài thêm nhiều ngày nữa. Zobayda gói những thức ăn còn lại vào tấm tơ nhện mặt trăng; bây giờ thì tấm tơ lại trở lại mát lạnh, mặc dù trời đang nóng dần.
Bọn trẻ không biết phải đi đâu. Zobayda đề nghị họ nên bay. Bay lên cao sẽ giúp chúng nhìn xa và rõ hơn, chúng có thể tìm một ngôi làng, một con suối, hay có khi là một khu rùng.
Timoken đeo chiếc túi ngang vai, Zobayda ôm lấy eo cậu. Timoken khuỵu gối xuống và bật nhẹ khỏi cát. Lên cao và cao nữa và cao nữa. Cậu bay về hướng bắc một lúc lâu, nhưng khi cậu nhìn xuống thì bên dưới vẫn là sa mạc mênh mông. Cậu bay về hướng tây rồi hướng đông, nhưng vẫn chỉ nhìn thấy một quang cảnh cằn cỗi trải dài cả ngàn dặm. Sức nóng ở trên cao làm cậu chóng mặt. Cậu có thể cảm thấy da mặt mình bỏng rát. Timoken để mặc cho mình từ từ hạ xuống, nhưng trước khi chân cậu chạm mặt đất, một con chim khổng lồ sà xuống từ trên trời. Những cái móng vuốt to bè của nó bấu lấy vai Timoken, rồi nó bắt đầu lắc mạnh cậu.
Timoken gần như bất tỉnh vì đau đớn. Cậu có thể nghe thấy giọng nói của chị mình đang hét lên về phía cậu: “Tấm mạng nhện, Timoken. Dùng tấm mạng nhện!”
Cậu thọc tay vào túi, ngón tay của cậu chạm được vào tấm mạng nhện, một giọng nói vang lên trong đầu cậu, Không, không, không được. Đó là thứ chúng muốn. Con chim sẽ lấy nó mất.
“Tấm mạng nhện!” Zobayda hét lên một lần nữa.
“Nó sẽ bảo vệ chúng ta!” Cô trượt tay quanh thắt lưng Timoken để tìm túi đồ. Nhưng Timoken hất tay cô ra, cậu gào to: “Không, Zobayda! Không phải lúc này! Con chim sẽ cướp nó mất!”
“Con chim đó sẽ giết chúng ta,” Zobayda hét lên. “Chúng ta có thể làm gì khác đây?”
“Hãy dùng ngón tay của chị,” Timoken rên rỉ, yếu đi vì cơn đau. Cậu biết rằng mình sẽ sớm bất tỉnh.
“Ngón tay của chị,” Zobayda lẩm bẩm. Một tay bám lấy em trai, cắm ngón tay đeo nhẫn của mình vào bên dưới lông của con chim. Vừa làm, cô vừa đọc:
“Đôi cánh Nhăn nheo, vỗ và lộn nhào, cái mỏ Héo hon, Co lại và rít lên”
Con chim thua cuộc, kêu lên thất thanh, rồi từ từ buông vai của Timoken ra. Cậu chỉ mở mắt đủ để thấy một con vật lông lá, không lớn hơn con chuột, xoay vòng hướng về mặt đất.
“Được rồi,” Zobayda mừng rỡ reo lên ngạc nhiên vì ngón tay đeo nhẫn của mình.
“Vừa kịp lúc,” em trai cậu càu nhàu khi họ hướng thẳng xuống đất. Bị chi phối bởi cơn đau ở vai, cậu bị mất kiểm soát về hướng bay của mình và họ hạ cánh bằng một cú ngã lăn trên đất.
Zobayda ngồi dậy và nhìn chiếc nhẫn của mình. Đôi mắt màu vàng trên chiếc nhẫn nháy mắt với cô.
“Ổ!” Zobayda nhảy lên. “Cái mặt trên nhẫn của chị - nó nháy mắt.”
