Trọng Sinh Chi Đích Trưởng Ung Chủ
Quyển 1 - Chương 39: Lễ Vạn Thọ (1)
Lễ vạn thọ vào năm Thái An thứ chín, là sinh nhật hai mươi bảy tuổi của Minh đế.
Minh đế không phải là Hoàng đế thích xa hoa lãng phí, thậm chí có thể nói, hắn vô cùng “tiết kiệm”. Tiết kiệm này không phải ý là Minh đế bớt ăn bớt mặc, cắt giảm chi phí. Trên thực tế, những hưởng thụ mà Hoàng đế nên có, Minh đế vẫn có, nhưng hắn rất biết cách tiết kiệm chi tiêu. Đơn giản như, Minh đế đã đăng cơ chín năm nhưng chỉ tiến hành tuyển tú một lần, hơn nữa chỉ riêng vấn đề số lượng phi tần hậu cung của hắn là ít nhất từ khi Tề thị khai quốc đến nay, đã tiết kiệm cho quốc khố không ít tiền bạc.
Đồng thời Minh đế cũng là Hoàng đế tổ chức yến hội ít nhất. Ngoại trừ quốc yến trong ngày lễ tết quan trọng, hay thọ yến của Thái hậu ra, Minh đế không thích thiết yến cũng như tham dự những yến hội khác.
Lễ vạn thọ năm ngoái cũng bị Minh đế lấy lý do không nên phô trương, nên chỉ làm đơn giản.
Lễ vạn thọ năm nay đã có chút khác biệt.
Tề thị lập quốc, chiến loạn đã kết thúc từ lâu, thống nhất đại địa Thần Châu, khiến cho khắp nơi vui mừng, lập nên công lao đời đời. Thế nhưng chiến loạn nơi biên quan vẫn cách quãng, kéo dài nhiều năm. Hoàng đế Tề thị đã trải qua ba đời, ngoài biên quan cũng rối loạn suốt ba đời. Đến giờ mối họa có thể coi như khá lớn chính là bộ tộc Đột Quyết ở phương bắc.
Bộ tộc Đột Quyết là dân du mục, người trong tộc cường tráng hung hãn, cưỡi ngựa cao siêu, hàng năm đều dấy binh xuống phía nam, xâm phạm biên trấn, giết người cướp của đủ loại chuyện ác. Triều đình trước thời Nguyên Trưng đã dùng nhiều cách để cầu hòa với Đột Quyết như tiến cống hay hòa thân, vân vân… Cho đến khi Nguyên Trưng triều được thành lập, Hoàng đế khai quốc Cao đế có tính cương quyết, không cam lòng cúi đầu trước Đột Quyết, ngang nhiên phát binh, sau ba trận thắng mới ngăn chặn được sự hung hăng ngang ngược của bộ tộc Đột Quyết.
Bộ tộc Đột Quyết coi đó là mối nhục lớn, bao nhiêu năm qua vẫn không buông tha cho việc báo thù, cho nên chiến tranh vẫn tiếp diễn ở vùng biên quan.
Năm đầu tiên Minh đế đăng cơ, biên quan đã bị bộ tộc Đột Quyết tấn công một lần, suýt nữa đã mất thành trì này, để chúng tiếp tục dẫn binh xuống nam. Minh đế vô cùng tức giận, tập trung binh lực ở khắp nơi để đánh trả, tạm thời bất phân thắng bại.
Mấy năm gần đây, Minh đế vừa dùng quân sự để chống lại bộ tộc Đột Quyết, vừa phái người trà trộn vào trong bộ tộc Đột Quyết, tiến hành ly gián chia rẽ. Khó khăn lắm, vài ngày trước Đại Tướng quân An Dục dẫn binh đánh bại bộ tộc Đột Quyết, sau đó toàn bộ Đột Quyết rơi vào cảnh nội loạn. Một chi trong bộ tộc Đột Quyết, tộc Côn Na Lý, được phái tới Kiến Khang, nguyện ý cúi đầu xưng thần.
Bởi vì đúng lúc tổ chức lễ vạn thọ, dưới ý định liên danh của Thái Thường tự và Hồng Lư tự, Minh đế cho phép làm yến hội linh đình hơn năm ngoái.
Vào ngày lễ vạn thọ, Thái Phúc điện treo đèn kết hoa, không khí hòa thuận mà long trọng.
