Vợ Người Du Hành Thời Gian
Chương 9: Giáng sinh, ba
Thứ Ba, thứ Tư, thứ Năm, 24, 25, 26/12/1991 (Clare 20 tuổi, Henry 28 tuổi)
CLARE: 8 giờ 32 phút sáng ngày 24 tháng Mười Hai, tôi và Henry đang trên đường đến biệt thự Sáo Bắc Mỹ cho kỳ nghỉ Giáng Sinh. Hôm nay là một ngày sáng đẹp, ở Chicago lúc này không có tuyết, nhưng ở Nam Haven, tuyết rơi dày sáu inch. Trước khi lên đường, Henry đã dành thời gian bảo trì xe, kiểm tra lốp và nhìn cả vào đầu máy. Tôi không nghĩ anh ấy biết mình đang nhìn gì một chút nào. Xe của tôi là một chiếc Honda Civic năm 1990 màu trắng đáng yêu, và tôi rất thích nó, nhưng Henry cực kỳ ghét đi xe, đặc biệt là những chiếc xe nhỏ. Anh ấy là một hành khách khó tính, lúc nào cũng bám chặt lấy tay vịn trên ghế và đạp thắng mỗi khi chúng tôi vượt qua xe ai đó. Có lẽ anh ấy sẽ bớt sợ nếu có thể cầm lái, nhưng vì một số lý do hiển nhiên, Henry không có bằng lái. Vậy nên chúng tôi rong ruổi dọc cao tốc Indiana trong ngày mùa đông đẹp trời này; tôi thì điềm tĩnh và mong đợi được gặp gia đình, còn Henry thật vô phương cứu chữa. Chưa kể sáng nay anh ấy đã không tập chạy; tôi nhận ra rằng Henry cần một lượng lớn hoạt động thân thể mọi lúc để có thể trở nên vui vẻ. Giống như thể đi chơi cùng chó săn nhỏ. Ở bên Henry trong thời gian thực thật khác. Khi tôi còn nhỏ, Henry đến rồi đi, và những lần chúng tôi gặp mặt đều tập trung, kịch tính và đáng lo nghĩ. Có rất nhiều điều Henry đã chẳng nói cho tôi, và hầu hết mọi thời gian anh ấy không chịu để tôi lại gần, nên tôi luôn có cảm giác không thỏa mãn mãnh liệt. Khi cuối cùng cũng tìm được anh ấy ở hiện tại, tôi những tưởng nó cũng sẽ như vậy. Nhưng không, nó tuyệt hơn nhiều, ở nhiều mặt. Điểm đầu tiên và quan trọng nhất là thay vì từ chối đụng vào tôi, Henry lại không ngừng chủ động lại gần, hôn tôi và quan hệ cùng tôi. Tôi cảm thấy như mình đã trở thành một con người khác, một người được tắm trong hồ nước của dục vọng. Và anh ấy kể cho tôi nghe nhiều thứ. Bất kể điều gì tôi hỏi anh ấy về bản thân, cuộc sống và gia đình, anh ấy đều kể cho tôi nghe, với đầy đủ tên, địa chỉ, và ngày tháng. Những điều đã có vẻ kì bí khi tôi còn là một đứa trẻ giờ đây trở nên hoàn toàn hợp lý. Nhưng điều tuyệt vời hơn hết thảy là tôi được gặp anh trong khoảng thời gian dài - hàng giờ, hàng ngày. Tôi biết phải tìm anh ở đâu. Anh ấy đi làm, rồi trở về nhà. Đôi lúc, tôi mở sổ địa chỉ ra và cứ nhìn đăm đăm vào: Henry DeTamble, 714 Dearborn, lie, Chicago, IL 60610, 312-431-8313. Họ tên, địa chỉ và số điện thoại. Tôi có thể gọi điện cho anh. Đây là một phép màu. Tôi cảm thấy như Dorothy, khi ngôi nhà của cô ấy hạ cánh xuống Oz và thế giới chuyển sang chỉ có màu trắng và đen. Chúng tôi không còn ở Kansas nữa.
Thực tế, chúng tôi đang chuẩn bị vào tới Michigan, và có một trạm nghỉ phía trước. Tôi tấp xe vào bãi đỗ, rồi chúng tôi ra ngoài và duỗi tay chân. Chúng tôi bước vào trong tòa nhà, có nhiều bản đồ, tờ rơi cho khách du lịch, và một dãy dài những chiếc máy bán hàng tự động.
“Ồ”, Henry nói. Anh ấy lại gần và xem xét đống đồ ăn tạp nhạp, rồi bắt đầu đọc bộ sách quảng cáo. “Hãy đi đến Frankenmuth nhé! 365 ngày Giáng Sinh mỗi năm! Chúa ơi, anh sẽ tự mổ bụng chỉ sau nửa giờ đồng hồ ở đó. Em có tiền lẻ không?”
Tôi tìm thấy một nắm tiền lẻ ở đáy túi xách và chúng tôi hân hoan dùng chúng để mua hai lon Cô-ca, một hộp Good & Plenty, và một thỏi Hershey. Chúng tôi bước trở ra không khí khô lạnh, tay trong tay. Chúng tôi ngồi trong xe, mở nắp cô-ca và hấp thu các món đường. Henry nhìn đồng hồ của tôi nói, “Thật suy đồi. Mới chỉ có 9 giờ 15.”
“Một vài phút nữa sẽ là 10 giờ 15.”
“Ồ phải. Thời gian ở Michigan sớm hơn 1 tiếng. Thật không tưởng.”
Tôi nhìn anh ấy. “Mọi thứ đều không tưởng. Em không thể tin anh thực sự đang trên đường đến gặp gia đình em. Em đã mất biết bao thời gian để che giấu anh khỏi họ.”
“Chỉ vì yêu mến em nên anh mới làm thế này. Anh đã dành biết bao thời gian lảng tránh những chuyến đi đường dài, gặp gỡ gia đình bạn gái vào Giáng Sinh. Việc anh đang làm cả ba điều một lúc chứng tỏ anh yêu em biết nhường nào.”
“Henry…” Tôi quay sang phía anh ấy; chúng tôi hôn nhau. Nụ hôn chuyển sang thứ gì đó nhiều hơn thế khi tôi nhìn thấy qua khóe mắt ba cậu bé còn chưa dậy thì và con chó to lớn đang đứng cách chúng tôi chỉ vài thước, nhìn chúng tôi với vẻ thích thú. Henry quay sang để xem tôi đang nhìn gì và cả ba cậu bé mỉm cười rồi ra dấu tán thưởng. Chúng đi nước kiệu về phía xe tải nhỏ của bố mẹ chúng.
“Nhân tiện, việc nghỉ ngơi ở nhà em được sắp xếp như thế nào nhỉ?”
“Ồ. Hôm qua Etta gọi cho em về chuyện đó. Em sẽ ở phòng riêng của em còn anh ở phòng màu xanh. Chúng ta ở hai đầu hành lang, phòng của bố mẹ em và Alicia ở giữa.”
“Và chúng ta quyết tâm nghe theo sự sắp xếp này đến khi nào?”
Tôi khởi động xe và chúng tôi trở lại xa lộ. “Em không biết vì em chưa từng làm việc này bao giờ. Mark thường đưa các cô bạn gái của anh ấy xuống phòng tập và quan hệ với họ trên ghế bành trong vài giờ. Tất cả mọi người giả vờ như không biết. Nếu chuyện trở nên khó khăn, chúng ta lúc nào cũng có thể xuống phòng đọc; em vẫn thường giấu anh dưới đó mà.”
Henry nhìn ra ngoài cửa sổ. “Việc này cũng không đến nỗi tệ.”
“Việc gì cơ?”
“Đi đường. Trong xe. Trên xa lộ.”
“Chao ôi! Tiếp theo anh sẽ dám đặt chân lên máy bay.”
“Không bao giờ.”
“Paris. Cairo. London. Kyoto.”
“Không đời nào. Anh luôn tin rằng mình sẽ biến mất khi đang ở trên máy bay và chỉ có Chúa mới biết anh có thể hiện hình trở lại trên một con chim đang phóng đi với tốc độ 350 dặm một giờ hay không. Anh sẽ rơi từ trên trời xuống như Icarus.”
“Thật sao?”
“Chắc chắn anh sẽ không kiểm chứng.”
“Anh có thể đi đến những nơi đó bằng cách đi xuyên thời gian không?”
“Giả thiết của anh là, nhớ, đây chỉ là giả thiết đặc biệt về du hành thời gian với tư cách người du hành trải nghiệm Henry DeTamble chứ không phải giả thiết chung về du hành thời gian đâu nhé.”
“Được rồi.”
“Đầu tiên, anh nghĩ đó là vấn đề não bộ. Anh nghĩ nó rất giống với chứng động kinh, vì nó có xu hướng xảy ra khi anh bị áp lực, và có một số tín hiệu vật chất, như đèn chớp, có thể dẫn đến việc du hành. Và vì những việc như chạy bộ, tình dục và thuốc có thể giúp anh bám trụ lại với hiện tại. Thứ hai, anh hoàn toàn không có khả năng điều khiển nơi chốn và thời gian sẽ đến, hay độ dài của mỗi cuộc hành trình, hay khi nào sẽ trở lại. Vậy nên du lịch thời gian vòng quanh vùng duyên hải miền nam châu Âu hiếm có thể xảy ra. Nói vậy vì tiềm thức của anh có vẻ can thiệp rất nhiều vào chuyện kiểm soát du hành, vì anh dành rất nhiều thời gian trong quá khứ của mình, quay trở lại những sự kiện thú vị hoặc quan trọng, hiển nhiên anh sẽ dành một khoảng thời gian tương đối để ghé thăm em, mà anh đang rất nóng lòng chờ đợi. Anh có khuynh hướng đi tới những nơi ngẫu nhiên. Nhưng về cơ bản, anh có xu hướng trở về quá khứ nhiều hơn là đi tới tương lai.”
“Anh đã đi tới tương lai? Em không biết anh có thể làm vậy.”
Henry trông có vẻ thỏa mãn với chính mình. “Cho đến giờ, phạm vi của anh dao động trong khoảng 50 năm theo mỗi chiều. Nhưng rất ít khi anh đi đến tương lai, và anh không nghĩ mình có thể thấy gì hữu ích ở đó. Nó luôn ngắn ngủi. Và có thể tại vì anh không biết mình đang nhìn gì. Quá khứ kéo anh lại nhiều hơn. Khi ở trong quá khứ, anh cảm thấy chắc chắn hơn. có lẽ vì bản thân tương lai ít ổn định hơn? Anh không biết. Anh luôn có cảm giác không khí loãng hơn ở tương lai: cảm giác khác biệt. Khó hơn để chạy ở đó.” Henry trầm ngâm nói những điều này, và bất chợt tôi có cảm giác kinh hãi thoáng qua vì phải ở những nơi, những thời điểm xa lạ, không quần áo, không bạn bè…
“Đó là lý do vì sao chân anh…”
“Như da thuộc.” Lòng bàn chân Henry có những vết chai sạn dày, như thể chúng đang cố gắng biến thành một đôi giày. “Anh là con quỷ móng guốc. Nếu có chuyện gì xảy ra với chân anh thì bắn chết anh luôn cho rồi.”
Chúng tôi lái xe trong im lặng một hồi. Xa lộ nhấp nhô, cao lên rồi hạ xuống, những cánh đồng ngập xác ngô chết vụt qua mặt. Các nông trang đứng tắm trong ánh nắng mùa đông, những chiếc xe tải nhỏ, xe ngựa kéo và ô tô xếp dọc trên đường vào nhà. Tôi thở dài. Về thăm gia đình thật là một trải nghiệm lăn lộn. Tôi nóng lòng muốn gặp Alicia và Etta, tôi lo lắng cho mẹ và không muốn phải đối mặt với bố và Mark. Nhưng tôi tò mò muốn biết họ sẽ đối mặt với Henry, cũng như anh ấy sẽ đối mặt với họ như thế nào. Tôi tự hào vì đã giữ Henry như một bí mật trong suốt thời gian dài như vậy. Suốt 14 năm. Khi bạn là một đứa trẻ, 14 năm là bất tận.
Chúng tôi đi qua Wal-Mart, Dairy Queen, McDonald’s, nhiều cánh đồng ngô khác, một vườn cây ăn quả. Vườn dâu tây, vườn cây việt quất cho khách tự hái. Vào mùa hè, con đường này là một hành lang dài của hoa quả, ngũ cốc và chủ nghĩa tư bản. Nhưng giờ những cánh đồng đã chết và khô cằn; xe cộ chỉ biết tăng tốc dọc con đường cao tốc lạnh đầy nắng và lờ đi các bãi đỗ xe đang vẫy gọi.
Tôi chưa bao giờ nghĩ nhiều về Nam Haven cho tới khi chuyển đến Chicago. Nhà của chúng tôi lúc nào cũng như một hòn đảo, nằm trong khu vực tư nhân, bao quanh bởi đồng cỏ, vườn cây ăn quả, rừng và nông trại, còn Nam Haven chỉ là thị trấn, như trong Hãy đi đến thị trấn và mua kem nhé. Thị trấn là cửa hàng tạp hóa, là tiệm dụng cụ đồ bếp, cửa hàng bánh ngọt Mackenzie và cửa hàng băng đĩa, nhạc phổ ở trung tâm mua sắm Music, cửa hàng ưa thích của Alicia. Chúng tôi thường đứng trước tiệm ảnh của Appleyard và vẽ lên những câu chuyện về các cô dâu, các cậu bé sơ sinh và các gia đình đang nở nụ cười khó ưa sau ô cửa sổ. Chúng tôi đã không nghĩ thư viện trông buồn cười trong vẻ tráng lệ nhái Hi Lạp của nó, hay đã không thấy việc nấu nướng thật tẻ nhạt và hạn chế, hay các bộ phim ở Michigan thật đơn giản. Những suy nghĩ này xuất hiện về sau này, khi tôi đã trở thành một cư dân của thành phố, một người xa quê khắc khoải ngăn cách chính mình khỏi những cung cách quê mùa thời tuổi trẻ của cô ấy. Một nỗi luyến tiếc cho cô gái nhỏ là tôi, người đã yêu những cánh đồng và tin vào Chúa, người đã dành những ngày nghỉ ốm mùa đông ở nhà đọc Nancy Drew và mút từng giọt thuốc ho vị bạc hà, người có thể giữ bí mật. Tôi liếc nhìn Henry và thấy anh đã lăn ra ngủ.
Nam Haven, 50 dặm.
Hai mươi dặn, mười hai, ba, một.
Đường Phoenix.
Cao tốc Blue Star.
Và rồi: ngõ Meagram. Tôi với tay sang đánh thức Henry nhưng anh ấy đã tỉnh từ lâu. Anh ấy mỉm cười lo lắng và nhìn ra cửa sổ tới đường hầm hun hút những ngọn cây trơ trọi giữa mùa đông trong lúc chúng tôi rầm rập tiến tới. Khi cánh cửa ló dạng, tôi dò dẫm trong ngăn đựng đồ nhỏ trên xe để tìm điều khiển, rồi cánh cửa bật ra và chúng tôi đi qua nó.
Căn nhà hiện ra như bật lên từ trang sách. Henry há hốc miệng, rồi bắt đầu phá lên cười.
“Sao vậy?” Tôi hỏi.
“Anh không nghĩ nó khổng lồ đến thế. Con quái vậy này có tất cả bao nhiêu phòng?”
“Hai mươi tư”, tôi trả lời anh ấy. Etta đang vẫy tay với chúng tôi từ cửa sổ đại sảnh trong lúc tôi đi vòng quanh con đường và dừng lại trước cửa chính. Tóc bà đã bạc nhiều hơn so với lần cuối tôi ở nhà, nhưng mặt bà đang ửng hồng trong niềm hân hoan. Trong lúc chúng tôi trèo ra khỏi xe, Etta thận trọng bước xuống những bậc thang phủ băng, bà không mặc áo choàng, chỉ độc chiếc váy màu xanh nước biển với cổ viền ren, thận trọng giữ thăng bằng cho thân thể mập mạp trên đôi giày bệt. Tôi chạy lại định đỡ tay bà nhưng bà xua tôi ra cho đến khi xuống bậc thềm cuối cùng rồi ôm lấy tôi và hôn (tôi ngửi mùi Noxzema và mùi phấn của Etta một cách hân hoan) trong lúc Henry đứng bên cạnh, chờ đợi. “Và chúng ta có gì ở đây thế này?” bà nói như thể Henry là cậu bé tôi mang theo về mà không báo trước. “Etta Milbauer, Henry DeTamble”, tôi giới thiệu. Tôi nhìn thấy vẻ “Ồ” thoáng qua trên mặt Henry và tôi tự hỏi không biết anh ấy đã nghĩ bà là ai? Etta cười toét miệng với Henry trong lúc chúng tôi trèo lên bậc thềm. Henry hạ giọng và hỏi tôi, “Đồ đạc chúng ta thì thế nào?” tôi bảo anh ấy rằng Peter sẽ lo việc đó. “Mọi người đâu hết ạ?” tôi hỏi, Etta bảo rằng bữa trưa sẽ được chuẩn bị trong 15 phút nữa, chúng tôi có thể cởi áo khoác ngoài, đi rửa ráy rồi vào dùng bữa. Bà bỏ chúng tôi đứng giữa tiền sảnh rồi lẩn vào bếp. Tôi quay người, cởi áo khoác và treo nó trong tủ quần áo ở tiền sảnh. Khi tôi quay người lại Henry đang vẫy tay với ai đó. Tôi liếc nhìn xung quanh anh ấy và nhận ra Nell đang thò khuôn mặt với cái mũi hếch, to kềnh ra từ cửa phòng ăn, mỉm cười và tôi chạy lại trao cho bà một nụ hôn sướt mướt, bà khúc khích cười với tôi, nói, “Một anh chàng đẹp trai đấy, đồ khỉ cái”, rồi lại lẩn vào phòng trước khi Henry có thể đuổi kịp chúng tôi.
