Vũ Khí Bóng Đêm 1: Thành Phố Xương
Chương 11
Phần hai
NHÀN NHÃ THUỘC VỀ THẾ HỆ SAU
Facilis descensus Averni:
Noctes atque dies patet atri ianua Ditis.
Sed gradium revocare superasque evadere ad auras;
Hoc opus, hic labor, est.
- Virgil, The Aeneid
9
HỘI CIRCLE VÀ TÌNH ĐỒNG HỮU
Clary bước tới chạm vào tay Jace và định nói gì đó, bất cứ điều gì – bạn sẽ nói gì với ai đó khi người ấy vừa nhìn thấy những kẻ giết bố mình chứ? Hóa ra sự lưỡng lự của cô chẳng là gì; Jace gạt tay cô ra như thể nó châm vào tay anh. “Chúng ta nên đi thôi,” anh nói, rảo bước khỏi phòng làm việc đi vào phòng khách. Clary và Simon vội vã đuổi theo. “Chúng ta không biết khi nào chú Luke quay lại.”
Họ rời khỏi nhà qua lối hậu, Jace dùng thanh stele khóa cửa lại, rồi cả bọn đi ra con phố im ắng. Mặt trăng như miếng mề đay treo lơ lửng bên trên thành phố, tỏa ánh sáng ngọc trai lên mặt sông Đông. Tiếng dòng phương tiện đi lại trên cầu Williamsburg văng vắng trong không gian ẩm ướt nghe như tiếng cánh đập loạn xạ. Simon lên tiếng, “Có ai muốn nói cho mình biết xem chúng ta đang đi đâu không?”
“Tới tàu tuyến L,” Jace bình tĩnh đáp.
“Anh đùa tôi chắc,” Simon chớp chớp mắt. “Kẻ giết quỷ mà lại đi tàu điện ngầm à?”
“Đi tàu nhanh hơn là lái xe.”
“Tôi cứ nghĩ anh dùng phương tiện di chuyển nào đó hay ho hơn, như xe tải với dòng chữ ‘Mang cái chết tới cho Quỷ’ sơn ngoài chứ, hoặc là...”
Jace không thèm ngắt lời. Clary liếc xéo qua Jace. Đôi lúc, khi mẹ Jocelyn thực sự tức giận chuyện gì đấy hay đang trong tâm trạng buồn bực, mẹ sẽ biểu hiện theo cái cách Clary gọi là “sự bình tĩnh đáng sợ.” Đó là kiểu im lặng khiến Clary nghĩ tới lớp băng lừa thị giác ngay trước khi nó nứt vỡ dưới sức nặng của bạn. Jace đang bình tĩnh đến đáng sợ. Mặt anh trơ trơ vô cảm, nhưng có gì đó đang phừng phừng sau đôi mắt nâu vàng của anh.
“Simon,” cô nói. “Đủ rồi.”
Simon ném cô cái nhìn như thể nói, Cậu ở phe nào thế? nhưng Clary lờ đi. Cô vẫn đang quan sát Jace khi họ rẽ về hướng Đại Lộ Kent. Ánh đèn cầu từ phía sau hắt tới, biến mái tóc anh thành một vầng hào quan không hề có thực. Cô tự hỏi liệu có không phải không khi cô thấy vui vì những kẻ bắt cóc mẹ cô lại là thủ phạm sát hại bố Jace nhiều năm về trước. Ít nhất là bây giờ, anh sẽ phải giúp cô tìm mẹ Jocelyn, dù muốn hay không. Ít nhất bây giờ, anh không thể bỏ cô một mình được.
“Anh sống ở đây á?” Simon đứng ngước nhìn nhà thờ cũ với những ô cửa sổ vỡ và cánh cửa bị niêm phong bằng dải dây vàng của cảnh sát. “Nhưng đây là nhà thờ mà.”
Jace cho tay vào cổ áo và lôi ra chiếc chìa khóa đồng treo trên dây chuyền. Chiếc chìa trông như loại người ta sẽ dùng để mở những chiếc hòm cũ trên gác mái. Clary hiếu kỳ nhìn anh – lúc trước anh đã không khóa cửa khi họ rời Học Viện cơ mà, chỉ kệ cho nó đóng sầm lại thôi. “Chúng tôi thấy sống ở vùng đất thiêng có lợi lắm.”
“Tôi hiểu nhưng, không có ý gì đâu nhé, nơi này tồi tàn quá,” Simon nói, nghi ngại nhìn qua hàng rào sắt uốn bao quanh tòa nhà cổ kính, rác chồng đống trên bậc cấp.
Clary thả lỏng đầu óc. Cô tưởng tượng mình đang cầm một trong những cái giẻ dính nhựa thông của mẹ mà chậm vào quang cảnh trước mặt, lau đi ảo ảnh như thể nó là sơn màu cũ.
Kia rồi: hình ảnh đích thực, tỏa sáng xuyên qua tấm màn ảo ảnh giả tạo như ánh sáng soi thấu qua khung kính tối màu. Cô thấy những tòa tháp của nhà thờ cao vút, ánh sáng nhàn nhạt từ những ô cửa sổ viền chì, tấm bản đồ đồng gắn trên bức tường đá bên cạnh cửa, tên Học Viện khắc lên trên ấy. Cô cố nhìn một lúc trước khi buông hình ảnh ấy đi cùng một tiếng thở dài.
“Là ảo ảnh đấy Simon,” cô nói. “Thực ra không thế này đâu.”
“Nếu đây là ý tưởng về ảo ảnh của cậu, thì mình sẽ phải xem lại việc để cậu hóa trang cho mình đấy.”
Jace tra chìa vào ổ, liếc ra sau nhìn Simon. “Tôi không rõ cậu có ý thức được cái vinh hạnh tôi đang ban cho cậu không nữa,” anh nói. “Cậu là người thường đầu tiên nhất từng được đặt chân vào trong Học Viện.”
“Có lẽ cái mùi hôi khiến những người còn lại tránh xa nơi này.”
“Kệ cậu ấy đi,” Clary nói với Jace, rồi chọc cùi chỏ vô sườn Simon. “Cậu ấy nghĩ gì là nói nấy ngay. Không có đầu lọc.”
“Đầu lọc chỉ dành cho thuốc lá và cà phê thôi mà,” Simon làu bàu khi họ bước vào trong. “Mà tiện đây, đấy là hai thứ mình có thể dùng ngay bây giờ.”
Clary thèm thuồng nghĩ tới cốc cà phê khi cả bọn đi lên những bậc thang đá uốn lượn, trên mỗi bậc đều có khắc một chữ tượng hình. Cô bắt đầu nhận ra vài trong số chúng – chúng trêu ngươi cô như kiểu đôi khi vài từ tiếng nước ngoài nghe loáng thoáng khiến cô ngứa tai vậy, như thể chỉ cần tập trung cao độ hơn là cô có thể moi được nghĩa của chúng.
Clary cùng hai cậu con trai chui vào thang máy và im lặng đi lên. Cô vẫn nghĩ tới cà phê, những cốc cà phê thật lớn mà tới một nữa là sữa mẹ thường pha vào mỗi sáng. Đôi lúc chú Luke mang tới những túi bánh ngọt từ tiệm bánh Golden Carriage ở khu phố Tàu. Vừa nghĩ tới chú Luke là bụng dạ cô lại quặn lại, cảm giác thèm ăn biến đi đâu mất.
Thang máy rít lên rồi dừng lại, và họ một lần nữa bước vào cái hành lang mà Clary vẫn nhớ. Jace cởi áo khoác, ném nó lên chiếc ghế gần đó, và huýt sáo qua kẽ răng. Vài giây sau Church xuất hiện, trườn thấp trên mặt đất, đôi mắt vàng sáng lên trong không gian mờ mờ. “Church,” Jace nói và quỳ xuống gãi đầu con mèo xám. “Alec đâu rồi Church? Bác Hodge đâu?”
Church cong lưng lên kêu meo meo. Jace nhăn mũi, cử chỉ mà trong một số hoàn cảnh khác hẳn Clary sẽ thấy là khá dễ thương. “Họ trong thư viện hả?” Anh đứng dậy, và Church lắc mình, lon ton đi một đoạn ngắn rồi liếc nhìn ra sau. Jace đi theo con mèo như thể đó là điều tự nhiên nhất quả đất, vẫy tay ra hiệu cho Clary và Simon nối đuôi đi theo.
“Mình không thích bọn mèo,” Simon nói, vai va phải vai Clary trong khi họ chen chúc đi trong hành lang hẹp.
“Có vẻ như,” Jace nói, “hiểu rõ tính khí Church, thì chính nó cũng không thích cậu.”
Họ đi qua một trong những hành lang dẫn qua dãy phòng ngủ. Simon nhướn mày. “Vậy chính xác có bao nhiêu người sống ở đây?”
“Đây là một học viện,” Clary nói. “Nơi các Thợ Săn Bóng Tối có thể trú lại khi tới thành phố. Giống như một nơi kết hợp giữa chốn ẩn náu an toàn và cơ sở nghiên cứu ấy.”
“Mình tưởng đây là nhà thờ.”
