Tướng Quân Lấy Chồng - Nhiễu Lương Tam Nhật
Chương 28
*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.
Con chim ưng rơi xuống đất, như một lời tuyên chiến chính thức, trên mảnh đất hoang vu rộng lớn, bảy nghìn người ngựa xếp thành thế trận hình chim nhạn, gió lạnh quét qua khiến quân phục phay phần phật, nghiêm trang mà xơ xác điêu tàn.
Phần đầu chim nhạn hình tam giác, toàn bộ có ba trăm người, trong hai ngày Trần Lộ vừa mới đến đã chọn ra trong toàn quân ba trăm người giao cho Hoắc Thời Anh, lúc ấy chàng thanh niên đó hơi cúi đầu nói với nàng: “Trước tiên chọn tạm ba trăm người đã, chết rồi sẽ bổ sung sau, số binh lính còn lại sau những trận đánh đều là những người tốt nhất.” Giọng điệu thờ ơ nhưng kính cẩn.
Khi ấy Hoắc Thời Anh nhìn cần cổ thanh mảnh trắng nhợt nhạt lộ ra bên ngoài cổ áo của chàng trai ấy, hồi lâu sau mới nói: “Vậy thì cứ làm theo lời ngươi đi.”
Hiện giờ, Hoắc Thời Anh đứng ở vị trí đầu hàng của toàn đội hình, Trần Lộ đứng bên cạnh ngựa chiến của Hoắc Thời Anh, hai người đồng thời đưa mắt nhìn về phía trước, đột nhiên Hoắc Thời Anh mở miệng hỏi: “Trước đây từng học võ bao giờ chưa?”.
Hoắc Thời Anh vẫn dõi mắt về phía trước mặt, xung quanh toàn người là người, nhưng Trần Lộ lập tức hiểu ra nàng đang hỏi mình, bèn quay đầu lại nhìn một cái rồi đáp: “Hồi còn nhỏ tiểu nhân có theo võ sư của nhà học qua một số thế võ phòng thân.”
Hoắc Thời Anh quay đầu sang, ánh mắt lạnh lùng từ trên cao nhìn xuống hắn, khóe miệng Trần Lộ thoáng mang theo ý cười ánh mắt chưa từng trốn tránh, Hoắc Thời Anh ra tay nhanh như chớp giật, xưa nay mỗi khi động thủ nàng đều vô cùng mạnh mẽ dứt khoát, tay trái vừa vươn tới năm ngón tay liền xòe ra chụp lấy khuôn mặt của Trần Lộ.
Trần Lộ căn bản không nhìn thấy nàng nhấc tay thế nào tấn công ra sao, chỉ cảm giác có một cơn gió táp vào mặt mình, theo bàn năng liền giơ tay lên ngăn lại, cánh tay hai người còn chưa chạm vào nhau thì Hoắc Thời Anh đã lật tay ngay giữa chừng, định “hỏi thăm” phần yếu hại trên cột sống sau gáy Trần Lộ, thân hình Trần Lộ cúi mạnh về phía trước, cả người dính xuống cổ ngựa, tay Hoắc Thời Anh mang theo tiếng gió lướt qua lưng hắn, động tác còn chưa làm hết thì đột nhiên khuỷu tay khuỵu xuống, nện vào vai Trần Lộ, Trần Lộ khẽ rên lên một tiếng, cánh tay định móc về phía bụng của Hoắc Thời Anh trở nên vô lực buông thõng, lúc nhấc được người dậy liền cảm thấy đầu mình nhẹ bẫng, chiếc mũ sắt của hắn đã ở trong tay Hoắc Thời Anh.
Hoắc Thời Anh vẫn lạnh lùng thờ ơ nhìn hắn, sau đó ném trả mũ sắt vào lòng hắn nói: “Đầu tiên phải giữ được mạng đã.”
Trần Lộ chậm chạp đội lại mũ lên đầu, trên mặt vẫn là vẻ dửng dưng cố hữu, không xấu hổ cũng chẳng ủ rũ, hoàn toàn không có chút cảm xúc nào.
Trên mảnh đất rộng lớn cách đó nửa dặm có hai ngọn đồi nhỏ, tiếng tù và vang lên “ù ù” vừa dứt, lập tức phía sau hai ngọn đồi tràn ra một đoàn người ngựa đen sì đông nghịt.
Hắc Giáp quân sở dĩ được gọi là Hắc Giáp quân tất cả là vì bộ áp giáp của chúng, đội quân này từ người đến ngựa, toàn thân đều được che kín bởi những miếng sắt mỏng dẹt, bộ binh thì mặc giáp Sơn Văn, một bộ giáp Sơn Văn được làm từ ước chừng sáu trăm miếng sắt khâu lại với nhau, trọng lượng lên đến hơn hai mươi cân, che chắn gần như tất cả những vị trí yếu hại trên toàn bộ cơ thể bộ binh, chiến mã cũng được khoác giáp, bao kín hoàn toàn ngực và những bộ phận quan trọng trên thân mình. Vì chế tạo giáp Sơn Văn sử dụng kỹ thuật rèn lạnh, nên giáp có màu đen, đấy cũng chính là nguyên nhân đoàn quân này được gọi là Hắc Giáp quân.
Có thể tượng tưởng một đội kỵ binh được vũ trang như vậy tấn công trên bình địa, thì không khác gì một chiến xa bất khả chiến bại, trong những cuộc chiến đôi công trực diện, ở vào thời đại này, có thể đúc kết bằng hai từ vô địch.
Ở Trung Nguyên đội quân này được hậu thế gọi là đội quân kỵ binh hạng nặng, cũng đã từng xuất hiện ở tiền triều từ hơn hai trăm năm trước hơn thế còn có một lịch sử huy hoàng trong suốt khoảng thời gian ấy, tuy nhiên những đội quân kiểu này tiêu tốn một khoản tiền khổng lồ cho việc duy trì, tiếp tế chi viện, nên theo thời thế chiến loạn, dần dần biến mất khỏi lịch sử, nhưng hơn hai trăm năm sau chúng lại một lần lượt xuất hiện trong vương triều của người Khương
Người ngựa phía trước mặt tràn ra rất có trật tự, cuối cùng tập kết thành một trận hình quái dị trên bình nguyên, chính giữa vuông chằn chặn, hai bên cánh hình tam giác dính sát vào đội hình ở chính giữa, Hoắc Thời Anh vừa liếc mắt nhìn là hiểu ra ngay, loại trận hình này, thật ra hai nghìn người ở chính giữa mới là Hắc Giáp quân đích thực, còn hai bên cánh là kỵ binh hạng nhẹ bình thường hỗ trợ cho nó mà thôi, kỵ binh hạng nặng ở chính giữa chịu trách nhiệm tiên phong, kỵ binh hạng nhẹ ở hai cánh vì có tính cơ động nên phụ trách việc bao vây đánh bọc sườn.
Cái gọi là Hắc Giáp quân sở dĩ đến cuối cùng bị đào thải khỏi quân đội của người Hán là vì có liên quan đến sự hao tài tốn của quá lớn của nó, nhưng trên thực tế còn liên quan đến tính nặng nề cồng kềnh của kiểu quân đội này, một con ngựa của kỵ binh hạng nặng phải cõng quá nhiều, vừa binh sĩ lại cộng thêm bộ giáp trên mình ngựa ước chừng cũng phải năm sáu chục cân, nên không linh hoạt, tính cơ động kém, chỉ thích hợp khi tác chiến trên bình nguyên, ở những nơi gò đồi và khu vực nhiều núi non thì rất khó để phát huy tác dụng.
Hoắc Thời Anh có thể có rất nhiều cách để làm tiêu hao đội quân này, nhưng nàng chọn cách va chạm trực tiếp nhất, nàng muốn đám người ngựa thuộc hạ này của mình sử dụng phương thức chém giết tàn khốc nhất để tôi luyện họ trở thành một thanh đao sắc bén thấm đẫm máu tanh.
Gió thổi khắp bốn phía, người ngựa hai bên đứng cách nhau tầm một trăm trượng, bầu không khí ngưng trệ, tiếng tù và tiên phong của người Khương vang vọng, mã kích (1) của hai ngàn quân ở chính giữa dựng lên rào rào, tiếng vó ngựa chậm rãi khởi động, bọn chúng bắt đầu tấn công rồi.