“Nell?” anh ấy đoán và tôi gật đầu. “Không phải bà xấu hổ đâu, chỉ bận thôi”, tôi giải thích. Tôi dẫn anh ấy tới cầu thang hậu lên tầng hai. “Anh sẽ ở đây”, tôi bảo anh ấy, mở cửa căn phòng ngủ màu xanh. Anh ấy nhìn vào trong rồi theo tôi xuống cuối hành lang. “Đây là phòng của em”, tôi bồn chồn nói và Henry lách qua tôi, đứng giữa tấm thảm trải sàn, chỉ nhìn quanh và khi anh ấy quay qua tôi, tôi biết anh ấy chẳng nhận ra thứ gì; không có gì trong căn phòng này có ý nghĩa gì với anh ấy, và con dao của sự nhận thức cứa sâu hơn vào tôi: tất cả những kỷ vật trong bảo tàng quá khứ này của chúng tôi giống như những bức thư tình được gửi tới cho một người không biết chữ. Henry cầm một tổ chim hồng tước lên (đó tình cờ là tổ chim đầu tiên trong rất nhiều tổ chim mà anh ấy đã đưa cho tôi suốt nhiều năm trời) và nói, “Thú vị đấy”. Tôi gật đầu, rồi mở miệng nói cho anh ấy biết và anh ấy đặt nó trở lại trên giá, nói, “Cửa này có thể khóa không?” Tôi vặn ổ khóa và chúng tôi muộn giờ ăn trưa.
HENRY: Tôi điềm tĩnh đi theo Clare xuống cầu thang, qua hành lang tối lạnh và đi vào phòng ăn. Mọi người đều đã đang dùng bữa. Căn phòng thấp trần và thoải mái theo kiểu William Morris; không khí ấm áp tỏa ra từ ngọn lửa bập bùng trong một chiếc lò sưởi nhỏ; và những ô cửa sổ mờ đi vì băng giá đến nỗi tôi không thể nhìn thấy gì bên ngoài. Clare lại gần một người phụ nữ gầy với mái tóc đỏ nhạt mà chắc hẳn là mẹ của cô ấy, người đang nghiêng đầu đón nụ hôn của Clare, người khẽ nhướn người đứng lên để bắt tay tôi. Clare giới thiệu với tôi bà ấy là “mẹ em” và tôi gọi bà là “cô Abshire”, ngay lập tức bà nói, “Ồ, nhưng cháu phải gọi ta là Lucille, ai cũng gọi vậy cả”, rồi mỉm cười mệt mỏi nhưng nồng hậu, như thể bà là mặt trời rực rỡ ở một thiên hà khác. Chúng tôi ngồi xuống đối diện nhau. Clare ngồi giữa Mark và một người phụ nữ luống tuổi, bà dì Dulcie; còn tôi ngồi giữa Alicia và một cô gái tóc vàng xinh đẹp bụ bẫm, người được giới thiệu với cái tên Sharon và có vẻ như đi cùng Mark. Bố của Clare ngồi ở đầu bàn và ấn tượng đầu tiên của tôi về ông là ông có vẻ cực kỳ bối rối khi nhìn thấy tôi. Anh chàng đẹp trai ngỗ ngược Mark cũng có vẻ cùng cảm xúc. Họ đã nhìn thấy tôi trước đó. Tôi tự hỏi mình đã làm gì để họ phải chú ý, nhớ và giật nảy mình có thoáng chút ác cảm khi Clare giới thiệu tôi, Nhưng Philip Adshire là một luật sư, một bậc thầy biểu cảm, nên chỉ chưa đến một phút sau ông ấy đã trở nên nhã nhặn và mỉm cười, đã là chủ nhà, là bố của bạn gái tôi, một người trung niên đang dần hói với cặp kính rộng bản và một thân thể cường tráng đã trở nên mềm nhũn và phì nộn, nhung có đôi bàn tay mạnh mẽ, bàn tay của một người chơi tennis, đôi mắt xám vẫn nhìn tôi cảnh giác bất kể nụ cười kín đoán. Mark gặp khó khăn trong việc che đậy nỗi bất an của mình, và cứ mỗi lần tôi bắt gặp ánh mắt của anh ta là anh ta lại nhìn vội xuống đĩa của mình. Alicia không giống với những gì tôi hình dung; con bé thẳng tính và tốt bụng, nhưng hơi kỳ quái, bất thần. Con bé có mái tóc sẫm của Philip, giống Mark, và đường nét của Lucille, tương đối; Alicia trông như thể ai đó tìm cách dung hòa giữa Clare và Mark nhưng bỏ cuộc nên ném Eleanor Roosevelt vào thay thế. Philip nói gì đó và Alicia cười, đột nhiên con bé trở nên đáng yêu. Tôi quay sang con bé, ngạc nhiên khi thấy nó đứng dậy khỏi bàn.
“Em phải đi đến St.Basil’s”, con bé cho tôi biết. “Em có buổi tập dượt. Anh sẽ đến nhà thờ chứ?” Tôi liếc nhanh sang Clare, cô ấy khẽ gật đầu, rồi tôi bảo Alicia, “Dĩ nhiên rồi”. Mọi người thở dài vẻ… nhẹ nhõm? Theo tôi nhớ Giáng Sinh là một ngày lễ Cơ Đốc, bên cạnh việc là ngày chuộc tội của cá nhân tôi. Alicia bỏ đi. Tôi hình dung ra mẹ đang cười vào tôi, cặp lông mày tỉa cẩn thận của bà nhướn lên cao trước cảnh cậu con trai nửa Do Thái của bà lạc lõng giữa kỳ Giáng Sinh ở Goyland, và tôi lắc ngón tay về phía bà. Mẹ mà cũng cười sao, tôi bảo bà. Mẹ đã cưới một người theo đạo Tân giáo. Tôi nhìn xuống đĩa của mình; nó gồm thịt lợn muối, đậu và lèo tèo chút salad. Tôi không ăn thịt lợn và tôi ghét đậu.
“Clare nói với chúng tôi cậu là một thủ thư.” Philip dò hỏi, tôi thừa nhận rằng đúng là vậy. Chúng tôi có một cuộc thảo luận nho nhỏ sôi động về Newberry và các ủy viên quản trị của Newberry, những người đồng thời là khách hàng của hãng luật của Philip mà hóa ra có trụ sở tại Chicago khiến tôi không rõ tại sao gia đình Clare lại sống tận Michigan này.
“Các biệt thự mùa hè”, ông ấy giải thích, rồi tôi nhớ ra Clare đã nói với tôi rằng bố cô ấy chuyên về di chúc và các khoản quỹ. Tôi tưởng tượng ra cảnh các bô lão giàu có nằm trên bãi biển tư nhân của họ, tắm mình trong kem chống nắng, quyết định cắt con cháu ra khỏi di chúc và với tay lấy điện thoại gọi cho Philip. Rồi tôi nhớ ra đồng nghiệp của bố tôi trong dàn nhạc giao hưởng Chicago có một căn nhà đâu đó gần đây. Tôi đề cập đến điều này và tai của mọi người vểnh lên.
“Cậu có biết ông ấy không?” Lucille hỏi.
“Chắc rồi. Ông ấy và bố cháu ngồi cạnh nhau.”
“Ngồi cạnh nhau?”
“Cô biết đấy, violin chính và thứ.”
“Bố cậu là nghệ sĩ violin?”
“Vâng.” Tôi quay sang Clare, người đang nhìn mẹ cô ấy chằm chằm với vẻ đừng làm con xấu hổ trên mặt.
“Và ông ấy chơi cho dàn nhạc giao hưởng Chicago?”
“Phải.”
Mặt của Lucillie ngập trong màu hồng; giờ thì tôi đã biết Clare thừa hưởng vẻ ngượng ngùng của cô ấy từ ai. “Cậu có nghĩ ông ấy sẽ lắng nghe Alicia chơi nếu chúng tôi đưa cho ông ấy cuộn băng ghi âm?”
Tôi hy vọng rằng Alicia chơi cực kì, cực kì giỏi. Mọi người vẫn thường gửi băng thu âm tới cho bố tôi. Rồi tôi có một ý tưởng khác hay hơn.
“Alicia chơi vi-ô-lông-cen phải không?”
“Phải.”
“Cô ấy có đang tìm thầy dạy chăng?”
Philip xen vào, “Con bé đang học với Frank Wainwright ở Kalamazoo.”
“Cháu có thể đưa băng ghi âm cho Yoshi Akawa. Một trong những học trò của ông ấy vừa nghỉ để nhận việc ở Paris.” Yoshi là một người tuyệt vời và là vi-ô-lông-cen chính. Tôi biết ít nhất ông ấy sẽ lắng nghe đoạn băng; bố tôi, người không hề dạy dỗ, sẽ đơn giản chỉ ném nó đi. Lucille rất hứng khởi; thậm chí cả Philip cũng có vẻ hài lòng. Clare trông nhẹ nhõm. Mark vẫn ăn. Bà dì Dulcie, nhỏ xíu và có mái tóc hồng, hoàn toàn mù tịt về vụ trao đổi này. Có lẽ bà bị điếc? Tôi nhìn sang Sharon, người đang ngồi bên tay trái của tôi và vẫn chưa hé răng nói nửa lời. Cô ấy có vẻ khổ sở. Philip và Lucille đang thảo luận nên đưa cho tôi cuộn băng nào, hay có lẽ Alicia nên thu một cuộn băng mới? Tôi hỏi Sharon có phải lần đầu tiên cô ấy đến đây không và cô ấy gật đầu. Đúng lúc tôi định hỏi tiếp thì Philip hỏi tôi mẹ tôi làm nghề gì và tôi nháy mắt; tôi nhìn Clare như muốn nói Em chưa kể cho họ nghe bất cứ điều gì sao?
“Mẹ cháu từng là ca sĩ. Bà đã qua đời.”
Clare nói khẽ, “Mẹ của Henry là Annette Lyn Robinson”. Chẳng thà cô ấy cứ bảo mẹ tôi là Đức mẹ đồng trinh Marry; mặt Philip bừng sáng. Lucille khua tay xúc động.
“Thật không thể tin nổi - thật tuyệt vời! Chúng ta có tất cả các đĩa nhạc của bà ấy…” và một tràng dài nữa. Nhưng rồi Lucille nói, “Cô đã được gặp bà ấy khi cô còn trẻ. Bố cô đã đưa cô đi xem Madame Butterfly, và người quen của ông dẫn chúng ta ra phía sau sân khấu khi màn trình diễn kết thúc, chúng ta đi đến phòng thay đồ của bà, và bà ấy đang ở trong đó, với hàng đống hoa được tặng! Có một cậu bé trong đó… đó là cậu!”
Tôi gật đầu, cố tìm lại giọng nói của mình, Clare hỏi, “Bác ấy trông như thế nào?”
Mark nói, “Trưa nay chúng ta sẽ đi trượt tuyết chứ?” Philip gật đầu. Lucille mỉm cười, chìm trong ký ức. “Bà ấy đẹp tuyệt vời, vẫn đội nguyên tóc giả, một mái tóc đen dài, và bà ấy đang dùng nó để giỡn với cậu bé, thọc lét cậu bé, và cậu bé nhảy quanh phòng. Bà ấy có đôi tay thật đáng yêu, bà ấy chỉ cao cỡ ta, rất mảnh mai, và là người Do Thái, nhưng ta nghĩ bà ấy giống người Ý hơn…” Lucille bất ngờ ngừng lại và đưa một tay lên che miệng, mắt nhìn vào cái đĩa trống trơn chỉ còn vài hạt đậu.
“Cậu có theo đạo Do Thái?” Mark thích thú hỏi.
“Tôi đoán vậy, nếu tôi muốn, nhưng chưa ai từng bàn rõ chuyện này. Mẹ tôi mất khi tôi lên sáu, và bố tôi vốn theo đạo Tân giáo.”
“Trông cậu giống hệt bà ấy”, Lucille nói, và tôi cảm ơn. Đĩa của chúng tôi được Etta dọn đi, bà hỏi Sharon và tôi có muốn uống cà phê không. Cả hai chúng tôi đồng thanh nói Có, dứt khoát đến nỗi cả nhà Clare bật cười. Etta nở một nụ cười mẫu tử với chúng tôi rồi vài phút sau bà đặt cà phê trước mặt chúng tôi, và tôi nghĩ Cũng không quá tệ. Mọi người nói chuyện về trượt tuyết, về thời tiết; tất cả chúng tôi đều đang đứng, Philip và Mark dẫn nhau đi xuống hành lang; tôi hỏi Clare nếu cô ấy muốn đi trượt tuyết, cô ấy nhún vai và hỏi tôi có muốn đi không, tôi giải thích rằng tôi không biết trượt và không có hứng học. Cô ấy vẫn quyết định đi sau khi nghe Lucille nói bà ấy cần người giúp đi ván trượt. Trong lúc đi lên lầu tôi nghe tiếng Mark nói, “... giống nhau đến lạ thường…” và tôi mỉm cười một mình.
Sau khi mọi người đã rời đi và căn nhà trở nên yên tĩnh, tôi mạo muội đi ra từ căn phòng lạnh lẽo của mình để tìm hơi ấm và chút cà phê. Tôi đi ngang qua phòng ăn, vào tới nhà bếp và đối mặt với một đội quân hùng hậu đồ thủy tinh, đồ bạc, bánh ngọt, rau củ đã gọt, và chảo nóng trong bếp, giống như những gì bạn thấy trong nhà hàng bốn sao. Đứng giữa đống dụng cụ là Nell đang quay lưng lại phía tôi, ngân nga hát Rudolph con tuần lộc mũi đỏ và lắc lư cái eo bự chảng của bà, vẫy ống rút nước sốt với cô gái da đen trẻ đang câm lặng chỉ tay về phía tôi. Nell quay người lại và nở một nụ cười hở răng cửa lớn, nói, “Cậu đang làm gì trong bếp của tôi, cậu Bạn trai?”
“Cháu đang tự hỏi không biết có còn chút cà phê nào dư không?”
“Dư? Cậu nghĩ tôi ủ cà phê suốt ngày cho nó chua lòm? Xùy, con trai, đi ra khỏi đây, tới phòng khách ngồi và rung chuông rồi ta sẽ pha cà phê mới cho cậu. Mẹ cậu đã không dạy cậu chút nào về pha cà phê hả?”
“Thực ra, mẹ cháu không giỏi khoản nấu nướng”, tôi nói với bà, mạo hiểm tiến tới gần trung tâm của con lốc xoáy hơn. Có mùi gì đó thật thơm. “Bác đang nấu gì vậy?”
“Mùi cậu đang ngửi thấy là gà tây của Thompson”, Nell nói. Bà mở cửa lò để cho tôi xem một con gà tây khổng lồ trông cứ như thứ gì đó đã trải qua vụ hỏa hoạn Chicago vĩ đại. Chỉ một màu đen. “Đừng nhìn vẻ ngờ vực như vậy, nhóc. Bên dưới lớp vỏ đó là món gà tây ngon nhất trần đời đấy.”
Tôi sẵn lòng tin bà; mùi của nó thật hoàn hảo. “Gà Tây của Thompson là gì ạ?” Tôi hỏi, và Nell bắt đầu diễn thuyết về món Gà Tây của Thompson huyền diệu, được sáng chế bởi Morton Thompson, một ký giả, vào những năm 1930. Hóa ra quá trình chế biến con quỷ tuyệt diệu này liên quan đến hàng đống công đoạn nhồi nhét, khâu vá và lật trở không ngừng. Nell cho phép tôi ngồi trong bếp trong lúc bà pha cà phê cho tôi và vật lộn lôi con gà tây ra khỏi lò rồi vật nó ngửa bụng lên, sau đó khéo léo nhỏ nước sốt rượu táo lên khắp mình nó trước khi tống nó trở lại hầm ngục. Có 12 con tôm hùm đang bò lổn ngổn trong bể nước lớn bằng nhựa cạnh bồn rửa bát. “Thú cảnh?” Tôi trêu bà, và bà trả lời, “Đó là bữa tối Giáng Sinh của cậu đấy, con trai; cậu muốn chọn một con không? Cậu không ăn chay đấy chứ?” Tôi cam đoan với bà rằng không hề, rằng tôi là một cậu bé ngoan sẽ ăn bất cứ thứ gì được dọn ra trước mặt.
“Ai mà đoán được, trông cậu thật gầy”, Nell nói. “Ta sẽ vỗ béo cậu.”
“Đó là lý do Clare mang cháu đến đây.”
“Hừm”, Nell nói, vẻ hài lòng. “Được rồi. Giờ thì lượn đi để ta có thể tiếp tục công việc, đây.” Tôi nhận lấy ly cà phê bự, thơm phức và hướng về phía phòng khách, nơi có một cây Giáng Sinh khổng lồ và lò sưởi. Trông như một bức tranh quảng cáo cho Pottery Barn. Tôi an tọa xuống chiếc ghế bành màu cam và đang lục chồng báo khi có người nói, “Anh đã lấy cà phê ở đâu thế?” Tôi ngẩng đầu lên và thấy Sharon đang ngồi đối diện trong chiếc ghế bành màu xanh dương hoàn toàn hợp với áo len của cô ấy.
“Xin chào”, tôi nói. “Tôi xin lỗi, tôi đã không thấy…”
“Không sao”, Sharon nói.
“Tôi đã xuống bếp, nhưng tôi nghĩ chúng ta phải dùng chuông, ở đâu đó.” Chúng tôi quét qua căn phòng và đúng là có một cái chuông trên tường.
“Nơi này thật kỳ quái”, Sharon nói. “Chúng tôi đến đây từ hôm qua và tôi cứ thấp thỏm không thôi, cứ sợ dùng sai loại dĩa hay gì đấy…”
“Cô từ đâu đến?”