“Nó nằm trong nhà thờ.”
“Vì điều đó chẳng có gì là khó hiểu cả.” Cô nghe thấy sự lo lắng trong cái cách ăn nói xấc xược của cậu bạn. Thay vì bắt cậu ta ngậm miệng lại, Clary đưa tay xuống nắm tay bạn, đan những ngón tay mình vào những ngón tay lạnh cóng kia. Tay Simon lạnh và ẩm ướt, nhưng cậu vẫn nhẹ nhàng bóp lấy tay cô để tỏ sự biết ơn.
“Mình biết nghe có vẻ kỳ lạ,” cô bình tĩnh nói, “nhưng cậu phải chấp nhận thôi. Tin mình đi.”
Đôi mắt đen của Simon rất nghiêm túc. “Mình tin cậu,” cậu nói. “Mình không tin anh ta.” Cậu liếc xéo Jace, đang đi trước họ vài bước, rõ ràng là đang trò chuyện với con mèo. Clary tự hỏi họ đang nói về chuyện gì. Chính trị chăng? Hay nhạc kịch? Hoặc giá cá ngừ cao ngất ngưởng?
“À, cố thử xem sao,” cô nói. “Giờ anh ấy là người có khả năng tốt nhất để giúp mình tìm mẹ.”
Chút rùng mình thoáng qua Simon. “Mình thấy nơi này sao sao ấy,” cậu thì thào.
Clary nhớ mình đã cảm thấy thế nào khi bước đi trong nơi này vào sáng nay – như thể mọi thứ vừa xa lạ mà vừa thân quen vậy. Với Simon, ở đây chẳng có chút gì thân quen cả, chỉ có cảm giác kỳ lạ, xa cách và thù địch. “Cậu không cần đi cùng mình,” cô nói, dù cô đã tranh cãi với Jace trên tàuđể giành quyền cho Simon đi cùng cô, vì rằng sau ba ngày theo dõi chú Luke, chắc hẳn Simon sẽ biết ít nhiều thông tin hữu dụng một khi cả bọn có dịp phân tích chi tiết.
“Cần chứ,” Simon nói. “Mình cần đi với cậu.” Rồi cậu buông tay cô ra khi họ quành qua lối vào cửa và thấy mìnhđang ở trong bếp. Đó là một căn bếp rộng thênh thang, và không giống phần còn lại của Học Viện, nơi đây tất thảy đều hiện đại, với những quầybếp bằng thép và giá kệ ốp kính đựng hàng dãy bát đĩa sành sứ. Isabelle đang đứng cạnh bếp lò gang màu đỏ, tay đang cầm chiếc muỗng tròn, mái tóc đen kẹp cao trên đầu. Hơi nước đang nghi ngút bốc lên từ nồi, còn nguyên liệu thì bày bừa tứ tung – cà chua, hành tỏi thái nhỏ, những loại rau mùi màu đen đen, mấy đụn pho mát bào, vài củ lạc, một nắm lá ô liu, nguyên một con cá, đôi mắt đờ đẫn trợn ngược.
“Em đang nấu súp,” Isabelle nói và vẫy cái muỗng với Jace. “Anh đói không?” Khi đấy cô mới liếc nhìn ra sau ánh, ánh nhìn tối sầm thu nhận Simon lẫn Clary. “Ôi Chú ơi,” cuối cùng cô thốt lên. “Anh lại mang thêm một người thường nữa tới đây à? Bác Hodge sẽ giết anh mất.”
Simon húng hắng. “Mình là Simone,” cậu nói.
Isabelle lờ tịt cậu ta đi. “JACE WAYLAND,” cô nói. “Giải thích đi.”
Jace đang nhìn con mèo. “Tao đã bảo mày đưa tao tới gặp Alec! Đồ Judas phản phúc!”
Church nằm ngửa ra, rên rừ rừ thỏa mãn.
“Đừng trách Church,” Isabelle nói. “Chuyện bác Hodge định giết anh không phải lỗi của nó.” Cô nàng ném cái muỗng vào nồi. Clary tự hỏi thật sự thì cái thứ súp pha tạp nào lạc – cá – ô liu – cà chua có vị thế nào.
“Anh phải mang cậu ta theo,” Jace nói. “Isabelle – hôm nay anh đã thấy hai kẻ giết bố anh.”
Đôi vai Isabelle đanh lại, nhưng khi quay người sang, cô nàng có vẻ bực bội hơn là ngạc nhiên. “Em đoán cậu ta không phải là một trong hai tên đó chứ phỏng?” cô hỏi, lấy cái muỗng chỉ Simon.
Ngạc nhiên là, Simon không nói gì. Cậu ta đang mải quan sát Isabelle, mất hết hồn vía mà mồm miệng thì há hốc. Dĩ nhiên rồi, Clary nhận ra mà lòng nhói lên khó chịu. Isabelle thuộc đúng tuýp con gái mà Simon thích – cao, quyến rũ và xinh đẹp. Nhưng nghĩ cho kỹ, có lẽ đó là mẫu con gái mà ai ai cũng mê thích. Clary thôi không nghĩ về món súp lạc – cá – ô liu – cà chua và bắt đầu băn khoăn rằng chuyện sẽ xảy ra nếu mình ụp cả nồi súp lên đầu Isabelle.
“Tất nhiên là không,” Jace nói. “Em có nghĩ cậu ta còn sống không nếu cậu ta là một trong hai tên ấy?”
Isabelle lạnh nhạt nhìn Simon. “Em cho là không,” cô nàng nói và vô tình làm rơi miếng cá xuống đất. Church ngấu nghiến đánh chén.
“Chẳng trách cu cậu dẫn bọn anh tới đây,” Jace bực tức nói. “Anh không thể tin em lại nhồi nhét cá cho nó. Nó béo quay béo cút ra rồi kia kìa.”
“Nó không béo quay béo cút. Hơn nữa, đám còn lại bọn anh chẳng ai chịu ăn gì sất. Em lấy công thức này từ tay thần nước trong chợ Chelsea. Ông ta bảo món này ngon lắm...”
“Nếu em biết nấu ăn, có thể anh sẽ ăn,” Jace lầm bầm.
Isabelle cứng người, cái muỗng giơ ra đe dọa. “Anh vừa nói cái gì?”
Jace bước tới tủ lạnh. “Anh nói anh định kiếm đồ ăn vặt.”
“Em cũng nghĩ anh nói vậy.” Isabelle quay lại chú ý tới nồi súp. Simon tiếp tục nhìn chằm chằm vào Isabelle. Clary, giận không thể nào lý giải, ném cái ba lô xuống sàn rồi theo Jace tới tủ lạnh.
“Không thể tin được là anh đang ăn,” cô rít lên.
“Không thì anh nên làm gì đây?” anh hỏi bằng cái giọng bình tĩnh tới trêu người.Bên trong tủ lạnh toàn những bịch sữa mà hạn sử dụng kéo ngược đến vài tuần trước, thêm mấy hộp nhựa chứa thức ăn dán mác chữ đỏ: CỦA BÁC HODGE, KHÔNG ĐƯỢC ĂN.
“Chà, bác ấy như kiểu bạn cùng phòng khó tính ấy nhỉ,” Clary nhận xét, trong chốc lát sao lãng đi.
“Cái gì, bác Hodge á? Chỉ là bác ấy muốn các thứ đó có trật tự thôi.” Jace lấy một trong mấy hộp nhựa mà mở ra. “Hừm. Spaghetti.”
“Đừng ăn trước, tý không ăn được đâu,” Isabelle gọi lớn.
“Cái đó,” Jace nói, đá cửa tủ lạnh đóng lại và lấy một chiếc nĩa từ ngăn kéo, “chính xác là điều anh tính làm đây.” Anh nhìn Clary. “Muốn ăn chút không?”
Cô lắc đầu.
“Tất nhiên là không rồi,” anh nói với cái mồm đầy thức ăn, “em đã ăn hết đĩa sandwich cơ mà.”
“Cũng đâu có nhiều sandwich đến thế đâu.” Cô liếc nhìn Simon, cậu chàng có vẻ đã thành công với việc dụ cho Isabelle nói chuyện. “Chúng ta đi tìm bác Hodge được chưa?”
“Có vẻ em cực kỳ muốn thoát khỏi chỗ này.”
“Anh không muốn kể cho bác ấy nghe những gì chúng ta đã thấy à?”
“Anh chưa quyết định nữa.” Jace bỏ cái hộp xuống và trầm ngâm liếm nước sốt spaghetti dính trên đốt ngón tay. “Nhưng nếu em đã muốn đi như thế...”
“Tôi muốn.”
“Được thôi.” Anh trông cực kỳ bình tĩnh, Clary nghĩ bụng, không phải kiểu bình tĩnh đến đáng sợ như lúc trước, mà lại là bình thản hơn thường ngày. Cô tự hỏi anh ta có thường để một chút tâm tính thật sự chui qua vẻ bề ngoài lúc nào cũng cứng cỏi và sáng sủa như lớp sơn mài trên mấy chiếc hộp kiểu Nhật của mẹ cô không.
