Vợ Phi Công
Chương 19
CÔ ĐANG CỐ GẮNG XEM BẢN ĐỒ TRONG LÚC DẶN MÌNH PHẢI LÁI XE ở lề trái, một thử thách buộc cô phải dành toàn bộ sự tập trung, đến nỗi mất một lúc sau cô mới nhận ra đang lái xe trên đường Antrim về phía tây, xa khỏi sân bay Belfast. Chuyến bay rất thuận lợi, dịch vụ thuê xe nhanh chóng. Cô cảm thấy một sự thôi thúc của cơ thể phải đến bằng được điểm đến.
Do đi nhầm sang phía tây của Belfast, cô đã không được chứng kiến thành phố này một cách chân thực, đã không thấy những tòa nhà bị đánh bom và những mặt tiền nhà loang lổ đạn mà cô từng nghe nói. Thay vào đó, thật khó để liên hệ phong cảnh bãi cỏ trải dài trước mặt cô với cuộc xung đột không thể giải quyết đã tước đi mạng sống của quá nhiều người - gần đây nhất, một trăm lẻ bốn người trên một chiếc máy bay qua Đại Tây Dương. Những ngôi nhà đồng quê giản dị và những bãi cỏ chăn nuôi gia súc chỉ được tô điểm bằng dây kẽm gai, dây điện thoại, thỉnh thoảng bằng một chiếc chảo vệ tinh. Xa xa, những ngọn đồi trông như thay màu hoặc thậm chí thay đổi hình dạng, tùy thuộc mặt trời đang chiếu qua các đám mây của tiết trời dễ chịu này như thế nào. Vùng đất này trông cũ kỹ, bị xâm lấn, và những quả đồi mang vẻ rong rêu nhàu nhĩ, như từng bị rất nhiều bàn chân giẫm lên. Trên bìa những ngọn đồi nằm sát với đường xe chạy nhất, cô thấy hàng trăm con cừu như những chấm trắng rải rác, những mảng đất đã được cày xới, những bờ giậu thấp bao quanh các mảnh đất trồng hoa màu như những đường kẻ do trẻ con vẽ.
Đây không thể là nguyên nhân của cuộc xung đột đẫm máu, cô nghĩ ngợi trong lúc lái xe. Nó là một điều gì khác mà cô không thể nào hình dung, không bao giờ hiểu được. Mặc dù Jack, vì thích thể hiện hoặc vì tình yêu, đã liều mạng để làm việc đó, đã tham dự vào cuộc xung đột phức tạp của Bắc Ireland, biến Kathryn và Mattie thành những người tham dự ngoài lề bất đắc dĩ.
Cô biết rất ít về cuộc xung đột, chỉ là những gì cô tiếp thu, như những người khác, từ các tiêu đề báo chí và tivi khi những sự kiện xảy ra đủ bi thảm để trở thành tin tức ở Mỹ. Cô đã đọc hoặc nghe về tình trạng bạo lực phe phái vào đầu thập niên 1970, những cuộc biểu tình tuyệt thực, sự kiện ngừng bắn năm 1994, và việc phá bỏ thỏa thuận ngừng bắn, nhưng cô biết rất ít về lý do của toàn bộ việc này. Cô đã nghe nói đến những vụ bắt cóc, đánh bom xe, những người đàn ông đeo mặt nạ trượt tuyết xông vào nhà thường dân, nhưng cô không thấy lòng yêu nước nằm ở đâu trong những hành động khủng bố ấy. Đôi lúc, cô có khuynh hướng nghĩ rằng những người tham dự vào cuộc xung đột này là những tên du côn bị xỏ mũi, khoác lên mình chủ nghĩa lý tưởng như những kẻ cuồng tín mê giết chóc ở bất kỳ thời đại nào. Những lúc khác, sự độc ác và ngu dốt của người Anh dường như đã chủ động tạo ra tâm lý bất mãn và hận thù có thể dẫn đến hành động bạo lực ở bất kỳ nhóm người nào.
Nhưng giờ đây, điều cô thắc mắc không phải là nguyên nhân của cuộc xung đột ấy, mà là sự tham dự của Jack, một thực tế mà cô khó chấp nhận nổi. Phải chăng anh tin vào sứ mệnh đó, hay anh bị lôi kéo vì nó có vẻ chân thực? Cô có thể thấy sự hấp dẫn của nó, ý nghĩa lập tức nó đem lại cho cuộc sống. Chính chuyện yêu đương, chủ nghĩa lý tưởng lãng mạn, sự thuộc về một tổ chức hợp đạo lý, và ngay cả tôn giáo cũng có thể là một phần của toàn bộ lý do. Nó có thể mang ý nghĩa là một sự cống hiến tuyệt đối bản thân cho một người khác hoặc một lý tưởng, mà trong trường hợp này hai điều đó lại liên hệ mật thiết với nhau. Cũng như sứ mệnh là một phần của mối quan hệ, mối quan hệ cũng sẽ là một phần của sứ mệnh, vì thế đến cuối cùng, không thể có cái này mà không có cái kia. Cũng như không thể bỏ cái này mà không bỏ cái kia. Nhìn ở góc độ này, cô nghĩ, câu hỏi không hẳn là tại sao Jack lại gắn bó cuộc đời với Muire Boland và làm lễ kết hôn với cô ta trong nhà thờ Công giáo, mà nên là tại sao anh lại không bỏ Mattie và Kathryn.
Vì anh quá yêu Mattie, cô lập tức tự trả lời.
Lúc đó cô thắc mắc liệu Jack và Muire có thật sự kết hôn một cách hợp pháp hay không. Liệu một lễ cưới trong nhà thờ có tự động đem lại tình trạng pháp lý cho cuộc hôn nhân đó? Cô không biết các thủ tục này diễn ra như thế nào, hoặc Muire và Jack đã làm như thế nào. Và cô sẽ không bao giờ biết. Bây giờ có quá nhiều việc mà cô không bao giờ biết.
Bên ngoài Londonderry, cô trình hộ chiếu tại chốt kiểm tra và tiến vào Cộng hòa Ireland, cùng lúc vào hạt Donegal. Cô lái xe về phía bắc và phía tây, băng qua vùng đồng quê dần trở nên hẻo lánh, số cừu bắt đầu vượt quá số người, các ngôi nhà đồng quê cũng ngày càng thưa thớt. Cô đi theo biển hiệu chỉ dẫn đến Malin Head, trong ngôn ngữ Ireland là Cionn Mhalanna, xuyên qua bầu không khí đậm đặc mùi than bùn. Đất đai trở nên gồ ghề, hoang dã hơn, những vách núi dài và tảng đá lởm chởm, những đụn cát cao phủ cỏ và cây thạch nham trên đỉnh. Con đường thu hẹp lại chỉ còn một làn đường, và cô nhận ra mình đang lái xe quá nhanh khi đến một khúc cua gắt và suýt lao xe xuống mương.
Tất nhiên, có thể là do người mẹ, Kathryn nghĩ. Một lòng khát khao giành lại được mẹ, có được người mẹ đã chối bỏ anh. Chắc hẳn đây là lý do khiến anh yêu Muire Boland, và ngay cả Muire dường như cũng hiểu được điều đó. Nhưng Kathryn nghĩ, vượt lên trên những phỏng đoán này, lãnh địa trở nên tăm tối hơn: Ai có thể nói động cơ của một người đàn ông là gì? Ngay cả khi Jack còn sống và ngồi cùng cô trong xe, liệu anh có thể trả lời rành mạch câu hỏi Tại sao? Liệu có ai trả lời được không? Lần nữa, cô sẽ không bao giờ biết. Cô chỉ có thể biết những gì mà cô tưởng tượng là đúng. Những gì mà bản thân cô khẳng định là đúng.