Hoắc Thời Anh từ từ rút trường đao ra, bỗng quát lớn: “Ya!” Trường đao đột nhiên khua mạnh trên không trung, thúc ngựa lao vọt đi.
“Ya!” Tiếng hô ứng trong quân nổ ra như trời long đất lở, máu và hơi thở cũng như được lây lan theo.
Trên địa thế rộng lớn trống trải quân đội cả hai bên ngang nhiên phát động tấn công, tiếng vó ngựa vang lên như sấm, mặt đất rung chuyển, khoảng cách càng lúc càng gần, mã kích của đội quân màu đen ngả ra rầm rầm, chỉ thẳng về phía trước.
Trong đội quân của Hoắc Thời Anh truyền ra tiếng còi chói tai, đội hình được thu lại, thế trận chim nhạn của bảy nghìn người càng thu càng hẹp, một người đàn ông trung niên to khỏe bên phía Hắc Giáp quân nheo nheo mắt quan sát, ông ta chưa từng nhìn thấy đội ngựa nào di chuyển nhanh mà vẫn có thể duy trì được thế trận xung phong hoàn hảo như vậy.
“Xung phong!” Ông ta đột nhiên quát lớn, tiếng tù và “ù ù” vang lên càng lúc càng đày dặc.
Đội quân bảy nghìn người của Hoắc Thời Anh dọc đường trào ra những âm thanh gào rít kinh tâm động phách.
“Uỳnh……” Quân đội hai bên như thể hai cơn sóng thần đột nhiên va đập vào nhau, trời đất như rung chuyển, Hoắc Thời Anh dẫn đầu con chim nhạn của nàng mạnh mẽ xông vào, thế tấn công cực lớn, nhưng trong khoảng khắc va chạm, mọi thứ đột nhiên như khựng lại. Trên mảnh đất trống trải bùng nổ một tiếng gầm cực đại. Tiếng chiến mã hí lên đầy bi thương, tiếng người gào thét, thấu tận trời xanh.
Mã kích của người Khương đâm xuyên cả chiến mã, chọc thủng cơ thể người, dòng máu tươi tuyệt đẹp bắn tung tóe chỉ trong nháy mắt đã phủ một lớp diễm sắc lên khung cảnh đất trời thê lương, trong đội quân của người Hán, những người trong tốp lao lên đầu tiên ngã xuống hàng loạt, nách Hoắc Thời Anh kẹp chặt ba cây mã kích đâm tới, đao vung lên gạt ngang chém đứt đầu kẻ địch, xoay người thét lớn với binh lính thổi còi lệnh: “Thổi còi, lệnh cho toàn quân co chặt đội hình lại, xung phong, tấn công vào chỗ đội hình đang rối loạn của bọn chúng!”.
Tiếng còi chói tai vang lên liên tiếp, vang lên không ngừng, âm thanh trầm đục “bịch bịch” luẩn quẩn khắp xung quanh, bọn họ bắt đầu phản công rồi, vũ khí trong tay đội quân vừa mới lên bờ không còn là trường đao nữa, trường đao không chém rách được giáp sát, vì thế được thay bằng ba loại độn khí là roi, giản (2), và chùy, dựa vào trọng lượng từ chính loại binh khí này có thể giáng những cú đòn xuyên giáp gây sát thương trực tiếp đến binh lính người Khương, Hoắc Thời Anh quả thực vô cùng cảm kích Trần tướng quân.
(Độn khí là những loại vũ khí không có lưỡi dao sắc cạnh và mũi nhọn, ví dụ như chùy, gậy, rìu…)
(Giản còn được gọi là “ngạnh tiên” tức “cây roi cứng”, đây là công cụ được con người dùng sinh hoạt trong đời sống để đập, nện, đè, ép… Giản tuy dài, có chuôi và chắn như kiếm, nhưng cân nặng của thân nặng hơn lưỡi kiếm vì giản thuộc loại "Binh khí chấn - nện" như chùy. Khi có chiến tranh, giản trở thành một loại chiến khí lợi hại có khả năng chống lại các loại binh khí dài, ngắn khác, nhờ tính linh hoạt, hiệu quả.)
Hoắc Thời Anh nhanh như cắt đoạt được một thanh mã kích, liền cầm cây mã kích dài tầm một trượng ấy quét ngang một đường, nó lướt đến đâu người ngã ngựa gục đến đấy, nàng quay đầu lại nhìn, đội quân của nàng tuy rằng bị đình trệ nhưng không hề rút lui, bọn họ cũng không hề hoảng sợ, nàng lập tức lấy giọng hô lớn: “Đứng vững, tiến lên! Giết!”.
Hoắc Thời Anh thúc ngựa xông lên, va chạm với chiến mã đang nghênh đón phía trước mặt, “Rầm!” hai con chiến mã đón đầu xông vào nhau, mã kích của Hoắc Thời Anh xuyên thủng kẻ địch trên lưng ngựa, hất văng ra xa, con chiến mã được mặc trang bị cũng bị húc cho ngã lăn ra đất, Hoắc Thời Anh cúi đầu nhìn xuống dưới thân mình, hưng phấn gọi to: “Giỏi lắm, Hắc Tử.”
Hắc Tử hí lên một tràng dài, điên cuồng xông lên, Hoắc Thời Anh hét lớn: “Thổi còi lên, xung phong!”.
Hoắc Thời Anh chưa từng có cảm giác việc tiến lên lại khó khăn chật vật đến như thế này, nàng không nhìn xung quanh, mã kích trong tay cứ hễ thấy địch và vung lên, những nơi đi qua chém giết đến thành một con đường máu, tiếng vó ngựa hỗn loạn vang lên bốn phía, hòa vào đó là tiếng tù và “ù ù” đầy giận dữ. Kỵ binh hàng nhẹ của người Khương đang đánh bọc hậu, nàng biết người của mình vẫn đang bám sát theo mình, nàng cũng nghe thấy một loạt những âm thanh khi họ ngã khỏi yên ngựa, nhưng bọn họ vẫn cùng xông lên, bọn họ nhất định phải xông lên, nếu không chỉ có thể mặc cho người Khương bao vây tiêu diệt mà thôi.
Hoắc Thời Anh dính sát vào cổ ngựa, hét to với Hắc Tử: “Hắc Tử! Tăng tốc, chúng ta xông ra ngoài!”.
Hắc Tử ngửa đầu hí vang, dường như đang đáp lại lời nàng, hùng dũng lấy đà rồi lao vọt tới, cùng lúc đập thẳng vào miếng bảo vệ ngực của hai con ngựa phát ra tiếng “Uỳnh……”, miếng giáp ngực của con ngựa phe đối phương méo xẹp hẳn xuống sau pha va chạm, rồi rầm rầm rơi xuống đất, Hoắc Thời Anh hào khí ngất trời, nhấc thanh mã kích dài đến hơn trượng lên, đâm chọc, quét ngang, ngựa người gục ngã hàng loạt, “Xung phong! Giết!” Tiếng thét truyền đi tầng tầng lớp lớp trên chiến trường, khí thế mạnh mẽ lan sang cả toàn quân.
“Hắc Tử! Tăng tốc, tăng tốc!” Con ngựa đen hưng phấn tung vó phi điên loạn, một người một ngựa cứ như thể đang ở chỗ không người, dũng mãnh chém giết xông ra khỏi thế trận của người Khương.
Giữa bầu thiên không u ám, vầng mặt trời đỏ rực vươn mình chui ra khỏi những tầng mây, treo mình lên phía chân trời cao, xa xa có một con quạ đang đậu trên một cành cây khô, thờ ơ quan sát chiến trường đẫm máu tanh phía dưới.
Hoắc Thời Anh dẫn đội quân của nàng xuyên thủng trận hình của người Khương, chiến thuật đánh bọc sườn của kỵ binh hạng nhẹ hoàn toàn thất bại, hai bên lại chỉ cách nhau có mười mấy trượng, trong một thoáng hoang mang của người Khương, Hoắc Thời Anh đã kịp quay đầu ngựa lại, nhanh chóng tập kết đội hình. Hai phe tạm thời giữ khoảng cách.