“Florida.” Cô ấy cười. “Tôi chưa bao giờ biết đến Giáng Sinh trắng cho tới khi vào Harvard. Bố tôi sở hữu một trạm xăng ở Jacksonville. Tôi đã định sau khi tốt nghiệp sẽ quay trở lại đó, anh biết đấy, vì tôi không thích cái lạnh, nhưng giờ có lẽ tôi đã mắc kẹt.”
“Sao lại thế?”
Sharon ngạc nhiên, “Họ chưa nói với anh sao? Mark và tôi sắp kết hôn.”
Tôi tự hỏi liệu Clare có biết chuyện này. Đây có vẻ như là chuyện Clare sẽ nhắc đến nếu có ấy biết. Rồi tôi nhìn thấy viên kim cương trên tay Sharon. “Xin chúc mừng.”
“Có lẽ vậy. Ý tôi là, cảm ơn anh.”
“Cô không chắc chắn sao? Về việc kết hôn?” Sharon thực ra trông có vẻ như đã khóc; khóe mắt cô ấy sưng vù.
“Tôi đang có mang, nên…”
“Điều đó không nhất thiết rằng cô phải…”
“Có, nếu anh theo đạo Cơ Đốc.” Sharon thở dài và rũ người xuống ghế. Thực ra tôi biết một số cô gái theo đạo Cơ Đốc đã đi phá thai và không bị sét đánh, nhưng có vẻ như niềm tin của Sharon ít dễ dãi hơn.
“Chúc mừng. Khi nào…”
“11 tháng Một.” Sharon nhìn thấy sự ngạc nhiên của tôi và nói, “Ồ, đứa bé? Tháng 4.” Cô ấy nhăn nhó. “Tôi hy vọng nó sẽ xong trước kỳ nghỉ xuân, bằng không tôi không biết phải lo chuyện học hành như thế nào… dù sao cũng chẳng còn quan trọng nữa…”
“Chuyên ngành của cô là gì?”
“Dự bị Y khoa. Bố mẹ tôi đang rất giận dữ, họ muốn tôi đem nó cho người khác nuôi.”
“Họ không thích Mark sao?”
“Họ thậm chí chưa bao giờ gặp Mark. Đó không phải vấn đề. Chỉ là họ sợ tôi sẽ không theo học Y nữa và sẽ thật lãng phí.” Cửa chính mở ra và những người đi trượt tuyết trở về. Một luồng gió lạnh luồn vào tận phòng khách và ùa qua người chúng tôi. Tôi cảm thấy thoải mái, rồi nhận ra tôi đang bị nướng chín như con gà tây của Nell bởi ngọn lửa trong lò sưởi ở đây. “Mấy giờ dùng bữa tối nhỉ?” tôi hỏi Sharon.
“Bảy, nhưng tối qua chúng tôi đã uống rượu ở đây trước. Khi đó Mark vừa nói với bố mẹ anh ấy, và họ không hẳn đã ôm chầm lấy tôi trong hân hoan khi hay chuyện. Ý tôi là, họ tử tế, anh biết đấy, cách người ta có thể vừa tử tế vừa ác ý. Cứ như tôi có thể tự làm cho mình chửa và Mark chẳng liên quan gì cả ấy…”
Tôi nhẹ nhõm khi thấy Clare bước vào. Cô ấy đang đội một chiếc mũ lưỡi trai màu xanh lá cây với núm tua lớn xõa xuống và chiếc áo trượt tuyết xấu xí màu vàng cùng quần jeans xanh dương. Mặt cô ấy ửng hồng vì cái lạnh và đang mỉm cười. Tóc cô ấy ướt nhẹp và tôi thấy trong lúc cô ấy bước sôi nổi trên tấm thảm Ba Tư khổng lồ bằng đôi chân đi bít tất về phía tôi rằng cô ấy thuộc về nơi này, cô ấy không phải một người lầm lạc, cô ấy chỉ đơn giản chọn cho mình một lối sống khác, và tôi rất mừng vì điều đó. Tôi đứng dậy và cô ấy quàng tay qua người tôi, rồi nhanh chóng quay sang Sharon nói, “Em vừa hay tin! Chúc mừng chị!” rồi ôm lấy Sharon, người đang nhìn tôi qua bờ vai của Clare, sửng sốt nhưng đang mỉm cười. Về sau, Sharon nói với tôi rằng, “Tôi nghĩ anh đã vớ được người tử tế duy nhất ở đây.” Tôi lắc đầu phủ nhận nhưng tôi hiểu điều cô ấy nói.
CLARE: Chúng tôi có một giờ đồng hồ rảnh rỗi trước bữa tối và sẽ không ai để ý nếu chúng tôi biến mất. “Đi nào”, tôi nói với Henry. “Hãy cùng ra ngoài.” Anh ấy rên rỉ.
“Bắt buộc sao?”
“Em muốn chỉ cho anh xem thứ này.”
Chúng tôi mặc áo choàng, ủng, mũ và găng tay rồi lê bước ra ngoài bằng cửa sau. Bầu trời trong vắt, chỉ một màu xanh biếc và tuyết trên đồng cỏ phản chiếu trở lại, có chút sáng hơn. Hai màu xanh gặp nhau ở một đường tối những ngọn cây - điểm bắt đầu vào rừng rậm. Vẫn quá sớm cho những vì sao, nhưng có một chiếc máy bay đang nhấp nháy trên đường nó băng qua không gian. Tôi hình dung ngôi nhà của chúng tôi chỉ là một chấm đen nhỏ xíu được nhìn thấy từ trên máy bay, như một ngôi sao.
“Lối này.” Con đường tới khoảng rừng thưa chìm dưới sáu inch tuyết. Tôi nghĩ tới những lần hì hụi lội trên những vết chân trần để không ai nhìn thấy chúng chạy xuống con đường dẫn tới nhà chính. Giờ thì có dấu vết của những con hươu và vết của một con chó rất lớn.
Gốc của những cái cây chết lởm chởm nhô ra dưới tuyết, gió và tiếng ủng của chúng tôi. Khoảng rừng thưa là một vùng trũng nhẵn nhụi của tuyết xanh; tảng đá là một hòn đảo có đỉnh hình nấm. “Là nó đây.”
Henry đứng thò tay vào túi áo choàng. Anh ấy xoay qua xoay lại, ngắm nhìn. “Vậy ra là nó đây”, anh ấy nói. Tôi tìm trên khuôn mặt anh ấy biểu hiện của sự quen thuộc. Chẳng có gì. “Đã bao giờ anh thấy ký ức ảo giác chưa?” tôi hỏi.
Henry thở dài. “Cả cuộc đời anh là một chuỗi những ký ức ảo giác bất tận.”
Chúng tôi quay lại và bước đi trên chính vết chân của mình, trở về nhà.
Một lát sau:
Tôi đã dặn Henry rằng chúng tôi sẽ đóng bộ khi dùng bữa tối Giáng Sinh nên khi gặp nhau ở hành lang, anh ấy chói lọi trong bộ vét màu đen, sơ mi trắng, cà vạt màu hạt dẻ có móc gài khảm xà cừ. “Chúa ạ”, tôi nói. “Anh đã chải chuốt.”
“Phải”, anh ấy thừa nhận. “Thật thảm hại, phải không?”
“Trông anh rất hoàn hảo, một Thanh Niên Đĩnh Đạc.”
“Trong khi thực tế, anh là một Thủ Thư Cuồng Loạn Hạng Sang. Các bậc phụ huynh, hãy cảnh giác con em mình.”
“Họ sẽ yêu anh.”
“Còn anh yêu em. Đến đây nào.” Henry và tôi đứng trước tấm gương dài cả người ở đỉnh cầu thang, cảm phục chính mình. Tôi đang mặc chiếc váy không dây màu xanh nhạt bằng lụa vốn thuộc về bà ngoại. Tôi có bức ảnh chụp bà lúc đang mặc nó vào đêm giao thừa năm 1941, bà đang mỉm cười, môi bà tối màu son và tay đang cầm điếu thuốc. Người đàn ông trong bức ảnh là anh trai của bà, Teddy, người bị giết ở Pháp sáu tháng sau đó; ông ấy cũng đang cười. Henry đặt tay lên eo tôi và tỏ ra ngạc nhiên trước những lớp gọng áo ngực dưới lần vải lụa. Tôi kể cho anh ấy nghe về bà ngoại. “Bà nhỏ hơn cả em. Nó chỉ đau khi ngồi xuống thôi; đầu của những gọng thép chọc vào hông em.” Henry đang hôn lên cổ tôi khi có tiếng ai đó đằng hắng và chúng tôi rời nhau ra. Mark và Sharon đứng ở ngưỡng cửa phòng Mark; bố và mẹ đã miễn cưỡng đồng ý rằng chẳng có lý do gì họ không nên ở cùng phòng.
“Không phải lúc này, nhé”, Mark nói bằng giọng bà cô khó tính. “Cô cậu chưa rút ra được bài học xương máu nào từ anh chị hả, nhóc?”
“Có chứ”, Henry đáp trả. Luôn luôn phòng bị”. Anh ấy mỉm cười gõ vào túi quần (mà thực ra trống không) rồi chúng tôi lướt xuống dưới nhà trong tiếng cười khúc khích của Sharon.
Mọi người đã uống được vài ly khi chúng tôi ra đến phòng khách. Alicia giơ tay làm dấu hiệu bí mật giữa chúng tôi: Cẩn thận với mẹ, bà đang lên cơn. Mẹ đang ngồi trên ghế trường kỉ, vẻ vô hại, tóc bà được cuốn lên thành búi, cổ đeo dây chuyền ngọc trai, và chiếc váy nhung đào, ống có ren. Bà tỏ vẻ hài lòng khi Mark bước đến ngồi xuống bên cạnh, cười khi anh ấy bày trò với bà, và trong khoảnh khắc tôi đã nghĩ có lẽ Alicia đã nhầm. Nhưng rồi tôi thấy cách mà bố đang nhìn mẹ, và tôi nhận ra chắc hẳn bà đã nói điều gì đó tệ lắm trước khi tôi bước vào. Bố đang đứng cạnh giá để rượu. Ông quay sang tôi, bớt căng thẳng, rót cho tôi một ly Cô-ca, đưa cho Mark chai rượu và một chiếc cốc. Ông hỏi Sharon và Henry uống gì. Sharon xin một ly La Croix, Henry, sau khi cân nhắc một hồi, xin một ly Scotch và nước lọc. Bố pha đồ uống bằng một tay, trợn mắt khi thấy Henry nhẹ nhàng tu sạch ly Scotch.
“Ly nữa chứ?”
“Không ạ, cảm ơn bác.” Tôi biết rằng lúc này Henry muốn cầm cả chai và cốc rồi cuộn tròn trên giường với một cuốn sách trong tay, và rằng anh ấy từ chối ly thứ hai để đỡ cảm thấy ái ngại khi phải xin ly thứ ba, thứ tư nữa. Sharon đang lởn vởn quanh Henry; tôi bỏ mặc họ, đi ngang qua phòng để ngồi cạnh bà dì Dulcie bên ghế gần cửa sổ.
“Ồ, cháu à, đáng yêu làm sao… ta đã không thấy chiếc váy đó kể từ khi Elizabeth mặc nó đến dự tiệc nhà Lichts, tổ chức ở cung Thiên Văn.” Alicia lại chỗ chúng tôi; con bé đang mặc chiếc áo cổ rùa màu xanh tím than với một cái lỗ nhỏ xíu nơi tay áo đang tách ra khỏi vạt trên và một chiếc váy cũ xộc xệch, chân đi tất vải phồng phềnh quanh mắt cá chân như một bà lão. Tôi biết con bé ăn mặc như vậy để chọc tức bố.
“Có chuyện gì với mẹ vậy? tôi hỏi nó.
Alicia nhún vai. “Mẹ bực chuyện Sharon.”
“Có chuyện gì với Sharon?” bà dì Dulcie hỏi, đọc môi chúng tôi. “Con bé có vẻ tử tế. Theo ta nó còn tử tế hơn Mark.”
“Chị ấy đang có mang”, tôi nói với bà dì Dulcie. “Họ sắp kết hôn. Mẹ cháu nghĩ chị ấy là dân bần hàn, vì chị ấy là người đầu tiên trong gia đình được học đại học.”
Bà dì Dulcie nhìn tôi sắc sảo, và thấy rằng tôi biết điều bà cũng biết. “Lucille, trong tất cả mọi người, phải là người hiểu con bé nhất.” Alicia định hỏi Dulcie ý bà là gì thì chuông báo bữa tối kêu lên và chúng tôi đứng dậy, trong vô thức, nối đuôi nhau về phía nhà ăn. Tôi thì thầm với Alicia, “Có phải mẹ đã say?” Alicia thì thầm đáp lại, “Em nghĩ mẹ đã uống rượu trong phòng trước khi xuống.” Tôi bóp nhẹ tay Alicia; Henry đi chậm lại, chúng tôi cùng nhau bước vào phòng ăn và tìm chỗ ngồi của mình. Bố và mẹ ngồi ở hai đầu bàn ăn, bà dì Dulcie, Sharon và Mark ngồi một phía, Mark ngồi cạnh mẹ, Alicia, Henry và tôi ngồi phía còn lại, Alicia ngồi cạnh bố. Căn phòng tràn ngập nến và những bông hoa nhỏ trôi bồng bềnh trong tô thủy tinh có hoa văn chạm trổ, Etta đã bày ra tất cả đồ đạc và đĩa sứ trên tấm khăn trải bàn của ngoại do các bà sơ Địa Trung Hải thêu. Một buổi tối Giáng Sinh hệt như mọi buổi tối Giáng sinh mà tôi có thể nhớ khác, ngoại trừ Henry đang ngồi cạnh tôi, bẽn lẽn cúi đầu trong lúc bố đang cầu nguyện.
“Lạy cha chúng con ở trên trời, chúng con xin gửi lời cảm tạ trong đêm thánh này vì lòng khoan dung và nhân từ của Người, cho một năm tới khỏe mạnh và hạnh phúc, cho gia đình sung túc và cho những người bạn mới. Xin cảm tạ Người đã gửi con trai của mình trong hình hài một đứa trẻ xuống soi lối và cứu rỗi chúng con, chúng con cảm tạ người vì đứa trẻ mà Mark và Sharon sẽ mang đến gia đình này. Chúng con cầu xin để được trở nên hoàn hảo hơn trong tình yêu thương của mình và kiên nhẫn với nhau. Amen.” Ôi trời, tôi nghĩ. Bố gây chuyện rồi. Tôi liếc nhìn mẹ và thấy bà đang sôi lên sùng sục. Bạn sẽ không thể nào nhận ra nếu không biết tính bà: bà chỉ ngồi yên không nhúc nhích và nhìn chằm chằm vào dĩa của mình. Cửa phòng ăn mở ra và Etta bước vào với món súp, bà đặt một bát nhỏ trước mặt mỗi người. Tôi bắt gặp ánh mắt của Mark, anh ấy khẽ nghiêng đầu về phía mẹ và nhướn mày, tôi chỉ khẽ gật đầu. Anh ấy hỏi mẹ về vụ thu hoạch táo năm nay và bà trả lời. Alicia và tôi bớt căng thẳng hơn một chút. Sharon đang theo dõi tôi, tôi nháy mắt với chị ấy. Món súp hạt dẻ và củ cải vàng có vẻ như một ý tưởng tồi, cho đến khi bạn nếm món do Nell nấu. “Ồ”, Henry nói, và tất cả mọi người cười, rồi ăn súp của mình. Etta dọn bát súp đi, Nell mang gà tây vào. Nó màu vàng, đang bốc khói và to khổng lồ, chúng tôi hồ hởi ca ngợi, như chúng tôi vẫn làm hằng năm. Nell toét miệng cười, nói, “Thôi mà”, như bà vẫn nói hằng năm. “Ồ, Nell, nó thật hoàn hảo”, mẹ tôi nói trong nước mắt. Nell nhìn bà sắc lẹm rồi quay sang bố tôi, và nói, “Cảm ơn bà, bà Lucille.” Etta lấy cho chúng tôi nhân nhồi, cà rốt ướp bơ đường, khoai tây nghiền, và nước chanh cô, rồi chúng tôi chuyển đĩa của mình cho bố, người sẽ làm đầy chúng bằng thịt gà tây. Tôi nhìn Henry ăn miếng gà tây đầu tiên do Nell nấu: ngạc nhiên, rồi ngất ngây. “Cháu đã nhìn thấy tương lai của mình”, anh ấy tuyên bố, và tôi cứng đơ người. “Cháu sẽ bỏ việc ở thư viện, đến đây sống trong nhà bếp của mọi người và phủ phục kính ngưỡng dưới chân Nell. Hoặc có khi cháu sẽ cưới bác ấy cho tiện.”
“Cậu đến muộn rồi”, Mark nói. “Nell đã kết hôn.”
“Ồ, vậy thì tôi sẽ phải ở dưới chân bác ấy rồi. Tại sao mọi người không béo trên 300 pounds nhỉ?”
“Ta đang trên đường đến đích đó”, bố tôi nói, vỗ vỗ vào cái bụng căng tròn.
“Khi nào già em sẽ nặng 300 pounds và sẽ không phải kéo cây vi-ô-lông-cen đi khắp nơi nữa”, Alicia bảo Henry. “Em sẽ dọn đến Paris sống và chẳng ăn gì ngoài sô-cô-la, em sẽ hút xì-gà, dùng heroin và chỉ nghe nhạc của Jimi Hendrix và The Doors. Phải không, mẹ?”
“Mẹ sẽ đi cùng con”, mẹ tôi nói, rành mạch từng tiếng. “Nhưng mẹ sẽ chỉ nghe Johnny Mathis thôi.”