“Cậu định đi đâu đấy?” Simon ngước nhìn khi họ ra tới cửa. Những lọn tóc đen rơi xuống mắt cậu; sao trông cậu ta u mê đến ngu xuẩn thế nhỉ, Clary khó chịu nghĩ, như thể có ai đó đã dùng cả thanh gỗ xẻ phang mạnh vào gáy cậu ta vậy.
“Đi tìm bác Hodge,” cô nói. “Mình cần nói cho bác ấy chuyện ở nhà chú Luke.”
Isabelle ngước lên. “Vậy anh định nói với bác ấy rằng anh đã gặp mấy tên kia hả anh Jace? Những kẻ đã...”
“Chả biết.” Jace cắt ngang. “Nên giờ cứ giữ mồm giữ miệng giùm cho.”
Cô nàng nhún vai. “Được rồi. Thế anh có quay lại không? Anh có muốn ăn súp không?”
“Không,” Jace đáp.
“Anh có nghĩ bác Hodge muốn ăn chút súp không?”
“Chẳng ai muốn ăn súp đâu.”
“Mình muốn ăn súp,” Simon nói.
“Không, cậu không muốn ăn đâu,” Jace nói. “Cậu chỉ muốn ngủ cùng Isabelle thôi.”
Simon đỏ mặt. “Không đúng.”
“Hãnh diện ghê,” Isabelle thì thào với nồi súp, nhưng cô nàng đang cười khẩy.
“Ồ, đúng đấy,” Jace nói. “Cứ tiến lên mà hỏi cô nàng xem... rồi cô nàng sẽ từ chối và chúng tôi có thể vui vẻ sống tiếp còn cậu thì thối rữa ra trong nỗi ê chề đau đớn.” Anh búng tay. “Nhanh lên nào, nhóc người thường, chúng ta có việc phải làm đấy.”
Simon quay đi, mặt đỏ lựng vì xấu hổ. Clary, người vừa lúc nãy thôi hẳn sẽ thấy hả hê ti tiện, đột nhiên lại thấy giận Jace đùng đùng. “Để cho cậu ấy yên,” cô quát. “Không cần phải ác mồm ác miệng chỉ vì cậu ấy không phải là một kẻ trong đám các người đâu.”
“Một trong đám chúng ta chứ,” Jace nói, nhưng ánh nhìn độc địa đã biến mất khỏi mắt anh. “Anh đi tìm bác Hodge đây. Đi cùng hay không, tùy em.” Cửa bếp đóng sầm sau lưng anh, để Clary ở lại cùng Simon và Isabelle.
Isabelle múc chút súp vào bát và đẩy về phía Simon mà không buồn nhìn. Nhưng mà cô nàng vẫn đang cười cười – Clary có thể cảm nhận được. Súp có màu xanh lá cây sậm, lốm đốm nổi vài thứ màu nâu nâu.
“Mình sẽ đi với Jace,” Clary nói. “Simon...?”
“Mìn sẽ... ở... lại... đây,” cậu lúng búng nói, mắt dán xuống chân.
“Cái gì?”
“Mình sẽ ở lại đây.” Simon ngồi lên chiếc ghế đẩu. “Mình đói.”
“Tốt thôi.” Cổ họng Clary nghẹn lại, như thể vừa nuốt thứ gì đó cực nóng hoặc cực lạnh. Cô quày quả rời khỏi bếp, Church quanh quẩn dưới chân như một cái bóng mờ mờ màu xám.
Trong hành lang, Jace đang xoay xoay thanh thiên đao mấy ngón tay. Anh nhét nó vào túi ngay khi thấy cô. “Em thật tốt bụng khi để cặp uyên ương ở lại.”
Clary cau có nhìn Jace. “Vì sao anh khi nào cũng khốn nạn thế nhỉ?”
“Khốn nạn ư?” Jace trông như sắp cười phá lên.
“Điều anh nói với Simon...”
“Anh đang cố cứu cậu ấy khỏi đau khổ thôi. Isabella sẽ cắt trái tim cậu ta ra và dẫm nát nó dưới gót giày. Đấy là điều cô ta sẽ làm với những cậu con trai như thế.”
“Cô ấy đã làm thế với anh sao?” Clary nói, nhưng Jace chỉ lắc đầu trước khi quay qua Church.
“Bác Hodge,” anh nói. “Và lần này thực sự là bác Hodge nhé. Nếu đưa bọn bao tới bất cứ chỗ nào khác, tao sẽ biến mày thành vợt tennis.”
Con mèo Ba Tư khụt khịt rồi lững thửng đi qua hành lang dẫn đường. Clary, đi sau Jace một chút, có thể nhận ra sự mệt mỏi và căng thẳng đè nặng trên vai Jace. Cô tự hỏi liệu sự căng thẳng có bao giờ rời bỏ anh không. “Jace này.”
Anh nhìn cô. “Gì cơ?”
“Tôi xin lỗi. Vì đã quát anh.”
Anh chậc lưỡi. “Lần nào?”
“Anh cũng quát tôi mà, anh thừa biết chứ.”
“Anh biết,” anh đáp, khiến cô ngạc nhiên. “Có gì đó ở em rất...”
“Đáng ghét phải không?”
“Đáng lo.”
Cô muốn hỏi là anh nói vậy theo ý tốt hay xấu, nhưng lại thôi. Cô quá sợ anh sẽ trả lời theo kiểu đùa đùa cợt cợt. Cô cố nghĩ ra điều khác để nói. “Isabelle luôn nấu cho anh ăn à?” cô hỏi.
“Không, cảm ơn Chúa. Hầu hết thời gian nhà Lightwood ở đây và Maryse – mẹ của Isabelle – nấu cơm cho bọn anh ăn. Mẹ nấu ăn ngon lắm.” Anh có vẻ đang mơ màng, theo cái cách Simon nhìn Isabelle qua nồi súp.
“Vậy sao cô ấy không bao giờ dạy Isabelle nấu ăn?” Giờ họ đang đi qua phòng nhạc, nơi cô thấy Jace chơi dương cầm sáng nay. Bóng tối đã bao phủ dày đặc ở các góc nhà.
“Vì,” Jace nói chậm rãi, “Isabelle không muốn học ấy mà. Con bé chỉ thích và hứng thú với chiến đấu mà thôi. Dù gì thì Izzy cũng xuất thân từ một gia đình nữ chiến binh lâu đời,” anh nói. Trong giọng anh nói, Clary nghe ra chút tự hào. “Con bé là Thợ Săn Bóng Tối giỏi nhất anh từng biết.”
“Vậy sao?” Clary tò mò hỏi. Cô nghĩ tới Isabelle lúc ở Xứ Quỷ, cô nàng tự tin ra sao và cô nàng sử dụng cây roi quất người tóe máu thành thục đến thế nào.
Jace cười khe khẽ. “Không phải Isabelle. Cô ấy là một trong những Thợ Săn Bóng Tối giỏi nhất anh từng biết.”
“Giỏi hơn cả Alec?”
Church, đang bước đi không chút tiếng động phía trước họ qua cảnh tranh tối tranh sáng, đột nhiên ngừng lại và kêu meo meo. Nó phục xuống chân cầu thang kim loại xoắn ốc dẫn lên không gian mờ mịt bên trên. “Vậy là bác ấy ở trong nhà kính,” Jace nói. Clary mất một lúc mới nhận ra anh đang nói với con mèo. “Cũng chẳng có gì ngạc nhiên.”
“Nhà kính á?” Clary nói.
Jace bước lên bậc thang đầu tiên. “Bác Hodge thích trên này lắm. Bác trồng các loại thảo dược, những thứ bọn anh có thể dùng. Hầu hết các loại cây đó chỉ sống ở Idris. Anh nghĩ khu vườn đem đến cho bác ấy chút hương vị quê nhà.”
Clary đi theo. Tiếng giày của cô vang vọng trên những bậc cầu thang kim loại; nhưng tiếng bước chân của Jace thì không. “Anh ta có giỏi hơn Isabelle không?” cô lại hỏi. “Em đang nói tới Alec ấy.”
Anh dừng bước quay lại nhìn xuống cô, đổ người xuống như sắp ngã. Cô nhớ tới giấc mơ của mình: những thiên thần, từ trên trời rơi xuống và bốc cháy. “Giỏi hơn ư?” anh nói. “Trong chuyện giết quỷ ấy à? Không, không hẳn. Cậu ta chưa bao giờ giết một con quỷ nào cả.”
“Thật á?”
“Anh cũng không biết vì sao. Có thể vì cậu ấy luôn muốn bảo vệ Izzy và anh.” Họ đã đi đến đầu cầu thang. Một cánh cửa đôi chạm khắc hình lá và dây leo chào đón họ. Jace huých vai đẩy cửa.