Trong lúc cô lái xe, một số kỷ niệm nhói lên trong lòng cô, gặm nhấm cô, và cô biết sẽ còn mất nhiều tháng hoặc nhiều năm nữa chúng mới nguôi ngoai: Chẳng hạn như, không thể chấp nhận nổi ý nghĩ Jack có thể đã lấy tiền của cô và Mattie để chu cấp cho một gia đình khác, và cô có thể cảm thấy huyết áp tăng vọt trong xe. Hay trận cãi nhau, cô chợt nhớ ra, lần cãi nhau kinh khủng mà cô đã nghĩ là do lỗi của mình. Giờ đây cô nghĩ, vẻ chạm tự ái của anh đã khiến cô tin rằng sự vô lý của cô chính là nguyên nhân, trong khi suốt thời gian đó anh đang vụng trộm với người đàn bà khác. Đó có phải là việc mà Jack đã làm trên máy tính suốt thời gian đó? Viết thư cho tình nhân? Có phải đó là lý do anh mau mắn làm cho căng thẳng leo thang khi hỏi cô có muốn anh dọn đi? Có phải anh đã nghĩ sẵn điều đó trong đầu?
Hoặc là những câu thơ. Có phải Jack đã hạ thấp cảnh giác và để cho từng chút từng chút một mối quan hệ của anh với Muire Boland ngấm vào cuộc hôn nhân của anh với Kathryn? Có phải cuộc đời của Kathryn đã bị xâm chiếm theo cách mà cô không bao giờ nhận ra? Có bao nhiêu quyển sách cô từng đọc hoặc bao nhiêu bộ phim cô từng xem là do Muire đề nghị? Bao nhiêu phần trong cuộc đời của người đàn bà Ireland đó đã thấm qua cuộc đời chính cô?
Một lần nữa, Kathryn sẽ không bao giờ biết.
Cô rẽ khỏi đường lớn, theo chỉ dẫn tiến về điểm cực tây bắc của Ireland. Thật kinh ngạc, con đường trở nên ngày một hẹp hơn, không rộng hơn đường mòn vào nhà cô là bao. Trong lúc lái xe, cô tự hỏi tại sao cô chưa bao giờ tưởng tượng đến chuyện ngoại tình. Làm sao một người phụ nữ sống với một người đàn ông ngần ấy năm mà lại không hề nghi ngờ gì cả? Có vẻ như đó là một sự ngây thơ đến ngờ nghệch, một sự chủ quan. Nhưng rồi cô nghĩ mình biết câu trả lời ngay cả khi đặt câu hỏi: Cô nhận ra, kẻ ngoại tình sẽ không gây ra bất kỳ sự nghi ngờ nào, vì anh ta thật lòng không muốn bị bắt quả tang.
Kathryn thậm chí chưa bao giờ nghĩ đến chuyện nghi ngờ; cô chưa bao giờ ngửi thấy mùi của một người đàn bà khác, chưa bao giờ tìm thấy vệt son trên vai áo. Ngay cả về chuyện chăn gối, cô cũng chưa bao giờ đoán ra. Cô cứ nghĩ rằng sự lạnh nhạt chăn gối giữa cô và Jack chỉ đơn giản là tiến trình bình thường mà cặp vợ chồng nào sống với nhau chục năm cũng sẽ gặp phải.
Cô hạ kính xe xuống để hít thở không khí - một sự hòa quyện kỳ lạ, nặng nề giữa muối biển và diệp lục. Cô chợt nhận ra vùng đất xung quanh thật tuyệt diệu. Cấu tạo của cảnh trí - màu xanh thẫm mướt mát, mật độ dày đặc - đem lại cảm giác vững chắc mà cô không cảm thấy được ở London. Điểm hợp lưu giữa đại dương và bờ biển lởm chởm đá, dù hoang dã hơn bờ biển New England của cô, vẫn khiến cô xao động. Cô hít thở đều và sâu, lần đầu tiên kể từ khi Muire Boland xuất hiện tại cửa phòng ăn khách sạn.
Cô lái xe vào một ngôi làng, và có lẽ đã chạy lố nếu không gặp một cảnh tượng mà cô từng thấy trước đó: Chỉ thiếu ông lão đánh cá. Cô giảm tốc độ rồi dừng xe. Cô đỗ xe cạnh một bãi cỏ có một dãy cửa hiệu và nhà cửa. Cô nhìn thấy nơi người quay phim hẳn đã đứng, nơi người phóng viên tóc đen che ô đã thực hiện cuộc phỏng vấn phía trước khách sạn. Tòa nhà màu trắng, mượt mà và sạch sẽ. Cô nhìn thấy biển hiệu phía trên cửa: Khách sạn Malin.
Cô nghĩ mình nên thuê một phòng để nghỉ qua đêm. Chuyến bay trở lại London của cô sẽ cất cánh vào sáng mai. Có lẽ cô cũng nên ăn chút gì đó.
Mất vài phút mắt cô mới thích nghi được và nhìn thấy quầy bar truyền thống bằng gỗ gụ đã mòn vẹt. Cô nhận ra những tấm rèm đỏ, những chiếc ghế đẩu bọc nhựa màu be, sự ảm đạm của căn phòng chỉ được xua tan phần nào nhờ một ánh lửa ở cuối phòng. Dọc các bức tường đặt những hàng ghế dài và bàn thấp, có khoảng năm, sáu người đang ngồi chơi bài, đọc báo hoặc uống bia.
Kathryn ngồi ở quầy bar và gọi một tách trà. Gần như ngay lập tức, một phụ nữ có mái tóc vàng như được điêu khắc ngồi lên chiếc ghế cạnh cô. Kathryn quay đầu đi và xem xét biển hiệu phía trên quầy. Quá muộn rồi, cô nhận ra những người trong quán rượu chính là nhà báo.
Khuôn mặt người phụ nữ phản chiếu trong tấm gương phía sau những chai rượu. Cô ta trang điểm hoàn hảo và mang nét đặc trưng của người Mỹ. Họ chạm mắt nhau.
“Tôi mời chị một ly nhé?” người phụ nữ hỏi rất khẽ. Kathryn lập tức nhận ra cô ta thì thầm vì không muốn ai khác trong quán biết Kathryn ở đó.
“Không, cảm ơn,” Kathryn đáp.
Người phụ nữ cho biết tên và đài truyền hình nơi cô ta làm việc. “Chúng tôi ngồi ở quầy bar này,” cô ta giải thích. “Thân nhân thì ngồi ở sảnh ngoài. Thỉnh thoảng một người chồng hoặc một người cha lại đi về phía này để gọi một ly rượu, nhưng về chuyện trao đổi thì chúng tôi đã nói quá đủ. Tất cả chúng tôi đều chán ngấy lên rồi. Tôi xin lỗi nếu điều đó nghe quá tàn nhẫn.”
“Tôi hình dung ngay cả một tai nạn máy bay cũng có ngày trở nên nhàm chán,” Kathryn nói.
Người pha rượu đặt trà của Kathryn xuống, và cô nhà báo gọi nửa ly Smithwick’s. “Tôi nhận ra chị nhờ những tấm ảnh,” cô ta nói. “Tôi rất tiếc vì tất cả những gì chị đã trải qua.”
“Cám ơn,” Kathryn nói.
“Hầu hết các đài truyền hình và hãng tin lớn sẽ cử người ở lại cho đến khi hoạt động cứu hộ kết thúc,” người phụ nữ nói.
Kathryn pha cho tách trà thật đậm đặc và ngọt, rồi khuấy để nó bớt nóng.
“Chị có phiền không nếu tôi hỏi chị đến đây làm gì?” cô nhà báo hỏi.
Kathryn uống một ngụm. “Tôi không phiền,” cô đáp. “Nhưng tôi không thể cho cô câu trả lời. Bản thân tôi cũng không biết tại sao mình đến đây.”
Cô nghĩ đến cơn giận của mình và lực hút mạnh mẽ, về những điều cô mới biết sáng nay. Về sự dễ dàng nếu cô kể hết cho người phụ nữ tóc vàng tất cả những gì cô biết. Cô ta sẽ vô cùng phấn khích khi có được câu chuyện chắc chắn là sốt dẻo nhất của toàn bộ cuộc điều tra, thậm chí còn sốt dẻo hơn cả vụ tiết lộ đoạn băng. Và khi câu chuyện này được đăng lên, liệu chính quyền có truy tìm Muire Boland không? Có bắt cô ta và giam cô ta vào tù không?
Nhưng rồi Kathryn nghĩ đến đứa bé trông giống hệt Mattie, đến Dierdre, cô bé có con búp bê Molly.
“Đó không phải là một vụ tự sát,” Kathryn nói. “Đó là tất cả những gì tôi có thể nói với cô.”