“Nếu em hút heroin em sẽ không muốn ăn gì nhiều đâu”, Henry đính chính với Alicia, nó đang đăm chiêu nhìn anh ấy. “Hút cần sa ấy.” Bố tôi cau mày. Mark chuyển chủ đề: “Con nghe đài báo tuyết sẽ rơi dày tám inches vào đêm nay.”
“Tám?!?” chúng tôi đồng thanh.
“Tôi đang mơ về một Giáng Sinh trắng[1]…”, Sharon đánh bạo nói mà không hề nhận thức về tội lỗi.
[1] Nguyên gốc: I’m dreaming of a white Christmas (trích ca khúc White Christmas).
“Hy vọng rằng nó sẽ không trút xuống đầu chúng ta khi đang ở nhà thờ”. Alicia cáu kỉnh nói. “Con rất buồn ngủ cứ mỗi khi xong lễ mi-sa.” Chúng tôi ríu rít bàn về những cơn bão tuyết mà chúng tôi trải qua. Bà dì Dulcie kể cho chúng tôi nghe về lần đầu bị mắc kẹt trong cơn bão tuyết lớn vào năm 1967 ở Chicago. “Ta đã phải bỏ xe ở cao tốc Lake Shore Drive và đi bộ từ Adams đến Belmont.”
“Cháu cũng có lần bị mắc kẹt trong cơn bão tuyết”, Henry nói. “Suýt nữa cháu đông thành đá; cuối cùng phải trú tại nhà của mục sư ở nhà thờ giáo hội Trưởng Nhiệm Thứ Tư trên đại lộ Michigan.”
“Khi đó cậu bao nhiêu tuổi?” Bố tôi hỏi, Henry ngập ngừng rồi trả lời, “Ba.” Anh ấy liếc nhìn tôi và tôi biết anh ấy đang nói về một trải nghiệm gặp phải khi đang du hành thời gian. Anh ấy nói thêm. “Lúc đó cháu đang đi cùng bố.” Những lời anh ấy nói rõ ràng là bịa đặt nhưng có vẻ chẳng ai để ý. Etta bước vào dọn đĩa rồi bày ra loạt đĩa mới dùng cho đồ tráng miệng. Sau một chút chậm trễ, Nell bước vào với món pút-đinh màu mận chín bốc lửa. “Ồ!” Henry nói. Nell đặt bánh xuống trước mặt mẹ tôi, và ngọn lửa chuyển mái tóc mờ nhạt của bà sang màu đỏ đồng, giống của tôi, trong giây lát trước khi tắt lịm. Bố tôi mở sâm-banh (bên dưới chiếc khăn ăn, để nút bật không bắn vỡ mắt một ai đó). Tất cả mọi người chuyển ly của mình cho ông và ông rót đầy chúng rồi trả lại. Mẹ tôi cắt bánh thành những miếng mỏng rồi Etta lấy cho mọi người. Có thêm hai chiếc ly nữa, một cho Etta, một cho Nell, và chúng tôi đứng dậy nâng ly chúc mừng.
Bố tôi bắt đầu: “Vì gia đình.”
“Vì Nell và Etta, những người như gia đình, những người đã làm việc vất vả chăm sóc cho nơi này và những người thật tháo vát, tài năng”, mẹ tôi nói, nhẹ nhàng.
“Vì hòa bình và công lý”, bà dì Dulcie nói.
“Vì gia đình”, Etta nói.
“Vì những sự khởi đầu”, Mark nói, hướng tới Sharon.
“Vì sự tình cờ”, chị ấy đáp lại.
Đến lượt tôi. Tôi nhìn vào Henry. “Vì hạnh phúc. Vì giây phút và nơi chốn này.”
Henry nghiêm trang đáp, “Vì thế gian và thời gian”, tim tôi trật nhịp, tôi tự hỏi làm sao anh ấy biết, nhưng rồi tôi nhận ra Marvell là một trong những nhà thơ ưa thích của anh ấy và anh ấy chẳng ám chỉ gì khác ngoài tương lai.
“Vì tuyết, vì Chúa, vì mẹ, vì bố và vì dây đàn vi-ô-lông, vì đường và vì đôi giày Converse cao cổ màu đỏ của con”, Alicia nói, và mọi người bật cười.
“Vì tình yêu”, Nell nói, nhìn thẳng vào tôi, nở nụ cười hết cỡ của bà. “Và vì Morton Thomposon, nhà sáng chế món gà tây ngon nhất quả đất này.”
HENRY: Trong suốt bữa tối, Lucille cứ không ngừng chao đảo từ buồn rầu sang phấn chấn rồi tuyệt vọng. Cả gia đình bà rất cẩn thận thăm dò tâm trạng của bà, đưa bà quay trở lại với trạng thái cân bằng hết lần này đến lần khác, đỡ cho bà, che chở cho bà. Nhưng khi chúng tôi ngồi xuống và bắt đầu ăn điểm tâm, bà khụy ngã và lặng thinh nức nở, hai vai bà run rẩy, bà quay đầu đi như thể chuẩn bị rúc nó sau một đôi cánh như một con chim đang liu riu ngủ. Lúc đầu chỉ có tôi để ý thấy, và tôi ngồi đó, kinh hãi, chẳng biết nên làm gì. Rồi Philip nhìn thấy, và rồi căn phòng chìm trong im lặng. Philip đứng dậy đi về phía bà. “Lucy?” ông ấy thì thầm. “Lucy, có chuyện gì vậy?” Clare hối hả chạy lại, nói, “Thôi mà, mẹ, sẽ ổn thôi, mẹ…” Lucille lắc đầu, không, không, và khóc ướt hai bàn tay. Philip lùi lại; Clare nói, “Suỵt”, và Lucille hấp tấp nói không rõ ràng. Tôi nghe những câu vội vã khó nghe, rồi “Sai lầm hết cả”, và rồi “Phá hủy cuộc đời nó”, và cuối cùng là “Ta hoàn toàn bị ngó lơ trong cái gia đình này”, và “Giả nhân giả nghĩa”, rồi sụt sùi. Tôi ngạc nhiên khi bà dì Dulcie là người phá vỡ im lặng. “Con à, nếu có ai giả nhân giả nghĩa ở đây thì đó là con. Con đã trải qua việc y hệt và ta không thấy nó phá hủy cuộc đời Philip một chút nào. Theo ta, còn khiến nó tốt hơn.” Lucille ngừng khóc và nhìn dì, sững sờ đến rơi vào yên lặng. Mark nhìn bố, người đang gật đầu, và rồi nhìn Sharon, đang mỉm cười như thể cô ấy vừa trúng số. Tôi nhìn Clare, cô ấy chẳng có vẻ ngạc nhiên, và tôi tự hỏi làm sao cô ấy biết mà Mark lại không, rồi lại tự hỏi còn điều gì cô ấy biết mà không nói ra, rồi nó giáng xuống tôi rằng Clare biết mọi thứ, tương lai của chúng tôi, quá khứ của chúng tôi, tất cả mọi thứ, và tôi rùng mình trong căn phòng ấm áp. Etta mang cà phê vào. Chúng tôi không nán lại vì nó.
CLARE: Etta và tôi đưa mẹ về giường. Bà cứ không ngừng xin lỗi, như cách bà vẫn luôn luôn làm, và gắng thuyết phục chúng tôi rằng bà đủ khỏe để đi dự lễ mi-sa, nhưng cuối cùng chúng tôi cũng đặt được bà nằm xuống và bà chìm vào giấc ngủ gần như ngay lập tức. Etta nói bà sẽ ở nhà phòng khi mẹ tỉnh giấc, tôi bảo bà đừng ngớ ngẩn, tôi sẽ ở lại, nhưng Etta rất khó bảo nên tôi để bà ngồi bên cạnh giường của mẹ, đọc St.Matthew. Tôi đi xuống hành lang và nhìn vào trong phòng Henry, nhưng nó tối om. Khi tôi mở cửa phòng mình, tôi thấy Henry đang nằm uể oải trên giường của tôi và đọc Nếp gấp thời gian. Tôi khóa cửa và lên nằm cùng anh ấy.
“Mẹ em bị sao vậy?” anh ấy hỏi trong lúc tôi đang cẩn thận nằm xuống cạnh anh, cố không để bị đâm bởi cái váy của mình.
“Mẹ mắc chứng hưng trầm cảm.”
“Bà luôn bị vậy sao?”
“Khi em còn nhỏ, bà có khá hơn. Một đứa con khác của bà qua đời, khi em bảy tuổi, đó là quãng thời gian tồi tệ. Mẹ đã tìm cách tự tử. Em tìm thấy bà.” Tôi vẫn còn nhớ máu chảy khắp nơi, một bể tắm đầy máu loang trong nước, những chiếc khăn tắm ướt sũng vì máu và nước. Tôi hét lên tìm sự giúp đỡ, nhưng chẳng có ai ở nhà. Henry không nói một lời, và tôi nghển cổ lên, anh ấy đang nhìn đăm đăm lên trần nhà.
“Clare”, cuối cùng anh ấy lên tiếng.
“Vâng?”
“Tại sao em không nói với anh? Ý anh là, có rất nhiều chuyện đang xảy ra trong gia đình em mà sẽ tốt hơn nếu anh được biết trước.”
“Nhưng anh đã biết…” tôi ngẩn người. Anh ấy không biết. Làm sao anh ấy có thể biết? “Em xin lỗi. Em đã kể cho anh nghe khi nó vừa xảy ra, và em quên mất rằng lúc này đang là thời điểm trước đó, em đã nghĩ anh biết hết mọi chuyện…”
Henry ngập ngừng, rồi nói, “Anh đã lột sạch những gì thuộc về gia đình anh, tất cả những bí mật và những việc xấu xa đã được vạch trần cho em thấy, anh chỉ ngạc nhiên khi…”
“Nhưng anh chưa giới thiệu em với ông.” Tôi rất nóng lòng được gặp bố của Henry, nhưng tôi ngại không dám đề cập đến.
“Phải, anh chưa.”
“Anh có định sẽ?”
“Một ngày nào đó.”
“Khi nào?” Tôi trông đợi Henry sẽ nói với tôi rằng tôi đang đòi hỏi quá mức, như anh ấy vẫn thường nói khi tôi hỏi quá nhiều, nhưng thay vào đó anh ấy ngồi dậy và đu chân xuống giường. Lưng áo của anh ấy nhàu nhĩ hết cả.
“Anh không biết, Clare. Có lẽ khi anh có thể chịu được điều đó.”
Tôi nghe có tiếng chân dừng lại ngoài cửa, và tay nắm xóc nhẹ qua lại. “Clare?” bố tôi nói. “Tại sao cửa lại khóa?” Tôi đứng dậy và mở cửa. Bố mở miệng định nói thì thấy Henry và ra hiệu cho tôi ra ngoài hành lang.
“Clare, con biết ta và mẹ con không cho phép con dẫn bạn vào phòng ngủ của mình”, ông nói khẽ. “Còn đầy những căn phòng trống khác trong nhà này…”
“Chúng con chỉ đang nói chuyện…”
“Con có thể nói chuyện trong phòng khách.”
“Con chỉ đang kể cho anh ấy nghe về mẹ và con không muốn nói về nó trong phòng khác.”
“Con yêu à, ta không nghĩ con cần phải nói cho cậu ta nghe về mẹ con…”
“Sau màn trình diễn vừa rồi của mẹ, con phải làm gì chứ? Henry có thể tự thấy rằng bà có vấn đề tâm thần, anh ấy đâu phải thằng ngốc…” tôi cao giọng và Alicia mở cửa phòng nó, đặt ngón tay lên miệng.
“Mẹ con chẳng có vấn đề tâm thần gì cả”, bố tôi nghiêm khắc nói.
“Phải, bà có”, Alicia khẳng định.
“Con đừng có xía vào…”
“Con cứ xía vào đấy…”
“Alicia!” Mặt bố tôi đỏ bừng lên, mắt ông lồi cả ra và ông lớn giọng. Etta mở cửa phòng mẹ và nhìn ba chúng tôi bực tức. “Xuống dưới nhà mà la hét”, bà rít khẽ rồi đóng cửa lại. Chúng tôi nhìn nhau bối rối.
“Không phải lúc này”, tôi bảo bố. “Bố có làm phiền con thì lúc khác hãy làm phiền”. Henry đang ngồi trên giường tôi suốt từ nãy đến giờ, giả vờ như anh ấy không có mặt ở đó. “Đi nào, Henry. Hãy sang phòng khác.” Henry, ngoan ngoãn như một cậu bé mắc lỗi, đứng dậy và đi theo tôi xuống dưới nhà. Alicia đắc thắng nhảy theo sau chúng tôi. Đứng dưới chân cầu thang, tôi nhìn lên và thấy bố đang nhìn xuống chúng tôi bất lực. Ông quay lưng bỏ đi và bước tới trước cửa phòng của mẹ rồi gõ cửa.
“Hãy xem Cuộc sống tươi đẹp đi”, Alicia nói, mắt nhìn vào đồng hồ của nó. “năm phút nữa sẽ chiếu trên kênh 60 đấy.”
“Lại nữa? Chẳng phải em đã xem nó cả hai trăm lần rồi sao?”
Alicia thích Jimmy Stewart.
“Anh chưa xem”, Henry nói.
Alicia có vẻ sốc. “Chưa bao giờ? Tại sao anh có thể?”
“Anh không có ti vi.”
Giờ thì Alicia thực sự sốc. “Ti vi của anh bị hỏng hay sao?”
Henry cười. “Không. Anh chỉ ghét chúng thôi. Chúng khiến anh đau đầu.” Chúng khiến anh ấy du hành thời gian. Vì sự nhấp nháy của màn hình.
Alicia thất vọng. “Vậy là anh không muốn xem?”
Henry nhìn tôi; tôi không phiền. “Dĩ nhiên rồi”, tôi nói. “Nhưng chúng ta sẽ không xem đoạn kết; chúng ta phải chuẩn bị cho lễ mi-sa.”
Chúng tôi kéo sang phòng chiếu phim, ngay bên cạnh phòng khách. Alicia bật máy. Dàn hợp ca đang hát It Came Upon the Midnight Clear. “Kinh”, con bé cười nhạo. “Nhìn đống áo choàng bằng nhựa vàng khè kìa. Chúng trông như những chiếc áo mưa.” Con bé rơi tõm xuống sàn nhà, còn Henry ngồi xuống ghế tràng kỉ. Tôi ngồi xuống bên cạnh anh ấy. Kể từ lúc về nhà, tôi cứ không ngừng lo nghĩ đến chuyện cư xử với Henry như thế nào trước mặt các thành viên đa chủng loại của gia đình tôi. Tôi nên ngồi gần đến mức nào? Nếu Alicia không ở đây, tôi sẽ nằm xuống ghế, tựa đầu lên đùi Henry. Henry giải quyết vấn đề của tôi bằng cách ngồi xích gần lại và quàng tay qua người tôi. Cánh tay ngượng nghịu e dè. Chúng tôi sẽ chẳng bao giờ ngồi như thế này trong hoàn cảnh khác. Dĩ nhiên, chúng tôi chẳng bao giờ xem ti vi cùng nhau. Có thể đây sẽ là cách chúng tôi ngồi gần nếu có lúc nào đó xem ti vi. Dàn đồng ca biến mất và một vài đoạn quảng cáo hiện lên. McDonald’s, đại lý phân phối Buick địa phương, Pillsbury, Red Lobster, họ đều chúc chúng tôi một Giáng Sinh an lành. Tôi nhìn Henry đang lộ vẻ sửng sốt tột độ trên mặt.
“Sao vậy?” tôi hỏi khẽ.
“Tốc độ hình ảnh. Chúng cứ thay phiên nhau nhảy sau vài giây; anh phát ốm mất.” Henry lấy ngón tay xoa mắt. “Anh nghĩ anh sẽ đi đọc sách một lát.” Anh ấy đứng dậy và bước ra khỏi phòng, sau một lát, tôi nghe tiếng bước chân anh ấy đi lên cầu thang. Tôi cầu nguyện nhanh: Chúa ơi, làm ơn đừng để Henry du hành vào lúc này, không phải lúc chúng con chuẩn bị đi lễ nhà thờ và con sẽ chẳng thể nào giải thích. Alicia trườn lên ghế trong lúc đoạn giới thiệu xuất hiện trên ti vi.
“Anh ấy không trụ được lâu cho lắm”, con bé nói.
“Anh ấy bị đau đầu ghê gớm. Cơn đau mà khiến em phải nằm yên trong bóng tối không động đậy, và nếu có ai đó la ó thì đầu em sẽ nổ tung.”
“Ồ.” James Stewart đang lôi ra một đống tờ rơi giới thiệu du lịch, nhưng sự khởi hành của anh ta sẽ sớm bị dập tắt bởi một điệu nhảy. “Anh ấy rất dễ thương.”
“Jimmy Stewart?”
“Anh ấy cũng dễ thương. Nhưng ý em là người đàn ông của chị. Henry.”
Tôi cười. Tôi tự hào như thể đã tạo ra Henry. “Phải.”
Donna Reed đang mỉm cười rạng rỡ với Jimmy Stewart ở bên kia căn phòng chật ních người. Giờ họ đang nhảy cùng nhau, và tình địch của Jimmy Stewart đã gạt cần khiến sàn nhảy tách đôi, lộ ra bể bơi bên dưới. “Mẹ rất thích anh ấy.”
“Tạ ơn chúa.” Donna và Jimmy đang nhảy giật lùi về phía bể; sớm thôi mọi người trong những bộ cánh dạ vũ cũng sẽ gia nhập cùng họ khi ban nhạc vẫn đang chơi.
“Nell và Etta cũng duyệt.”
“Tuyệt. Giờ thì bọn chị chỉ cần vượt qua 36 giờ đồng hồ tới mà không làm hỏng ấn tượng ban đầu.”