Hương thơm phả vào Clary ngay khi cô đi qua cửa: mùi hương xanh mát, nồng nàn của những thứ đang sinh sôi nảy nở, mùi của đất và rễ cây lớn lên trong đất. Cô cứ nghĩ ngôi nhà kính nhỏ hơn nhiều, có khi chỉ bằng kích thước khu nhà kính đằng sau trường St.Xavier, nơi các học sinh môn sinh học nâng cao trồng đậu, hay thứ gì gì đấy mà họ trồng. Nhà kính ở đây là một khu vực rộng lớn được bao quanh bởi những bức tường kính, trồng dọc tường là những cây mang cành lá xum xuê thở ra nguồn không khí xanh tươi mát mẻ. Còn có những bụi cây trĩu nặng các loại dâu chín mọng, màu đỏ, tím và đen đan xen, cùng những loại cây nhỏ cho những loại quả hình dáng kỳ lạ mà cô chưa từng thấy bao giờ.
Clary hít vào. “Mùi giống như...” Mùa xuân, cô nghĩ, trước khi hơi nóng tràn tới và nghiền nát lá cây thành bộ nhuyễn và làm héo úa rơi rụng bao cánh hoa.
“Mùi quê nhà,” Jace nói, “với anh.” Anh gạt một cành dương sỉ lơ lửng sang bên và chui qua. Clary đi theo.
Nhà kính được sắp đặt như không theo hình mẫu cụ thể nào theo con mắt chưa qua tôi luyện của Clary, nhưng nhìn đi đâu cô cũng thấy muôn vàn màu sắc: những chùm hoa nở rộ màu tím xanh da trời buông dài trên bờ giậu xanh lắt, một dây leo ngoằn ngoèo chi chít chồi non màu vàng cam lóng lánh. Chúng lan ra tới khoảng trống nơi đặt băng ghế đá hoa cương thâm thấp dựa lưng vào thân cây rủ tán lá xanh bạc. Nước sóng sánh trong hồ kè đá. Bác Hodge đang ngồi trên băng ghế, huyền điểu đậu trên vai. Bác đang trầm tư nhìn mặt nước, nhưng lại ngước nhìn lên trời ngay khi họ tới gần. Clary ngước mắt nhìn theo bác và thấy mái nhà kính lóng lánh trên cao như mặt hồ lộn ngược.
“Có vẻ bác đang đợi gì đó,” Jace nhận xét, ngắt chiếc lá trên nhánh cây gần đó mà xoay xoay giữa những ngón tay. Đối với một người có vẻ quá bình thản như anh, Jace có quá nhiều thối quen bồn chồn. Có lẽ anh chỉ thích luôn luôn trong trạng thái vận động.
“Ta chỉ đang mải nghĩ.” Bác Hodge đứng dậy, duỗi dài tay cho Hugo. Nụ cười nhạt dần trên mặt bác khi bác nhìn họ. “Có chuyện gì? Các cháu trông như...”
“Bọn cháu bị tấn công,” Jace nói gọn lỏn. “Bởi Kẻ Lầm Đường.”
“Những chiến bình Lầm Đường à? Ở đây ư?”
“Mộ chiến binh thôi,” Jace nói. “Chúng cháu chỉ gặp một tên.”
“Nhưng Dorothea nói còn có nhiều hơn,” Clary bổ sung.
“Dorothea?” Bác Hodge giơ tay lên. “Sẽ dễ hiểu hơn nếu các cháu kể câu chuyện có đầu có đuôi.”
“Được ạ.” Jace nhìn Clary cảnh cáo, ngăn cô nói trước khi cô kịp mở lời. Sau đó anh kể lại những chuyện xảy ra trong chiều nay, chỉ bỏ lại một chi tiết duy nhất – rằng những người trong nhà chú Luke là những kẻ đã giết chết bố anh hồi bảy năm về trước. “Bạn của mẹ Clary – hay dù chú ấy thực sự là ai – lấy tên Luke Garroway,” Jace kể xong. “Nhưng khi bọn cháu ở trong nhà chú ấy, hai kẻ tự xưng là phái viên của Valentine đã gọi chú ấy là Lucian Graymark.”
“Và tên bọn họ là...”
“Pangborn,” Jace nói. “Và Blackwell.”
Mặt bác Hodge trắng bệch. Đối lập với nước da xám ngắt là vết sẹo trên má nổi bật như sợi dây đỏ cong queo. “Đúng như ta lo sợ,” bác nói, nửa như nói với chính mình. “Hội Circle lại trỗi dậy.”
Clary nhìn Jace xin một lời giải thích, nhưng có vẻ anh cũng bối rối hệt như cô. “Hội Circle?” anh hỏi.
Bác Hodge đang lắc đầu như cố lắc sạch mạng nhện phủ lên trí não. “Đi với ta nào,” bác nói. “Giờ đã tới lúc để chỉ cho các cháu một vài điều.”
Những ngọn đèn ga được thắp sáng trong thư viện, bề mặt các món đồ nội thất bằng gỗ sồi bóng loáng mang vẻ ủ dột như đá quý bị xỉn. Bị bóng tối phủ lên vằn vện, những khuôn mặt thiên thần khắc khổ đỡ lấy chiếc ghế sô pha đỏ, chân co lên, Jace bồn chồn dựa lưng vào tay ghế sô pha bên cạnh cô. “Bác Hodge, nếu bác cần bọn cháu giúp tìm...”
“Không cần đâu.” Bác Hodge từ sau bàn giấy đi ra, phủi phủi bụi dính trên đầu gối. “Ta tìm thấy rồi.”
Bác đang cầm một cuốn sách lớn bọc da nâu. Bác lần giở từng trang một bằng một ngón tay lóng ngóng, đôi mắt chớp chớp sau tròng kính và lẩm bẩm: “Đâu... đâu nhỉ... à, đây rồi!” Bác húng hắng trước khi đọc lớn: “Tôi chấp nhận phục tùng hội Circle cùng những tôn chỉ của hội một cách vô điều kiện... Tôi sẵn sàng hy sinh tính mạng vì hội Circle bất cứ khi nào, để bảo tồn dòng máu thuần chủng của Idris, và vì sự bình yên của thế giới mà chúng ta thề bảo vệ.”
Jace nhăn mặt. “Cái đó ở đâu thế ạ?”
“Nó là lời thề trung thành của Hội Circle của Raziel, hai mươi năm trước,” bác Hodge nói, có vẻ cực kỳ mệt mỏi.
“Nghe ghê ghê,” Clary nói. “Giống như một tổ chức phát xít hay cái gì đại loại thế.”
Bác Hodge bỏ sách xuống. Bác trông có vẻ đau thương và buồn bã tựa như mấy bức tượng thiên thần bên dưới bàn. “Họ là một nhóm,” bác chầm chậm nói, “các Thợ Săn Bóng Tối, đứng đầu là Valentine, nguyện xóa sổ những kẻ thuộc Thế Giới Ngầm và trả thế giới về trạng thái ‘thuần khiết’ hơn. Kế hoạch của họ là đợi cho những người thuộc Thế Giới Ngầm tới Idris để ký kết Hòa Ước. Các Hòa Ước phải được tái ký kết mỗi mười lăm năm, để duy trì hiệu lực phép thuật,” bác nói thêm, để Clary hiểu. “Thế rồi, Circle lên kế hoạch tàn sát tất cả, những kẻ tay không tấc sắt và không có khả năng phòng vệ. Hành động dã man này, theo họ nghĩ, sẽ châm ngòi chiến tranh giữa loài người và các giống loài khác thuộc Thế Giới Ngầm – một cuộc chiến họ nắm phần thắng.”
“Đó là cuộc Nổi Loạn,” Jace nói, cuối cùng cũng đã nhận ra được trong câu chuyện của bác Hodge một điều quá ư quen thuộc. “Cháu không biết Valentine cùng những kẻ theo đuôi hắn lại có tên cơ đấy.”
“Cái tên đó giờ không thường được nhắc tới,” bác Hodge nói. “Sự tồn tại của họ vẫn còn là sự sỉ nhục với hội Clave. Hầu hết các văn bản nhắc tới họ đều đã bị hủy.”
“Vậy vì sao bác có bản copy của lời thề đó?” Jace hỏi.
Bác Hodge ngần ngừ - chỉ trong một khắc thôi, nhưng Clary nhận ra, và cảm thấy một lường rùng mình e sợ tuy thoáng qua thôi nhưng lại không lý giải được chạy dọc sống lưng. “Bởi vì,” cuối cùng bác nói, “ta đã giúp thảo ra nó.”
Nghe vậy Jace ngước mắt nhìn. “Bác từng ở trong hội Circle.”
“Đã từng. Rất nhiều trong chúng ta từng là thành viên hội đó.” Bác Hodge đang nhìn thẳng phía trước. “Mẹ của Clary cũng vậy.”
Clary giật bắn người như thể bác vừa giáng cho cô một cú bợp tai. “Cái gì ạ?”
“Ta nói...”
“Cháu biết bác đã nói gì! Mẹ cháu hẳn sẽ không bao giờ thuộc về cái hội nào như thế. Một kiểu tổ chức... tổ chức cực đoan.”
“Nó không phải...” Jace mở lời, nhưng bác Hodge xen ngang.
“Ta không nghĩ,” bác nói chầm chậm, như thể từng câu từng từ đều làm đau mình, “là mẹ cháu được lựa chọn gì cả.”
Clary trố mắt. “Bác đang nói gì vậy? Sao mẹ cháu lại không được chọn lựa chứ?”
“Bời vì,” bác Hodge đáp, “mẹ cháu là vợ của Valentine.”