Robert hẳn đã biết ngay từ đầu, Kathryn nghĩ. Anh ta đã được dặn dò trước khi đến nhà Kathryn. Liên đoàn đã nghi ngờ Jack và đã dặn Robert để mắt đến cô. Robert hẳn đã theo dõi và chờ đợi một dấu hiệu nào đó cho thấy cô biết về những việc làm của chồng mình, có thể nêu tên những phi công khác. Robert đã lợi dụng cô.
Cô không còn hứng thú với tách trà của mình nữa. Cảm giác thôi thúc tìm đến đích đến đã trở lại. Cô đứng dậy.
“Nghe này, ít nhất chúng ta có thể nói chuyện được không?” cô nhà báo hỏi.
“Tôi không nghĩ vậy.”
“Chị có định đi ra Malin Head không?”
Kathryn im lặng.
“Chị sẽ không thể ra đến hiện trường. Đây này.”
Cô nhà báo lấy từ trong ví ra một tấm danh thiếp, lật ra mặt sau, rồi viết lên đó một cái tên. Cô ta đưa nó cho Kathryn. “Khi nào chị đến đó, hãy tìm Danny Moore,” cô ta dặn. “Anh ta sẽ đưa chị ra đó. Đây là danh thiếp của tôi. Khi nào xong, nếu chị đổi ý, hãy gọi điện cho tôi. Tôi sẽ ở đây. Tôi sẽ mời chị ăn tối.”
Kathryn nhận tấm danh thiếp và xem xét nó. “Tôi hi vọng cô sẽ sớm được về nhà,” cô nói.
***
Trên đường rời khỏi khách sạn, khi đi ngang qua phòng khách, Kathryn liếc nhìn vào và thấy một người phụ nữ ngồi ở ghế bành, đặt một tờ báo trên đùi. Tờ báo chưa mở ra, và người phụ nữ không nhìn vào mặt báo. Kathryn nghĩ người phụ nữ không thể thấy gì trước mặt, ánh mắt của bà quá xa vắng. Cạnh lò sưởi ở cuối phòng, một người đàn ông có ánh mắt tương tự đang đứng đút tay vào túi quần.
Cô băng qua bãi cỏ và lên xe. Cô xem lại tấm danh thiếp trong tay.
Cô đã biết mình sẽ làm gì. Cô không thể kiểm soát những hành động mà Robert Hart cuối cùng, hoặc ngay lập tức, sẽ làm. Nhưng cô có thể kiểm soát những gì mà bản thân cô sẽ làm. Kỳ thực, cô cảm thấy, một cách âm thầm, mình đang kiểm soát bản thân tốt hơn từng làm trong nhiều năm qua.
Tiết lộ những gì cô biết về lý do chiếc máy bay phát nổ sẽ đồng nghĩa với việc Mattie biết được về gia đình kia của Jack. Và Mattie sẽ không bao giờ vượt qua được chuyện đó. Về điều này thì Kathryn biết rõ. Cô xé tấm danh thiếp thành nhiều mảnh nhỏ và để chúng rơi xuống sàn.
Biết đích đến của mình không còn xa, Kathryn đi theo những bảng chỉ dẫn đến Malin Head. Cô lái xe ngang qua những ngôi nhà tranh đổ nát, không khác gì những đống đá chất lên nhau, mái tranh đã rơi từ lâu và mục rữa. Cô nhìn thấy những bãi cỏ mượt như nhung mọc quanh một vách núi - màu xanh ngọc bích ngay cả trong tiết trời chết chóc của mùa đông. Trên những sợi dây mắc vào các cây cột, quần áo khô quắt dưới ánh nắng, nghệ thuật trừu tượng của quần áo trên dây phơi. Thời tiết thuận lợi để phơi phóng, cô nghĩ.
Khi cô rẽ theo khúc cua, đường chân trời của Bắc Đại Tây Dương khiến cô ngạc nhiên. Ở giữa đường chân trời ấy là một hình thù màu xám sậm, một chiếc tàu. Một chiếc trực thăng bay lượn bên trên. Những chiếc thuyền đánh cá màu sắc sặc sỡ neo gần chiếc tàu lớn, như những con hải cẩu con xung quanh hải cẩu mẹ. Tàu cứu hộ, cô nghĩ.
Vậy ra đây chính là nơi chiếc máy bay rơi.
Cô đỗ xe rồi bước xuống, đi thật xa đến bờ vực. Dưới chân cô là vách đá cao chín mươi mét chạy dài xuống biển. Từ độ cao này, nước biển trông như bất động, một đường biên giới khổng lồ trên một bãi biển xa vắng. Sóng đánh vào những tảng đá bên dưới, vỡ tan thành bọt. Một chiếc thuyền đánh cá màu đỏ đang tiến vào bờ. Trong tầm mắt Kathryn, nước biển chỉ có một màu duy nhất, màu xanh đồng.
Cô không nghĩ mình từng thấy một đường bờ biển nào ước lệ hơn thế - thô sơ, chết chóc và hoang dại. Nó báo trước một thảm họa có thể xảy đến. Ở đây có lẽ đã xảy ra nhiều thảm họa rồi.
Cô đưa mắt dõi theo chiếc thuyền đánh cá đến khi nó biến mất sau bán đảo nhô ra, chính là Malin Head. Lại khởi động máy, cô lái xe trên con đường hẹp, giữ cho chiếc thuyền vẫn trong tầm mắt. Nó cập vào một cảng nhỏ được định hình bằng một cầu cảng bê tông dài. Cô dừng xe và ra ngoài.
Tàu thuyền đậu ở bến cảng này đều được sơn bóng với những màu cơ bản - cam, xanh dương, xanh lá cây, vàng - khiến cô liên tưởng đến tàu thuyền của Bồ Đào Nha nhiều hơn của Ireland. Chiếc thuyền mà cô theo dõi tự khi nãy đang di chuyển quanh bến tàu và sau đó hạ neo. Kathryn tiến đến bến tàu. Ở một đầu có những người bảo vệ mặc đồng phục, sau lưng họ là những nhóm người mặc thường phục. Trong lúc cô tiến đến, người đánh cá trên chiếc thuyền đỏ dỡ xuống một mảnh kim loại bằng bạc có kích thước bằng một chiếc ghế rồi đặt nó xuống bến tàu. Vật này ngay lập tức thu hút sự chú ý của những người mặc thường phục, họ kéo nhau đến đứng xung quanh nó. Một người trong số họ đứng đó và ra hiệu cho người lái xe tải đang đỗ quay lưng lại phía bến tàu. Mảnh vỡ kim loại, chắc là một mảnh từ chiếc máy bay của Jack, được cho lên xe tải.
Ở cổng vào bến tàu, một người bảo vệ chặn cô lại. “Không thể đi qua khỏi điểm này, thưa cô.”
Có thể anh ta là một người lính. Một cảnh sát. Anh ta đeo một khẩu súng máy.
“Tôi là thân nhân,” cô nói, nhìn khẩu súng.
“Tôi rất tiếc vì sự mất mát của cô, thưa cô,” người lính nói. “Có những chuyến đi theo kế hoạch cho thân nhân. Cô có thể hỏi thông tin tại khách sạn.”
Như một chuyến ngắm cá voi, Kathryn nghĩ. Hoặc một chuyến du lịch trên tàu.
“Tôi chỉ cần nói chuyện với Danny Moore một chút,” Kathryn đáp.
“Ồ, nếu thế thì, anh ta ở đằng kia,” người lính nói và ra dấu cho Kathryn. “Chiếc thuyền màu xanh ấy.”
Kathryn lẩm bẩm cám ơn rồi bước nhanh qua người lính.
Tránh nhìn vào những quan chức và người mặc thường phục, bấy giờ bắt đầu nhận ra sự có mặt của cô, Kathryn gọi chiếc thuyền màu xanh. Cô thấy anh ta đang chuẩn bị rời khỏi bến tàu.
“Đợi đã,” cô kêu lên.
Anh ta gật đầu.
“Anh chở tôi ra hiện trường được không?”
Anh ta có vẻ do dự, có lẽ cũng định nói với cô về những chuyến đi có hẹn trước dành cho thân nhân.
“Tôi là vợ của phi công,” Kathryn nói nhanh. “Tôi cần nhìn thấy nơi chồng tôi đã rơi xuống. Tôi không có nhiều thời gian.”
Người đánh cá chồm về trước và nắm lấy tay cô.