Timoken nhìn đôi cánh bằng bạc trên tay chị mình, cái đầu nhỏ ló ra ở phía trên. “Mẹ có nói gì với chị về chiếc nhẫn không?” cậu hỏi.
“Mẹ bảo nó sẽ giữ cho chị được an toàn,” Zobayda nói.
“Hình ảnh của vị thần rừng cuối cùng,” Timoken kể cho chị nghe. “Em thấy ngài trong tấm mạng nhện.”
Trước khi nghĩ tới việc lên đường tiếp tục, họ ăn trái cây khô với hy vọng nó sẽ làm dịu cái cổ họng khô rát của mình. Sau bữa ăn, chúng lấy hai cái áo choàng mỏng trong chiếc túi da dê ra và quấn lên đầu. Timoken và Zobayda lại lên đường, hướng về phương bắc, tránh xa khỏi ánh nắng như thiêu đốt. Chúng biết rằng, bây giờ, chúng đang bị bao vây bỏi hàng ngàn dặm vùng đất không sự sống. Những tên lính chắc hẳn phải tới từ đâu đó. Có lẽ chúng sống trong hang bên dưới cát? Hoặc là, trong những cái hang không người ở, nơi mà nước ngọt chảy ra từ những kẽ đá và là nơi họ có thể tìm được chỗ trú khỏi ánh nắng gay gắt.
Không bao lâu sau, Zobayda khuỵu xuống cát và gào lên: “Chị khát đến chết mất, Timoken! Chúng ta phải làm gì đây?”
Cổ họng của Timoken cũng đã khô rang, cậu không thể trả lời. Ở đây có bao giờ mưa không nhỉ? Đám mây trắng trên trời cao trôi ngang qua mà không quan tâm đến người bên dưới, không để cho giọt nước mưa nào trong hàng triệu giọt nước mưa rơi xuống sao? Chúng ta sẽ chết, Timoken nghĩ, nếu không có gì xảy ra.
Có lẽ, đây là thời khắc quan trọng cứu sống cuộc đời của Timoken. Cậu nhận thấy rằng mình không thể chịu thua. Sẽ thật dễ dàng sẽ nằm xuống cát và không bao giờ tỉnh dậy nữa. Nhưng thần rừng đã bảo cậu phải tin vào chính mình. Và cậu sẽ làm như thế. Người thường không thể bay được, nhưng cậu có thể. Vậy còn có gì khác mà cậu có thể làm được? Cậu lấy tấm tơ nhện mặt trăng trong túi da dê ra và trải nó xuống đất.
“Em đang làm gì vậy?” Zobayda thều thào. “Hãy tiết kiệm sức lực.”
Timoken nắm lấy một đầu tấm tơ và xoay gót. Cậu xoay vòng rồi xoay vòng, nhanh dần, nhanh dần. Tấm tơ nhện xoay vòng trong bầu không khí nóng hừng hực, tạo ra những luồng gió thổi lướt qua má Zobayda. Cô ngồi dậy và theo dõi em trai mình. Làm thế nào mà Timoken có thể xoay vòng nhanh như thế dưới sức nóng như thiêu như đốt này nhỉ? Timoken cứ như một cây cột xoay tròn, còn tấm tơ nhện thì biến thành một bánh xe bằng bạc.
Không khí trở nên mát mẻ hơn từng giây. Zobayda đứng dậy và dang rộng hai tay. Cô có thể cảm nhận được những cơn gió mát luồn qua ngón tay đang nóng rát của mình, rồi cô nhắm mắt lại và tận hưởng bầu không khí trong lành. Có tiếng động nhỏ phát ra từ trong không khí. Cô không biết đó là tiếng tấm tơ nhện khuấy động không khí hay là giọng nói của em trai mình?