Cách nhau hơn mấy chục trượng, tướng lĩnh hai bên đưa mắt nhìn nhau, bên kia là một người đàn ông trung niên cường tráng anh tuấn, khuôn mặt trắng trẻo, ánh mắt âm hiểm tàn nhẫn, Hoắc Thời Anh lạnh lùng nhìn ông ta, gần như đồng thời cả hai người đều nhấc tay lên thét to.
“Xung phong!”.
“Toàn quân chỉnh đốn!”.
Con ngựa của Hoắc Thời Anh dẫn đầu, mã kích trong tay đâm ra rất mạnh, xuyên thủng thành một lỗ trước ngực lính Khương, khiến máu tươi phun ra xối xả.
“Vì Đại Yến ta, giết……” Những thân binh bám theo sau lưng nàng rất sát, đáp lại bằng những tiếng hét kinh thiên động địa, “Giết……”
Tiếng chém giết vang vọng khắp đất trời, càng có nhiều người nghe thấy, thì lại càng nhiều những lời thét đáp lại bằng sức lực toàn thân: “Giết……” Lính Khương bị sốc, đội quân này dũng mãnh và tàn nhẫn, bọn họ dường như không hề sợ chết, không mảy may e ngại những võ trang áo giáp hạng nặng trên người chúng, cứ áp sát được là dám xông lên va chạm dữ dội đầy máu lửa.
Sự thảm khốc trên chiến trường luôn đi kèm với máu tanh khắp nơi, âm thanh trầm đục tắc nghẹn trên mảnh đất rộng mênh mông khiến trái tim người ta phải run rẩy, những cây chùy sắt, những sợi roi bay lượn của quân đội người Hán, những tiếng hò hét điên loạn của họ đi tới đâu những vết máu bắn tung tóe khắp mọi nơi đến đấy, máu đen thấm đẫm ba tấc đất, não bắn cả ra khỏi hộp sọ, đẫm máu và tàn khốc biết bao.
Hoắc Thời Anh dẫn đội quân người Hán của mình tung hoành ngang dọc, cuối cùng khiến cho hai nghìn thiết kỵ giáp hạng nặng phải tan đàn xẻ nghé, tử thương quá nửa, chiến thuật đánh bọc sườn với sự trợ giúp của kỵ binh hàng nhẹ hoàn toàn không có một chút tác dụng nào với bọn Hoắc Thời Anh, mà còn chịu những đòn tấn công thậm chí còn nặng nề hơn kỵ binh hạng nặng, binh lính chết trận còn nhiều hơn.
Cuối cùng Hoắc Thời Anh lại một lần nữa điều khiển ngựa quay đầu lại, cả người như tắm trong máu, hét lên điên cuồng: “Giết chết chúng!” Rốt cuộc cơ thể thấm đẫm máu tanh của nàng đã hoàn toàn bị kích thích, lan ra cho toàn quân.
“Giết chết chúng!” Toàn bộ những binh sĩ người Hán hai mắt đỏ ngầu đáp lại đầy điên loạn. Loại khí thế có tính áp đảo này khiến cho phần còn lại của chiến trường trở thành thế giới của riêng bọn họ.
Tiếng còi chói tai liền thay đổi, hai bên cánh giãn rộng ra, bao vây và tiêu diệt.
Đội ngũ của người Khương đã loạn, tướng lính gầm rú như phát điên: “Chỉnh đốn đội hình! Chỉnh đốn đổi hình!” Kỵ binh hạng nặng cồng kềnh, đội hình đã loạn rồi giờ muốn chỉnh đốn lại, nói thì bao giờ chẳng dễ hơn làm, kỵ binh hàng nhẹ cũng thử đột phá vòng vây mấy lần, nhưng đã đánh mất thế trận mất rồi.
Hắc Tử dũng mãnh lao đi, cả người Hoắc Thời Anh dính sát lên lưng con ngựa đen, tiện tay đoạt luôn một thanh chùy sắt không biết của ai, toàn thân Hắc Tử cũng loang lổ vết máu, mồ hôi vã ra như tắm, Hoắc Thời Anh ghé gần lại phần cổ trơn bóng mịn màng của Hắc Tử, thì thầm vào lỗ tai nó: “Hắc Tử, chúng ta xông lên thôi.”
Hắc Tử lấy đà vụt tăng tốc, bốn vó ngựa khua trong không khí như những mũi tên nhọn hoắt bắn ra từ một cây nỏ căng dây, ở chính giữa chiến trường vị tướng người Khương hoảng loạn đưa mắt nhìn xung quanh, quân Hán đã vây kín lấy bọn họ, còn quân đội phe mình thì như thể đang nằm trong nồi, muốn phá vỡ thế bao vây để thoát ra ngoài nhưng đội hình đã không còn, trong mắt ông ta lóe lên tia tuyệt vọng, tiếng vệ binh thân tín gào thét vang lên bên tai ông ta, nhưng ông ta không nghe thấy gì hết, xung quanh bốn phía mịt mờ, không dám tin rằng đây chính là Hắc Giáp quân bất khả chiến bại của bọn họ, ông ta lại ngẩng đầu lên nhìn, trong mắt đột nhiên xuất hiện một chấm đen, đồng tử bỗng nổ tung, sau đó thế giới của ông ta chỉ còn toàn là một mảng đen tăm tối, một màu đen vĩnh viễn.
Vị tướng người Khương ngã ngựa cái rầm, đầu bị giáng một chùy nát bấy, binh sĩ người Hán kích động nổ ra những tiếng hoan hô cực lớn, người Khương đã hoàn toàn rối loạn rồi.
Đêm xuống khi kiểm kê lại chiến trường, quân Hán tổn thất quá nửa, còn năm nghìn người ngựa của người Khương hoàn toàn bị tiêu diệt.
Trận chiến này, cuối cùng đã thực sự kinh động đến quân đội người Khương đóng quân ở Ký Châu, lại đúng vào lúc bước vào mùa đông khắc nghiệt, bọn chúng bắt đầu điều động một lượng lớn kỵ binh tiến hành bao vây tiêu diệt đoàn quân của Hoắc Thời Anh, nhưng điều khiến cho người ta nổi cáu chính là, đám người này càng diệt lại càng đông, đến cuối tháng Mười hai, đội quân hùng dũng của Hoắc Thời Anh đã lên đến hơn một vạn người ngựa. Một vạn kỵ binh hoành hành khắp bình nguyên Ký Châu, những trận chiến của Hoắc Thời Anh nối tiếp nhau, trận sau ác liệt hơn trận trước, mục tiêu của nàng không nằm ở việc tiêu diệt kẻ địch, gặp phải đoàn quân có quân số tương đương liền lấy cứng chọi cứng đánh một trận, quân số quá nhiều thì cũng phải xông vào phá vỡ thế trận của đội phương rồi mới nghĩ cách chạy trốn, bất tri bất giác sức kiềm chế toàn bộ việc bố trí phòng thủ của người Khương ở Ký Châu của Hoắc Thời Anh đạt mức độ cực cao. Hơn thế trong những trận đối kháng diễn ra liên tục, binh lính trong tay nàng cuối cùng cũng đã được nàng rèn ra lò.
Qua tháng Mười hai, vào khoảng thời gian chuẩn bị bước sang năm mới, áp lực từ các cuộc bao vây tiêu diệt mà Hoắc Thời Anh gặp phải đột nhiên giảm hẳn, quân đội của người Khương ở Ký Châu bỗng bắt đầu co mình lại, những toán quân được phái đi tiễu trừ đoàn quân của Hoắc Thời Anh lần lượt quay trở về phủ Dĩnh Xương và hai thành xung quanh, cuối cùng Hoắc Chân đóng quân ở bờ phía Nam sông Vị thống lĩnh bốn mươi vạn đại quân của triều đình bắt đầu tổ chức phản công.