A Thác Sử là thủ lĩnh của tộc Côn Na Lý, đích thân mang thư xin hàng tới Kiến Khang. Trong buổi đại triều vào ban ngày, hắn đã cúi đầu trước Minh đế, tỏ rõ mục đích đến đây. Đương nhiên, tộc Côn Na Lý đầu hàng xưng thần cũng có điều kiện, đòi hỏi nữ tử hoàng thất hòa thân, muốn triều đình ban tặng: bạc ròng – mười vạn lượng, lụa là – năm vạn cuốn, trà – hai vạn cân, vân vân… Dựa vào thân phận là thế lực lớn thứ ba trong bộ tộc Đột Quyết của tộc Côn Na Lý, điều kiện này quả thật hơi hà khắc, nhưng đó chỉ là giá cố định khởi điểm, A Thác Sử đang chờ Nguyên Trưng triều mặc cả. Thế nhưng sau khi Minh đế nghe thấy điều kiện này lại không nói gì, vung tay lên tỏ vẻ để sau rồi bàn.
Tiếp đó, là thọ yến vào buổi tối.
Khi A Thác Sử dẫn theo hai tùy tùng vào Thái Phúc điện chúc thọ, chỉ thấy Minh đế đang ngồi trên chủ vị, long bào màu minh hoàng giúp cho dung mạo lạnh lùng tuấn mỹ của hắn thêm phần uy nghiêm thâm trầm. Một lão phụ nhân khoan thai nhã nhặn ngồi ngang bằng với hắn bên tay trái, còn có một tiểu văn tử mặc áo gấm, giữa trán là một nốt chu sa chí, xinh đẹp tựa tiên đồng, ngồi sát bên cạnh Minh đế. Bên dưới ba người, một bên là các Hoàng tử và phi tần có địa vị cao trong hậu cung, bên còn lại là vương công đại thần.
Nhìn thấy A Thác Sử dẫn người đến đây, tiểu văn tử mặc áo gấm kia nhìn bọn họ chằm chằm, rồi chớp mắt mấy cái.
A Thác Sử biết tường tận về hoàng thất của Nguyên Trưng triều. Hắn biết hai người ngồi bên cạnh Minh đế, một người là Trịnh Thái hậu – sinh mẫu của Minh đế, người còn lại là văn tử nhi tử của Phúc Khang Trưởng Công chúa và An Quốc công Thế tử – Nguyên Trưng Ung chủ Đằng Huy Nguyệt.
A Thác Sử cũng coi như đã từng gặp không ít mỹ nhân, nhưng Nguyên Trưng Ung chủ còn nhỏ tuổi mà đã có sắc thái đặc biệt như vậy, chỉ e sau khi lớn lên sẽ là một báu vật khuynh quốc khuynh thành. Đáng tiếc còn nhỏ quá, nếu không, có thể xin cưới về cũng là một chuyện tốt.
A Thác Sử nghĩ vậy, tay phải nắm lại đặt trước ngực, cúi người trước Minh đế, lớn giọng nói: “A Thác Sử của tộc Côn Na Lý, chúc mừng ngày sinh của Nguyên Trưng Hoàng đế bệ hạ.”
Minh đế còn chưa nói gì, Nguyên Trưng Ung chủ ở bên cạnh hắn đã lên tiếng trước, dùng giọng nói mà tất cả mọi người đều nghe thấy, khó hiểu hỏi: “Cữu cữu, tại sao hắn không quỳ xuống? Hắn tới đây làm gì?”
Minh đế nói: “Hắn là thủ lĩnh tộc Côn Na Lý của Đột Quyết, tới đây dâng thư xin hàng.”
Đằng Huy Nguyệt càng ngạc nhiên hơn: “Nếu là hàng thần, chẳng phải càng cần phải quỳ sao?”
Lời của Đằng Huy Nguyệt khiến A Thác Sử có chút tức giận và xấu hổ. Xin hàng cũng chẳng phải chuyện vẻ vang gì! Hơn nữa còn chưa bàn điều kiện xong, bắt hắn thực hiện lễ nghi của thần tử không khỏi quá sớm. Thế nhưng người hỏi ra lại chỉ là một đứa trẻ, trông ngây thơ hồn nhiên, nói năng chẳng kiêng dè, A Thác Sử không tiện hạ thấp mình để tính toán với cậu, đành phải nói: “Chắc vị này là Nguyên Trưng Ung chủ. A Thác Sử thành tâm xin hàng với quý quốc, thế nhưng bệ hạ chưa đáp ứng điều kiện của tộc ta, tộc ta vẫn chưa phải thần tử của quý quốc.”