NHÀN NHÃ THUỘC VỀ THẾ HỆ SAU
Facilis descensus Averni:
Noctes atque dies patet atri ianua Ditis.
Sed gradium revocare superasque evadere ad auras;
Hoc opus, hic labor, est.
- Virgil, The Aeneid
9
HỘI CIRCLE VÀ TÌNH ĐỒNG HỮU
Clary bước tới chạm vào tay Jace và định nói gì đó, bất cứ điều gì – bạn sẽ nói gì với ai đó khi người ấy vừa nhìn thấy những kẻ giết bố mình chứ? Hóa ra sự lưỡng lự của cô chẳng là gì; Jace gạt tay cô ra như thể nó châm vào tay anh. “Chúng ta nên đi thôi,” anh nói, rảo bước khỏi phòng làm việc đi vào phòng khách. Clary và Simon vội vã đuổi theo. “Chúng ta không biết khi nào chú Luke quay lại.”
Họ rời khỏi nhà qua lối hậu, Jace dùng thanh stele khóa cửa lại, rồi cả bọn đi ra con phố im ắng. Mặt trăng như miếng mề đay treo lơ lửng bên trên thành phố, tỏa ánh sáng ngọc trai lên mặt sông Đông. Tiếng dòng phương tiện đi lại trên cầu Williamsburg văng vắng trong không gian ẩm ướt nghe như tiếng cánh đập loạn xạ. Simon lên tiếng, “Có ai muốn nói cho mình biết xem chúng ta đang đi đâu không?”
“Tới tàu tuyến L,” Jace bình tĩnh đáp.
“Anh đùa tôi chắc,” Simon chớp chớp mắt. “Kẻ giết quỷ mà lại đi tàu điện ngầm à?”
“Đi tàu nhanh hơn là lái xe.”
“Tôi cứ nghĩ anh dùng phương tiện di chuyển nào đó hay ho hơn, như xe tải với dòng chữ ‘Mang cái chết tới cho Quỷ’ sơn ngoài chứ, hoặc là...”
Jace không thèm ngắt lời. Clary liếc xéo qua Jace. Đôi lúc, khi mẹ Jocelyn thực sự tức giận chuyện gì đấy hay đang trong tâm trạng buồn bực, mẹ sẽ biểu hiện theo cái cách Clary gọi là “sự bình tĩnh đáng sợ.” Đó là kiểu im lặng khiến Clary nghĩ tới lớp băng lừa thị giác ngay trước khi nó nứt vỡ dưới sức nặng của bạn. Jace đang bình tĩnh đến đáng sợ. Mặt anh trơ trơ vô cảm, nhưng có gì đó đang phừng phừng sau đôi mắt nâu vàng của anh.
“Simon,” cô nói. “Đủ rồi.”
Simon ném cô cái nhìn như thể nói, Cậu ở phe nào thế? nhưng Clary lờ đi. Cô vẫn đang quan sát Jace khi họ rẽ về hướng Đại Lộ Kent. Ánh đèn cầu từ phía sau hắt tới, biến mái tóc anh thành một vầng hào quan không hề có thực. Cô tự hỏi liệu có không phải không khi cô thấy vui vì những kẻ bắt cóc mẹ cô lại là thủ phạm sát hại bố Jace nhiều năm về trước. Ít nhất là bây giờ, anh sẽ phải giúp cô tìm mẹ Jocelyn, dù muốn hay không. Ít nhất bây giờ, anh không thể bỏ cô một mình được.
“Anh sống ở đây á?” Simon đứng ngước nhìn nhà thờ cũ với những ô cửa sổ vỡ và cánh cửa bị niêm phong bằng dải dây vàng của cảnh sát. “Nhưng đây là nhà thờ mà.”
Jace cho tay vào cổ áo và lôi ra chiếc chìa khóa đồng treo trên dây chuyền. Chiếc chìa trông như loại người ta sẽ dùng để mở những chiếc hòm cũ trên gác mái. Clary hiếu kỳ nhìn anh – lúc trước anh đã không khóa cửa khi họ rời Học Viện cơ mà, chỉ kệ cho nó đóng sầm lại thôi. “Chúng tôi thấy sống ở vùng đất thiêng có lợi lắm.”
“Tôi hiểu nhưng, không có ý gì đâu nhé, nơi này tồi tàn quá,” Simon nói, nghi ngại nhìn qua hàng rào sắt uốn bao quanh tòa nhà cổ kính, rác chồng đống trên bậc cấp.
Clary thả lỏng đầu óc. Cô tưởng tượng mình đang cầm một trong những cái giẻ dính nhựa thông của mẹ mà chậm vào quang cảnh trước mặt, lau đi ảo ảnh như thể nó là sơn màu cũ.
Kia rồi: hình ảnh đích thực, tỏa sáng xuyên qua tấm màn ảo ảnh giả tạo như ánh sáng soi thấu qua khung kính tối màu. Cô thấy những tòa tháp của nhà thờ cao vút, ánh sáng nhàn nhạt từ những ô cửa sổ viền chì, tấm bản đồ đồng gắn trên bức tường đá bên cạnh cửa, tên Học Viện khắc lên trên ấy. Cô cố nhìn một lúc trước khi buông hình ảnh ấy đi cùng một tiếng thở dài.
“Là ảo ảnh đấy Simon,” cô nói. “Thực ra không thế này đâu.”
“Nếu đây là ý tưởng về ảo ảnh của cậu, thì mình sẽ phải xem lại việc để cậu hóa trang cho mình đấy.”
Jace tra chìa vào ổ, liếc ra sau nhìn Simon. “Tôi không rõ cậu có ý thức được cái vinh hạnh tôi đang ban cho cậu không nữa,” anh nói. “Cậu là người thường đầu tiên nhất từng được đặt chân vào trong Học Viện.”
“Có lẽ cái mùi hôi khiến những người còn lại tránh xa nơi này.”
“Kệ cậu ấy đi,” Clary nói với Jace, rồi chọc cùi chỏ vô sườn Simon. “Cậu ấy nghĩ gì là nói nấy ngay. Không có đầu lọc.”
“Đầu lọc chỉ dành cho thuốc lá và cà phê thôi mà,” Simon làu bàu khi họ bước vào trong. “Mà tiện đây, đấy là hai thứ mình có thể dùng ngay bây giờ.”
Clary thèm thuồng nghĩ tới cốc cà phê khi cả bọn đi lên những bậc thang đá uốn lượn, trên mỗi bậc đều có khắc một chữ tượng hình. Cô bắt đầu nhận ra vài trong số chúng – chúng trêu ngươi cô như kiểu đôi khi vài từ tiếng nước ngoài nghe loáng thoáng khiến cô ngứa tai vậy, như thể chỉ cần tập trung cao độ hơn là cô có thể moi được nghĩa của chúng.
Clary cùng hai cậu con trai chui vào thang máy và im lặng đi lên. Cô vẫn nghĩ tới cà phê, những cốc cà phê thật lớn mà tới một nữa là sữa mẹ thường pha vào mỗi sáng. Đôi lúc chú Luke mang tới những túi bánh ngọt từ tiệm bánh Golden Carriage ở khu phố Tàu. Vừa nghĩ tới chú Luke là bụng dạ cô lại quặn lại, cảm giác thèm ăn biến đi đâu mất.
Thang máy rít lên rồi dừng lại, và họ một lần nữa bước vào cái hành lang mà Clary vẫn nhớ. Jace cởi áo khoác, ném nó lên chiếc ghế gần đó, và huýt sáo qua kẽ răng. Vài giây sau Church xuất hiện, trườn thấp trên mặt đất, đôi mắt vàng sáng lên trong không gian mờ mờ. “Church,” Jace nói và quỳ xuống gãi đầu con mèo xám. “Alec đâu rồi Church? Bác Hodge đâu?”
Church cong lưng lên kêu meo meo. Jace nhăn mũi, cử chỉ mà trong một số hoàn cảnh khác hẳn Clary sẽ thấy là khá dễ thương. “Họ trong thư viện hả?” Anh đứng dậy, và Church lắc mình, lon ton đi một đoạn ngắn rồi liếc nhìn ra sau. Jace đi theo con mèo như thể đó là điều tự nhiên nhất quả đất, vẫy tay ra hiệu cho Clary và Simon nối đuôi đi theo.
“Mình không thích bọn mèo,” Simon nói, vai va phải vai Clary trong khi họ chen chúc đi trong hành lang hẹp.
“Có vẻ như,” Jace nói, “hiểu rõ tính khí Church, thì chính nó cũng không thích cậu.”
Họ đi qua một trong những hành lang dẫn qua dãy phòng ngủ. Simon nhướn mày. “Vậy chính xác có bao nhiêu người sống ở đây?”
“Đây là một học viện,” Clary nói. “Nơi các Thợ Săn Bóng Tối có thể trú lại khi tới thành phố. Giống như một nơi kết hợp giữa chốn ẩn náu an toàn và cơ sở nghiên cứu ấy.”
“Mình tưởng đây là nhà thờ.”
“Nó nằm trong nhà thờ.”