Năm mới là một ngày lễ lớn của người Hán, cứ đến những dịp này, người nông dân nhàn tản, thương nhân đóng cửa nghỉ bán, quan viên tắm rửa sửa sang đầu tóc, trên dưới cả nước bất kể giàu có hay nghèo đói, đều muốn sửa soạn tươm tất để đón Tết, đêm ba mươi, một nửa thành Dương Châu bắn pháo hoa, những chùm pháo rực rỡ in dấu đỏ lên bầu trời đêm, khiến người Khương bên bờ đối diện nhất loạt ngước đầu nhìn quang cảnh phồn hoa náo nhiệt bên ấy, còn bên này ngập ngụa trong khói lửa từ những cuộc phản công của quân Hán.
Bề mặt sông Vị rộng ước chừng khoảng hai mươi trượng, vô số những con thuyền lớn có nhỏ có xuất hiện đột ngột như những bóng ma quỷ dị, tên lính Khương đầu tiên phát hiện ra mấy con thuyền, hoảng hốt điên cuồng hét lên: “Có quân địch!”.
Người Khương đóng năm vạn quân bên bờ sông Vị, theo tiếng thét chói tai, quân doanh lập tức xáo động, một tướng lĩnh người Khương tay xách roi xông ra khỏi lều, nhìn binh lính chạy náo loạn xung quanh, quát hỏi: “Xảy ra chuyện gì vậy?!”.
Có người hoảng loạn chạy tới bẩm báo: “Đại nhân, bờ đối diện tấn công sang!”.
Vị tướng người Khương giằng lấy một con ngựa phi thẳng ra phía bờ sông, lúc này trên sông đã dày đặc những thuyền là thuyền, ông ta kinh hoàng quay người hét lớn: “Thổi hiệu lệnh, nghênh địch! Nghênh địch!”.
Quân Hán đóng quân ở bờ đối diện hơn ba tháng nay, không hề có chút động tĩnh nào, khiến bọn chúng tưởng người Hán đang lơ là mất cảnh giác, đang run sợ, cho dù có muốn phản công ít nhất cũng phải đợi sau khi thời tiết trở nên ấm hơn đã, nhưng không ngờ người lơ là mất cảnh giác lại chính là bọn chúng, có được mấy kẻ từng được nhìn thấy khung cảnh phồn hoa rực rỡ như vậy bao giờ, kể từ sau khi đóng quân ở đây, có còn mấy người Khương nghĩ đến chuyện đánh sang bờ bên kia nữa đâu? Nhưng người Hán lại phản công, lại đúng vào ngày bọn chúng tưởng là không thể được nhất.
Mười con thuyền buồm khổng lổ vượt qua sông Vị, khi tấm ván dưới đáy khoang thuyền ầm ầm mở ra, tiếng trống trận kinh thiên động địa âm vang khắp nơi, kỵ binh đông nghìn nghịt phát ra những âm thanh hò hét cực lớn, xông ra khỏi khoang thuyền, gầm rú lao bổ về phía quân doanh của người Khương.
Ngày cuối cùng của năm Cảnh Đức thứ ba, Hoắc Chân đích thân bọc hậu, ba vạn kỵ binh Lương Châu tấn công mở màn, bắt đầu một cuộc phản công có ý nghĩa tuyệt đối. Con người Hoắc Chân lưu manh nức tiếng, cái gọi là lưu manh chính là vô cùng vô lại, lúc không đánh lại người ta ông tuyệt không bao giờ làm bừa, tranh cái danh nghĩa khí ngoi lên nắm quyền, lúc đánh không thắng được người ta ông sẽ tìm cách tránh đi mũi nhọn của đối phương, đợi ông đây nghỉ ngơi dưỡng sức thoải mái rồi sẽ dẫn người ngựa quay về tìm ngươi tính sổ, hơn thế không đánh thì thôi một khi đã đánh rồi khí thế hùng hổ như muốn ăn thịt người.
Để chở bốn mươi vạn đại quân này, Hoắc Chân đã dùng đến hơn một nghìn con thuyền đánh cá vơ vét được bên bờ sông Vị, đắp vô số cầu tàu, chỉ trong một đêm đã chém qua bờ kia sông Vị, năm vạn đại quân của người Khương đóng quân ở bờ bên này bị ông đuổi giết đến nỗi rút lui về một châu phủ của Sung Châu, chính là phủ Du Châu.
Nhân khẩu trong phủ Du Châu có hai mươi vạn, quản lý mười lăm huyện, ngoài trừ kinh thành ra thì đây là tòa thành lớn thứ hai trên toàn bộ lãnh thổ Trung Nguyên, chiếm đến một trăm vạn khoảnh, tường thành kéo dài đến ba mươi dặm, cao tới ba trượng có thừa, dày tầm một trượng, bên trong thành chia làm hai khu chợ đông tây với một con phố dài mười dặm, con đường chính nằm trên một trục ngã tư, được quy hoạch hợp lý, với lịch sử lâu đời, trải qua bao phen chiến loạn nhưng vẫn sừng sững hiên ngang, dễ thủ khó công. Đáng tiếc là người Khương không biết đánh những trận thủ thành, theo lý mà nói có một tòa thành lớn như vậy, binh lính lại đầy đủ thì việc giữ được thành trong dăm bữa nửa tháng không phải là vấn đề gì quá to tát, nhưng Hoắc Chân chỉ mất ba ngày để hạ được thành.
(Một khoảnh bằng 100 mẫu TQ, ước chừng 6, 6667 hec-ta.)
Hoắc Chân đến ào ào như một cơn bão, mang theo khí thế tuyệt đối, hai mươi vạn bộ binh bao bây tầng tầng lớp quanh phủ Du Châu, đồng thời tấn công từ cả bốn cửa thành, quân Hán không giống người Khương, từ xưa đến nay trong các cuộc nội chiến thì chiếm số lượng nhiều nhất chính là những trận công thành, thủ thành, máy bắn đá, nỏ khổng lồ, thang xếp, xe phá tường thành, thay nhau ra trận.
Hoắc Chân đích thân đứng ở trước toàn quân, chém liền một lúc ba vị tướng lĩnh cấp cao bê trễ việc ngăn chặn kẻ địch, công thành ba ngày ba đêm liên tiếp, bất chấp mọi thương vong, thi thể người chết ngoài thành Dư Châu chất cao bằng cả tường thành, trong suốt ba ngày tấn công không hề ngơi nghỉ lấy một khắc, cuối cùng rạng sáng ngày thứ tư khi máu bùn đã ngập đến suýt soát mắt cá chân, toàn quân đã bước được vào thành Du Châu
Ngày mùng năm tháng Giêng, một trận tuyết lớn bao phủ Ký Châu, khiến cả một cánh đồng rộng mênh mông trở nên trắng xóa, quân đội cắm trại ngay tại đây, Tần Xuyên đang nhóm lửa nướng thịt cho Hoắc Thời Anh, hai người ngồi khoanh chân bên cạnh đống lửa, mỗi người cắn một miếng, uống ngụm rượu nóng nghênh đón tuyết rơi, đúng lúc ấy Phùng Tranh từ đằng xa đi tới, đưa cho nàng một mảnh vải, Hoắc Thời Anh nhận lấy tiện thể đưa luôn túi rượu trong tay cho hắn.
Phùng Tranh cầm lấy, ngửa cổ tu một hớp rồi đột nhiên bật ho sặc sụa, chỉ thoáng chốc khuôn mặt trắng bệch của hắn đã trở nên đỏ ửng, Tần Xuyên ở bên cạnh thấy vậy cười khanh khách, Phùng Tranh liền lườm cho ông ta một cái, lại ngửa đầu uống thêm ngụm lớn nữa, Hoắc Thời Anh nhìn hắn mỉm cười, rồi cúi đầu nhìn tấm vải trong tay, trên đó ghi ba chữ: “Có được không?”.
Hoắc Thời Anh nhặt một cành cây từ trong đống lửa, chọc chọc vài cái xuống mặt đất đầy tuyết, rồi lật mặt sau của tấm vải lại đáp gọn lỏn hai chữ: “Được chứ.”
Mùng mười tháng Giêng, đại quân của Hoắc Chân chỉnh đốn xong xuôi, xua quân tiến thẳng về phía Bắc Ký Châu.
1. Mã kích: là một loại vũ khí, nhẹ và rất linh hoạt, có chiều dài tầm 40 cm, gồm hai đoạn kim loại sắc nhọn hợp thành, loại vũ khí này thích hợp khi đánh cận chiến tốc độ nhanh.