“Việc đó thì có gì khó? Trừ phi… không, chị
CLARE: 8 giờ 32 phút sáng ngày 24 tháng Mười Hai, tôi và Henry đang trên đường đến biệt thự Sáo Bắc Mỹ cho kỳ nghỉ Giáng Sinh. Hôm nay là một ngày sáng đẹp, ở Chicago lúc này không có tuyết, nhưng ở Nam Haven, tuyết rơi dày sáu inch. Trước khi lên đường, Henry đã dành thời gian bảo trì xe, kiểm tra lốp và nhìn cả vào đầu máy. Tôi không nghĩ anh ấy biết mình đang nhìn gì một chút nào. Xe của tôi là một chiếc Honda Civic năm 1990 màu trắng đáng yêu, và tôi rất thích nó, nhưng Henry cực kỳ ghét đi xe, đặc biệt là những chiếc xe nhỏ. Anh ấy là một hành khách khó tính, lúc nào cũng bám chặt lấy tay vịn trên ghế và đạp thắng mỗi khi chúng tôi vượt qua xe ai đó. Có lẽ anh ấy sẽ bớt sợ nếu có thể cầm lái, nhưng vì một số lý do hiển nhiên, Henry không có bằng lái. Vậy nên chúng tôi rong ruổi dọc cao tốc Indiana trong ngày mùa đông đẹp trời này; tôi thì điềm tĩnh và mong đợi được gặp gia đình, còn Henry thật vô phương cứu chữa. Chưa kể sáng nay anh ấy đã không tập chạy; tôi nhận ra rằng Henry cần một lượng lớn hoạt động thân thể mọi lúc để có thể trở nên vui vẻ. Giống như thể đi chơi cùng chó săn nhỏ. Ở bên Henry trong thời gian thực thật khác. Khi tôi còn nhỏ, Henry đến rồi đi, và những lần chúng tôi gặp mặt đều tập trung, kịch tính và đáng lo nghĩ. Có rất nhiều điều Henry đã chẳng nói cho tôi, và hầu hết mọi thời gian anh ấy không chịu để tôi lại gần, nên tôi luôn có cảm giác không thỏa mãn mãnh liệt. Khi cuối cùng cũng tìm được anh ấy ở hiện tại, tôi những tưởng nó cũng sẽ như vậy. Nhưng không, nó tuyệt hơn nhiều, ở nhiều mặt. Điểm đầu tiên và quan trọng nhất là thay vì từ chối đụng vào tôi, Henry lại không ngừng chủ động lại gần, hôn tôi và quan hệ cùng tôi. Tôi cảm thấy như mình đã trở thành một con người khác, một người được tắm trong hồ nước của dục vọng. Và anh ấy kể cho tôi nghe nhiều thứ. Bất kể điều gì tôi hỏi anh ấy về bản thân, cuộc sống và gia đình, anh ấy đều kể cho tôi nghe, với đầy đủ tên, địa chỉ, và ngày tháng. Những điều đã có vẻ kì bí khi tôi còn là một đứa trẻ giờ đây trở nên hoàn toàn hợp lý. Nhưng điều tuyệt vời hơn hết thảy là tôi được gặp anh trong khoảng thời gian dài - hàng giờ, hàng ngày. Tôi biết phải tìm anh ở đâu. Anh ấy đi làm, rồi trở về nhà. Đôi lúc, tôi mở sổ địa chỉ ra và cứ nhìn đăm đăm vào: Henry DeTamble, 714 Dearborn, lie, Chicago, IL 60610, 312-431-8313. Họ tên, địa chỉ và số điện thoại. Tôi có thể gọi điện cho anh. Đây là một phép màu. Tôi cảm thấy như Dorothy, khi ngôi nhà của cô ấy hạ cánh xuống Oz và thế giới chuyển sang chỉ có màu trắng và đen. Chúng tôi không còn ở Kansas nữa.
Thực tế, chúng tôi đang chuẩn bị vào tới Michigan, và có một trạm nghỉ phía trước. Tôi tấp xe vào bãi đỗ, rồi chúng tôi ra ngoài và duỗi tay chân. Chúng tôi bước vào trong tòa nhà, có nhiều bản đồ, tờ rơi cho khách du lịch, và một dãy dài những chiếc máy bán hàng tự động.
“Ồ”, Henry nói. Anh ấy lại gần và xem xét đống đồ ăn tạp nhạp, rồi bắt đầu đọc bộ sách quảng cáo. “Hãy đi đến Frankenmuth nhé! 365 ngày Giáng Sinh mỗi năm! Chúa ơi, anh sẽ tự mổ bụng chỉ sau nửa giờ đồng hồ ở đó. Em có tiền lẻ không?”
Tôi tìm thấy một nắm tiền lẻ ở đáy túi xách và chúng tôi hân hoan dùng chúng để mua hai lon Cô-ca, một hộp Good & Plenty, và một thỏi Hershey. Chúng tôi bước trở ra không khí khô lạnh, tay trong tay. Chúng tôi ngồi trong xe, mở nắp cô-ca và hấp thu các món đường. Henry nhìn đồng hồ của tôi nói, “Thật suy đồi. Mới chỉ có 9 giờ 15.”
“Một vài phút nữa sẽ là 10 giờ 15.”
“Ồ phải. Thời gian ở Michigan sớm hơn 1 tiếng. Thật không tưởng.”
Tôi nhìn anh ấy. “Mọi thứ đều không tưởng. Em không thể tin anh thực sự đang trên đường đến gặp gia đình em. Em đã mất biết bao thời gian để che giấu anh khỏi họ.”
“Chỉ vì yêu mến em nên anh mới làm thế này. Anh đã dành biết bao thời gian lảng tránh những chuyến đi đường dài, gặp gỡ gia đình bạn gái vào Giáng Sinh. Việc anh đang làm cả ba điều một lúc chứng tỏ anh yêu em biết nhường nào.”
“Henry…” Tôi quay sang phía anh ấy; chúng tôi hôn nhau. Nụ hôn chuyển sang thứ gì đó nhiều hơn thế khi tôi nhìn thấy qua khóe mắt ba cậu bé còn chưa dậy thì và con chó to lớn đang đứng cách chúng tôi chỉ vài thước, nhìn chúng tôi với vẻ thích thú. Henry quay sang để xem tôi đang nhìn gì và cả ba cậu bé mỉm cười rồi ra dấu tán thưởng. Chúng đi nước kiệu về phía xe tải nhỏ của bố mẹ chúng.
“Nhân tiện, việc nghỉ ngơi ở nhà em được sắp xếp như thế nào nhỉ?”
“Ồ. Hôm qua Etta gọi cho em về chuyện đó. Em sẽ ở phòng riêng của em còn anh ở phòng màu xanh. Chúng ta ở hai đầu hành lang, phòng của bố mẹ em và Alicia ở giữa.”
“Và chúng ta quyết tâm nghe theo sự sắp xếp này đến khi nào?”
Tôi khởi động xe và chúng tôi trở lại xa lộ. “Em không biết vì em chưa từng làm việc này bao giờ. Mark thường đưa các cô bạn gái của anh ấy xuống phòng tập và quan hệ với họ trên ghế bành trong vài giờ. Tất cả mọi người giả vờ như không biết. Nếu chuyện trở nên khó khăn, chúng ta lúc nào cũng có thể xuống phòng đọc; em vẫn thường giấu anh dưới đó mà.”
Henry nhìn ra ngoài cửa sổ. “Việc này cũng không đến nỗi tệ.”
“Việc gì cơ?”
“Đi đường. Trong xe. Trên xa lộ.”
“Chao ôi! Tiếp theo anh sẽ dám đặt chân lên máy bay.”
“Không bao giờ.”
“Paris. Cairo. London. Kyoto.”
“Không đời nào. Anh luôn tin rằng mình sẽ biến mất khi đang ở trên máy bay và chỉ có Chúa mới biết anh có thể hiện hình trở lại trên một con chim đang phóng đi với tốc độ 350 dặm một giờ hay không. Anh sẽ rơi từ trên trời xuống như Icarus.”
“Thật sao?”
“Chắc chắn anh sẽ không kiểm chứng.”
“Anh có thể đi đến những nơi đó bằng cách đi xuyên thời gian không?”
“Giả thiết của anh là, nhớ, đây chỉ là giả thiết đặc biệt về du hành thời gian với tư cách người du hành trải nghiệm Henry DeTamble chứ không phải giả thiết chung về du hành thời gian đâu nhé.”
“Được rồi.”
“Đầu tiên, anh nghĩ đó là vấn đề não bộ. Anh nghĩ nó rất giống với chứng động kinh, vì nó có xu hướng xảy ra khi anh bị áp lực, và có một số tín hiệu vật chất, như đèn chớp, có thể dẫn đến việc du hành. Và vì những việc như chạy bộ, tình dục và thuốc có thể giúp anh bám trụ lại với hiện tại. Thứ hai, anh hoàn toàn không có khả năng điều khiển nơi chốn và thời gian sẽ đến, hay độ dài của mỗi cuộc hành trình, hay khi nào sẽ trở lại. Vậy nên du lịch thời gian vòng quanh vùng duyên hải miền nam châu Âu hiếm có thể xảy ra. Nói vậy vì tiềm thức của anh có vẻ can thiệp rất nhiều vào chuyện kiểm soát du hành, vì anh dành rất nhiều thời gian trong quá khứ của mình, quay trở lại những sự kiện thú vị hoặc quan trọng, hiển nhiên anh sẽ dành một khoảng thời gian tương đối để ghé thăm em, mà anh đang rất nóng lòng chờ đợi. Anh có khuynh hướng đi tới những nơi ngẫu nhiên. Nhưng về cơ bản, anh có xu hướng trở về quá khứ nhiều hơn là đi tới tương lai.”
“Anh đã đi tới tương lai? Em không biết anh có thể làm vậy.”
Henry trông có vẻ thỏa mãn với chính mình. “Cho đến giờ, phạm vi của anh dao động trong khoảng 50 năm theo mỗi chiều. Nhưng rất ít khi anh đi đến tương lai, và anh không nghĩ mình có thể thấy gì hữu ích ở đó. Nó luôn ngắn ngủi. Và có thể tại vì anh không biết mình đang nhìn gì. Quá khứ kéo anh lại nhiều hơn. Khi ở trong quá khứ, anh cảm thấy chắc chắn hơn. có lẽ vì bản thân tương lai ít ổn định hơn? Anh không biết. Anh luôn có cảm giác không khí loãng hơn ở tương lai: cảm giác khác biệt. Khó hơn để chạy ở đó.” Henry trầm ngâm nói những điều này, và bất chợt tôi có cảm giác kinh hãi thoáng qua vì phải ở những nơi, những thời điểm xa lạ, không quần áo, không bạn bè…
“Đó là lý do vì sao chân anh…”
“Như da thuộc.” Lòng bàn chân Henry có những vết chai sạn dày, như thể chúng đang cố gắng biến thành một đôi giày. “Anh là con quỷ móng guốc. Nếu có chuyện gì xảy ra với chân anh thì bắn chết anh luôn cho rồi.”
Chúng tôi lái xe trong im lặng một hồi. Xa lộ nhấp nhô, cao lên rồi hạ xuống, những cánh đồng ngập xác ngô chết vụt qua mặt. Các nông trang đứng tắm trong ánh nắng mùa đông, những chiếc xe tải nhỏ, xe ngựa kéo và ô tô xếp dọc trên đường vào nhà. Tôi thở dài. Về thăm gia đình thật là một trải nghiệm lăn lộn. Tôi nóng lòng muốn gặp Alicia và Etta, tôi lo lắng cho mẹ và không muốn phải đối mặt với bố và Mark. Nhưng tôi tò mò muốn biết họ sẽ đối mặt với Henry, cũng như anh ấy sẽ đối mặt với họ như thế nào. Tôi tự hào vì đã giữ Henry như một bí mật trong suốt thời gian dài như vậy. Suốt 14 năm. Khi bạn là một đứa trẻ, 14 năm là bất tận.
Chúng tôi đi qua Wal-Mart, Dairy Queen, McDonald’s, nhiều cánh đồng ngô khác, một vườn cây ăn quả. Vườn dâu tây, vườn cây việt quất cho khách tự hái. Vào mùa hè, con đường này là một hành lang dài của hoa quả, ngũ cốc và chủ nghĩa tư bản. Nhưng giờ những cánh đồng đã chết và khô cằn; xe cộ chỉ biết tăng tốc dọc con đường cao tốc lạnh đầy nắng và lờ đi các bãi đỗ xe đang vẫy gọi.
Tôi chưa bao giờ nghĩ nhiều về Nam Haven cho tới khi chuyển đến Chicago. Nhà của chúng tôi lúc nào cũng như một hòn đảo, nằm trong khu vực tư nhân, bao quanh bởi đồng cỏ, vườn cây ăn quả, rừng và nông trại, còn Nam Haven chỉ là thị trấn, như trong Hãy đi đến thị trấn và mua kem nhé. Thị trấn là cửa hàng tạp hóa, là tiệm dụng cụ đồ bếp, cửa hàng bánh ngọt Mackenzie và cửa hàng băng đĩa, nhạc phổ ở trung tâm mua sắm Music, cửa hàng ưa thích của Alicia. Chúng tôi thường đứng trước tiệm ảnh của Appleyard và vẽ lên những câu chuyện về các cô dâu, các cậu bé sơ sinh và các gia đình đang nở nụ cười khó ưa sau ô cửa sổ. Chúng tôi đã không nghĩ thư viện trông buồn cười trong vẻ tráng lệ nhái Hi Lạp của nó, hay đã không thấy việc nấu nướng thật tẻ nhạt và hạn chế, hay các bộ phim ở Michigan thật đơn giản. Những suy nghĩ này xuất hiện về sau này, khi tôi đã trở thành một cư dân của thành phố, một người xa quê khắc khoải ngăn cách chính mình khỏi những cung cách quê mùa thời tuổi trẻ của cô ấy. Một nỗi luyến tiếc cho cô gái nhỏ là tôi, người đã yêu những cánh đồng và tin vào Chúa, người đã dành những ngày nghỉ ốm mùa đông ở nhà đọc Nancy Drew và mút từng giọt thuốc ho vị bạc hà, người có thể giữ bí mật. Tôi liếc nhìn Henry và thấy anh đã lăn ra ngủ.
Nam Haven, 50 dặm.
Hai mươi dặn, mười hai, ba, một.
Đường Phoenix.
Cao tốc Blue Star.
Và rồi: ngõ Meagram. Tôi với tay sang đánh thức Henry nhưng anh ấy đã tỉnh từ lâu. Anh ấy mỉm cười lo lắng và nhìn ra cửa sổ tới đường hầm hun hút những ngọn cây trơ trọi giữa mùa đông trong lúc chúng tôi rầm rập tiến tới. Khi cánh cửa ló dạng, tôi dò dẫm trong ngăn đựng đồ nhỏ trên xe để tìm điều khiển, rồi cánh cửa bật ra và chúng tôi đi qua nó.
Căn nhà hiện ra như bật lên từ trang sách. Henry há hốc miệng, rồi bắt đầu phá lên cười.
“Sao vậy?” Tôi hỏi.
“Anh không nghĩ nó khổng lồ đến thế. Con quái vậy này có tất cả bao nhiêu phòng?”
“Hai mươi tư”, tôi trả lời anh ấy. Etta đang vẫy tay với chúng tôi từ cửa sổ đại sảnh trong lúc tôi đi vòng quanh con đường và dừng lại trước cửa chính. Tóc bà đã bạc nhiều hơn so với lần cuối tôi ở nhà, nhưng mặt bà đang ửng hồng trong niềm hân hoan. Trong lúc chúng tôi trèo ra khỏi xe, Etta thận trọng bước xuống những bậc thang phủ băng, bà không mặc áo choàng, chỉ độc chiếc váy màu xanh nước biển với cổ viền ren, thận trọng giữ thăng bằng cho thân thể mập mạp trên đôi giày bệt. Tôi chạy lại định đỡ tay bà nhưng bà xua tôi ra cho đến khi xuống bậc thềm cuối cùng rồi ôm lấy tôi và hôn (tôi ngửi mùi Noxzema và mùi phấn của Etta một cách hân hoan) trong lúc Henry đứng bên cạnh, chờ đợi. “Và chúng ta có gì ở đây thế này?” bà nói như thể Henry là cậu bé tôi mang theo về mà không báo trước. “Etta Milbauer, Henry DeTamble”, tôi giới thiệu. Tôi nhìn thấy vẻ “Ồ” thoáng qua trên mặt Henry và tôi tự hỏi không biết anh ấy đã nghĩ bà là ai? Etta cười toét miệng với Henry trong lúc chúng tôi trèo lên bậc thềm. Henry hạ giọng và hỏi tôi, “Đồ đạc chúng ta thì thế nào?” tôi bảo anh ấy rằng Peter sẽ lo việc đó. “Mọi người đâu hết ạ?” tôi hỏi, Etta bảo rằng bữa trưa sẽ được chuẩn bị trong 15 phút nữa, chúng tôi có thể cởi áo khoác ngoài, đi rửa ráy rồi vào dùng bữa. Bà bỏ chúng tôi đứng giữa tiền sảnh rồi lẩn vào bếp. Tôi quay người, cởi áo khoác và treo nó trong tủ quần áo ở tiền sảnh. Khi tôi quay người lại Henry đang vẫy tay với ai đó. Tôi liếc nhìn xung quanh anh ấy và nhận ra Nell đang thò khuôn mặt với cái mũi hếch, to kềnh ra từ cửa phòng ăn, mỉm cười và tôi chạy lại trao cho bà một nụ hôn sướt mướt, bà khúc khích cười với tôi, nói, “Một anh chàng đẹp trai đấy, đồ khỉ cái”, rồi lại lẩn vào phòng trước khi Henry có thể đuổi kịp chúng tôi.