“Đầu hàng mà còn phải bàn điều kiện?” Đằng Huy Nguyệt kinh ngạc, lại hỏi Minh đế: “Vậy cái tộc Côn gì đó của bọn họ… rất lợi hại sao? Bọn họ đầu hàng có phải cũng giống như bộ tộc Đột Quyết đầu hàng không?”
Lúc này có người ở một bên nói: “Bẩm Nguyệt điện hạ, tộc Côn Na Lý là bộ lạc lớn thứ ba của Đột Quyết. Mặc dù không thể đại diện cho cả bộ tộc Đột Quyết, nhưng cũng là một thế lực lớn.” Người nói chen vào này hiển nhiên là người chủ trương chấp nhận điều kiện của A Thác Sử, để việc quy phục được thuận lợi.
Nghe xong, A Thác Sử cứng người lại!
Đằng Huy Nguyệt hỏi: “Vậy tại sao bộ lạc lớn thứ nhất không hàng, bộ lạc lớn thứ hai không hàng, bộ lạc lớn thứ tư không hàng, cứ nhất định phải là bộ lạc lớn thứ ba của hắn xin hàng? Chẳng lẽ có lý do khiến hắn không hàng không được?”
Cả điện im lặng một hồi, sau đó bắt đầu có những tiếng thì thầm khe khẽ.
Những người vốn có chút bất mãn khi một đứa trẻ con như Nguyên Trưng Ung chủ nói năng tùy tiện trước mặt thủ lĩnh của tộc Côn Na Lý, lúc này đều ngậm miệng không nói, trong mắt như đang suy nghĩ điều gì.
Liệu có thể không? Có phải có lý do gì mà không hàng không được? Nếu là vậy, A Thác Sử này còn đưa ra lắm điều kiện như thế, không phải là sư tử mở to mồm, phô trương thanh thế sao? Việc này cần phải kiểm chứng!
A Thác Sử thấy thế, sắc mặt trắng bệch, trán đầy mồ hôi, trong lòng cực kỳ kinh hãi! Bởi vì những lời nói vô tâm của Đằng Huy Nguyệt lại trúng phóc! Đúng là hắn đã nhận được tin tức bộ lạc lớn thứ nhất và bộ lạc lớn thứ hai chuẩn bị liên thủ để đối phó với tộc Côn Na Lý, mới bất đắc dĩ phải xin hàng với Nguyên Trưng. So với việc ngồi chờ chết, chẳng thà mạnh tay vồ lại. Hắn vẫn đang trông cậy sau khi xin hàng, Nguyên Trưng có thể xuất binh để hắn chống lại hai bộ lạc kia cùng tấn công!
Chỉ là không kìm nén được lòng tham, muốn giành được một ít ưu đãi trước…
Minh đế vuốt ve hai má Đằng Huy Nguyệt, nói: “Sau này trẫm sẽ nói rõ với ngươi. Thủ lĩnh của tộc Côn Na Lý cũng mệt mỏi, chuyện xin hàng, để mai rồi bàn.”
Dưới nụ cười như có thâm ý của Minh đế, A Thác Sử nhẫn nhịn lại, lui xuống. Cho dù vẫn không quỳ, nhưng động tác cúi người đã thấp hơn trước rất nhiều.
Minh đế thấy vậy, ý cười càng đậm.
A Thác Sử đi rồi, Thái Phúc điện lại khôi phục cảnh tượng náo nhiệt ca tụng công đức, ăn uống linh đình. Không ít vương công đại thần đến chúc rượu Minh đế. Minh đế cũng nâng chén cùng uống với bọn họ.
Đằng Huy Nguyệt ngồi bên cạnh Minh đế, rót rượu gắp đồ ăn cho hắn vô cùng ân cần. Tất cả mọi thứ đêm nay vào được miệng Minh đế, đều có người kiểm định kỹ lưỡng, rồi qua tay Liễm Vũ, tiếp tục qua tay Đằng Huy Nguyệt, sau cùng mới đến được tay Minh đế.
Minh đế biết cậu thật sự bị cơn ác mộng kia dọa, sau lưng còn có Trịnh Thái hậu rất tin Phật làm chỗ dựa, đã hóa thân thành Tiểu Nguyệt Tử vô cùng khẩn trương, quản hắn từ đầu xuống chân.