2. Giản:
Con chim ưng rơi xuống đất, như một lời tuyên chiến chính thức, trên mảnh đất hoang vu rộng lớn, bảy nghìn người ngựa xếp thành thế trận hình chim nhạn, gió lạnh quét qua khiến quân phục phay phần phật, nghiêm trang mà xơ xác điêu tàn.
Phần đầu chim nhạn hình tam giác, toàn bộ có ba trăm người, trong hai ngày Trần Lộ vừa mới đến đã chọn ra trong toàn quân ba trăm người giao cho Hoắc Thời Anh, lúc ấy chàng thanh niên đó hơi cúi đầu nói với nàng: “Trước tiên chọn tạm ba trăm người đã, chết rồi sẽ bổ sung sau, số binh lính còn lại sau những trận đánh đều là những người tốt nhất.” Giọng điệu thờ ơ nhưng kính cẩn.
Khi ấy Hoắc Thời Anh nhìn cần cổ thanh mảnh trắng nhợt nhạt lộ ra bên ngoài cổ áo của chàng trai ấy, hồi lâu sau mới nói: “Vậy thì cứ làm theo lời ngươi đi.”
Hiện giờ, Hoắc Thời Anh đứng ở vị trí đầu hàng của toàn đội hình, Trần Lộ đứng bên cạnh ngựa chiến của Hoắc Thời Anh, hai người đồng thời đưa mắt nhìn về phía trước, đột nhiên Hoắc Thời Anh mở miệng hỏi: “Trước đây từng học võ bao giờ chưa?”.
Hoắc Thời Anh vẫn dõi mắt về phía trước mặt, xung quanh toàn người là người, nhưng Trần Lộ lập tức hiểu ra nàng đang hỏi mình, bèn quay đầu lại nhìn một cái rồi đáp: “Hồi còn nhỏ tiểu nhân có theo võ sư của nhà học qua một số thế võ phòng thân.”
Hoắc Thời Anh quay đầu sang, ánh mắt lạnh lùng từ trên cao nhìn xuống hắn, khóe miệng Trần Lộ thoáng mang theo ý cười ánh mắt chưa từng trốn tránh, Hoắc Thời Anh ra tay nhanh như chớp giật, xưa nay mỗi khi động thủ nàng đều vô cùng mạnh mẽ dứt khoát, tay trái vừa vươn tới năm ngón tay liền xòe ra chụp lấy khuôn mặt của Trần Lộ.
Trần Lộ căn bản không nhìn thấy nàng nhấc tay thế nào tấn công ra sao, chỉ cảm giác có một cơn gió táp vào mặt mình, theo bàn năng liền giơ tay lên ngăn lại, cánh tay hai người còn chưa chạm vào nhau thì Hoắc Thời Anh đã lật tay ngay giữa chừng, định “hỏi thăm” phần yếu hại trên cột sống sau gáy Trần Lộ, thân hình Trần Lộ cúi mạnh về phía trước, cả người dính xuống cổ ngựa, tay Hoắc Thời Anh mang theo tiếng gió lướt qua lưng hắn, động tác còn chưa làm hết thì đột nhiên khuỷu tay khuỵu xuống, nện vào vai Trần Lộ, Trần Lộ khẽ rên lên một tiếng, cánh tay định móc về phía bụng của Hoắc Thời Anh trở nên vô lực buông thõng, lúc nhấc được người dậy liền cảm thấy đầu mình nhẹ bẫng, chiếc mũ sắt của hắn đã ở trong tay Hoắc Thời Anh.
Hoắc Thời Anh vẫn lạnh lùng thờ ơ nhìn hắn, sau đó ném trả mũ sắt vào lòng hắn nói: “Đầu tiên phải giữ được mạng đã.”
Trần Lộ chậm chạp đội lại mũ lên đầu, trên mặt vẫn là vẻ dửng dưng cố hữu, không xấu hổ cũng chẳng ủ rũ, hoàn toàn không có chút cảm xúc nào.
Trên mảnh đất rộng lớn cách đó nửa dặm có hai ngọn đồi nhỏ, tiếng tù và vang lên “ù ù” vừa dứt, lập tức phía sau hai ngọn đồi tràn ra một đoàn người ngựa đen sì đông nghịt.
Hắc Giáp quân sở dĩ được gọi là Hắc Giáp quân tất cả là vì bộ áp giáp của chúng, đội quân này từ người đến ngựa, toàn thân đều được che kín bởi những miếng sắt mỏng dẹt, bộ binh thì mặc giáp Sơn Văn, một bộ giáp Sơn Văn được làm từ ước chừng sáu trăm miếng sắt khâu lại với nhau, trọng lượng lên đến hơn hai mươi cân, che chắn gần như tất cả những vị trí yếu hại trên toàn bộ cơ thể bộ binh, chiến mã cũng được khoác giáp, bao kín hoàn toàn ngực và những bộ phận quan trọng trên thân mình. Vì chế tạo giáp Sơn Văn sử dụng kỹ thuật rèn lạnh, nên giáp có màu đen, đấy cũng chính là nguyên nhân đoàn quân này được gọi là Hắc Giáp quân.
Có thể tượng tưởng một đội kỵ binh được vũ trang như vậy tấn công trên bình địa, thì không khác gì một chiến xa bất khả chiến bại, trong những cuộc chiến đôi công trực diện, ở vào thời đại này, có thể đúc kết bằng hai từ vô địch.
Ở Trung Nguyên đội quân này được hậu thế gọi là đội quân kỵ binh hạng nặng, cũng đã từng xuất hiện ở tiền triều từ hơn hai trăm năm trước hơn thế còn có một lịch sử huy hoàng trong suốt khoảng thời gian ấy, tuy nhiên những đội quân kiểu này tiêu tốn một khoản tiền khổng lồ cho việc duy trì, tiếp tế chi viện, nên theo thời thế chiến loạn, dần dần biến mất khỏi lịch sử, nhưng hơn hai trăm năm sau chúng lại một lần lượt xuất hiện trong vương triều của người Khương
Người ngựa phía trước mặt tràn ra rất có trật tự, cuối cùng tập kết thành một trận hình quái dị trên bình nguyên, chính giữa vuông chằn chặn, hai bên cánh hình tam giác dính sát vào đội hình ở chính giữa, Hoắc Thời Anh vừa liếc mắt nhìn là hiểu ra ngay, loại trận hình này, thật ra hai nghìn người ở chính giữa mới là Hắc Giáp quân đích thực, còn hai bên cánh là kỵ binh hạng nhẹ bình thường hỗ trợ cho nó mà thôi, kỵ binh hạng nặng ở chính giữa chịu trách nhiệm tiên phong, kỵ binh hạng nhẹ ở hai cánh vì có tính cơ động nên phụ trách việc bao vây đánh bọc sườn.
Cái gọi là Hắc Giáp quân sở dĩ đến cuối cùng bị đào thải khỏi quân đội của người Hán là vì có liên quan đến sự hao tài tốn của quá lớn của nó, nhưng trên thực tế còn liên quan đến tính nặng nề cồng kềnh của kiểu quân đội này, một con ngựa của kỵ binh hạng nặng phải cõng quá nhiều, vừa binh sĩ lại cộng thêm bộ giáp trên mình ngựa ước chừng cũng phải năm sáu chục cân, nên không linh hoạt, tính cơ động kém, chỉ thích hợp khi tác chiến trên bình nguyên, ở những nơi gò đồi và khu vực nhiều núi non thì rất khó để phát huy tác dụng.
Hoắc Thời Anh có thể có rất nhiều cách để làm tiêu hao đội quân này, nhưng nàng chọn cách va chạm trực tiếp nhất, nàng muốn đám người ngựa thuộc hạ này của mình sử dụng phương thức chém giết tàn khốc nhất để tôi luyện họ trở thành một thanh đao sắc bén thấm đẫm máu tanh.
Gió thổi khắp bốn phía, người ngựa hai bên đứng cách nhau tầm một trăm trượng, bầu không khí ngưng trệ, tiếng tù và tiên phong của người Khương vang vọng, mã kích (1) của hai ngàn quân ở chính giữa dựng lên rào rào, tiếng vó ngựa chậm rãi khởi động, bọn chúng bắt đầu tấn công rồi.