Anh ta ra hiệu cho cô ngồi lên một chiếc ghế trong buồng lái. Kathryn nhìn một người mặc thường phục tiến về chiếc thuyền. Người đánh cá gỡ dây buộc neo ra, đi vào trong buồng lái, rồi nổ máy.
Anh ta nói một từ Kathryn không hiểu. Cô rướn về trước, nhưng tiếng ồn động cơ và tiếng gió khiến cho cuộc nói chuyện trở nên khó khăn.
Cô nhận ra chiếc thuyền đã được lau chùi sạch sẽ và không có dấu hiệu gì của việc đánh cá. Tại sao phải đánh cá trong khi còn nhiệm vụ này phải hoàn thành, công việc mà những người chịu trách nhiệm có thể trả nhiều tiền? “Tôi sẽ trả tiền,” Kathryn nói khi nhớ ra.
“A, không,” người đánh cá nói, ngượng ngùng nhìn đi nơi khác. “Tôi không nhận tiền từ các gia đình.”
Khi tàu vừa rời khỏi bến, gió thổi mạnh hơn. Người đánh cá mím môi cười khi cô nhìn vào mắt anh ta.
“Anh là người ở đây,” Kathryn nói.
“Vâng,” anh ta đáp, rồi anh ta lại nói từ mà Kathryn không hiểu. Cô nghĩ đó hẳn là tên thị trấn nơi anh ta sống.
“Anh đã làm việc này từ đầu à?” Kathryn hét to.
“Từ đầu,” anh ta nói rồi nhìn đi nơi khác. “Bây giờ thì không đến nỗi nào, nhưng lúc đầu...”
Cô không muốn nghĩ lúc đầu nó như thế nào. “Chiếc thuyền đẹp quá,” cô đổi đề tài.
“Nó lớn lắm đấy.”
Cô nghe trong cách phát âm của anh ta một sự gợi nhắc không mấy dễ chịu về Muire Boland.
“Nó là thuyền của anh à?” cô hỏi.
“À, không. Của anh tôi. Nhưng chúng tôi cùng nhau đi đánh cá.”
“Anh bắt những loại cá nào?”
Động cơ tạo thành tiếng nghiến đều đặn qua làn nước.
“Cua và tôm hùm,” anh ta đáp.
Cô đứng dậy và quay lưng, nhìn về phía mũi thuyền. Bên cạnh cô ở bánh lái, người thanh niên thay đổi tư thế. Cô hơi loạng choạng trong đôi giày cao gót méo mó. “Bây giờ anh vẫn đánh cá, trong thời tiết lạnh thế này?” cô hỏi, kéo áo khoác sát người.
“Vâng,” anh ta đáp. “Trong mọi thời tiết.”
“Anh đi đánh cá mỗi ngày à?”
“À, không. Chúng tôi thường khởi hành vào tối chủ nhật rồi trở về vào thứ sáu.”
“Vất vả nhỉ.”
Anh nhún vai. “Thời tiết bây giờ là tốt rồi đấy. Ở Malin Head lúc nào cũng có sương mù.”
Khi họ tiến gần hơn đến tàu cứu hộ, Kathryn quan sát những chiếc thuyền đánh cá khác tham gia vào chiến dịch này - những chiếc thuyền sơn màu sặc sỡ, giống như chiếc đang chở cô, những chiếc thuyền quá hội hè để làm nhiệm vụ xấu xí này. Trên mạn chiếc tàu cứu hộ, những người thợ lặn mặc đồ lặn ướt sũng. Chiếc trực thăng tiếp tục bay lượn trên đầu. Những mảnh vụn, tất nhiên, hẳn đã chìm xuống trên một khu vực rộng.
Phía sau đầu của người đánh cá, Kathryn nhận ra đường bờ biển, những vách núi nhô ra như những phiến đá. Phong cảnh có hình thù cổ quái, hùng vĩ ngay cả trong thời tiết tốt, và cô dễ dàng hình dung cảnh tượng đáng sợ này trong sương mù. Thật quá khác so với Fortune’s Rocks, nơi thiên nhiên dường như đã tự khuất phục. Vậy mà, ở cả hai bờ Đại Tây Dương, các nhà báo vẫn đứng đối mặt nhau qua một đại dương.
“Đây là trạm vô tuyến nơi người ta kéo buồng lái lên,” anh ta nói.
“Nơi này ư?” cô hỏi. Và bắt đầu run rẩy. Vì khoảnh khắc đó. Vì sự cận kề của cái chết.
Cô rời khỏi buồng lái và bước đến lan can thuyền. Cô nhìn xuống nước, xuống bề mặt nước, liên tục chuyển động, dù có vẻ đứng yên. Một người không còn là anh ta của ngày hôm qua, Kathryn nghĩ. Hoặc của ngày trước đó.
Mặt nước có vẻ trong suốt. Trên đầu, những con mòng biển lượn vòng tròn. Cô cũng không buồn nghĩ đến tại sao những con mòng biển lại ở đó.
Cái gì mới là thật? cô tự hỏi trong lúc nhìn mặt nước, cố gắng tìm một điểm cố định, nhưng không thể. Cô hay Muire Boland mới là vợ của phi công? Muire Boland, người đã kết hôn với anh trong nhà thờ Công giáo, người biết về mẹ của Jack và tuổi thơ anh. Muire, người biết về Kathryn, trong khi Kathryn chẳng biết gì về cô ta.
Hay Kathryn mới là vợ thật sự? Vợ cả, người mà anh đã che giấu sự thật, người vợ mà anh đã không chịu bỏ?
Càng biết nhiều về Jack - và cô không nghi ngờ rằng mình sẽ còn biết thêm nữa, sẽ phát hiện, trong số những món đồ của Jack khi chúng được trả lại cho cô, những ghi chú về M - Kathryn càng phải nghĩ lại về quá khứ. Như phải kể đi kể lại một câu chuyện, mỗi lần lại khác đi một chút vì một sự thật đã thay đổi, một chi tiết đã bị điều chỉnh. Và nếu số chi tiết bị điều chỉnh đủ nhiều, hoặc sự thật đủ quan trọng, có lẽ câu chuyện đã chuyển sang một hướng rất khác so với lúc ban đầu.
Con thuyền lắc lư vì một đợt sóng khác, cô gồng mình nắm chặt lan can. Cô thầm nghĩ Jack đã là chồng của chỉ người đàn bà kia.
Cô đưa mắt nhìn nhanh lên chiếc trực thăng bay lượn trên đầu. Có lần cô đã thấy một chiếc lượn lờ ở Fortune’s Rocks. Ngày muốn hửng nắng, làn sương sớm vừa mới vén lên. Chiếc trực thăng bay là đà trên mặt nước, thân hình màu bạc ục ịch có vẻ như quá nặng nề nên không bay lên cao được. Kathryn đã lo sợ cho chiếc máy bay, đã kinh ngạc khi nó có thể bay được.
Jack hẳn đã biết về số phận của anh, cô nghĩ. Trong những giây cuối cùng, anh đã biết.
Anh đã gọi tên Mattie vào phút chót, Kathryn khẳng định. Cô sẽ tin điều đó, và đó sẽ là sự thật.
Cô lại nhìn xuống mặt nước. Người đánh cá đã cho thuyền chạy vòng vòng bao lâu rồi? Cô đã mất khả năng hiểu được đường đi của thời gian khi nó lần giở ra. Ví dụ như, tương lai bắt đầu từ khi nào? Hoặc quá khứ kết thúc lúc nào?
Cô cố gắng tìm một điểm cố định trên mặt nước, nhưng không thể.
Liệu sự thay đổi có làm vô hiệu hóa tất cả những gì đã ra đi trước đó không?
Không bao lâu nữa cô sẽ rời khỏi nơi này, bay về nhà và lái xe đến nhà bà Julia. Cô sẽ nói với con gái cô, “Bây giờ chúng ta về nhà thôi”. Cuộc đời của Kathryn là với Mattie. Không thể có thực tế nào khác.
Cô tháo chiếc nhẫn cưới ra và thả nó xuống biển.
Cô biết rằng các thợ lặn sẽ không tìm thấy Jack, rằng anh không còn tồn tại nữa.
“Cô không sao chứ?”