“Vì điều đó chẳng có gì là khó hiểu cả.” Cô nghe thấy sự lo lắng trong cái cách ăn nói xấc xược của cậu bạn. Thay vì bắt cậu ta ngậm miệng lại, Clary đưa tay xuống nắm tay bạn, đan những ngón tay mình vào những ngón tay lạnh cóng kia. Tay Simon lạnh và ẩm ướt, nhưng cậu vẫn nhẹ nhàng bóp lấy tay cô để tỏ sự biết ơn.
“Mình biết nghe có vẻ kỳ lạ,” cô bình tĩnh nói, “nhưng cậu phải chấp nhận thôi. Tin mình đi.”
Đôi mắt đen của Simon rất nghiêm túc. “Mình tin cậu,” cậu nói. “Mình không tin anh ta.” Cậu liếc xéo Jace, đang đi trước họ vài bước, rõ ràng là đang trò chuyện với con mèo. Clary tự hỏi họ đang nói về chuyện gì. Chính trị chăng? Hay nhạc kịch? Hoặc giá cá ngừ cao ngất ngưởng?
“À, cố thử xem sao,” cô nói. “Giờ anh ấy là người có khả năng tốt nhất để giúp mình tìm mẹ.”
Chút rùng mình thoáng qua Simon. “Mình thấy nơi này sao sao ấy,” cậu thì thào.
Clary nhớ mình đã cảm thấy thế nào khi bước đi trong nơi này vào sáng nay – như thể mọi thứ vừa xa lạ mà vừa thân quen vậy. Với Simon, ở đây chẳng có chút gì thân quen cả, chỉ có cảm giác kỳ lạ, xa cách và thù địch. “Cậu không cần đi cùng mình,” cô nói, dù cô đã tranh cãi với Jace trên tàuđể giành quyền cho Simon đi cùng cô, vì rằng sau ba ngày theo dõi chú Luke, chắc hẳn Simon sẽ biết ít nhiều thông tin hữu dụng một khi cả bọn có dịp phân tích chi tiết.
“Cần chứ,” Simon nói. “Mình cần đi với cậu.” Rồi cậu buông tay cô ra khi họ quành qua lối vào cửa và thấy mìnhđang ở trong bếp. Đó là một căn bếp rộng thênh thang, và không giống phần còn lại của Học Viện, nơi đây tất thảy đều hiện đại, với những quầybếp bằng thép và giá kệ ốp kính đựng hàng dãy bát đĩa sành sứ. Isabelle đang đứng cạnh bếp lò gang màu đỏ, tay đang cầm chiếc muỗng tròn, mái tóc đen kẹp cao trên đầu. Hơi nước đang nghi ngút bốc lên từ nồi, còn nguyên liệu thì bày bừa tứ tung – cà chua, hành tỏi thái nhỏ, những loại rau mùi màu đen đen, mấy đụn pho mát bào, vài củ lạc, một nắm lá ô liu, nguyên một con cá, đôi mắt đờ đẫn trợn ngược.
“Em đang nấu súp,” Isabelle nói và vẫy cái muỗng với Jace. “Anh đói không?” Khi đấy cô mới liếc nhìn ra sau ánh, ánh nhìn tối sầm thu nhận Simon lẫn Clary. “Ôi Chú ơi,” cuối cùng cô thốt lên. “Anh lại mang thêm một người thường nữa tới đây à? Bác Hodge sẽ giết anh mất.”
Simon húng hắng. “Mình là Simone,” cậu nói.
Isabelle lờ tịt cậu ta đi. “JACE WAYLAND,” cô nói. “Giải thích đi.”
Jace đang nhìn con mèo. “Tao đã bảo mày đưa tao tới gặp Alec! Đồ Judas phản phúc!”
Church nằm ngửa ra, rên rừ rừ thỏa mãn.
“Đừng trách Church,” Isabelle nói. “Chuyện bác Hodge định giết anh không phải lỗi của nó.” Cô nàng ném cái muỗng vào nồi. Clary tự hỏi thật sự thì cái thứ súp pha tạp nào lạc – cá – ô liu – cà chua có vị thế nào.
“Anh phải mang cậu ta theo,” Jace nói. “Isabelle – hôm nay anh đã thấy hai kẻ giết bố anh.”
Đôi vai Isabelle đanh lại, nhưng khi quay người sang, cô nàng có vẻ bực bội hơn là ngạc nhiên. “Em đoán cậu ta không phải là một trong hai tên đó chứ phỏng?” cô hỏi, lấy cái muỗng chỉ Simon.
Ngạc nhiên là, Simon không nói gì. Cậu ta đang mải quan sát Isabelle, mất hết hồn vía mà mồm miệng thì há hốc. Dĩ nhiên rồi, Clary nhận ra mà lòng nhói lên khó chịu. Isabelle thuộc đúng tuýp con gái mà Simon thích – cao, quyến rũ và xinh đẹp. Nhưng nghĩ cho kỹ, có lẽ đó là mẫu con gái mà ai ai cũng mê thích. Clary thôi không nghĩ về món súp lạc – cá – ô liu – cà chua và bắt đầu băn khoăn rằng chuyện sẽ xảy ra nếu mình ụp cả nồi súp lên đầu Isabelle.
“Tất nhiên là không,” Jace nói. “Em có nghĩ cậu ta còn sống không nếu cậu ta là một trong hai tên ấy?”
Isabelle lạnh nhạt nhìn Simon. “Em cho là không,” cô nàng nói và vô tình làm rơi miếng cá xuống đất. Church ngấu nghiến đánh chén.
“Chẳng trách cu cậu dẫn bọn anh tới đây,” Jace bực tức nói. “Anh không thể tin em lại nhồi nhét cá cho nó. Nó béo quay béo cút ra rồi kia kìa.”
“Nó không béo quay béo cút. Hơn nữa, đám còn lại bọn anh chẳng ai chịu ăn gì sất. Em lấy công thức này từ tay thần nước trong chợ Chelsea. Ông ta bảo món này ngon lắm...”
“Nếu em biết nấu ăn, có thể anh sẽ ăn,” Jace lầm bầm.
Isabelle cứng người, cái muỗng giơ ra đe dọa. “Anh vừa nói cái gì?”
Jace bước tới tủ lạnh. “Anh nói anh định kiếm đồ ăn vặt.”
“Em cũng nghĩ anh nói vậy.” Isabelle quay lại chú ý tới nồi súp. Simon tiếp tục nhìn chằm chằm vào Isabelle. Clary, giận không thể nào lý giải, ném cái ba lô xuống sàn rồi theo Jace tới tủ lạnh.
“Không thể tin được là anh đang ăn,” cô rít lên.
“Không thì anh nên làm gì đây?” anh hỏi bằng cái giọng bình tĩnh tới trêu người.Bên trong tủ lạnh toàn những bịch sữa mà hạn sử dụng kéo ngược đến vài tuần trước, thêm mấy hộp nhựa chứa thức ăn dán mác chữ đỏ: CỦA BÁC HODGE, KHÔNG ĐƯỢC ĂN.
“Chà, bác ấy như kiểu bạn cùng phòng khó tính ấy nhỉ,” Clary nhận xét, trong chốc lát sao lãng đi.
“Cái gì, bác Hodge á? Chỉ là bác ấy muốn các thứ đó có trật tự thôi.” Jace lấy một trong mấy hộp nhựa mà mở ra. “Hừm. Spaghetti.”
“Đừng ăn trước, tý không ăn được đâu,” Isabelle gọi lớn.
“Cái đó,” Jace nói, đá cửa tủ lạnh đóng lại và lấy một chiếc nĩa từ ngăn kéo, “chính xác là điều anh tính làm đây.” Anh nhìn Clary. “Muốn ăn chút không?”
Cô lắc đầu.
“Tất nhiên là không rồi,” anh nói với cái mồm đầy thức ăn, “em đã ăn hết đĩa sandwich cơ mà.”
“Cũng đâu có nhiều sandwich đến thế đâu.” Cô liếc nhìn Simon, cậu chàng có vẻ đã thành công với việc dụ cho Isabelle nói chuyện. “Chúng ta đi tìm bác Hodge được chưa?”
“Có vẻ em cực kỳ muốn thoát khỏi chỗ này.”
“Anh không muốn kể cho bác ấy nghe những gì chúng ta đã thấy à?”
“Anh chưa quyết định nữa.” Jace bỏ cái hộp xuống và trầm ngâm liếm nước sốt spaghetti dính trên đốt ngón tay. “Nhưng nếu em đã muốn đi như thế...”
“Tôi muốn.”
“Được thôi.” Anh trông cực kỳ bình tĩnh, Clary nghĩ bụng, không phải kiểu bình tĩnh đến đáng sợ như lúc trước, mà lại là bình thản hơn thường ngày. Cô tự hỏi anh ta có thường để một chút tâm tính thật sự chui qua vẻ bề ngoài lúc nào cũng cứng cỏi và sáng sủa như lớp sơn mài trên mấy chiếc hộp kiểu Nhật của mẹ cô không.