Hoắc Thời Anh từ từ rút trường đao ra, bỗng quát lớn: “Ya!” Trường đao đột nhiên khua mạnh trên không trung, thúc ngựa lao vọt đi.
“Ya!” Tiếng hô ứng trong quân nổ ra như trời long đất lở, máu và hơi thở cũng như được lây lan theo.
Trên địa thế rộng lớn trống trải quân đội cả hai bên ngang nhiên phát động tấn công, tiếng vó ngựa vang lên như sấm, mặt đất rung chuyển, khoảng cách càng lúc càng gần, mã kích của đội quân màu đen ngả ra rầm rầm, chỉ thẳng về phía trước.
Trong đội quân của Hoắc Thời Anh truyền ra tiếng còi chói tai, đội hình được thu lại, thế trận chim nhạn của bảy nghìn người càng thu càng hẹp, một người đàn ông trung niên to khỏe bên phía Hắc Giáp quân nheo nheo mắt quan sát, ông ta chưa từng nhìn thấy đội ngựa nào di chuyển nhanh mà vẫn có thể duy trì được thế trận xung phong hoàn hảo như vậy.
“Xung phong!” Ông ta đột nhiên quát lớn, tiếng tù và “ù ù” vang lên càng lúc càng đày dặc.
Đội quân bảy nghìn người của Hoắc Thời Anh dọc đường trào ra những âm thanh gào rít kinh tâm động phách.
“Uỳnh……” Quân đội hai bên như thể hai cơn sóng thần đột nhiên va đập vào nhau, trời đất như rung chuyển, Hoắc Thời Anh dẫn đầu con chim nhạn của nàng mạnh mẽ xông vào, thế tấn công cực lớn, nhưng trong khoảng khắc va chạm, mọi thứ đột nhiên như khựng lại. Trên mảnh đất trống trải bùng nổ một tiếng gầm cực đại. Tiếng chiến mã hí lên đầy bi thương, tiếng người gào thét, thấu tận trời xanh.
Mã kích của người Khương đâm xuyên cả chiến mã, chọc thủng cơ thể người, dòng máu tươi tuyệt đẹp bắn tung tóe chỉ trong nháy mắt đã phủ một lớp diễm sắc lên khung cảnh đất trời thê lương, trong đội quân của người Hán, những người trong tốp lao lên đầu tiên ngã xuống hàng loạt, nách Hoắc Thời Anh kẹp chặt ba cây mã kích đâm tới, đao vung lên gạt ngang chém đứt đầu kẻ địch, xoay người thét lớn với binh lính thổi còi lệnh: “Thổi còi, lệnh cho toàn quân co chặt đội hình lại, xung phong, tấn công vào chỗ đội hình đang rối loạn của bọn chúng!”.
Tiếng còi chói tai vang lên liên tiếp, vang lên không ngừng, âm thanh trầm đục “bịch bịch” luẩn quẩn khắp xung quanh, bọn họ bắt đầu phản công rồi, vũ khí trong tay đội quân vừa mới lên bờ không còn là trường đao nữa, trường đao không chém rách được giáp sát, vì thế được thay bằng ba loại độn khí là roi, giản (2), và chùy, dựa vào trọng lượng từ chính loại binh khí này có thể giáng những cú đòn xuyên giáp gây sát thương trực tiếp đến binh lính người Khương, Hoắc Thời Anh quả thực vô cùng cảm kích Trần tướng quân.
(Độn khí là những loại vũ khí không có lưỡi dao sắc cạnh và mũi nhọn, ví dụ như chùy, gậy, rìu…)
(Giản còn được gọi là “ngạnh tiên” tức “cây roi cứng”, đây là công cụ được con người dùng sinh hoạt trong đời sống để đập, nện, đè, ép… Giản tuy dài, có chuôi và chắn như kiếm, nhưng cân nặng của thân nặng hơn lưỡi kiếm vì giản thuộc loại "Binh khí chấn - nện" như chùy. Khi có chiến tranh, giản trở thành một loại chiến khí lợi hại có khả năng chống lại các loại binh khí dài, ngắn khác, nhờ tính linh hoạt, hiệu quả.)
Hoắc Thời Anh nhanh như cắt đoạt được một thanh mã kích, liền cầm cây mã kích dài tầm một trượng ấy quét ngang một đường, nó lướt đến đâu người ngã ngựa gục đến đấy, nàng quay đầu lại nhìn, đội quân của nàng tuy rằng bị đình trệ nhưng không hề rút lui, bọn họ cũng không hề hoảng sợ, nàng lập tức lấy giọng hô lớn: “Đứng vững, tiến lên! Giết!”.
Hoắc Thời Anh thúc ngựa xông lên, va chạm với chiến mã đang nghênh đón phía trước mặt, “Rầm!” hai con chiến mã đón đầu xông vào nhau, mã kích của Hoắc Thời Anh xuyên thủng kẻ địch trên lưng ngựa, hất văng ra xa, con chiến mã được mặc trang bị cũng bị húc cho ngã lăn ra đất, Hoắc Thời Anh cúi đầu nhìn xuống dưới thân mình, hưng phấn gọi to: “Giỏi lắm, Hắc Tử.”
Hắc Tử hí lên một tràng dài, điên cuồng xông lên, Hoắc Thời Anh hét lớn: “Thổi còi lên, xung phong!”.
Hoắc Thời Anh chưa từng có cảm giác việc tiến lên lại khó khăn chật vật đến như thế này, nàng không nhìn xung quanh, mã kích trong tay cứ hễ thấy địch và vung lên, những nơi đi qua chém giết đến thành một con đường máu, tiếng vó ngựa hỗn loạn vang lên bốn phía, hòa vào đó là tiếng tù và “ù ù” đầy giận dữ. Kỵ binh hàng nhẹ của người Khương đang đánh bọc hậu, nàng biết người của mình vẫn đang bám sát theo mình, nàng cũng nghe thấy một loạt những âm thanh khi họ ngã khỏi yên ngựa, nhưng bọn họ vẫn cùng xông lên, bọn họ nhất định phải xông lên, nếu không chỉ có thể mặc cho người Khương bao vây tiêu diệt mà thôi.
Hoắc Thời Anh dính sát vào cổ ngựa, hét to với Hắc Tử: “Hắc Tử! Tăng tốc, chúng ta xông ra ngoài!”.
Hắc Tử ngửa đầu hí vang, dường như đang đáp lại lời nàng, hùng dũng lấy đà rồi lao vọt tới, cùng lúc đập thẳng vào miếng bảo vệ ngực của hai con ngựa phát ra tiếng “Uỳnh……”, miếng giáp ngực của con ngựa phe đối phương méo xẹp hẳn xuống sau pha va chạm, rồi rầm rầm rơi xuống đất, Hoắc Thời Anh hào khí ngất trời, nhấc thanh mã kích dài đến hơn trượng lên, đâm chọc, quét ngang, ngựa người gục ngã hàng loạt, “Xung phong! Giết!” Tiếng thét truyền đi tầng tầng lớp lớp trên chiến trường, khí thế mạnh mẽ lan sang cả toàn quân.
“Hắc Tử! Tăng tốc, tăng tốc!” Con ngựa đen hưng phấn tung vó phi điên loạn, một người một ngựa cứ như thể đang ở chỗ không người, dũng mãnh chém giết xông ra khỏi thế trận của người Khương.
Giữa bầu thiên không u ám, vầng mặt trời đỏ rực vươn mình chui ra khỏi những tầng mây, treo mình lên phía chân trời cao, xa xa có một con quạ đang đậu trên một cành cây khô, thờ ơ quan sát chiến trường đẫm máu tanh phía dưới.
Hoắc Thời Anh dẫn đội quân của nàng xuyên thủng trận hình của người Khương, chiến thuật đánh bọc sườn của kỵ binh hạng nhẹ hoàn toàn thất bại, hai bên lại chỉ cách nhau có mười mấy trượng, trong một thoáng hoang mang của người Khương, Hoắc Thời Anh đã kịp quay đầu ngựa lại, nhanh chóng tập kết đội hình. Hai phe tạm thời giữ khoảng cách.