Người đánh cá trẻ chồm ra khỏi buồng lái, một tay vẫn còn đặt trên bánh lái. Trán anh nhăn lại, và trông anh có vẻ lo lắng.
Cô mỉm cười với anh rồi gật đầu.
Cô nghĩ, được giải phóng khỏi tình yêu là trút bỏ được một gánh nặng khủng khiếp.
Do đi nhầm sang phía tây của Belfast, cô đã không được chứng kiến thành phố này một cách chân thực, đã không thấy những tòa nhà bị đánh bom và những mặt tiền nhà loang lổ đạn mà cô từng nghe nói. Thay vào đó, thật khó để liên hệ phong cảnh bãi cỏ trải dài trước mặt cô với cuộc xung đột không thể giải quyết đã tước đi mạng sống của quá nhiều người - gần đây nhất, một trăm lẻ bốn người trên một chiếc máy bay qua Đại Tây Dương. Những ngôi nhà đồng quê giản dị và những bãi cỏ chăn nuôi gia súc chỉ được tô điểm bằng dây kẽm gai, dây điện thoại, thỉnh thoảng bằng một chiếc chảo vệ tinh. Xa xa, những ngọn đồi trông như thay màu hoặc thậm chí thay đổi hình dạng, tùy thuộc mặt trời đang chiếu qua các đám mây của tiết trời dễ chịu này như thế nào. Vùng đất này trông cũ kỹ, bị xâm lấn, và những quả đồi mang vẻ rong rêu nhàu nhĩ, như từng bị rất nhiều bàn chân giẫm lên. Trên bìa những ngọn đồi nằm sát với đường xe chạy nhất, cô thấy hàng trăm con cừu như những chấm trắng rải rác, những mảng đất đã được cày xới, những bờ giậu thấp bao quanh các mảnh đất trồng hoa màu như những đường kẻ do trẻ con vẽ.
Đây không thể là nguyên nhân của cuộc xung đột đẫm máu, cô nghĩ ngợi trong lúc lái xe. Nó là một điều gì khác mà cô không thể nào hình dung, không bao giờ hiểu được. Mặc dù Jack, vì thích thể hiện hoặc vì tình yêu, đã liều mạng để làm việc đó, đã tham dự vào cuộc xung đột phức tạp của Bắc Ireland, biến Kathryn và Mattie thành những người tham dự ngoài lề bất đắc dĩ.
Cô biết rất ít về cuộc xung đột, chỉ là những gì cô tiếp thu, như những người khác, từ các tiêu đề báo chí và tivi khi những sự kiện xảy ra đủ bi thảm để trở thành tin tức ở Mỹ. Cô đã đọc hoặc nghe về tình trạng bạo lực phe phái vào đầu thập niên 1970, những cuộc biểu tình tuyệt thực, sự kiện ngừng bắn năm 1994, và việc phá bỏ thỏa thuận ngừng bắn, nhưng cô biết rất ít về lý do của toàn bộ việc này. Cô đã nghe nói đến những vụ bắt cóc, đánh bom xe, những người đàn ông đeo mặt nạ trượt tuyết xông vào nhà thường dân, nhưng cô không thấy lòng yêu nước nằm ở đâu trong những hành động khủng bố ấy. Đôi lúc, cô có khuynh hướng nghĩ rằng những người tham dự vào cuộc xung đột này là những tên du côn bị xỏ mũi, khoác lên mình chủ nghĩa lý tưởng như những kẻ cuồng tín mê giết chóc ở bất kỳ thời đại nào. Những lúc khác, sự độc ác và ngu dốt của người Anh dường như đã chủ động tạo ra tâm lý bất mãn và hận thù có thể dẫn đến hành động bạo lực ở bất kỳ nhóm người nào.
Nhưng giờ đây, điều cô thắc mắc không phải là nguyên nhân của cuộc xung đột ấy, mà là sự tham dự của Jack, một thực tế mà cô khó chấp nhận nổi. Phải chăng anh tin vào sứ mệnh đó, hay anh bị lôi kéo vì nó có vẻ chân thực? Cô có thể thấy sự hấp dẫn của nó, ý nghĩa lập tức nó đem lại cho cuộc sống. Chính chuyện yêu đương, chủ nghĩa lý tưởng lãng mạn, sự thuộc về một tổ chức hợp đạo lý, và ngay cả tôn giáo cũng có thể là một phần của toàn bộ lý do. Nó có thể mang ý nghĩa là một sự cống hiến tuyệt đối bản thân cho một người khác hoặc một lý tưởng, mà trong trường hợp này hai điều đó lại liên hệ mật thiết với nhau. Cũng như sứ mệnh là một phần của mối quan hệ, mối quan hệ cũng sẽ là một phần của sứ mệnh, vì thế đến cuối cùng, không thể có cái này mà không có cái kia. Cũng như không thể bỏ cái này mà không bỏ cái kia. Nhìn ở góc độ này, cô nghĩ, câu hỏi không hẳn là tại sao Jack lại gắn bó cuộc đời với Muire Boland và làm lễ kết hôn với cô ta trong nhà thờ Công giáo, mà nên là tại sao anh lại không bỏ Mattie và Kathryn.
Vì anh quá yêu Mattie, cô lập tức tự trả lời.
Lúc đó cô thắc mắc liệu Jack và Muire có thật sự kết hôn một cách hợp pháp hay không. Liệu một lễ cưới trong nhà thờ có tự động đem lại tình trạng pháp lý cho cuộc hôn nhân đó? Cô không biết các thủ tục này diễn ra như thế nào, hoặc Muire và Jack đã làm như thế nào. Và cô sẽ không bao giờ biết. Bây giờ có quá nhiều việc mà cô không bao giờ biết.
Bên ngoài Londonderry, cô trình hộ chiếu tại chốt kiểm tra và tiến vào Cộng hòa Ireland, cùng lúc vào hạt Donegal. Cô lái xe về phía bắc và phía tây, băng qua vùng đồng quê dần trở nên hẻo lánh, số cừu bắt đầu vượt quá số người, các ngôi nhà đồng quê cũng ngày càng thưa thớt. Cô đi theo biển hiệu chỉ dẫn đến Malin Head, trong ngôn ngữ Ireland là Cionn Mhalanna, xuyên qua bầu không khí đậm đặc mùi than bùn. Đất đai trở nên gồ ghề, hoang dã hơn, những vách núi dài và tảng đá lởm chởm, những đụn cát cao phủ cỏ và cây thạch nham trên đỉnh. Con đường thu hẹp lại chỉ còn một làn đường, và cô nhận ra mình đang lái xe quá nhanh khi đến một khúc cua gắt và suýt lao xe xuống mương.
Tất nhiên, có thể là do người mẹ, Kathryn nghĩ. Một lòng khát khao giành lại được mẹ, có được người mẹ đã chối bỏ anh. Chắc hẳn đây là lý do khiến anh yêu Muire Boland, và ngay cả Muire dường như cũng hiểu được điều đó. Nhưng Kathryn nghĩ, vượt lên trên những phỏng đoán này, lãnh địa trở nên tăm tối hơn: Ai có thể nói động cơ của một người đàn ông là gì? Ngay cả khi Jack còn sống và ngồi cùng cô trong xe, liệu anh có thể trả lời rành mạch câu hỏi Tại sao? Liệu có ai trả lời được không? Lần nữa, cô sẽ không bao giờ biết. Cô chỉ có thể biết những gì mà cô tưởng tượng là đúng. Những gì mà bản thân cô khẳng định là đúng.
Trong lúc cô lái xe, một số kỷ niệm nhói lên trong lòng cô, gặm nhấm cô, và cô biết sẽ còn mất nhiều tháng hoặc nhiều năm nữa chúng mới nguôi ngoai: Chẳng hạn như, không thể chấp nhận nổi ý nghĩ Jack có thể đã lấy tiền của cô và Mattie để chu cấp cho một gia đình khác, và cô có thể cảm thấy huyết áp tăng vọt trong xe. Hay trận cãi nhau, cô chợt nhớ ra, lần cãi nhau kinh khủng mà cô đã nghĩ là do lỗi của mình. Giờ đây cô nghĩ, vẻ chạm tự ái của anh đã khiến cô tin rằng sự vô lý của cô chính là nguyên nhân, trong khi suốt thời gian đó anh đang vụng trộm với người đàn bà khác. Đó có phải là việc mà Jack đã làm trên máy tính suốt thời gian đó? Viết thư cho tình nhân? Có phải đó là lý do anh mau mắn làm cho căng thẳng leo thang khi hỏi cô có muốn anh dọn đi? Có phải anh đã nghĩ sẵn điều đó trong đầu?