Tuy rằng Minh đế cho là cậu quá khoa trương, nhưng thật sự luyến tiếc một mảnh chân tình quý trọng của cậu, cho nên cứ để mặc cậu.
Ở giữa điện đang có vũ cơ nhảy múa nhẹ nhàng, những mảnh vải đỏ bay trên không trung, vô cùng đẹp mắt.
Nhưng Đằng Huy Nguyệt chỉ cảm thấy màu sắc này quá chói mắt, khiến cậu bất giác căng cứng cả người. Bởi vì cảnh tượng này cùng với cơn ác mộng của cậu, thật sự rất giống.
“A Việt, ngươi vẫn khỏe chứ?” Minh đế nhíu mi nhìn khuôn mặt tái nhợt của cậu.
Đằng Huy Nguyệt chỉ vào giữa điện: “Ta không thích. Có thể bảo họ không nhảy nữa không? Ta chóng mặt…”
Minh đế vung tay lên, thái giám nội thị Tô Thuận lĩnh mệnh rời đi.
Chỉ một lát sau, các vũ cơ lần lượt dừng lại, sau khi hành lễ lùi ra ngoài, đến lượt các Hoàng tử dâng thọ lễ.
Chờ khi toàn bộ vũ cơ và vải đỏ rời khỏi tầm mắt, Đằng Huy Nguyệt mới thở phào một hơi.
“Cần gọi Thái y không?” Minh đế đặt tay lên trán cậu, xem cậu có nóng đầu không.
Đằng Huy Nguyệt lắc đầu, tựa vào ngực Minh đế: “Cữu cữu, ta không sao.”
“Hoàng nhi, A Việt sao vậy?” Trịnh Thái hậu nghiêng đầu hỏi.
“Ngoại tổ mẫu, con không sao.” Đằng Huy Nguyệt ló đầu ra khỏi ngực Minh đế.
Trịnh Thái hậu nói: “Không thoải mái phải nói ra, biết chưa?”
Đằng Huy Nguyệt nhu thuận nói: “Vâng, ngoại tổ mẫu.”
Lúc này Đại Hoàng tử Tề Minh Diệu đã cầm quyển “Hiếu Kinh” khắc trên thẻ ngọc đứng trước mặt Minh đế. Trịnh Thái hậu không nói gì nữa, nhìn về phía hắn.
“Chúc phụ hoàng phúc như Đông Hải, thọ tỉ Nam Sơn.” Tề Minh Diệu nói.
Mấy năm nay ý Minh đế là không muốn có Hoàng tử nữa. Trịnh phi, Đặng phi và Trương Chiêu nghi đều cai quản hậu cung. Vì có Trịnh Thái hậu ở đây, địa vị của Trịnh phi vẫn không thay đổi, vẫn được sủng ái như cũ, nhưng muốn tiến thêm một bước thì gần như không thể nào. Minh đế cũng không còn cho phép văn tử và nữ tử của Trịnh gia vào cung. Thay vào đó, là được trọng dụng trong chính sự. So với việc trông cậy vào phi tần thị quân họ Trịnh có vận may ở hậu cung, chi bằng nắm chặt quyền lợi trước mắt, chấn hưng gia tộc.
Huống hồ trong Cam Tuyền cung của Trịnh phi đã có hai Hoàng tử, có được một nửa cơ hội. Nếu còn tiến thêm một bước nữa, động chạm vào then chốt của Minh đế, vậy thì mất nhiều hơn được.
Cho nên, sau khi Trịnh gia rút ra kinh nghiệm xương máu, đã chuyển sang nhờ vào Đại Hoàng tử Tề Minh Diệu.
Bởi vậy mà thái độ của Trịnh Thái hậu đối với Tề Minh Diệu cũng có thay đổi ít nhiều, thân thiết hơn so với trước đây.
“Không tồi. A Diệu có lòng.” Minh đế nhìn thẻ ngọc, gật đầu.
“Quý ở tâm ý.” Trịnh Thái hậu cũng nói.
Tề Minh Diệu được khen ngợi, mỉm cười, hành lễ cẩn thận rồi lùi về phía sau.
Nhị Hoàng tử Tề Minh Uyên tặng một khối mực cổ thượng đẳng, trông chất lượng và hoa văn là biết không phải vật tầm thường. Minh đế nhận, cũng hiếm khi khen một câu.