“Cậu định đi đâu đấy?” Simon ngước nhìn khi họ ra tới cửa. Những lọn tóc đen rơi xuống mắt cậu; sao trông cậu ta u mê đến ngu xuẩn thế nhỉ, Clary khó chịu nghĩ, như thể có ai đó đã dùng cả thanh gỗ xẻ phang mạnh vào gáy cậu ta vậy.
“Đi tìm bác Hodge,” cô nói. “Mình cần nói cho bác ấy chuyện ở nhà chú Luke.”
Isabelle ngước lên. “Vậy anh định nói với bác ấy rằng anh đã gặp mấy tên kia hả anh Jace? Những kẻ đã...”
“Chả biết.” Jace cắt ngang. “Nên giờ cứ giữ mồm giữ miệng giùm cho.”
Cô nàng nhún vai. “Được rồi. Thế anh có quay lại không? Anh có muốn ăn súp không?”
“Không,” Jace đáp.
“Anh có nghĩ bác Hodge muốn ăn chút súp không?”
“Chẳng ai muốn ăn súp đâu.”
“Mình muốn ăn súp,” Simon nói.
“Không, cậu không muốn ăn đâu,” Jace nói. “Cậu chỉ muốn ngủ cùng Isabelle thôi.”
Simon đỏ mặt. “Không đúng.”
“Hãnh diện ghê,” Isabelle thì thào với nồi súp, nhưng cô nàng đang cười khẩy.
“Ồ, đúng đấy,” Jace nói. “Cứ tiến lên mà hỏi cô nàng xem... rồi cô nàng sẽ từ chối và chúng tôi có thể vui vẻ sống tiếp còn cậu thì thối rữa ra trong nỗi ê chề đau đớn.” Anh búng tay. “Nhanh lên nào, nhóc người thường, chúng ta có việc phải làm đấy.”
Simon quay đi, mặt đỏ lựng vì xấu hổ. Clary, người vừa lúc nãy thôi hẳn sẽ thấy hả hê ti tiện, đột nhiên lại thấy giận Jace đùng đùng. “Để cho cậu ấy yên,” cô quát. “Không cần phải ác mồm ác miệng chỉ vì cậu ấy không phải là một kẻ trong đám các người đâu.”
“Một trong đám chúng ta chứ,” Jace nói, nhưng ánh nhìn độc địa đã biến mất khỏi mắt anh. “Anh đi tìm bác Hodge đây. Đi cùng hay không, tùy em.” Cửa bếp đóng sầm sau lưng anh, để Clary ở lại cùng Simon và Isabelle.
Isabelle múc chút súp vào bát và đẩy về phía Simon mà không buồn nhìn. Nhưng mà cô nàng vẫn đang cười cười – Clary có thể cảm nhận được. Súp có màu xanh lá cây sậm, lốm đốm nổi vài thứ màu nâu nâu.
“Mình sẽ đi với Jace,” Clary nói. “Simon...?”
“Mìn sẽ... ở... lại... đây,” cậu lúng búng nói, mắt dán xuống chân.
“Cái gì?”
“Mình sẽ ở lại đây.” Simon ngồi lên chiếc ghế đẩu. “Mình đói.”
“Tốt thôi.” Cổ họng Clary nghẹn lại, như thể vừa nuốt thứ gì đó cực nóng hoặc cực lạnh. Cô quày quả rời khỏi bếp, Church quanh quẩn dưới chân như một cái bóng mờ mờ màu xám.
Trong hành lang, Jace đang xoay xoay thanh thiên đao mấy ngón tay. Anh nhét nó vào túi ngay khi thấy cô. “Em thật tốt bụng khi để cặp uyên ương ở lại.”
Clary cau có nhìn Jace. “Vì sao anh khi nào cũng khốn nạn thế nhỉ?”
“Khốn nạn ư?” Jace trông như sắp cười phá lên.
“Điều anh nói với Simon...”
“Anh đang cố cứu cậu ấy khỏi đau khổ thôi. Isabella sẽ cắt trái tim cậu ta ra và dẫm nát nó dưới gót giày. Đấy là điều cô ta sẽ làm với những cậu con trai như thế.”
“Cô ấy đã làm thế với anh sao?” Clary nói, nhưng Jace chỉ lắc đầu trước khi quay qua Church.
“Bác Hodge,” anh nói. “Và lần này thực sự là bác Hodge nhé. Nếu đưa bọn bao tới bất cứ chỗ nào khác, tao sẽ biến mày thành vợt tennis.”
Con mèo Ba Tư khụt khịt rồi lững thửng đi qua hành lang dẫn đường. Clary, đi sau Jace một chút, có thể nhận ra sự mệt mỏi và căng thẳng đè nặng trên vai Jace. Cô tự hỏi liệu sự căng thẳng có bao giờ rời bỏ anh không. “Jace này.”
Anh nhìn cô. “Gì cơ?”
“Tôi xin lỗi. Vì đã quát anh.”
Anh chậc lưỡi. “Lần nào?”
“Anh cũng quát tôi mà, anh thừa biết chứ.”
“Anh biết,” anh đáp, khiến cô ngạc nhiên. “Có gì đó ở em rất...”
“Đáng ghét phải không?”
“Đáng lo.”
Cô muốn hỏi là anh nói vậy theo ý tốt hay xấu, nhưng lại thôi. Cô quá sợ anh sẽ trả lời theo kiểu đùa đùa cợt cợt. Cô cố nghĩ ra điều khác để nói. “Isabelle luôn nấu cho anh ăn à?” cô hỏi.
“Không, cảm ơn Chúa. Hầu hết thời gian nhà Lightwood ở đây và Maryse – mẹ của Isabelle – nấu cơm cho bọn anh ăn. Mẹ nấu ăn ngon lắm.” Anh có vẻ đang mơ màng, theo cái cách Simon nhìn Isabelle qua nồi súp.
“Vậy sao cô ấy không bao giờ dạy Isabelle nấu ăn?” Giờ họ đang đi qua phòng nhạc, nơi cô thấy Jace chơi dương cầm sáng nay. Bóng tối đã bao phủ dày đặc ở các góc nhà.
“Vì,” Jace nói chậm rãi, “Isabelle không muốn học ấy mà. Con bé chỉ thích và hứng thú với chiến đấu mà thôi. Dù gì thì Izzy cũng xuất thân từ một gia đình nữ chiến binh lâu đời,” anh nói. Trong giọng anh nói, Clary nghe ra chút tự hào. “Con bé là Thợ Săn Bóng Tối giỏi nhất anh từng biết.”
“Vậy sao?” Clary tò mò hỏi. Cô nghĩ tới Isabelle lúc ở Xứ Quỷ, cô nàng tự tin ra sao và cô nàng sử dụng cây roi quất người tóe máu thành thục đến thế nào.
Jace cười khe khẽ. “Không phải Isabelle. Cô ấy là một trong những Thợ Săn Bóng Tối giỏi nhất anh từng biết.”
“Giỏi hơn cả Alec?”
Church, đang bước đi không chút tiếng động phía trước họ qua cảnh tranh tối tranh sáng, đột nhiên ngừng lại và kêu meo meo. Nó phục xuống chân cầu thang kim loại xoắn ốc dẫn lên không gian mờ mịt bên trên. “Vậy là bác ấy ở trong nhà kính,” Jace nói. Clary mất một lúc mới nhận ra anh đang nói với con mèo. “Cũng chẳng có gì ngạc nhiên.”
“Nhà kính á?” Clary nói.
Jace bước lên bậc thang đầu tiên. “Bác Hodge thích trên này lắm. Bác trồng các loại thảo dược, những thứ bọn anh có thể dùng. Hầu hết các loại cây đó chỉ sống ở Idris. Anh nghĩ khu vườn đem đến cho bác ấy chút hương vị quê nhà.”
Clary đi theo. Tiếng giày của cô vang vọng trên những bậc cầu thang kim loại; nhưng tiếng bước chân của Jace thì không. “Anh ta có giỏi hơn Isabelle không?” cô lại hỏi. “Em đang nói tới Alec ấy.”
Anh dừng bước quay lại nhìn xuống cô, đổ người xuống như sắp ngã. Cô nhớ tới giấc mơ của mình: những thiên thần, từ trên trời rơi xuống và bốc cháy. “Giỏi hơn ư?” anh nói. “Trong chuyện giết quỷ ấy à? Không, không hẳn. Cậu ta chưa bao giờ giết một con quỷ nào cả.”
“Thật á?”
“Anh cũng không biết vì sao. Có thể vì cậu ấy luôn muốn bảo vệ Izzy và anh.” Họ đã đi đến đầu cầu thang. Một cánh cửa đôi chạm khắc hình lá và dây leo chào đón họ. Jace huých vai đẩy cửa.
Hương thơm phả vào Clary ngay khi cô đi qua cửa: mùi hương xanh mát, nồng nàn của những thứ đang sinh sôi nảy nở, mùi của đất và rễ cây lớn lên trong đất. Cô cứ nghĩ ngôi nhà kính nhỏ hơn nhiều, có khi chỉ bằng kích thước khu nhà kính đằng sau trường St.Xavier, nơi các học sinh môn sinh học nâng cao trồng đậu, hay thứ gì gì đấy mà họ trồng. Nhà kính ở đây là một khu vực rộng lớn được bao quanh bởi những bức tường kính, trồng dọc tường là những cây mang cành lá xum xuê thở ra nguồn không khí xanh tươi mát mẻ. Còn có những bụi cây trĩu nặng các loại dâu chín mọng, màu đỏ, tím và đen đan xen, cùng những loại cây nhỏ cho những loại quả hình dáng kỳ lạ mà cô chưa từng thấy bao giờ.