“Nell?” anh ấy đoán và tôi gật đầu. “Không phải bà xấu hổ đâu, chỉ bận thôi”, tôi giải thích. Tôi dẫn anh ấy tới cầu thang hậu lên tầng hai. “Anh sẽ ở đây”, tôi bảo anh ấy, mở cửa căn phòng ngủ màu xanh. Anh ấy nhìn vào trong rồi theo tôi xuống cuối hành lang. “Đây là phòng của em”, tôi bồn chồn nói và Henry lách qua tôi, đứng giữa tấm thảm trải sàn, chỉ nhìn quanh và khi anh ấy quay qua tôi, tôi biết anh ấy chẳng nhận ra thứ gì; không có gì trong căn phòng này có ý nghĩa gì với anh ấy, và con dao của sự nhận thức cứa sâu hơn vào tôi: tất cả những kỷ vật trong bảo tàng quá khứ này của chúng tôi giống như những bức thư tình được gửi tới cho một người không biết chữ. Henry cầm một tổ chim hồng tước lên (đó tình cờ là tổ chim đầu tiên trong rất nhiều tổ chim mà anh ấy đã đưa cho tôi suốt nhiều năm trời) và nói, “Thú vị đấy”. Tôi gật đầu, rồi mở miệng nói cho anh ấy biết và anh ấy đặt nó trở lại trên giá, nói, “Cửa này có thể khóa không?” Tôi vặn ổ khóa và chúng tôi muộn giờ ăn trưa.
HENRY: Tôi điềm tĩnh đi theo Clare xuống cầu thang, qua hành lang tối lạnh và đi vào phòng ăn. Mọi người đều đã đang dùng bữa. Căn phòng thấp trần và thoải mái theo kiểu William Morris; không khí ấm áp tỏa ra từ ngọn lửa bập bùng trong một chiếc lò sưởi nhỏ; và những ô cửa sổ mờ đi vì băng giá đến nỗi tôi không thể nhìn thấy gì bên ngoài. Clare lại gần một người phụ nữ gầy với mái tóc đỏ nhạt mà chắc hẳn là mẹ của cô ấy, người đang nghiêng đầu đón nụ hôn của Clare, người khẽ nhướn người đứng lên để bắt tay tôi. Clare giới thiệu với tôi bà ấy là “mẹ em” và tôi gọi bà là “cô Abshire”, ngay lập tức bà nói, “Ồ, nhưng cháu phải gọi ta là Lucille, ai cũng gọi vậy cả”, rồi mỉm cười mệt mỏi nhưng nồng hậu, như thể bà là mặt trời rực rỡ ở một thiên hà khác. Chúng tôi ngồi xuống đối diện nhau. Clare ngồi giữa Mark và một người phụ nữ luống tuổi, bà dì Dulcie; còn tôi ngồi giữa Alicia và một cô gái tóc vàng xinh đẹp bụ bẫm, người được giới thiệu với cái tên Sharon và có vẻ như đi cùng Mark. Bố của Clare ngồi ở đầu bàn và ấn tượng đầu tiên của tôi về ông là ông có vẻ cực kỳ bối rối khi nhìn thấy tôi. Anh chàng đẹp trai ngỗ ngược Mark cũng có vẻ cùng cảm xúc. Họ đã nhìn thấy tôi trước đó. Tôi tự hỏi mình đã làm gì để họ phải chú ý, nhớ và giật nảy mình có thoáng chút ác cảm khi Clare giới thiệu tôi, Nhưng Philip Adshire là một luật sư, một bậc thầy biểu cảm, nên chỉ chưa đến một phút sau ông ấy đã trở nên nhã nhặn và mỉm cười, đã là chủ nhà, là bố của bạn gái tôi, một người trung niên đang dần hói với cặp kính rộng bản và một thân thể cường tráng đã trở nên mềm nhũn và phì nộn, nhung có đôi bàn tay mạnh mẽ, bàn tay của một người chơi tennis, đôi mắt xám vẫn nhìn tôi cảnh giác bất kể nụ cười kín đoán. Mark gặp khó khăn trong việc che đậy nỗi bất an của mình, và cứ mỗi lần tôi bắt gặp ánh mắt của anh ta là anh ta lại nhìn vội xuống đĩa của mình. Alicia không giống với những gì tôi hình dung; con bé thẳng tính và tốt bụng, nhưng hơi kỳ quái, bất thần. Con bé có mái tóc sẫm của Philip, giống Mark, và đường nét của Lucille, tương đối; Alicia trông như thể ai đó tìm cách dung hòa giữa Clare và Mark nhưng bỏ cuộc nên ném Eleanor Roosevelt vào thay thế. Philip nói gì đó và Alicia cười, đột nhiên con bé trở nên đáng yêu. Tôi quay sang con bé, ngạc nhiên khi thấy nó đứng dậy khỏi bàn.
“Em phải đi đến St.Basil’s”, con bé cho tôi biết. “Em có buổi tập dượt. Anh sẽ đến nhà thờ chứ?” Tôi liếc nhanh sang Clare, cô ấy khẽ gật đầu, rồi tôi bảo Alicia, “Dĩ nhiên rồi”. Mọi người thở dài vẻ… nhẹ nhõm? Theo tôi nhớ Giáng Sinh là một ngày lễ Cơ Đốc, bên cạnh việc là ngày chuộc tội của cá nhân tôi. Alicia bỏ đi. Tôi hình dung ra mẹ đang cười vào tôi, cặp lông mày tỉa cẩn thận của bà nhướn lên cao trước cảnh cậu con trai nửa Do Thái của bà lạc lõng giữa kỳ Giáng Sinh ở Goyland, và tôi lắc ngón tay về phía bà. Mẹ mà cũng cười sao, tôi bảo bà. Mẹ đã cưới một người theo đạo Tân giáo. Tôi nhìn xuống đĩa của mình; nó gồm thịt lợn muối, đậu và lèo tèo chút salad. Tôi không ăn thịt lợn và tôi ghét đậu.
“Clare nói với chúng tôi cậu là một thủ thư.” Philip dò hỏi, tôi thừa nhận rằng đúng là vậy. Chúng tôi có một cuộc thảo luận nho nhỏ sôi động về Newberry và các ủy viên quản trị của Newberry, những người đồng thời là khách hàng của hãng luật của Philip mà hóa ra có trụ sở tại Chicago khiến tôi không rõ tại sao gia đình Clare lại sống tận Michigan này.
“Các biệt thự mùa hè”, ông ấy giải thích, rồi tôi nhớ ra Clare đã nói với tôi rằng bố cô ấy chuyên về di chúc và các khoản quỹ. Tôi tưởng tượng ra cảnh các bô lão giàu có nằm trên bãi biển tư nhân của họ, tắm mình trong kem chống nắng, quyết định cắt con cháu ra khỏi di chúc và với tay lấy điện thoại gọi cho Philip. Rồi tôi nhớ ra đồng nghiệp của bố tôi trong dàn nhạc giao hưởng Chicago có một căn nhà đâu đó gần đây. Tôi đề cập đến điều này và tai của mọi người vểnh lên.
“Cậu có biết ông ấy không?” Lucille hỏi.
“Chắc rồi. Ông ấy và bố cháu ngồi cạnh nhau.”
“Ngồi cạnh nhau?”
“Cô biết đấy, violin chính và thứ.”
“Bố cậu là nghệ sĩ violin?”
“Vâng.” Tôi quay sang Clare, người đang nhìn mẹ cô ấy chằm chằm với vẻ đừng làm con xấu hổ trên mặt.
“Và ông ấy chơi cho dàn nhạc giao hưởng Chicago?”
“Phải.”
Mặt của Lucillie ngập trong màu hồng; giờ thì tôi đã biết Clare thừa hưởng vẻ ngượng ngùng của cô ấy từ ai. “Cậu có nghĩ ông ấy sẽ lắng nghe Alicia chơi nếu chúng tôi đưa cho ông ấy cuộn băng ghi âm?”
Tôi hy vọng rằng Alicia chơi cực kì, cực kì giỏi. Mọi người vẫn thường gửi băng thu âm tới cho bố tôi. Rồi tôi có một ý tưởng khác hay hơn.
“Alicia chơi vi-ô-lông-cen phải không?”
“Phải.”
“Cô ấy có đang tìm thầy dạy chăng?”
Philip xen vào, “Con bé đang học với Frank Wainwright ở Kalamazoo.”
“Cháu có thể đưa băng ghi âm cho Yoshi Akawa. Một trong những học trò của ông ấy vừa nghỉ để nhận việc ở Paris.” Yoshi là một người tuyệt vời và là vi-ô-lông-cen chính. Tôi biết ít nhất ông ấy sẽ lắng nghe đoạn băng; bố tôi, người không hề dạy dỗ, sẽ đơn giản chỉ ném nó đi. Lucille rất hứng khởi; thậm chí cả Philip cũng có vẻ hài lòng. Clare trông nhẹ nhõm. Mark vẫn ăn. Bà dì Dulcie, nhỏ xíu và có mái tóc hồng, hoàn toàn mù tịt về vụ trao đổi này. Có lẽ bà bị điếc? Tôi nhìn sang Sharon, người đang ngồi bên tay trái của tôi và vẫn chưa hé răng nói nửa lời. Cô ấy có vẻ khổ sở. Philip và Lucille đang thảo luận nên đưa cho tôi cuộn băng nào, hay có lẽ Alicia nên thu một cuộn băng mới? Tôi hỏi Sharon có phải lần đầu tiên cô ấy đến đây không và cô ấy gật đầu. Đúng lúc tôi định hỏi tiếp thì Philip hỏi tôi mẹ tôi làm nghề gì và tôi nháy mắt; tôi nhìn Clare như muốn nói Em chưa kể cho họ nghe bất cứ điều gì sao?
“Mẹ cháu từng là ca sĩ. Bà đã qua đời.”
Clare nói khẽ, “Mẹ của Henry là Annette Lyn Robinson”. Chẳng thà cô ấy cứ bảo mẹ tôi là Đức mẹ đồng trinh Marry; mặt Philip bừng sáng. Lucille khua tay xúc động.
“Thật không thể tin nổi - thật tuyệt vời! Chúng ta có tất cả các đĩa nhạc của bà ấy…” và một tràng dài nữa. Nhưng rồi Lucille nói, “Cô đã được gặp bà ấy khi cô còn trẻ. Bố cô đã đưa cô đi xem Madame Butterfly, và người quen của ông dẫn chúng ta ra phía sau sân khấu khi màn trình diễn kết thúc, chúng ta đi đến phòng thay đồ của bà, và bà ấy đang ở trong đó, với hàng đống hoa được tặng! Có một cậu bé trong đó… đó là cậu!”
Tôi gật đầu, cố tìm lại giọng nói của mình, Clare hỏi, “Bác ấy trông như thế nào?”
Mark nói, “Trưa nay chúng ta sẽ đi trượt tuyết chứ?” Philip gật đầu. Lucille mỉm cười, chìm trong ký ức. “Bà ấy đẹp tuyệt vời, vẫn đội nguyên tóc giả, một mái tóc đen dài, và bà ấy đang dùng nó để giỡn với cậu bé, thọc lét cậu bé, và cậu bé nhảy quanh phòng. Bà ấy có đôi tay thật đáng yêu, bà ấy chỉ cao cỡ ta, rất mảnh mai, và là người Do Thái, nhưng ta nghĩ bà ấy giống người Ý hơn…” Lucille bất ngờ ngừng lại và đưa một tay lên che miệng, mắt nhìn vào cái đĩa trống trơn chỉ còn vài hạt đậu.
“Cậu có theo đạo Do Thái?” Mark thích thú hỏi.
“Tôi đoán vậy, nếu tôi muốn, nhưng chưa ai từng bàn rõ chuyện này. Mẹ tôi mất khi tôi lên sáu, và bố tôi vốn theo đạo Tân giáo.”
“Trông cậu giống hệt bà ấy”, Lucille nói, và tôi cảm ơn. Đĩa của chúng tôi được Etta dọn đi, bà hỏi Sharon và tôi có muốn uống cà phê không. Cả hai chúng tôi đồng thanh nói Có, dứt khoát đến nỗi cả nhà Clare bật cười. Etta nở một nụ cười mẫu tử với chúng tôi rồi vài phút sau bà đặt cà phê trước mặt chúng tôi, và tôi nghĩ Cũng không quá tệ. Mọi người nói chuyện về trượt tuyết, về thời tiết; tất cả chúng tôi đều đang đứng, Philip và Mark dẫn nhau đi xuống hành lang; tôi hỏi Clare nếu cô ấy muốn đi trượt tuyết, cô ấy nhún vai và hỏi tôi có muốn đi không, tôi giải thích rằng tôi không biết trượt và không có hứng học. Cô ấy vẫn quyết định đi sau khi nghe Lucille nói bà ấy cần người giúp đi ván trượt. Trong lúc đi lên lầu tôi nghe tiếng Mark nói, “... giống nhau đến lạ thường…” và tôi mỉm cười một mình.
Sau khi mọi người đã rời đi và căn nhà trở nên yên tĩnh, tôi mạo muội đi ra từ căn phòng lạnh lẽo của mình để tìm hơi ấm và chút cà phê. Tôi đi ngang qua phòng ăn, vào tới nhà bếp và đối mặt với một đội quân hùng hậu đồ thủy tinh, đồ bạc, bánh ngọt, rau củ đã gọt, và chảo nóng trong bếp, giống như những gì bạn thấy trong nhà hàng bốn sao. Đứng giữa đống dụng cụ là Nell đang quay lưng lại phía tôi, ngân nga hát Rudolph con tuần lộc mũi đỏ và lắc lư cái eo bự chảng của bà, vẫy ống rút nước sốt với cô gái da đen trẻ đang câm lặng chỉ tay về phía tôi. Nell quay người lại và nở một nụ cười hở răng cửa lớn, nói, “Cậu đang làm gì trong bếp của tôi, cậu Bạn trai?”
“Cháu đang tự hỏi không biết có còn chút cà phê nào dư không?”
“Dư? Cậu nghĩ tôi ủ cà phê suốt ngày cho nó chua lòm? Xùy, con trai, đi ra khỏi đây, tới phòng khách ngồi và rung chuông rồi ta sẽ pha cà phê mới cho cậu. Mẹ cậu đã không dạy cậu chút nào về pha cà phê hả?”
“Thực ra, mẹ cháu không giỏi khoản nấu nướng”, tôi nói với bà, mạo hiểm tiến tới gần trung tâm của con lốc xoáy hơn. Có mùi gì đó thật thơm. “Bác đang nấu gì vậy?”
“Mùi cậu đang ngửi thấy là gà tây của Thompson”, Nell nói. Bà mở cửa lò để cho tôi xem một con gà tây khổng lồ trông cứ như thứ gì đó đã trải qua vụ hỏa hoạn Chicago vĩ đại. Chỉ một màu đen. “Đừng nhìn vẻ ngờ vực như vậy, nhóc. Bên dưới lớp vỏ đó là món gà tây ngon nhất trần đời đấy.”
Tôi sẵn lòng tin bà; mùi của nó thật hoàn hảo. “Gà Tây của Thompson là gì ạ?” Tôi hỏi, và Nell bắt đầu diễn thuyết về món Gà Tây của Thompson huyền diệu, được sáng chế bởi Morton Thompson, một ký giả, vào những năm 1930. Hóa ra quá trình chế biến con quỷ tuyệt diệu này liên quan đến hàng đống công đoạn nhồi nhét, khâu vá và lật trở không ngừng. Nell cho phép tôi ngồi trong bếp trong lúc bà pha cà phê cho tôi và vật lộn lôi con gà tây ra khỏi lò rồi vật nó ngửa bụng lên, sau đó khéo léo nhỏ nước sốt rượu táo lên khắp mình nó trước khi tống nó trở lại hầm ngục. Có 12 con tôm hùm đang bò lổn ngổn trong bể nước lớn bằng nhựa cạnh bồn rửa bát. “Thú cảnh?” Tôi trêu bà, và bà trả lời, “Đó là bữa tối Giáng Sinh của cậu đấy, con trai; cậu muốn chọn một con không? Cậu không ăn chay đấy chứ?” Tôi cam đoan với bà rằng không hề, rằng tôi là một cậu bé ngoan sẽ ăn bất cứ thứ gì được dọn ra trước mặt.
“Ai mà đoán được, trông cậu thật gầy”, Nell nói. “Ta sẽ vỗ béo cậu.”
“Đó là lý do Clare mang cháu đến đây.”
“Hừm”, Nell nói, vẻ hài lòng. “Được rồi. Giờ thì lượn đi để ta có thể tiếp tục công việc, đây.” Tôi nhận lấy ly cà phê bự, thơm phức và hướng về phía phòng khách, nơi có một cây Giáng Sinh khổng lồ và lò sưởi. Trông như một bức tranh quảng cáo cho Pottery Barn. Tôi an tọa xuống chiếc ghế bành màu cam và đang lục chồng báo khi có người nói, “Anh đã lấy cà phê ở đâu thế?” Tôi ngẩng đầu lên và thấy Sharon đang ngồi đối diện trong chiếc ghế bành màu xanh dương hoàn toàn hợp với áo len của cô ấy.
“Xin chào”, tôi nói. “Tôi xin lỗi, tôi đã không thấy…”
“Không sao”, Sharon nói.
“Tôi đã xuống bếp, nhưng tôi nghĩ chúng ta phải dùng chuông, ở đâu đó.” Chúng tôi quét qua căn phòng và đúng là có một cái chuông trên tường.
“Nơi này thật kỳ quái”, Sharon nói. “Chúng tôi đến đây từ hôm qua và tôi cứ thấp thỏm không thôi, cứ sợ dùng sai loại dĩa hay gì đấy…”
“Cô từ đâu đến?”