Tam Hoàng tử Tề Minh Dũng tặng một chiếc bút lông sói tự tay làm ra, thủ công không được tốt lắm, nhưng thành ý thì đầy đủ. Minh đế cũng khen hắn.
Từ Hoàng tử Tề Minh Viêm thì biểu diễn một bài múa kiếm. Thật ra bài múa kiếm này là một loại múa cầu phúc, ngụ ý là bình an khỏe mạnh, vừa đơn giản thẳng thắn lại vừa không theo khuôn mẫu. Hơn nữa Tề Minh Viêm vẫn còn ít tuổi mà đã có thể thực hiện bài múa kiếm này một cách mạnh mẽ sinh lực, rất có thể sau này sẽ đạt được nhiều thành tựu.
Minh đế vỗ tay, nói một tiếng “Hay!”
Các vương công đại thần cũng đều ca ngợi.
“Các Hoàng tử đều có phong thái của Hoàng thượng!”
“… Ai cũng nổi bật, nhân trung long phượng…”
“Chí thành chí hiếu…”
…
Những phi tử có con nuôi hay con ruột đều cười tươi, người không có con thì âm thầm nắm chặt khăn tay, trên mặt còn phải lộ ra nụ cười chấp nhận.
Chỉ có Đằng Huy Nguyệt là biết, tuy rằng Minh đế có khen ngợi, nhưng trong lòng cũng không vui mừng thật sự. Tề Minh Diệu quá mềm mỏng, Tề Minh Uyên qua xa xỉ, Tề Minh Dũng quá vụng về, Tề Minh Viêm quá chấp nhất, tạm thời không thể khiến Minh đế hài lòng. Minh đế luôn luôn nghiêm khắc, đặt yêu cầu rất cao đối với các Hoàng tử.
Bất quá, đang là ngày sinh nhật tốt lành, Minh đế vẫn động viên là chính. Nhưng sau hôm nay, chỉ e các Hoàng tử không còn thời gian rảnh rỗi.
Đằng Huy Nguyệt đồng tình ngẫm nghĩ.
Có lẽ đã nhìn ra tâm tư của cậu, Minh đế bóp hai má mềm mại của cậu: “A Việt vẫn nợ cữu cữu quà sinh nhật…”
“A ợ ì ơ…” Đằng Huy Nguyệt đang ăn đầy mồm, không thể nói rõ.
Không thấy vải đỏ đâu, cậu dần yên tâm, bắt đầu có tâm tình nói đùa với Minh đế.
Sau khi các Hoàng tử tặng quà mừng xong, đến lượt tộc Côn Na Lý dâng quà.
Nghe thấy một tiếng vang lớn, Đằng Huy Nguyệt ngẩng đầu, chỉ thấy một màu đỏ tươi tràn đầy hai mắt ____
Minh đế không phải là Hoàng đế thích xa hoa lãng phí, thậm chí có thể nói, hắn vô cùng “tiết kiệm”. Tiết kiệm này không phải ý là Minh đế bớt ăn bớt mặc, cắt giảm chi phí. Trên thực tế, những hưởng thụ mà Hoàng đế nên có, Minh đế vẫn có, nhưng hắn rất biết cách tiết kiệm chi tiêu. Đơn giản như, Minh đế đã đăng cơ chín năm nhưng chỉ tiến hành tuyển tú một lần, hơn nữa chỉ riêng vấn đề số lượng phi tần hậu cung của hắn là ít nhất từ khi Tề thị khai quốc đến nay, đã tiết kiệm cho quốc khố không ít tiền bạc.
Đồng thời Minh đế cũng là Hoàng đế tổ chức yến hội ít nhất. Ngoại trừ quốc yến trong ngày lễ tết quan trọng, hay thọ yến của Thái hậu ra, Minh đế không thích thiết yến cũng như tham dự những yến hội khác.
Lễ vạn thọ năm ngoái cũng bị Minh đế lấy lý do không nên phô trương, nên chỉ làm đơn giản.
Lễ vạn thọ năm nay đã có chút khác biệt.
Tề thị lập quốc, chiến loạn đã kết thúc từ lâu, thống nhất đại địa Thần Châu, khiến cho khắp nơi vui mừng, lập nên công lao đời đời. Thế nhưng chiến loạn nơi biên quan vẫn cách quãng, kéo dài nhiều năm. Hoàng đế Tề thị đã trải qua ba đời, ngoài biên quan cũng rối loạn suốt ba đời. Đến giờ mối họa có thể coi như khá lớn chính là bộ tộc Đột Quyết ở phương bắc.