Hoặc là những câu thơ. Có phải Jack đã hạ thấp cảnh giác và để cho từng chút từng chút một mối quan hệ của anh với Muire Boland ngấm vào cuộc hôn nhân của anh với Kathryn? Có phải cuộc đời của Kathryn đã bị xâm chiếm theo cách mà cô không bao giờ nhận ra? Có bao nhiêu quyển sách cô từng đọc hoặc bao nhiêu bộ phim cô từng xem là do Muire đề nghị? Bao nhiêu phần trong cuộc đời của người đàn bà Ireland đó đã thấm qua cuộc đời chính cô?
Một lần nữa, Kathryn sẽ không bao giờ biết.
Cô rẽ khỏi đường lớn, theo chỉ dẫn tiến về điểm cực tây bắc của Ireland. Thật kinh ngạc, con đường trở nên ngày một hẹp hơn, không rộng hơn đường mòn vào nhà cô là bao. Trong lúc lái xe, cô tự hỏi tại sao cô chưa bao giờ tưởng tượng đến chuyện ngoại tình. Làm sao một người phụ nữ sống với một người đàn ông ngần ấy năm mà lại không hề nghi ngờ gì cả? Có vẻ như đó là một sự ngây thơ đến ngờ nghệch, một sự chủ quan. Nhưng rồi cô nghĩ mình biết câu trả lời ngay cả khi đặt câu hỏi: Cô nhận ra, kẻ ngoại tình sẽ không gây ra bất kỳ sự nghi ngờ nào, vì anh ta thật lòng không muốn bị bắt quả tang.
Kathryn thậm chí chưa bao giờ nghĩ đến chuyện nghi ngờ; cô chưa bao giờ ngửi thấy mùi của một người đàn bà khác, chưa bao giờ tìm thấy vệt son trên vai áo. Ngay cả về chuyện chăn gối, cô cũng chưa bao giờ đoán ra. Cô cứ nghĩ rằng sự lạnh nhạt chăn gối giữa cô và Jack chỉ đơn giản là tiến trình bình thường mà cặp vợ chồng nào sống với nhau chục năm cũng sẽ gặp phải.
Cô hạ kính xe xuống để hít thở không khí - một sự hòa quyện kỳ lạ, nặng nề giữa muối biển và diệp lục. Cô chợt nhận ra vùng đất xung quanh thật tuyệt diệu. Cấu tạo của cảnh trí - màu xanh thẫm mướt mát, mật độ dày đặc - đem lại cảm giác vững chắc mà cô không cảm thấy được ở London. Điểm hợp lưu giữa đại dương và bờ biển lởm chởm đá, dù hoang dã hơn bờ biển New England của cô, vẫn khiến cô xao động. Cô hít thở đều và sâu, lần đầu tiên kể từ khi Muire Boland xuất hiện tại cửa phòng ăn khách sạn.
Cô lái xe vào một ngôi làng, và có lẽ đã chạy lố nếu không gặp một cảnh tượng mà cô từng thấy trước đó: Chỉ thiếu ông lão đánh cá. Cô giảm tốc độ rồi dừng xe. Cô đỗ xe cạnh một bãi cỏ có một dãy cửa hiệu và nhà cửa. Cô nhìn thấy nơi người quay phim hẳn đã đứng, nơi người phóng viên tóc đen che ô đã thực hiện cuộc phỏng vấn phía trước khách sạn. Tòa nhà màu trắng, mượt mà và sạch sẽ. Cô nhìn thấy biển hiệu phía trên cửa: Khách sạn Malin.
Cô nghĩ mình nên thuê một phòng để nghỉ qua đêm. Chuyến bay trở lại London của cô sẽ cất cánh vào sáng mai. Có lẽ cô cũng nên ăn chút gì đó.
Mất vài phút mắt cô mới thích nghi được và nhìn thấy quầy bar truyền thống bằng gỗ gụ đã mòn vẹt. Cô nhận ra những tấm rèm đỏ, những chiếc ghế đẩu bọc nhựa màu be, sự ảm đạm của căn phòng chỉ được xua tan phần nào nhờ một ánh lửa ở cuối phòng. Dọc các bức tường đặt những hàng ghế dài và bàn thấp, có khoảng năm, sáu người đang ngồi chơi bài, đọc báo hoặc uống bia.
Kathryn ngồi ở quầy bar và gọi một tách trà. Gần như ngay lập tức, một phụ nữ có mái tóc vàng như được điêu khắc ngồi lên chiếc ghế cạnh cô. Kathryn quay đầu đi và xem xét biển hiệu phía trên quầy. Quá muộn rồi, cô nhận ra những người trong quán rượu chính là nhà báo.
Khuôn mặt người phụ nữ phản chiếu trong tấm gương phía sau những chai rượu. Cô ta trang điểm hoàn hảo và mang nét đặc trưng của người Mỹ. Họ chạm mắt nhau.
“Tôi mời chị một ly nhé?” người phụ nữ hỏi rất khẽ. Kathryn lập tức nhận ra cô ta thì thầm vì không muốn ai khác trong quán biết Kathryn ở đó.
“Không, cảm ơn,” Kathryn đáp.
Người phụ nữ cho biết tên và đài truyền hình nơi cô ta làm việc. “Chúng tôi ngồi ở quầy bar này,” cô ta giải thích. “Thân nhân thì ngồi ở sảnh ngoài. Thỉnh thoảng một người chồng hoặc một người cha lại đi về phía này để gọi một ly rượu, nhưng về chuyện trao đổi thì chúng tôi đã nói quá đủ. Tất cả chúng tôi đều chán ngấy lên rồi. Tôi xin lỗi nếu điều đó nghe quá tàn nhẫn.”
“Tôi hình dung ngay cả một tai nạn máy bay cũng có ngày trở nên nhàm chán,” Kathryn nói.
Người pha rượu đặt trà của Kathryn xuống, và cô nhà báo gọi nửa ly Smithwick’s. “Tôi nhận ra chị nhờ những tấm ảnh,” cô ta nói. “Tôi rất tiếc vì tất cả những gì chị đã trải qua.”
“Cám ơn,” Kathryn nói.
“Hầu hết các đài truyền hình và hãng tin lớn sẽ cử người ở lại cho đến khi hoạt động cứu hộ kết thúc,” người phụ nữ nói.
Kathryn pha cho tách trà thật đậm đặc và ngọt, rồi khuấy để nó bớt nóng.
“Chị có phiền không nếu tôi hỏi chị đến đây làm gì?” cô nhà báo hỏi.
Kathryn uống một ngụm. “Tôi không phiền,” cô đáp. “Nhưng tôi không thể cho cô câu trả lời. Bản thân tôi cũng không biết tại sao mình đến đây.”
Cô nghĩ đến cơn giận của mình và lực hút mạnh mẽ, về những điều cô mới biết sáng nay. Về sự dễ dàng nếu cô kể hết cho người phụ nữ tóc vàng tất cả những gì cô biết. Cô ta sẽ vô cùng phấn khích khi có được câu chuyện chắc chắn là sốt dẻo nhất của toàn bộ cuộc điều tra, thậm chí còn sốt dẻo hơn cả vụ tiết lộ đoạn băng. Và khi câu chuyện này được đăng lên, liệu chính quyền có truy tìm Muire Boland không? Có bắt cô ta và giam cô ta vào tù không?
Nhưng rồi Kathryn nghĩ đến đứa bé trông giống hệt Mattie, đến Dierdre, cô bé có con búp bê Molly.
“Đó không phải là một vụ tự sát,” Kathryn nói. “Đó là tất cả những gì tôi có thể nói với cô.”
Robert hẳn đã biết ngay từ đầu, Kathryn nghĩ. Anh ta đã được dặn dò trước khi đến nhà Kathryn. Liên đoàn đã nghi ngờ Jack và đã dặn Robert để mắt đến cô. Robert hẳn đã theo dõi và chờ đợi một dấu hiệu nào đó cho thấy cô biết về những việc làm của chồng mình, có thể nêu tên những phi công khác. Robert đã lợi dụng cô.