Cách nhau hơn mấy chục trượng, tướng lĩnh hai bên đưa mắt nhìn nhau, bên kia là một người đàn ông trung niên cường tráng anh tuấn, khuôn mặt trắng trẻo, ánh mắt âm hiểm tàn nhẫn, Hoắc Thời Anh lạnh lùng nhìn ông ta, gần như đồng thời cả hai người đều nhấc tay lên thét to.
“Xung phong!”.
“Toàn quân chỉnh đốn!”.
Con ngựa của Hoắc Thời Anh dẫn đầu, mã kích trong tay đâm ra rất mạnh, xuyên thủng thành một lỗ trước ngực lính Khương, khiến máu tươi phun ra xối xả.
“Vì Đại Yến ta, giết……” Những thân binh bám theo sau lưng nàng rất sát, đáp lại bằng những tiếng hét kinh thiên động địa, “Giết……”
Tiếng chém giết vang vọng khắp đất trời, càng có nhiều người nghe thấy, thì lại càng nhiều những lời thét đáp lại bằng sức lực toàn thân: “Giết……” Lính Khương bị sốc, đội quân này dũng mãnh và tàn nhẫn, bọn họ dường như không hề sợ chết, không mảy may e ngại những võ trang áo giáp hạng nặng trên người chúng, cứ áp sát được là dám xông lên va chạm dữ dội đầy máu lửa.
Sự thảm khốc trên chiến trường luôn đi kèm với máu tanh khắp nơi, âm thanh trầm đục tắc nghẹn trên mảnh đất rộng mênh mông khiến trái tim người ta phải run rẩy, những cây chùy sắt, những sợi roi bay lượn của quân đội người Hán, những tiếng hò hét điên loạn của họ đi tới đâu những vết máu bắn tung tóe khắp mọi nơi đến đấy, máu đen thấm đẫm ba tấc đất, não bắn cả ra khỏi hộp sọ, đẫm máu và tàn khốc biết bao.
Hoắc Thời Anh dẫn đội quân người Hán của mình tung hoành ngang dọc, cuối cùng khiến cho hai nghìn thiết kỵ giáp hạng nặng phải tan đàn xẻ nghé, tử thương quá nửa, chiến thuật đánh bọc sườn với sự trợ giúp của kỵ binh hàng nhẹ hoàn toàn không có một chút tác dụng nào với bọn Hoắc Thời Anh, mà còn chịu những đòn tấn công thậm chí còn nặng nề hơn kỵ binh hạng nặng, binh lính chết trận còn nhiều hơn.
Cuối cùng Hoắc Thời Anh lại một lần nữa điều khiển ngựa quay đầu lại, cả người như tắm trong máu, hét lên điên cuồng: “Giết chết chúng!” Rốt cuộc cơ thể thấm đẫm máu tanh của nàng đã hoàn toàn bị kích thích, lan ra cho toàn quân.
“Giết chết chúng!” Toàn bộ những binh sĩ người Hán hai mắt đỏ ngầu đáp lại đầy điên loạn. Loại khí thế có tính áp đảo này khiến cho phần còn lại của chiến trường trở thành thế giới của riêng bọn họ.
Tiếng còi chói tai liền thay đổi, hai bên cánh giãn rộng ra, bao vây và tiêu diệt.
Đội ngũ của người Khương đã loạn, tướng lính gầm rú như phát điên: “Chỉnh đốn đội hình! Chỉnh đốn đổi hình!” Kỵ binh hạng nặng cồng kềnh, đội hình đã loạn rồi giờ muốn chỉnh đốn lại, nói thì bao giờ chẳng dễ hơn làm, kỵ binh hàng nhẹ cũng thử đột phá vòng vây mấy lần, nhưng đã đánh mất thế trận mất rồi.
Hắc Tử dũng mãnh lao đi, cả người Hoắc Thời Anh dính sát lên lưng con ngựa đen, tiện tay đoạt luôn một thanh chùy sắt không biết của ai, toàn thân Hắc Tử cũng loang lổ vết máu, mồ hôi vã ra như tắm, Hoắc Thời Anh ghé gần lại phần cổ trơn bóng mịn màng của Hắc Tử, thì thầm vào lỗ tai nó: “Hắc Tử, chúng ta xông lên thôi.”
Hắc Tử lấy đà vụt tăng tốc, bốn vó ngựa khua trong không khí như những mũi tên nhọn hoắt bắn ra từ một cây nỏ căng dây, ở chính giữa chiến trường vị tướng người Khương hoảng loạn đưa mắt nhìn xung quanh, quân Hán đã vây kín lấy bọn họ, còn quân đội phe mình thì như thể đang nằm trong nồi, muốn phá vỡ thế bao vây để thoát ra ngoài nhưng đội hình đã không còn, trong mắt ông ta lóe lên tia tuyệt vọng, tiếng vệ binh thân tín gào thét vang lên bên tai ông ta, nhưng ông ta không nghe thấy gì hết, xung quanh bốn phía mịt mờ, không dám tin rằng đây chính là Hắc Giáp quân bất khả chiến bại của bọn họ, ông ta lại ngẩng đầu lên nhìn, trong mắt đột nhiên xuất hiện một chấm đen, đồng tử bỗng nổ tung, sau đó thế giới của ông ta chỉ còn toàn là một mảng đen tăm tối, một màu đen vĩnh viễn.
Vị tướng người Khương ngã ngựa cái rầm, đầu bị giáng một chùy nát bấy, binh sĩ người Hán kích động nổ ra những tiếng hoan hô cực lớn, người Khương đã hoàn toàn rối loạn rồi.
Đêm xuống khi kiểm kê lại chiến trường, quân Hán tổn thất quá nửa, còn năm nghìn người ngựa của người Khương hoàn toàn bị tiêu diệt.
Trận chiến này, cuối cùng đã thực sự kinh động đến quân đội người Khương đóng quân ở Ký Châu, lại đúng vào lúc bước vào mùa đông khắc nghiệt, bọn chúng bắt đầu điều động một lượng lớn kỵ binh tiến hành bao vây tiêu diệt đoàn quân của Hoắc Thời Anh, nhưng điều khiến cho người ta nổi cáu chính là, đám người này càng diệt lại càng đông, đến cuối tháng Mười hai, đội quân hùng dũng của Hoắc Thời Anh đã lên đến hơn một vạn người ngựa. Một vạn kỵ binh hoành hành khắp bình nguyên Ký Châu, những trận chiến của Hoắc Thời Anh nối tiếp nhau, trận sau ác liệt hơn trận trước, mục tiêu của nàng không nằm ở việc tiêu diệt kẻ địch, gặp phải đoàn quân có quân số tương đương liền lấy cứng chọi cứng đánh một trận, quân số quá nhiều thì cũng phải xông vào phá vỡ thế trận của đội phương rồi mới nghĩ cách chạy trốn, bất tri bất giác sức kiềm chế toàn bộ việc bố trí phòng thủ của người Khương ở Ký Châu của Hoắc Thời Anh đạt mức độ cực cao. Hơn thế trong những trận đối kháng diễn ra liên tục, binh lính trong tay nàng cuối cùng cũng đã được nàng rèn ra lò.
Qua tháng Mười hai, vào khoảng thời gian chuẩn bị bước sang năm mới, áp lực từ các cuộc bao vây tiêu diệt mà Hoắc Thời Anh gặp phải đột nhiên giảm hẳn, quân đội của người Khương ở Ký Châu bỗng bắt đầu co mình lại, những toán quân được phái đi tiễu trừ đoàn quân của Hoắc Thời Anh lần lượt quay trở về phủ Dĩnh Xương và hai thành xung quanh, cuối cùng Hoắc Chân đóng quân ở bờ phía Nam sông Vị thống lĩnh bốn mươi vạn đại quân của triều đình bắt đầu tổ chức phản công.
Năm mới là một ngày lễ lớn của người Hán, cứ đến những dịp này, người nông dân nhàn tản, thương nhân đóng cửa nghỉ bán, quan viên tắm rửa sửa sang đầu tóc, trên dưới cả nước bất kể giàu có hay nghèo đói, đều muốn sửa soạn tươm tất để đón Tết, đêm ba mươi, một nửa thành Dương Châu bắn pháo hoa, những chùm pháo rực rỡ in dấu đỏ lên bầu trời đêm, khiến người Khương bên bờ đối diện nhất loạt ngước đầu nhìn quang cảnh phồn hoa náo nhiệt bên ấy, còn bên này ngập ngụa trong khói lửa từ những cuộc phản công của quân Hán.