Bộ tộc Đột Quyết là dân du mục, người trong tộc cường tráng hung hãn, cưỡi ngựa cao siêu, hàng năm đều dấy binh xuống phía nam, xâm phạm biên trấn, giết người cướp của đủ loại chuyện ác. Triều đình trước thời Nguyên Trưng đã dùng nhiều cách để cầu hòa với Đột Quyết như tiến cống hay hòa thân, vân vân… Cho đến khi Nguyên Trưng triều được thành lập, Hoàng đế khai quốc Cao đế có tính cương quyết, không cam lòng cúi đầu trước Đột Quyết, ngang nhiên phát binh, sau ba trận thắng mới ngăn chặn được sự hung hăng ngang ngược của bộ tộc Đột Quyết.
Bộ tộc Đột Quyết coi đó là mối nhục lớn, bao nhiêu năm qua vẫn không buông tha cho việc báo thù, cho nên chiến tranh vẫn tiếp diễn ở vùng biên quan.
Năm đầu tiên Minh đế đăng cơ, biên quan đã bị bộ tộc Đột Quyết tấn công một lần, suýt nữa đã mất thành trì này, để chúng tiếp tục dẫn binh xuống nam. Minh đế vô cùng tức giận, tập trung binh lực ở khắp nơi để đánh trả, tạm thời bất phân thắng bại.
Mấy năm gần đây, Minh đế vừa dùng quân sự để chống lại bộ tộc Đột Quyết, vừa phái người trà trộn vào trong bộ tộc Đột Quyết, tiến hành ly gián chia rẽ. Khó khăn lắm, vài ngày trước Đại Tướng quân An Dục dẫn binh đánh bại bộ tộc Đột Quyết, sau đó toàn bộ Đột Quyết rơi vào cảnh nội loạn. Một chi trong bộ tộc Đột Quyết, tộc Côn Na Lý, được phái tới Kiến Khang, nguyện ý cúi đầu xưng thần.
Bởi vì đúng lúc tổ chức lễ vạn thọ, dưới ý định liên danh của Thái Thường tự và Hồng Lư tự, Minh đế cho phép làm yến hội linh đình hơn năm ngoái.
Vào ngày lễ vạn thọ, Thái Phúc điện treo đèn kết hoa, không khí hòa thuận mà long trọng.
A Thác Sử là thủ lĩnh của tộc Côn Na Lý, đích thân mang thư xin hàng tới Kiến Khang. Trong buổi đại triều vào ban ngày, hắn đã cúi đầu trước Minh đế, tỏ rõ mục đích đến đây. Đương nhiên, tộc Côn Na Lý đầu hàng xưng thần cũng có điều kiện, đòi hỏi nữ tử hoàng thất hòa thân, muốn triều đình ban tặng: bạc ròng – mười vạn lượng, lụa là – năm vạn cuốn, trà – hai vạn cân, vân vân… Dựa vào thân phận là thế lực lớn thứ ba trong bộ tộc Đột Quyết của tộc Côn Na Lý, điều kiện này quả thật hơi hà khắc, nhưng đó chỉ là giá cố định khởi điểm, A Thác Sử đang chờ Nguyên Trưng triều mặc cả. Thế nhưng sau khi Minh đế nghe thấy điều kiện này lại không nói gì, vung tay lên tỏ vẻ để sau rồi bàn.
Tiếp đó, là thọ yến vào buổi tối.
Khi A Thác Sử dẫn theo hai tùy tùng vào Thái Phúc điện chúc thọ, chỉ thấy Minh đế đang ngồi trên chủ vị, long bào màu minh hoàng giúp cho dung mạo lạnh lùng tuấn mỹ của hắn thêm phần uy nghiêm thâm trầm. Một lão phụ nhân khoan thai nhã nhặn ngồi ngang bằng với hắn bên tay trái, còn có một tiểu văn tử mặc áo gấm, giữa trán là một nốt chu sa chí, xinh đẹp tựa tiên đồng, ngồi sát bên cạnh Minh đế. Bên dưới ba người, một bên là các Hoàng tử và phi tần có địa vị cao trong hậu cung, bên còn lại là vương công đại thần.
Nhìn thấy A Thác Sử dẫn người đến đây, tiểu văn tử mặc áo gấm kia nhìn bọn họ chằm chằm, rồi chớp mắt mấy cái.