“Florida.” Cô ấy cười. “Tôi chưa bao giờ biết đến Giáng Sinh trắng cho tới khi vào Harvard. Bố tôi sở hữu một trạm xăng ở Jacksonville. Tôi đã định sau khi tốt nghiệp sẽ quay trở lại đó, anh biết đấy, vì tôi không thích cái lạnh, nhưng giờ có lẽ tôi đã mắc kẹt.”
“Sao lại thế?”
Sharon ngạc nhiên, “Họ chưa nói với anh sao? Mark và tôi sắp kết hôn.”
Tôi tự hỏi liệu Clare có biết chuyện này. Đây có vẻ như là chuyện Clare sẽ nhắc đến nếu có ấy biết. Rồi tôi nhìn thấy viên kim cương trên tay Sharon. “Xin chúc mừng.”
“Có lẽ vậy. Ý tôi là, cảm ơn anh.”
“Cô không chắc chắn sao? Về việc kết hôn?” Sharon thực ra trông có vẻ như đã khóc; khóe mắt cô ấy sưng vù.
“Tôi đang có mang, nên…”
“Điều đó không nhất thiết rằng cô phải…”
“Có, nếu anh theo đạo Cơ Đốc.” Sharon thở dài và rũ người xuống ghế. Thực ra tôi biết một số cô gái theo đạo Cơ Đốc đã đi phá thai và không bị sét đánh, nhưng có vẻ như niềm tin của Sharon ít dễ dãi hơn.
“Chúc mừng. Khi nào…”
“11 tháng Một.” Sharon nhìn thấy sự ngạc nhiên của tôi và nói, “Ồ, đứa bé? Tháng 4.” Cô ấy nhăn nhó. “Tôi hy vọng nó sẽ xong trước kỳ nghỉ xuân, bằng không tôi không biết phải lo chuyện học hành như thế nào… dù sao cũng chẳng còn quan trọng nữa…”
“Chuyên ngành của cô là gì?”
“Dự bị Y khoa. Bố mẹ tôi đang rất giận dữ, họ muốn tôi đem nó cho người khác nuôi.”
“Họ không thích Mark sao?”
“Họ thậm chí chưa bao giờ gặp Mark. Đó không phải vấn đề. Chỉ là họ sợ tôi sẽ không theo học Y nữa và sẽ thật lãng phí.” Cửa chính mở ra và những người đi trượt tuyết trở về. Một luồng gió lạnh luồn vào tận phòng khách và ùa qua người chúng tôi. Tôi cảm thấy thoải mái, rồi nhận ra tôi đang bị nướng chín như con gà tây của Nell bởi ngọn lửa trong lò sưởi ở đây. “Mấy giờ dùng bữa tối nhỉ?” tôi hỏi Sharon.
“Bảy, nhưng tối qua chúng tôi đã uống rượu ở đây trước. Khi đó Mark vừa nói với bố mẹ anh ấy, và họ không hẳn đã ôm chầm lấy tôi trong hân hoan khi hay chuyện. Ý tôi là, họ tử tế, anh biết đấy, cách người ta có thể vừa tử tế vừa ác ý. Cứ như tôi có thể tự làm cho mình chửa và Mark chẳng liên quan gì cả ấy…”
Tôi nhẹ nhõm khi thấy Clare bước vào. Cô ấy đang đội một chiếc mũ lưỡi trai màu xanh lá cây với núm tua lớn xõa xuống và chiếc áo trượt tuyết xấu xí màu vàng cùng quần jeans xanh dương. Mặt cô ấy ửng hồng vì cái lạnh và đang mỉm cười. Tóc cô ấy ướt nhẹp và tôi thấy trong lúc cô ấy bước sôi nổi trên tấm thảm Ba Tư khổng lồ bằng đôi chân đi bít tất về phía tôi rằng cô ấy thuộc về nơi này, cô ấy không phải một người lầm lạc, cô ấy chỉ đơn giản chọn cho mình một lối sống khác, và tôi rất mừng vì điều đó. Tôi đứng dậy và cô ấy quàng tay qua người tôi, rồi nhanh chóng quay sang Sharon nói, “Em vừa hay tin! Chúc mừng chị!” rồi ôm lấy Sharon, người đang nhìn tôi qua bờ vai của Clare, sửng sốt nhưng đang mỉm cười. Về sau, Sharon nói với tôi rằng, “Tôi nghĩ anh đã vớ được người tử tế duy nhất ở đây.” Tôi lắc đầu phủ nhận nhưng tôi hiểu điều cô ấy nói.
CLARE: Chúng tôi có một giờ đồng hồ rảnh rỗi trước bữa tối và sẽ không ai để ý nếu chúng tôi biến mất. “Đi nào”, tôi nói với Henry. “Hãy cùng ra ngoài.” Anh ấy rên rỉ.
“Bắt buộc sao?”
“Em muốn chỉ cho anh xem thứ này.”
Chúng tôi mặc áo choàng, ủng, mũ và găng tay rồi lê bước ra ngoài bằng cửa sau. Bầu trời trong vắt, chỉ một màu xanh biếc và tuyết trên đồng cỏ phản chiếu trở lại, có chút sáng hơn. Hai màu xanh gặp nhau ở một đường tối những ngọn cây - điểm bắt đầu vào rừng rậm. Vẫn quá sớm cho những vì sao, nhưng có một chiếc máy bay đang nhấp nháy trên đường nó băng qua không gian. Tôi hình dung ngôi nhà của chúng tôi chỉ là một chấm đen nhỏ xíu được nhìn thấy từ trên máy bay, như một ngôi sao.
“Lối này.” Con đường tới khoảng rừng thưa chìm dưới sáu inch tuyết. Tôi nghĩ tới những lần hì hụi lội trên những vết chân trần để không ai nhìn thấy chúng chạy xuống con đường dẫn tới nhà chính. Giờ thì có dấu vết của những con hươu và vết của một con chó rất lớn.
Gốc của những cái cây chết lởm chởm nhô ra dưới tuyết, gió và tiếng ủng của chúng tôi. Khoảng rừng thưa là một vùng trũng nhẵn nhụi của tuyết xanh; tảng đá là một hòn đảo có đỉnh hình nấm. “Là nó đây.”
Henry đứng thò tay vào túi áo choàng. Anh ấy xoay qua xoay lại, ngắm nhìn. “Vậy ra là nó đây”, anh ấy nói. Tôi tìm trên khuôn mặt anh ấy biểu hiện của sự quen thuộc. Chẳng có gì. “Đã bao giờ anh thấy ký ức ảo giác chưa?” tôi hỏi.
Henry thở dài. “Cả cuộc đời anh là một chuỗi những ký ức ảo giác bất tận.”
Chúng tôi quay lại và bước đi trên chính vết chân của mình, trở về nhà.
Một lát sau:
Tôi đã dặn Henry rằng chúng tôi sẽ đóng bộ khi dùng bữa tối Giáng Sinh nên khi gặp nhau ở hành lang, anh ấy chói lọi trong bộ vét màu đen, sơ mi trắng, cà vạt màu hạt dẻ có móc gài khảm xà cừ. “Chúa ạ”, tôi nói. “Anh đã chải chuốt.”
“Phải”, anh ấy thừa nhận. “Thật thảm hại, phải không?”
“Trông anh rất hoàn hảo, một Thanh Niên Đĩnh Đạc.”
“Trong khi thực tế, anh là một Thủ Thư Cuồng Loạn Hạng Sang. Các bậc phụ huynh, hãy cảnh giác con em mình.”
“Họ sẽ yêu anh.”
“Còn anh yêu em. Đến đây nào.” Henry và tôi đứng trước tấm gương dài cả người ở đỉnh cầu thang, cảm phục chính mình. Tôi đang mặc chiếc váy không dây màu xanh nhạt bằng lụa vốn thuộc về bà ngoại. Tôi có bức ảnh chụp bà lúc đang mặc nó vào đêm giao thừa năm 1941, bà đang mỉm cười, môi bà tối màu son và tay đang cầm điếu thuốc. Người đàn ông trong bức ảnh là anh trai của bà, Teddy, người bị giết ở Pháp sáu tháng sau đó; ông ấy cũng đang cười. Henry đặt tay lên eo tôi và tỏ ra ngạc nhiên trước những lớp gọng áo ngực dưới lần vải lụa. Tôi kể cho anh ấy nghe về bà ngoại. “Bà nhỏ hơn cả em. Nó chỉ đau khi ngồi xuống thôi; đầu của những gọng thép chọc vào hông em.” Henry đang hôn lên cổ tôi khi có tiếng ai đó đằng hắng và chúng tôi rời nhau ra. Mark và Sharon đứng ở ngưỡng cửa phòng Mark; bố và mẹ đã miễn cưỡng đồng ý rằng chẳng có lý do gì họ không nên ở cùng phòng.
“Không phải lúc này, nhé”, Mark nói bằng giọng bà cô khó tính. “Cô cậu chưa rút ra được bài học xương máu nào từ anh chị hả, nhóc?”
“Có chứ”, Henry đáp trả. Luôn luôn phòng bị”. Anh ấy mỉm cười gõ vào túi quần (mà thực ra trống không) rồi chúng tôi lướt xuống dưới nhà trong tiếng cười khúc khích của Sharon.
Mọi người đã uống được vài ly khi chúng tôi ra đến phòng khách. Alicia giơ tay làm dấu hiệu bí mật giữa chúng tôi: Cẩn thận với mẹ, bà đang lên cơn. Mẹ đang ngồi trên ghế trường kỉ, vẻ vô hại, tóc bà được cuốn lên thành búi, cổ đeo dây chuyền ngọc trai, và chiếc váy nhung đào, ống có ren. Bà tỏ vẻ hài lòng khi Mark bước đến ngồi xuống bên cạnh, cười khi anh ấy bày trò với bà, và trong khoảnh khắc tôi đã nghĩ có lẽ Alicia đã nhầm. Nhưng rồi tôi thấy cách mà bố đang nhìn mẹ, và tôi nhận ra chắc hẳn bà đã nói điều gì đó tệ lắm trước khi tôi bước vào. Bố đang đứng cạnh giá để rượu. Ông quay sang tôi, bớt căng thẳng, rót cho tôi một ly Cô-ca, đưa cho Mark chai rượu và một chiếc cốc. Ông hỏi Sharon và Henry uống gì. Sharon xin một ly La Croix, Henry, sau khi cân nhắc một hồi, xin một ly Scotch và nước lọc. Bố pha đồ uống bằng một tay, trợn mắt khi thấy Henry nhẹ nhàng tu sạch ly Scotch.
“Ly nữa chứ?”
“Không ạ, cảm ơn bác.” Tôi biết rằng lúc này Henry muốn cầm cả chai và cốc rồi cuộn tròn trên giường với một cuốn sách trong tay, và rằng anh ấy từ chối ly thứ hai để đỡ cảm thấy ái ngại khi phải xin ly thứ ba, thứ tư nữa. Sharon đang lởn vởn quanh Henry; tôi bỏ mặc họ, đi ngang qua phòng để ngồi cạnh bà dì Dulcie bên ghế gần cửa sổ.
“Ồ, cháu à, đáng yêu làm sao… ta đã không thấy chiếc váy đó kể từ khi Elizabeth mặc nó đến dự tiệc nhà Lichts, tổ chức ở cung Thiên Văn.” Alicia lại chỗ chúng tôi; con bé đang mặc chiếc áo cổ rùa màu xanh tím than với một cái lỗ nhỏ xíu nơi tay áo đang tách ra khỏi vạt trên và một chiếc váy cũ xộc xệch, chân đi tất vải phồng phềnh quanh mắt cá chân như một bà lão. Tôi biết con bé ăn mặc như vậy để chọc tức bố.
“Có chuyện gì với mẹ vậy? tôi hỏi nó.
Alicia nhún vai. “Mẹ bực chuyện Sharon.”
“Có chuyện gì với Sharon?” bà dì Dulcie hỏi, đọc môi chúng tôi. “Con bé có vẻ tử tế. Theo ta nó còn tử tế hơn Mark.”
“Chị ấy đang có mang”, tôi nói với bà dì Dulcie. “Họ sắp kết hôn. Mẹ cháu nghĩ chị ấy là dân bần hàn, vì chị ấy là người đầu tiên trong gia đình được học đại học.”
Bà dì Dulcie nhìn tôi sắc sảo, và thấy rằng tôi biết điều bà cũng biết. “Lucille, trong tất cả mọi người, phải là người hiểu con bé nhất.” Alicia định hỏi Dulcie ý bà là gì thì chuông báo bữa tối kêu lên và chúng tôi đứng dậy, trong vô thức, nối đuôi nhau về phía nhà ăn. Tôi thì thầm với Alicia, “Có phải mẹ đã say?” Alicia thì thầm đáp lại, “Em nghĩ mẹ đã uống rượu trong phòng trước khi xuống.” Tôi bóp nhẹ tay Alicia; Henry đi chậm lại, chúng tôi cùng nhau bước vào phòng ăn và tìm chỗ ngồi của mình. Bố và mẹ ngồi ở hai đầu bàn ăn, bà dì Dulcie, Sharon và Mark ngồi một phía, Mark ngồi cạnh mẹ, Alicia, Henry và tôi ngồi phía còn lại, Alicia ngồi cạnh bố. Căn phòng tràn ngập nến và những bông hoa nhỏ trôi bồng bềnh trong tô thủy tinh có hoa văn chạm trổ, Etta đã bày ra tất cả đồ đạc và đĩa sứ trên tấm khăn trải bàn của ngoại do các bà sơ Địa Trung Hải thêu. Một buổi tối Giáng Sinh hệt như mọi buổi tối Giáng sinh mà tôi có thể nhớ khác, ngoại trừ Henry đang ngồi cạnh tôi, bẽn lẽn cúi đầu trong lúc bố đang cầu nguyện.
“Lạy cha chúng con ở trên trời, chúng con xin gửi lời cảm tạ trong đêm thánh này vì lòng khoan dung và nhân từ của Người, cho một năm tới khỏe mạnh và hạnh phúc, cho gia đình sung túc và cho những người bạn mới. Xin cảm tạ Người đã gửi con trai của mình trong hình hài một đứa trẻ xuống soi lối và cứu rỗi chúng con, chúng con cảm tạ người vì đứa trẻ mà Mark và Sharon sẽ mang đến gia đình này. Chúng con cầu xin để được trở nên hoàn hảo hơn trong tình yêu thương của mình và kiên nhẫn với nhau. Amen.” Ôi trời, tôi nghĩ. Bố gây chuyện rồi. Tôi liếc nhìn mẹ và thấy bà đang sôi lên sùng sục. Bạn sẽ không thể nào nhận ra nếu không biết tính bà: bà chỉ ngồi yên không nhúc nhích và nhìn chằm chằm vào dĩa của mình. Cửa phòng ăn mở ra và Etta bước vào với món súp, bà đặt một bát nhỏ trước mặt mỗi người. Tôi bắt gặp ánh mắt của Mark, anh ấy khẽ nghiêng đầu về phía mẹ và nhướn mày, tôi chỉ khẽ gật đầu. Anh ấy hỏi mẹ về vụ thu hoạch táo năm nay và bà trả lời. Alicia và tôi bớt căng thẳng hơn một chút. Sharon đang theo dõi tôi, tôi nháy mắt với chị ấy. Món súp hạt dẻ và củ cải vàng có vẻ như một ý tưởng tồi, cho đến khi bạn nếm món do Nell nấu. “Ồ”, Henry nói, và tất cả mọi người cười, rồi ăn súp của mình. Etta dọn bát súp đi, Nell mang gà tây vào. Nó màu vàng, đang bốc khói và to khổng lồ, chúng tôi hồ hởi ca ngợi, như chúng tôi vẫn làm hằng năm. Nell toét miệng cười, nói, “Thôi mà”, như bà vẫn nói hằng năm. “Ồ, Nell, nó thật hoàn hảo”, mẹ tôi nói trong nước mắt. Nell nhìn bà sắc lẹm rồi quay sang bố tôi, và nói, “Cảm ơn bà, bà Lucille.” Etta lấy cho chúng tôi nhân nhồi, cà rốt ướp bơ đường, khoai tây nghiền, và nước chanh cô, rồi chúng tôi chuyển đĩa của mình cho bố, người sẽ làm đầy chúng bằng thịt gà tây. Tôi nhìn Henry ăn miếng gà tây đầu tiên do Nell nấu: ngạc nhiên, rồi ngất ngây. “Cháu đã nhìn thấy tương lai của mình”, anh ấy tuyên bố, và tôi cứng đơ người. “Cháu sẽ bỏ việc ở thư viện, đến đây sống trong nhà bếp của mọi người và phủ phục kính ngưỡng dưới chân Nell. Hoặc có khi cháu sẽ cưới bác ấy cho tiện.”
“Cậu đến muộn rồi”, Mark nói. “Nell đã kết hôn.”
“Ồ, vậy thì tôi sẽ phải ở dưới chân bác ấy rồi. Tại sao mọi người không béo trên 300 pounds nhỉ?”
“Ta đang trên đường đến đích đó”, bố tôi nói, vỗ vỗ vào cái bụng căng tròn.
“Khi nào già em sẽ nặng 300 pounds và sẽ không phải kéo cây vi-ô-lông-cen đi khắp nơi nữa”, Alicia bảo Henry. “Em sẽ dọn đến Paris sống và chẳng ăn gì ngoài sô-cô-la, em sẽ hút xì-gà, dùng heroin và chỉ nghe nhạc của Jimi Hendrix và The Doors. Phải không, mẹ?”
“Mẹ sẽ đi cùng con”, mẹ tôi nói, rành mạch từng tiếng. “Nhưng mẹ sẽ chỉ nghe Johnny Mathis thôi.”