Cô không còn hứng thú với tách trà của mình nữa. Cảm giác thôi thúc tìm đến đích đến đã trở lại. Cô đứng dậy.
“Nghe này, ít nhất chúng ta có thể nói chuyện được không?” cô nhà báo hỏi.
“Tôi không nghĩ vậy.”
“Chị có định đi ra Malin Head không?”
Kathryn im lặng.
“Chị sẽ không thể ra đến hiện trường. Đây này.”
Cô nhà báo lấy từ trong ví ra một tấm danh thiếp, lật ra mặt sau, rồi viết lên đó một cái tên. Cô ta đưa nó cho Kathryn. “Khi nào chị đến đó, hãy tìm Danny Moore,” cô ta dặn. “Anh ta sẽ đưa chị ra đó. Đây là danh thiếp của tôi. Khi nào xong, nếu chị đổi ý, hãy gọi điện cho tôi. Tôi sẽ ở đây. Tôi sẽ mời chị ăn tối.”
Kathryn nhận tấm danh thiếp và xem xét nó. “Tôi hi vọng cô sẽ sớm được về nhà,” cô nói.
***
Trên đường rời khỏi khách sạn, khi đi ngang qua phòng khách, Kathryn liếc nhìn vào và thấy một người phụ nữ ngồi ở ghế bành, đặt một tờ báo trên đùi. Tờ báo chưa mở ra, và người phụ nữ không nhìn vào mặt báo. Kathryn nghĩ người phụ nữ không thể thấy gì trước mặt, ánh mắt của bà quá xa vắng. Cạnh lò sưởi ở cuối phòng, một người đàn ông có ánh mắt tương tự đang đứng đút tay vào túi quần.
Cô băng qua bãi cỏ và lên xe. Cô xem lại tấm danh thiếp trong tay.
Cô đã biết mình sẽ làm gì. Cô không thể kiểm soát những hành động mà Robert Hart cuối cùng, hoặc ngay lập tức, sẽ làm. Nhưng cô có thể kiểm soát những gì mà bản thân cô sẽ làm. Kỳ thực, cô cảm thấy, một cách âm thầm, mình đang kiểm soát bản thân tốt hơn từng làm trong nhiều năm qua.
Tiết lộ những gì cô biết về lý do chiếc máy bay phát nổ sẽ đồng nghĩa với việc Mattie biết được về gia đình kia của Jack. Và Mattie sẽ không bao giờ vượt qua được chuyện đó. Về điều này thì Kathryn biết rõ. Cô xé tấm danh thiếp thành nhiều mảnh nhỏ và để chúng rơi xuống sàn.
Biết đích đến của mình không còn xa, Kathryn đi theo những bảng chỉ dẫn đến Malin Head. Cô lái xe ngang qua những ngôi nhà tranh đổ nát, không khác gì những đống đá chất lên nhau, mái tranh đã rơi từ lâu và mục rữa. Cô nhìn thấy những bãi cỏ mượt như nhung mọc quanh một vách núi - màu xanh ngọc bích ngay cả trong tiết trời chết chóc của mùa đông. Trên những sợi dây mắc vào các cây cột, quần áo khô quắt dưới ánh nắng, nghệ thuật trừu tượng của quần áo trên dây phơi. Thời tiết thuận lợi để phơi phóng, cô nghĩ.
Khi cô rẽ theo khúc cua, đường chân trời của Bắc Đại Tây Dương khiến cô ngạc nhiên. Ở giữa đường chân trời ấy là một hình thù màu xám sậm, một chiếc tàu. Một chiếc trực thăng bay lượn bên trên. Những chiếc thuyền đánh cá màu sắc sặc sỡ neo gần chiếc tàu lớn, như những con hải cẩu con xung quanh hải cẩu mẹ. Tàu cứu hộ, cô nghĩ.
Vậy ra đây chính là nơi chiếc máy bay rơi.
Cô đỗ xe rồi bước xuống, đi thật xa đến bờ vực. Dưới chân cô là vách đá cao chín mươi mét chạy dài xuống biển. Từ độ cao này, nước biển trông như bất động, một đường biên giới khổng lồ trên một bãi biển xa vắng. Sóng đánh vào những tảng đá bên dưới, vỡ tan thành bọt. Một chiếc thuyền đánh cá màu đỏ đang tiến vào bờ. Trong tầm mắt Kathryn, nước biển chỉ có một màu duy nhất, màu xanh đồng.
Cô không nghĩ mình từng thấy một đường bờ biển nào ước lệ hơn thế - thô sơ, chết chóc và hoang dại. Nó báo trước một thảm họa có thể xảy đến. Ở đây có lẽ đã xảy ra nhiều thảm họa rồi.
Cô đưa mắt dõi theo chiếc thuyền đánh cá đến khi nó biến mất sau bán đảo nhô ra, chính là Malin Head. Lại khởi động máy, cô lái xe trên con đường hẹp, giữ cho chiếc thuyền vẫn trong tầm mắt. Nó cập vào một cảng nhỏ được định hình bằng một cầu cảng bê tông dài. Cô dừng xe và ra ngoài.
Tàu thuyền đậu ở bến cảng này đều được sơn bóng với những màu cơ bản - cam, xanh dương, xanh lá cây, vàng - khiến cô liên tưởng đến tàu thuyền của Bồ Đào Nha nhiều hơn của Ireland. Chiếc thuyền mà cô theo dõi tự khi nãy đang di chuyển quanh bến tàu và sau đó hạ neo. Kathryn tiến đến bến tàu. Ở một đầu có những người bảo vệ mặc đồng phục, sau lưng họ là những nhóm người mặc thường phục. Trong lúc cô tiến đến, người đánh cá trên chiếc thuyền đỏ dỡ xuống một mảnh kim loại bằng bạc có kích thước bằng một chiếc ghế rồi đặt nó xuống bến tàu. Vật này ngay lập tức thu hút sự chú ý của những người mặc thường phục, họ kéo nhau đến đứng xung quanh nó. Một người trong số họ đứng đó và ra hiệu cho người lái xe tải đang đỗ quay lưng lại phía bến tàu. Mảnh vỡ kim loại, chắc là một mảnh từ chiếc máy bay của Jack, được cho lên xe tải.
Ở cổng vào bến tàu, một người bảo vệ chặn cô lại. “Không thể đi qua khỏi điểm này, thưa cô.”
Có thể anh ta là một người lính. Một cảnh sát. Anh ta đeo một khẩu súng máy.
“Tôi là thân nhân,” cô nói, nhìn khẩu súng.
“Tôi rất tiếc vì sự mất mát của cô, thưa cô,” người lính nói. “Có những chuyến đi theo kế hoạch cho thân nhân. Cô có thể hỏi thông tin tại khách sạn.”
Như một chuyến ngắm cá voi, Kathryn nghĩ. Hoặc một chuyến du lịch trên tàu.
“Tôi chỉ cần nói chuyện với Danny Moore một chút,” Kathryn đáp.
“Ồ, nếu thế thì, anh ta ở đằng kia,” người lính nói và ra dấu cho Kathryn. “Chiếc thuyền màu xanh ấy.”
Kathryn lẩm bẩm cám ơn rồi bước nhanh qua người lính.
Tránh nhìn vào những quan chức và người mặc thường phục, bấy giờ bắt đầu nhận ra sự có mặt của cô, Kathryn gọi chiếc thuyền màu xanh. Cô thấy anh ta đang chuẩn bị rời khỏi bến tàu.
“Đợi đã,” cô kêu lên.
Anh ta gật đầu.
“Anh chở tôi ra hiện trường được không?”
Anh ta có vẻ do dự, có lẽ cũng định nói với cô về những chuyến đi có hẹn trước dành cho thân nhân.
“Tôi là vợ của phi công,” Kathryn nói nhanh. “Tôi cần nhìn thấy nơi chồng tôi đã rơi xuống. Tôi không có nhiều thời gian.”
Người đánh cá chồm về trước và nắm lấy tay cô.
Anh ta ra hiệu cho cô ngồi lên một chiếc ghế trong buồng lái. Kathryn nhìn một người mặc thường phục tiến về chiếc thuyền. Người đánh cá gỡ dây buộc neo ra, đi vào trong buồng lái, rồi nổ máy.