Rồi đột nhiên có thứ gì đó chạm vào bàn tay đang ngửa lên của Zobayda: một giọt nước nhỏ, rồi một giọt nữa. Cô mở mắt ra. Những giọt mưa từ từ rơi trên đầu cô, lăn xuống má cô. Mưa làm ướt chiếc áo choàng màu xanh cô đang mặc, chảy cả vào giày của cô. Zobayda ngửa đầu lên và để cho mưa rơi thẳng vào miệng. “Timoken!” Zobayda reo lên sung sướng. “Em đúng là một nhà ảo thuật.”
Rồi cả hai cùng phá lên cười thật to. “Giữ lại một ít nước, Zobayda. Em không thể xoay tròn thế này mãi đâu!”
Zobayda rút hết mọi thứ trong chiếc túi da dê ra. Cô mở to miệng túi hết cỡ để cho nước mưa chảy vào. Khi chiếc túi đầy phân nửa, cô nói với em trai mình: “Dừng lại, Timoken, trước khi em biến thành một cái bông vụ. Chúng ta có đủ nước uống cho mấy ngày liền rồi. Hơn nữa, chị cũng đã ướt hết rồi.”
Timoken ngồi phịch xuống đất. Cơn mưa từ từ nhẹ hạt dần, rồi ngưng hẳn. Timoken nằm ngửa ra nhìn bầu trời xanh. “Em đã chọc thủng một đám mây rồi,” cậu nói và cười vui sướng.
Zobayda gói chặt tất cả đồ dùng của họ trong một tấm khăn choàng dài màu đỏ thắm mà hoàng hậu đã gói theo. Cô đội gói đồ lên đầu, rồi dùng tay để giữ thăng bằng. “Em xách túi nước nhé!” Cô nói với Timoken.
Chiếc túi da dê đầy nước trở nên rất nặng. Timoken cố gắng đội nó lên đầu, nhưng nước bập bềnh khiến cậu khó nhìn thấy phía trước. Timoken đành phải mang chiếc túi bằng tay. Và họ lại cùng nhau hướng về hướng bắc. Một lúc sau, một rặng núi hiện ra trước mắt họ, như một đường gợn sóng màu xanh dương chạy dài nơi chân trời.
Cơn mưa của Timoken đã làm thức tỉnh hàng trăm sinh vật đang ngủ sâu bên dưới nền cát nóng. Thằn lằn bò ngang qua chân bọn trẻ, những con rắn trườn quanh những tảng đá, côn trùng đủ mọi kích cỡ và màu sắc xuất hiện trên bầu trời. Chúng bay như đám mây mù trên đầu bọn trẻ, vo ve, rúc rích. Sa mạc như đã được hồi sinh.
Một vài con vật nhỏ, trông như con chuột thò đầu ra khỏi cát. Chúng ngạc nhiên quan sát hai chị em Timoken bằng đôi mắt tròn đen láy. Một con kêu chít chít, Timoken cảm thấy rằng cậu có thể hiểu được tiếng của nó. Cậu dừng lại, đặt chiếc túi xuống và nhìn thẳng vào cái đầu phủ đầy lông.
“Thôi nào, Timoken!” chị cậu gọi. “Những con vậy ấy không có gì để nói với em đâu.”
Ngược lại thì đúng hơn, Timoken nghĩ. Cậu mỉm cười với chú chuột, nét mặt nó trở nên dịu dàng hơn. Chú chuột chui ra khỏi cát và ngồi chồm hổm trước mặt Timoken. Nó nói: “Đi đường bình an nhé!” Hay, có đúng là nó nói vậy không?
“Cảm ơn!” Timoken nói.
“Timoken!” Zobayda đã bỏ cậu một đoạn dài. Nhưng vội vã có ích gì khi bạn đang không biết mình đang đi về đâu? Trò chuyện với ai đó - hay một con vật nào đó - để biết rõ sa mạc, có khi lại giúp ích được chút gì.