Bề mặt sông Vị rộng ước chừng khoảng hai mươi trượng, vô số những con thuyền lớn có nhỏ có xuất hiện đột ngột như những bóng ma quỷ dị, tên lính Khương đầu tiên phát hiện ra mấy con thuyền, hoảng hốt điên cuồng hét lên: “Có quân địch!”.
Người Khương đóng năm vạn quân bên bờ sông Vị, theo tiếng thét chói tai, quân doanh lập tức xáo động, một tướng lĩnh người Khương tay xách roi xông ra khỏi lều, nhìn binh lính chạy náo loạn xung quanh, quát hỏi: “Xảy ra chuyện gì vậy?!”.
Có người hoảng loạn chạy tới bẩm báo: “Đại nhân, bờ đối diện tấn công sang!”.
Vị tướng người Khương giằng lấy một con ngựa phi thẳng ra phía bờ sông, lúc này trên sông đã dày đặc những thuyền là thuyền, ông ta kinh hoàng quay người hét lớn: “Thổi hiệu lệnh, nghênh địch! Nghênh địch!”.
Quân Hán đóng quân ở bờ đối diện hơn ba tháng nay, không hề có chút động tĩnh nào, khiến bọn chúng tưởng người Hán đang lơ là mất cảnh giác, đang run sợ, cho dù có muốn phản công ít nhất cũng phải đợi sau khi thời tiết trở nên ấm hơn đã, nhưng không ngờ người lơ là mất cảnh giác lại chính là bọn chúng, có được mấy kẻ từng được nhìn thấy khung cảnh phồn hoa rực rỡ như vậy bao giờ, kể từ sau khi đóng quân ở đây, có còn mấy người Khương nghĩ đến chuyện đánh sang bờ bên kia nữa đâu? Nhưng người Hán lại phản công, lại đúng vào ngày bọn chúng tưởng là không thể được nhất.
Mười con thuyền buồm khổng lổ vượt qua sông Vị, khi tấm ván dưới đáy khoang thuyền ầm ầm mở ra, tiếng trống trận kinh thiên động địa âm vang khắp nơi, kỵ binh đông nghìn nghịt phát ra những âm thanh hò hét cực lớn, xông ra khỏi khoang thuyền, gầm rú lao bổ về phía quân doanh của người Khương.
Ngày cuối cùng của năm Cảnh Đức thứ ba, Hoắc Chân đích thân bọc hậu, ba vạn kỵ binh Lương Châu tấn công mở màn, bắt đầu một cuộc phản công có ý nghĩa tuyệt đối. Con người Hoắc Chân lưu manh nức tiếng, cái gọi là lưu manh chính là vô cùng vô lại, lúc không đánh lại người ta ông tuyệt không bao giờ làm bừa, tranh cái danh nghĩa khí ngoi lên nắm quyền, lúc đánh không thắng được người ta ông sẽ tìm cách tránh đi mũi nhọn của đối phương, đợi ông đây nghỉ ngơi dưỡng sức thoải mái rồi sẽ dẫn người ngựa quay về tìm ngươi tính sổ, hơn thế không đánh thì thôi một khi đã đánh rồi khí thế hùng hổ như muốn ăn thịt người.
Để chở bốn mươi vạn đại quân này, Hoắc Chân đã dùng đến hơn một nghìn con thuyền đánh cá vơ vét được bên bờ sông Vị, đắp vô số cầu tàu, chỉ trong một đêm đã chém qua bờ kia sông Vị, năm vạn đại quân của người Khương đóng quân ở bờ bên này bị ông đuổi giết đến nỗi rút lui về một châu phủ của Sung Châu, chính là phủ Du Châu.
Nhân khẩu trong phủ Du Châu có hai mươi vạn, quản lý mười lăm huyện, ngoài trừ kinh thành ra thì đây là tòa thành lớn thứ hai trên toàn bộ lãnh thổ Trung Nguyên, chiếm đến một trăm vạn khoảnh, tường thành kéo dài đến ba mươi dặm, cao tới ba trượng có thừa, dày tầm một trượng, bên trong thành chia làm hai khu chợ đông tây với một con phố dài mười dặm, con đường chính nằm trên một trục ngã tư, được quy hoạch hợp lý, với lịch sử lâu đời, trải qua bao phen chiến loạn nhưng vẫn sừng sững hiên ngang, dễ thủ khó công. Đáng tiếc là người Khương không biết đánh những trận thủ thành, theo lý mà nói có một tòa thành lớn như vậy, binh lính lại đầy đủ thì việc giữ được thành trong dăm bữa nửa tháng không phải là vấn đề gì quá to tát, nhưng Hoắc Chân chỉ mất ba ngày để hạ được thành.
(Một khoảnh bằng 100 mẫu TQ, ước chừng 6, 6667 hec-ta.)
Hoắc Chân đến ào ào như một cơn bão, mang theo khí thế tuyệt đối, hai mươi vạn bộ binh bao bây tầng tầng lớp quanh phủ Du Châu, đồng thời tấn công từ cả bốn cửa thành, quân Hán không giống người Khương, từ xưa đến nay trong các cuộc nội chiến thì chiếm số lượng nhiều nhất chính là những trận công thành, thủ thành, máy bắn đá, nỏ khổng lồ, thang xếp, xe phá tường thành, thay nhau ra trận.
Hoắc Chân đích thân đứng ở trước toàn quân, chém liền một lúc ba vị tướng lĩnh cấp cao bê trễ việc ngăn chặn kẻ địch, công thành ba ngày ba đêm liên tiếp, bất chấp mọi thương vong, thi thể người chết ngoài thành Dư Châu chất cao bằng cả tường thành, trong suốt ba ngày tấn công không hề ngơi nghỉ lấy một khắc, cuối cùng rạng sáng ngày thứ tư khi máu bùn đã ngập đến suýt soát mắt cá chân, toàn quân đã bước được vào thành Du Châu
Ngày mùng năm tháng Giêng, một trận tuyết lớn bao phủ Ký Châu, khiến cả một cánh đồng rộng mênh mông trở nên trắng xóa, quân đội cắm trại ngay tại đây, Tần Xuyên đang nhóm lửa nướng thịt cho Hoắc Thời Anh, hai người ngồi khoanh chân bên cạnh đống lửa, mỗi người cắn một miếng, uống ngụm rượu nóng nghênh đón tuyết rơi, đúng lúc ấy Phùng Tranh từ đằng xa đi tới, đưa cho nàng một mảnh vải, Hoắc Thời Anh nhận lấy tiện thể đưa luôn túi rượu trong tay cho hắn.
Phùng Tranh cầm lấy, ngửa cổ tu một hớp rồi đột nhiên bật ho sặc sụa, chỉ thoáng chốc khuôn mặt trắng bệch của hắn đã trở nên đỏ ửng, Tần Xuyên ở bên cạnh thấy vậy cười khanh khách, Phùng Tranh liền lườm cho ông ta một cái, lại ngửa đầu uống thêm ngụm lớn nữa, Hoắc Thời Anh nhìn hắn mỉm cười, rồi cúi đầu nhìn tấm vải trong tay, trên đó ghi ba chữ: “Có được không?”.
Hoắc Thời Anh nhặt một cành cây từ trong đống lửa, chọc chọc vài cái xuống mặt đất đầy tuyết, rồi lật mặt sau của tấm vải lại đáp gọn lỏn hai chữ: “Được chứ.”
Mùng mười tháng Giêng, đại quân của Hoắc Chân chỉnh đốn xong xuôi, xua quân tiến thẳng về phía Bắc Ký Châu.
1. Mã kích: là một loại vũ khí, nhẹ và rất linh hoạt, có chiều dài tầm 40 cm, gồm hai đoạn kim loại sắc nhọn hợp thành, loại vũ khí này thích hợp khi đánh cận chiến tốc độ nhanh.
2. Giản:
Tác giả :
Nhiễu Lương Tam Nhật