“Nếu em hút heroin em sẽ không muốn ăn gì nhiều đâu”, Henry đính chính với Alicia, nó đang đăm chiêu nhìn anh ấy. “Hút cần sa ấy.” Bố tôi cau mày. Mark chuyển chủ đề: “Con nghe đài báo tuyết sẽ rơi dày tám inches vào đêm nay.”
“Tám?!?” chúng tôi đồng thanh.
“Tôi đang mơ về một Giáng Sinh trắng[1]…”, Sharon đánh bạo nói mà không hề nhận thức về tội lỗi.
[1] Nguyên gốc: I’m dreaming of a white Christmas (trích ca khúc White Christmas).
“Hy vọng rằng nó sẽ không trút xuống đầu chúng ta khi đang ở nhà thờ”. Alicia cáu kỉnh nói. “Con rất buồn ngủ cứ mỗi khi xong lễ mi-sa.” Chúng tôi ríu rít bàn về những cơn bão tuyết mà chúng tôi trải qua. Bà dì Dulcie kể cho chúng tôi nghe về lần đầu bị mắc kẹt trong cơn bão tuyết lớn vào năm 1967 ở Chicago. “Ta đã phải bỏ xe ở cao tốc Lake Shore Drive và đi bộ từ Adams đến Belmont.”
“Cháu cũng có lần bị mắc kẹt trong cơn bão tuyết”, Henry nói. “Suýt nữa cháu đông thành đá; cuối cùng phải trú tại nhà của mục sư ở nhà thờ giáo hội Trưởng Nhiệm Thứ Tư trên đại lộ Michigan.”
“Khi đó cậu bao nhiêu tuổi?” Bố tôi hỏi, Henry ngập ngừng rồi trả lời, “Ba.” Anh ấy liếc nhìn tôi và tôi biết anh ấy đang nói về một trải nghiệm gặp phải khi đang du hành thời gian. Anh ấy nói thêm. “Lúc đó cháu đang đi cùng bố.” Những lời anh ấy nói rõ ràng là bịa đặt nhưng có vẻ chẳng ai để ý. Etta bước vào dọn đĩa rồi bày ra loạt đĩa mới dùng cho đồ tráng miệng. Sau một chút chậm trễ, Nell bước vào với món pút-đinh màu mận chín bốc lửa. “Ồ!” Henry nói. Nell đặt bánh xuống trước mặt mẹ tôi, và ngọn lửa chuyển mái tóc mờ nhạt của bà sang màu đỏ đồng, giống của tôi, trong giây lát trước khi tắt lịm. Bố tôi mở sâm-banh (bên dưới chiếc khăn ăn, để nút bật không bắn vỡ mắt một ai đó). Tất cả mọi người chuyển ly của mình cho ông và ông rót đầy chúng rồi trả lại. Mẹ tôi cắt bánh thành những miếng mỏng rồi Etta lấy cho mọi người. Có thêm hai chiếc ly nữa, một cho Etta, một cho Nell, và chúng tôi đứng dậy nâng ly chúc mừng.
Bố tôi bắt đầu: “Vì gia đình.”
“Vì Nell và Etta, những người như gia đình, những người đã làm việc vất vả chăm sóc cho nơi này và những người thật tháo vát, tài năng”, mẹ tôi nói, nhẹ nhàng.
“Vì hòa bình và công lý”, bà dì Dulcie nói.
“Vì gia đình”, Etta nói.
“Vì những sự khởi đầu”, Mark nói, hướng tới Sharon.
“Vì sự tình cờ”, chị ấy đáp lại.
Đến lượt tôi. Tôi nhìn vào Henry. “Vì hạnh phúc. Vì giây phút và nơi chốn này.”
Henry nghiêm trang đáp, “Vì thế gian và thời gian”, tim tôi trật nhịp, tôi tự hỏi làm sao anh ấy biết, nhưng rồi tôi nhận ra Marvell là một trong những nhà thơ ưa thích của anh ấy và anh ấy chẳng ám chỉ gì khác ngoài tương lai.
“Vì tuyết, vì Chúa, vì mẹ, vì bố và vì dây đàn vi-ô-lông, vì đường và vì đôi giày Converse cao cổ màu đỏ của con”, Alicia nói, và mọi người bật cười.
“Vì tình yêu”, Nell nói, nhìn thẳng vào tôi, nở nụ cười hết cỡ của bà. “Và vì Morton Thomposon, nhà sáng chế món gà tây ngon nhất quả đất này.”
HENRY: Trong suốt bữa tối, Lucille cứ không ngừng chao đảo từ buồn rầu sang phấn chấn rồi tuyệt vọng. Cả gia đình bà rất cẩn thận thăm dò tâm trạng của bà, đưa bà quay trở lại với trạng thái cân bằng hết lần này đến lần khác, đỡ cho bà, che chở cho bà. Nhưng khi chúng tôi ngồi xuống và bắt đầu ăn điểm tâm, bà khụy ngã và lặng thinh nức nở, hai vai bà run rẩy, bà quay đầu đi như thể chuẩn bị rúc nó sau một đôi cánh như một con chim đang liu riu ngủ. Lúc đầu chỉ có tôi để ý thấy, và tôi ngồi đó, kinh hãi, chẳng biết nên làm gì. Rồi Philip nhìn thấy, và rồi căn phòng chìm trong im lặng. Philip đứng dậy đi về phía bà. “Lucy?” ông ấy thì thầm. “Lucy, có chuyện gì vậy?” Clare hối hả chạy lại, nói, “Thôi mà, mẹ, sẽ ổn thôi, mẹ…” Lucille lắc đầu, không, không, và khóc ướt hai bàn tay. Philip lùi lại; Clare nói, “Suỵt”, và Lucille hấp tấp nói không rõ ràng. Tôi nghe những câu vội vã khó nghe, rồi “Sai lầm hết cả”, và rồi “Phá hủy cuộc đời nó”, và cuối cùng là “Ta hoàn toàn bị ngó lơ trong cái gia đình này”, và “Giả nhân giả nghĩa”, rồi sụt sùi. Tôi ngạc nhiên khi bà dì Dulcie là người phá vỡ im lặng. “Con à, nếu có ai giả nhân giả nghĩa ở đây thì đó là con. Con đã trải qua việc y hệt và ta không thấy nó phá hủy cuộc đời Philip một chút nào. Theo ta, còn khiến nó tốt hơn.” Lucille ngừng khóc và nhìn dì, sững sờ đến rơi vào yên lặng. Mark nhìn bố, người đang gật đầu, và rồi nhìn Sharon, đang mỉm cười như thể cô ấy vừa trúng số. Tôi nhìn Clare, cô ấy chẳng có vẻ ngạc nhiên, và tôi tự hỏi làm sao cô ấy biết mà Mark lại không, rồi lại tự hỏi còn điều gì cô ấy biết mà không nói ra, rồi nó giáng xuống tôi rằng Clare biết mọi thứ, tương lai của chúng tôi, quá khứ của chúng tôi, tất cả mọi thứ, và tôi rùng mình trong căn phòng ấm áp. Etta mang cà phê vào. Chúng tôi không nán lại vì nó.
CLARE: Etta và tôi đưa mẹ về giường. Bà cứ không ngừng xin lỗi, như cách bà vẫn luôn luôn làm, và gắng thuyết phục chúng tôi rằng bà đủ khỏe để đi dự lễ mi-sa, nhưng cuối cùng chúng tôi cũng đặt được bà nằm xuống và bà chìm vào giấc ngủ gần như ngay lập tức. Etta nói bà sẽ ở nhà phòng khi mẹ tỉnh giấc, tôi bảo bà đừng ngớ ngẩn, tôi sẽ ở lại, nhưng Etta rất khó bảo nên tôi để bà ngồi bên cạnh giường của mẹ, đọc St.Matthew. Tôi đi xuống hành lang và nhìn vào trong phòng Henry, nhưng nó tối om. Khi tôi mở cửa phòng mình, tôi thấy Henry đang nằm uể oải trên giường của tôi và đọc Nếp gấp thời gian. Tôi khóa cửa và lên nằm cùng anh ấy.
“Mẹ em bị sao vậy?” anh ấy hỏi trong lúc tôi đang cẩn thận nằm xuống cạnh anh, cố không để bị đâm bởi cái váy của mình.
“Mẹ mắc chứng hưng trầm cảm.”
“Bà luôn bị vậy sao?”
“Khi em còn nhỏ, bà có khá hơn. Một đứa con khác của bà qua đời, khi em bảy tuổi, đó là quãng thời gian tồi tệ. Mẹ đã tìm cách tự tử. Em tìm thấy bà.” Tôi vẫn còn nhớ máu chảy khắp nơi, một bể tắm đầy máu loang trong nước, những chiếc khăn tắm ướt sũng vì máu và nước. Tôi hét lên tìm sự giúp đỡ, nhưng chẳng có ai ở nhà. Henry không nói một lời, và tôi nghển cổ lên, anh ấy đang nhìn đăm đăm lên trần nhà.
“Clare”, cuối cùng anh ấy lên tiếng.
“Vâng?”
“Tại sao em không nói với anh? Ý anh là, có rất nhiều chuyện đang xảy ra trong gia đình em mà sẽ tốt hơn nếu anh được biết trước.”
“Nhưng anh đã biết…” tôi ngẩn người. Anh ấy không biết. Làm sao anh ấy có thể biết? “Em xin lỗi. Em đã kể cho anh nghe khi nó vừa xảy ra, và em quên mất rằng lúc này đang là thời điểm trước đó, em đã nghĩ anh biết hết mọi chuyện…”
Henry ngập ngừng, rồi nói, “Anh đã lột sạch những gì thuộc về gia đình anh, tất cả những bí mật và những việc xấu xa đã được vạch trần cho em thấy, anh chỉ ngạc nhiên khi…”
“Nhưng anh chưa giới thiệu em với ông.” Tôi rất nóng lòng được gặp bố của Henry, nhưng tôi ngại không dám đề cập đến.
“Phải, anh chưa.”
“Anh có định sẽ?”
“Một ngày nào đó.”
“Khi nào?” Tôi trông đợi Henry sẽ nói với tôi rằng tôi đang đòi hỏi quá mức, như anh ấy vẫn thường nói khi tôi hỏi quá nhiều, nhưng thay vào đó anh ấy ngồi dậy và đu chân xuống giường. Lưng áo của anh ấy nhàu nhĩ hết cả.
“Anh không biết, Clare. Có lẽ khi anh có thể chịu được điều đó.”
Tôi nghe có tiếng chân dừng lại ngoài cửa, và tay nắm xóc nhẹ qua lại. “Clare?” bố tôi nói. “Tại sao cửa lại khóa?” Tôi đứng dậy và mở cửa. Bố mở miệng định nói thì thấy Henry và ra hiệu cho tôi ra ngoài hành lang.
“Clare, con biết ta và mẹ con không cho phép con dẫn bạn vào phòng ngủ của mình”, ông nói khẽ. “Còn đầy những căn phòng trống khác trong nhà này…”
“Chúng con chỉ đang nói chuyện…”
“Con có thể nói chuyện trong phòng khách.”
“Con chỉ đang kể cho anh ấy nghe về mẹ và con không muốn nói về nó trong phòng khác.”
“Con yêu à, ta không nghĩ con cần phải nói cho cậu ta nghe về mẹ con…”
“Sau màn trình diễn vừa rồi của mẹ, con phải làm gì chứ? Henry có thể tự thấy rằng bà có vấn đề tâm thần, anh ấy đâu phải thằng ngốc…” tôi cao giọng và Alicia mở cửa phòng nó, đặt ngón tay lên miệng.
“Mẹ con chẳng có vấn đề tâm thần gì cả”, bố tôi nghiêm khắc nói.
“Phải, bà có”, Alicia khẳng định.
“Con đừng có xía vào…”
“Con cứ xía vào đấy…”
“Alicia!” Mặt bố tôi đỏ bừng lên, mắt ông lồi cả ra và ông lớn giọng. Etta mở cửa phòng mẹ và nhìn ba chúng tôi bực tức. “Xuống dưới nhà mà la hét”, bà rít khẽ rồi đóng cửa lại. Chúng tôi nhìn nhau bối rối.
“Không phải lúc này”, tôi bảo bố. “Bố có làm phiền con thì lúc khác hãy làm phiền”. Henry đang ngồi trên giường tôi suốt từ nãy đến giờ, giả vờ như anh ấy không có mặt ở đó. “Đi nào, Henry. Hãy sang phòng khác.” Henry, ngoan ngoãn như một cậu bé mắc lỗi, đứng dậy và đi theo tôi xuống dưới nhà. Alicia đắc thắng nhảy theo sau chúng tôi. Đứng dưới chân cầu thang, tôi nhìn lên và thấy bố đang nhìn xuống chúng tôi bất lực. Ông quay lưng bỏ đi và bước tới trước cửa phòng của mẹ rồi gõ cửa.
“Hãy xem Cuộc sống tươi đẹp đi”, Alicia nói, mắt nhìn vào đồng hồ của nó. “năm phút nữa sẽ chiếu trên kênh 60 đấy.”
“Lại nữa? Chẳng phải em đã xem nó cả hai trăm lần rồi sao?”
Alicia thích Jimmy Stewart.
“Anh chưa xem”, Henry nói.
Alicia có vẻ sốc. “Chưa bao giờ? Tại sao anh có thể?”
“Anh không có ti vi.”
Giờ thì Alicia thực sự sốc. “Ti vi của anh bị hỏng hay sao?”
Henry cười. “Không. Anh chỉ ghét chúng thôi. Chúng khiến anh đau đầu.” Chúng khiến anh ấy du hành thời gian. Vì sự nhấp nháy của màn hình.
Alicia thất vọng. “Vậy là anh không muốn xem?”
Henry nhìn tôi; tôi không phiền. “Dĩ nhiên rồi”, tôi nói. “Nhưng chúng ta sẽ không xem đoạn kết; chúng ta phải chuẩn bị cho lễ mi-sa.”
Chúng tôi kéo sang phòng chiếu phim, ngay bên cạnh phòng khách. Alicia bật máy. Dàn hợp ca đang hát It Came Upon the Midnight Clear. “Kinh”, con bé cười nhạo. “Nhìn đống áo choàng bằng nhựa vàng khè kìa. Chúng trông như những chiếc áo mưa.” Con bé rơi tõm xuống sàn nhà, còn Henry ngồi xuống ghế tràng kỉ. Tôi ngồi xuống bên cạnh anh ấy. Kể từ lúc về nhà, tôi cứ không ngừng lo nghĩ đến chuyện cư xử với Henry như thế nào trước mặt các thành viên đa chủng loại của gia đình tôi. Tôi nên ngồi gần đến mức nào? Nếu Alicia không ở đây, tôi sẽ nằm xuống ghế, tựa đầu lên đùi Henry. Henry giải quyết vấn đề của tôi bằng cách ngồi xích gần lại và quàng tay qua người tôi. Cánh tay ngượng nghịu e dè. Chúng tôi sẽ chẳng bao giờ ngồi như thế này trong hoàn cảnh khác. Dĩ nhiên, chúng tôi chẳng bao giờ xem ti vi cùng nhau. Có thể đây sẽ là cách chúng tôi ngồi gần nếu có lúc nào đó xem ti vi. Dàn đồng ca biến mất và một vài đoạn quảng cáo hiện lên. McDonald’s, đại lý phân phối Buick địa phương, Pillsbury, Red Lobster, họ đều chúc chúng tôi một Giáng Sinh an lành. Tôi nhìn Henry đang lộ vẻ sửng sốt tột độ trên mặt.
“Sao vậy?” tôi hỏi khẽ.
“Tốc độ hình ảnh. Chúng cứ thay phiên nhau nhảy sau vài giây; anh phát ốm mất.” Henry lấy ngón tay xoa mắt. “Anh nghĩ anh sẽ đi đọc sách một lát.” Anh ấy đứng dậy và bước ra khỏi phòng, sau một lát, tôi nghe tiếng bước chân anh ấy đi lên cầu thang. Tôi cầu nguyện nhanh: Chúa ơi, làm ơn đừng để Henry du hành vào lúc này, không phải lúc chúng con chuẩn bị đi lễ nhà thờ và con sẽ chẳng thể nào giải thích. Alicia trườn lên ghế trong lúc đoạn giới thiệu xuất hiện trên ti vi.
“Anh ấy không trụ được lâu cho lắm”, con bé nói.
“Anh ấy bị đau đầu ghê gớm. Cơn đau mà khiến em phải nằm yên trong bóng tối không động đậy, và nếu có ai đó la ó thì đầu em sẽ nổ tung.”
“Ồ.” James Stewart đang lôi ra một đống tờ rơi giới thiệu du lịch, nhưng sự khởi hành của anh ta sẽ sớm bị dập tắt bởi một điệu nhảy. “Anh ấy rất dễ thương.”
“Jimmy Stewart?”
“Anh ấy cũng dễ thương. Nhưng ý em là người đàn ông của chị. Henry.”
Tôi cười. Tôi tự hào như thể đã tạo ra Henry. “Phải.”
Donna Reed đang mỉm cười rạng rỡ với Jimmy Stewart ở bên kia căn phòng chật ních người. Giờ họ đang nhảy cùng nhau, và tình địch của Jimmy Stewart đã gạt cần khiến sàn nhảy tách đôi, lộ ra bể bơi bên dưới. “Mẹ rất thích anh ấy.”
“Tạ ơn chúa.” Donna và Jimmy đang nhảy giật lùi về phía bể; sớm thôi mọi người trong những bộ cánh dạ vũ cũng sẽ gia nhập cùng họ khi ban nhạc vẫn đang chơi.
“Nell và Etta cũng duyệt.”
“Tuyệt. Giờ thì bọn chị chỉ cần vượt qua 36 giờ đồng hồ tới mà không làm hỏng ấn tượng ban đầu.”
“Việc đó thì có gì khó? Trừ phi… không, chị
Tác giả :
Audrey Niffenegger