Timoken quỳ xuống bên cạnh chú chuột. Nó nhìn cậu bằng ánh mắt thân thiện. Cả những con cùng đàn cũng đã chui ra khỏi cát. Chúng ngẩng đầu nhìn Timoken, khịt khịt mũi thích thú.
Timoken hắng giọng và hỏi: “Các bạn là ai thế?” Cậu ngạc nhiên khi thấy từ cổ họng mình phát ra tiếng chít chít.
“Chúng tôi là chúng tôi,” chú chuột nói.
Timoken có thể hiểu rõ được những gì những chú chuột vừa nói. Cậu có thể hiểu được ngôn ngữ của chúng.
“Mọi người gọi chúng tôi là chuột sa mạc,” chú chuột tiếp tục nói.
“Chuột sa mạc?” Timoken lặp lại. “Tôi là con người. Tên tôi là Timoken.” Cậu chỉ tay về phía Zobayda. “Còn đó là chị của tôi.”
Chuột sa mạc nhìn Zobayda. “Cô ấy đang đi sai đường rồi,” chú chuột nói. “Đừng đi theo cô ấy.”
Timoken cau mày: “Sai đường à? Làm sao bạn biết được?”
“Có những linh hồn xấu từ hướng đó,” chú chuột nói. “Bọn viridee.”
“VIRIDEE!” những chú chuột khác đồng thanh nói, rồi đột nhiên cả đàn chuột biến mất. Tất cả những dấu tích còn lại chỉ là một đống cát nhỏ.
“Dừng lại, Zobayda!” Timoken gọi “Chị đang đi sai đường đấy.”
“Làm sao em biết?” Zobayda ngoảnh lại nói.
“Những chú chuột sa mạc nói cho em biết.”
Zobayda dừng lại. Cô quay lại, nhìn chằm chằm vào em trai mình: “Đó không thể là sự thật được.”
“Đó là sự thật, Zobayda!”
Zobayda từ từ quay lại gần em trai mình: “Em có thể hiểu được tiếng của chúng sao?”
Timoken gật đầu: “Em còn có thể nói được tiếng của chúng nữa cơ. Chúng nói với em là có những linh hồn xấu trên đường chị đi. Chúng là viridee.”
Nét mặt của Zobayda chuyển từ nghi ngờ sang kinh ngạc: “Em thật sự có thể nói chuyện với động vật sao?” cô nói, mắt mở to nhìn Timoken. “Em còn có những khả năng nào nữa vậy?”
“Em không biết nữa,” Timoken nhoẻn miệng cười. Cậu nhặt lấy chiếc túi da dê, giữ nó thăng bằng và chắc chắn trên đầu, rồi tự tin nói: “Hãy đi về hướng đông!”
Zobayda nhìn thấy một vòng cung nhợt nhạt bắt đầu nổi lên trên những cồn cát phía đông. Cô đi theo những dấu chân của Timoken, họ cùng nhau đi về hướng mặt trăng.
Ánh sáng dường như tắt lịm thì họ thấy một vật - một hình thù sẫm màu ở phía chân trời, nó di chuyển lắc lư và ngày càng to hon khi nó tiến đến họ. Bản năng của Zobayda mách bảo là họ nên quay đầu và chạy, nhưng Timoken kéo tay cô lại và nói: “Nó sẽ bắt được chúng ta, giờ chúng ta cũng đã quá mệt để chiến đấu. Hơn nữa...”
“Hơn nữa?” Zobayda hỏi.
“Chúng ta vẫn chưa biết đó là cái gì.”
Họ đứng lại và chờ đợi khi vật đó tiến lại gần. Giờ thì họ có thể thấy được bộ răng khổng lồ, con mắt lồi, những bước chân dài đang phi nước đại. Nó bắt đầu khịt mũi, phát ra âm thanh to và dài, giống như sinh vật từ địa ngục.
Zobayda khuỵu gối xuống, gào to: “Lẽ ra chúng ta nên chạy khỏi đây!”
Tác giả :
Jenny Nimmo