Anh ta nói một từ Kathryn không hiểu. Cô rướn về trước, nhưng tiếng ồn động cơ và tiếng gió khiến cho cuộc nói chuyện trở nên khó khăn.
Cô nhận ra chiếc thuyền đã được lau chùi sạch sẽ và không có dấu hiệu gì của việc đánh cá. Tại sao phải đánh cá trong khi còn nhiệm vụ này phải hoàn thành, công việc mà những người chịu trách nhiệm có thể trả nhiều tiền? “Tôi sẽ trả tiền,” Kathryn nói khi nhớ ra.
“A, không,” người đánh cá nói, ngượng ngùng nhìn đi nơi khác. “Tôi không nhận tiền từ các gia đình.”
Khi tàu vừa rời khỏi bến, gió thổi mạnh hơn. Người đánh cá mím môi cười khi cô nhìn vào mắt anh ta.
“Anh là người ở đây,” Kathryn nói.
“Vâng,” anh ta đáp, rồi anh ta lại nói từ mà Kathryn không hiểu. Cô nghĩ đó hẳn là tên thị trấn nơi anh ta sống.
“Anh đã làm việc này từ đầu à?” Kathryn hét to.
“Từ đầu,” anh ta nói rồi nhìn đi nơi khác. “Bây giờ thì không đến nỗi nào, nhưng lúc đầu...”
Cô không muốn nghĩ lúc đầu nó như thế nào. “Chiếc thuyền đẹp quá,” cô đổi đề tài.
“Nó lớn lắm đấy.”
Cô nghe trong cách phát âm của anh ta một sự gợi nhắc không mấy dễ chịu về Muire Boland.
“Nó là thuyền của anh à?” cô hỏi.
“À, không. Của anh tôi. Nhưng chúng tôi cùng nhau đi đánh cá.”
“Anh bắt những loại cá nào?”
Động cơ tạo thành tiếng nghiến đều đặn qua làn nước.
“Cua và tôm hùm,” anh ta đáp.
Cô đứng dậy và quay lưng, nhìn về phía mũi thuyền. Bên cạnh cô ở bánh lái, người thanh niên thay đổi tư thế. Cô hơi loạng choạng trong đôi giày cao gót méo mó. “Bây giờ anh vẫn đánh cá, trong thời tiết lạnh thế này?” cô hỏi, kéo áo khoác sát người.
“Vâng,” anh ta đáp. “Trong mọi thời tiết.”
“Anh đi đánh cá mỗi ngày à?”
“À, không. Chúng tôi thường khởi hành vào tối chủ nhật rồi trở về vào thứ sáu.”
“Vất vả nhỉ.”
Anh nhún vai. “Thời tiết bây giờ là tốt rồi đấy. Ở Malin Head lúc nào cũng có sương mù.”
Khi họ tiến gần hơn đến tàu cứu hộ, Kathryn quan sát những chiếc thuyền đánh cá khác tham gia vào chiến dịch này - những chiếc thuyền sơn màu sặc sỡ, giống như chiếc đang chở cô, những chiếc thuyền quá hội hè để làm nhiệm vụ xấu xí này. Trên mạn chiếc tàu cứu hộ, những người thợ lặn mặc đồ lặn ướt sũng. Chiếc trực thăng tiếp tục bay lượn trên đầu. Những mảnh vụn, tất nhiên, hẳn đã chìm xuống trên một khu vực rộng.
Phía sau đầu của người đánh cá, Kathryn nhận ra đường bờ biển, những vách núi nhô ra như những phiến đá. Phong cảnh có hình thù cổ quái, hùng vĩ ngay cả trong thời tiết tốt, và cô dễ dàng hình dung cảnh tượng đáng sợ này trong sương mù. Thật quá khác so với Fortune’s Rocks, nơi thiên nhiên dường như đã tự khuất phục. Vậy mà, ở cả hai bờ Đại Tây Dương, các nhà báo vẫn đứng đối mặt nhau qua một đại dương.
“Đây là trạm vô tuyến nơi người ta kéo buồng lái lên,” anh ta nói.
“Nơi này ư?” cô hỏi. Và bắt đầu run rẩy. Vì khoảnh khắc đó. Vì sự cận kề của cái chết.
Cô rời khỏi buồng lái và bước đến lan can thuyền. Cô nhìn xuống nước, xuống bề mặt nước, liên tục chuyển động, dù có vẻ đứng yên. Một người không còn là anh ta của ngày hôm qua, Kathryn nghĩ. Hoặc của ngày trước đó.
Mặt nước có vẻ trong suốt. Trên đầu, những con mòng biển lượn vòng tròn. Cô cũng không buồn nghĩ đến tại sao những con mòng biển lại ở đó.
Cái gì mới là thật? cô tự hỏi trong lúc nhìn mặt nước, cố gắng tìm một điểm cố định, nhưng không thể. Cô hay Muire Boland mới là vợ của phi công? Muire Boland, người đã kết hôn với anh trong nhà thờ Công giáo, người biết về mẹ của Jack và tuổi thơ anh. Muire, người biết về Kathryn, trong khi Kathryn chẳng biết gì về cô ta.
Hay Kathryn mới là vợ thật sự? Vợ cả, người mà anh đã che giấu sự thật, người vợ mà anh đã không chịu bỏ?
Càng biết nhiều về Jack - và cô không nghi ngờ rằng mình sẽ còn biết thêm nữa, sẽ phát hiện, trong số những món đồ của Jack khi chúng được trả lại cho cô, những ghi chú về M - Kathryn càng phải nghĩ lại về quá khứ. Như phải kể đi kể lại một câu chuyện, mỗi lần lại khác đi một chút vì một sự thật đã thay đổi, một chi tiết đã bị điều chỉnh. Và nếu số chi tiết bị điều chỉnh đủ nhiều, hoặc sự thật đủ quan trọng, có lẽ câu chuyện đã chuyển sang một hướng rất khác so với lúc ban đầu.
Con thuyền lắc lư vì một đợt sóng khác, cô gồng mình nắm chặt lan can. Cô thầm nghĩ Jack đã là chồng của chỉ người đàn bà kia.
Cô đưa mắt nhìn nhanh lên chiếc trực thăng bay lượn trên đầu. Có lần cô đã thấy một chiếc lượn lờ ở Fortune’s Rocks. Ngày muốn hửng nắng, làn sương sớm vừa mới vén lên. Chiếc trực thăng bay là đà trên mặt nước, thân hình màu bạc ục ịch có vẻ như quá nặng nề nên không bay lên cao được. Kathryn đã lo sợ cho chiếc máy bay, đã kinh ngạc khi nó có thể bay được.
Jack hẳn đã biết về số phận của anh, cô nghĩ. Trong những giây cuối cùng, anh đã biết.
Anh đã gọi tên Mattie vào phút chót, Kathryn khẳng định. Cô sẽ tin điều đó, và đó sẽ là sự thật.
Cô lại nhìn xuống mặt nước. Người đánh cá đã cho thuyền chạy vòng vòng bao lâu rồi? Cô đã mất khả năng hiểu được đường đi của thời gian khi nó lần giở ra. Ví dụ như, tương lai bắt đầu từ khi nào? Hoặc quá khứ kết thúc lúc nào?
Cô cố gắng tìm một điểm cố định trên mặt nước, nhưng không thể.
Liệu sự thay đổi có làm vô hiệu hóa tất cả những gì đã ra đi trước đó không?
Không bao lâu nữa cô sẽ rời khỏi nơi này, bay về nhà và lái xe đến nhà bà Julia. Cô sẽ nói với con gái cô, “Bây giờ chúng ta về nhà thôi”. Cuộc đời của Kathryn là với Mattie. Không thể có thực tế nào khác.
Cô tháo chiếc nhẫn cưới ra và thả nó xuống biển.
Cô biết rằng các thợ lặn sẽ không tìm thấy Jack, rằng anh không còn tồn tại nữa.
“Cô không sao chứ?”
Người đánh cá trẻ chồm ra khỏi buồng lái, một tay vẫn còn đặt trên bánh lái. Trán anh nhăn lại, và trông anh có vẻ lo lắng.
Cô mỉm cười với anh rồi gật đầu.
Cô nghĩ, được giải phóng khỏi tình yêu là trút bỏ được một gánh nặng khủng khiếp.
Tác giả :
Anita Shreve