Clary hít vào. “Mùi giống như...” Mùa xuân, cô nghĩ, trước khi hơi nóng tràn tới và nghiền nát lá cây thành bộ nhuyễn và làm héo úa rơi rụng bao cánh hoa.
“Mùi quê nhà,” Jace nói, “với anh.” Anh gạt một cành dương sỉ lơ lửng sang bên và chui qua. Clary đi theo.
Nhà kính được sắp đặt như không theo hình mẫu cụ thể nào theo con mắt chưa qua tôi luyện của Clary, nhưng nhìn đi đâu cô cũng thấy muôn vàn màu sắc: những chùm hoa nở rộ màu tím xanh da trời buông dài trên bờ giậu xanh lắt, một dây leo ngoằn ngoèo chi chít chồi non màu vàng cam lóng lánh. Chúng lan ra tới khoảng trống nơi đặt băng ghế đá hoa cương thâm thấp dựa lưng vào thân cây rủ tán lá xanh bạc. Nước sóng sánh trong hồ kè đá. Bác Hodge đang ngồi trên băng ghế, huyền điểu đậu trên vai. Bác đang trầm tư nhìn mặt nước, nhưng lại ngước nhìn lên trời ngay khi họ tới gần. Clary ngước mắt nhìn theo bác và thấy mái nhà kính lóng lánh trên cao như mặt hồ lộn ngược.
“Có vẻ bác đang đợi gì đó,” Jace nhận xét, ngắt chiếc lá trên nhánh cây gần đó mà xoay xoay giữa những ngón tay. Đối với một người có vẻ quá bình thản như anh, Jace có quá nhiều thối quen bồn chồn. Có lẽ anh chỉ thích luôn luôn trong trạng thái vận động.
“Ta chỉ đang mải nghĩ.” Bác Hodge đứng dậy, duỗi dài tay cho Hugo. Nụ cười nhạt dần trên mặt bác khi bác nhìn họ. “Có chuyện gì? Các cháu trông như...”
“Bọn cháu bị tấn công,” Jace nói gọn lỏn. “Bởi Kẻ Lầm Đường.”
“Những chiến bình Lầm Đường à? Ở đây ư?”
“Mộ chiến binh thôi,” Jace nói. “Chúng cháu chỉ gặp một tên.”
“Nhưng Dorothea nói còn có nhiều hơn,” Clary bổ sung.
“Dorothea?” Bác Hodge giơ tay lên. “Sẽ dễ hiểu hơn nếu các cháu kể câu chuyện có đầu có đuôi.”
“Được ạ.” Jace nhìn Clary cảnh cáo, ngăn cô nói trước khi cô kịp mở lời. Sau đó anh kể lại những chuyện xảy ra trong chiều nay, chỉ bỏ lại một chi tiết duy nhất – rằng những người trong nhà chú Luke là những kẻ đã giết chết bố anh hồi bảy năm về trước. “Bạn của mẹ Clary – hay dù chú ấy thực sự là ai – lấy tên Luke Garroway,” Jace kể xong. “Nhưng khi bọn cháu ở trong nhà chú ấy, hai kẻ tự xưng là phái viên của Valentine đã gọi chú ấy là Lucian Graymark.”
“Và tên bọn họ là...”
“Pangborn,” Jace nói. “Và Blackwell.”
Mặt bác Hodge trắng bệch. Đối lập với nước da xám ngắt là vết sẹo trên má nổi bật như sợi dây đỏ cong queo. “Đúng như ta lo sợ,” bác nói, nửa như nói với chính mình. “Hội Circle lại trỗi dậy.”
Clary nhìn Jace xin một lời giải thích, nhưng có vẻ anh cũng bối rối hệt như cô. “Hội Circle?” anh hỏi.
Bác Hodge đang lắc đầu như cố lắc sạch mạng nhện phủ lên trí não. “Đi với ta nào,” bác nói. “Giờ đã tới lúc để chỉ cho các cháu một vài điều.”
Những ngọn đèn ga được thắp sáng trong thư viện, bề mặt các món đồ nội thất bằng gỗ sồi bóng loáng mang vẻ ủ dột như đá quý bị xỉn. Bị bóng tối phủ lên vằn vện, những khuôn mặt thiên thần khắc khổ đỡ lấy chiếc ghế sô pha đỏ, chân co lên, Jace bồn chồn dựa lưng vào tay ghế sô pha bên cạnh cô. “Bác Hodge, nếu bác cần bọn cháu giúp tìm...”
“Không cần đâu.” Bác Hodge từ sau bàn giấy đi ra, phủi phủi bụi dính trên đầu gối. “Ta tìm thấy rồi.”
Bác đang cầm một cuốn sách lớn bọc da nâu. Bác lần giở từng trang một bằng một ngón tay lóng ngóng, đôi mắt chớp chớp sau tròng kính và lẩm bẩm: “Đâu... đâu nhỉ... à, đây rồi!” Bác húng hắng trước khi đọc lớn: “Tôi chấp nhận phục tùng hội Circle cùng những tôn chỉ của hội một cách vô điều kiện... Tôi sẵn sàng hy sinh tính mạng vì hội Circle bất cứ khi nào, để bảo tồn dòng máu thuần chủng của Idris, và vì sự bình yên của thế giới mà chúng ta thề bảo vệ.”
Jace nhăn mặt. “Cái đó ở đâu thế ạ?”
“Nó là lời thề trung thành của Hội Circle của Raziel, hai mươi năm trước,” bác Hodge nói, có vẻ cực kỳ mệt mỏi.
“Nghe ghê ghê,” Clary nói. “Giống như một tổ chức phát xít hay cái gì đại loại thế.”
Bác Hodge bỏ sách xuống. Bác trông có vẻ đau thương và buồn bã tựa như mấy bức tượng thiên thần bên dưới bàn. “Họ là một nhóm,” bác chầm chậm nói, “các Thợ Săn Bóng Tối, đứng đầu là Valentine, nguyện xóa sổ những kẻ thuộc Thế Giới Ngầm và trả thế giới về trạng thái ‘thuần khiết’ hơn. Kế hoạch của họ là đợi cho những người thuộc Thế Giới Ngầm tới Idris để ký kết Hòa Ước. Các Hòa Ước phải được tái ký kết mỗi mười lăm năm, để duy trì hiệu lực phép thuật,” bác nói thêm, để Clary hiểu. “Thế rồi, Circle lên kế hoạch tàn sát tất cả, những kẻ tay không tấc sắt và không có khả năng phòng vệ. Hành động dã man này, theo họ nghĩ, sẽ châm ngòi chiến tranh giữa loài người và các giống loài khác thuộc Thế Giới Ngầm – một cuộc chiến họ nắm phần thắng.”
“Đó là cuộc Nổi Loạn,” Jace nói, cuối cùng cũng đã nhận ra được trong câu chuyện của bác Hodge một điều quá ư quen thuộc. “Cháu không biết Valentine cùng những kẻ theo đuôi hắn lại có tên cơ đấy.”
“Cái tên đó giờ không thường được nhắc tới,” bác Hodge nói. “Sự tồn tại của họ vẫn còn là sự sỉ nhục với hội Clave. Hầu hết các văn bản nhắc tới họ đều đã bị hủy.”
“Vậy vì sao bác có bản copy của lời thề đó?” Jace hỏi.
Bác Hodge ngần ngừ - chỉ trong một khắc thôi, nhưng Clary nhận ra, và cảm thấy một lường rùng mình e sợ tuy thoáng qua thôi nhưng lại không lý giải được chạy dọc sống lưng. “Bởi vì,” cuối cùng bác nói, “ta đã giúp thảo ra nó.”
Nghe vậy Jace ngước mắt nhìn. “Bác từng ở trong hội Circle.”
“Đã từng. Rất nhiều trong chúng ta từng là thành viên hội đó.” Bác Hodge đang nhìn thẳng phía trước. “Mẹ của Clary cũng vậy.”
Clary giật bắn người như thể bác vừa giáng cho cô một cú bợp tai. “Cái gì ạ?”
“Ta nói...”
“Cháu biết bác đã nói gì! Mẹ cháu hẳn sẽ không bao giờ thuộc về cái hội nào như thế. Một kiểu tổ chức... tổ chức cực đoan.”
“Nó không phải...” Jace mở lời, nhưng bác Hodge xen ngang.
“Ta không nghĩ,” bác nói chầm chậm, như thể từng câu từng từ đều làm đau mình, “là mẹ cháu được lựa chọn gì cả.”
Clary trố mắt. “Bác đang nói gì vậy? Sao mẹ cháu lại không được chọn lựa chứ?”
“Bời vì,” bác Hodge đáp, “mẹ cháu là vợ của Valentine.”
Tác giả :
Cassandra Clare