A Thác Sử biết tường tận về hoàng thất của Nguyên Trưng triều. Hắn biết hai người ngồi bên cạnh Minh đế, một người là Trịnh Thái hậu – sinh mẫu của Minh đế, người còn lại là văn tử nhi tử của Phúc Khang Trưởng Công chúa và An Quốc công Thế tử – Nguyên Trưng Ung chủ Đằng Huy Nguyệt.
A Thác Sử cũng coi như đã từng gặp không ít mỹ nhân, nhưng Nguyên Trưng Ung chủ còn nhỏ tuổi mà đã có sắc thái đặc biệt như vậy, chỉ e sau khi lớn lên sẽ là một báu vật khuynh quốc khuynh thành. Đáng tiếc còn nhỏ quá, nếu không, có thể xin cưới về cũng là một chuyện tốt.
A Thác Sử nghĩ vậy, tay phải nắm lại đặt trước ngực, cúi người trước Minh đế, lớn giọng nói: “A Thác Sử của tộc Côn Na Lý, chúc mừng ngày sinh của Nguyên Trưng Hoàng đế bệ hạ.”
Minh đế còn chưa nói gì, Nguyên Trưng Ung chủ ở bên cạnh hắn đã lên tiếng trước, dùng giọng nói mà tất cả mọi người đều nghe thấy, khó hiểu hỏi: “Cữu cữu, tại sao hắn không quỳ xuống? Hắn tới đây làm gì?”
Minh đế nói: “Hắn là thủ lĩnh tộc Côn Na Lý của Đột Quyết, tới đây dâng thư xin hàng.”
Đằng Huy Nguyệt càng ngạc nhiên hơn: “Nếu là hàng thần, chẳng phải càng cần phải quỳ sao?”
Lời của Đằng Huy Nguyệt khiến A Thác Sử có chút tức giận và xấu hổ. Xin hàng cũng chẳng phải chuyện vẻ vang gì! Hơn nữa còn chưa bàn điều kiện xong, bắt hắn thực hiện lễ nghi của thần tử không khỏi quá sớm. Thế nhưng người hỏi ra lại chỉ là một đứa trẻ, trông ngây thơ hồn nhiên, nói năng chẳng kiêng dè, A Thác Sử không tiện hạ thấp mình để tính toán với cậu, đành phải nói: “Chắc vị này là Nguyên Trưng Ung chủ. A Thác Sử thành tâm xin hàng với quý quốc, thế nhưng bệ hạ chưa đáp ứng điều kiện của tộc ta, tộc ta vẫn chưa phải thần tử của quý quốc.”
“Đầu hàng mà còn phải bàn điều kiện?” Đằng Huy Nguyệt kinh ngạc, lại hỏi Minh đế: “Vậy cái tộc Côn gì đó của bọn họ… rất lợi hại sao? Bọn họ đầu hàng có phải cũng giống như bộ tộc Đột Quyết đầu hàng không?”
Lúc này có người ở một bên nói: “Bẩm Nguyệt điện hạ, tộc Côn Na Lý là bộ lạc lớn thứ ba của Đột Quyết. Mặc dù không thể đại diện cho cả bộ tộc Đột Quyết, nhưng cũng là một thế lực lớn.” Người nói chen vào này hiển nhiên là người chủ trương chấp nhận điều kiện của A Thác Sử, để việc quy phục được thuận lợi.
Nghe xong, A Thác Sử cứng người lại!
Đằng Huy Nguyệt hỏi: “Vậy tại sao bộ lạc lớn thứ nhất không hàng, bộ lạc lớn thứ hai không hàng, bộ lạc lớn thứ tư không hàng, cứ nhất định phải là bộ lạc lớn thứ ba của hắn xin hàng? Chẳng lẽ có lý do khiến hắn không hàng không được?”
Cả điện im lặng một hồi, sau đó bắt đầu có những tiếng thì thầm khe khẽ.
Những người vốn có chút bất mãn khi một đứa trẻ con như Nguyên Trưng Ung chủ nói năng tùy tiện trước mặt thủ lĩnh của tộc Côn Na Lý, lúc này đều ngậm miệng không nói, trong mắt như đang suy nghĩ điều gì.
Liệu có thể không? Có phải có lý do gì mà không hàng không được? Nếu là vậy, A Thác Sử này còn đưa ra lắm điều kiện như thế, không phải là sư tử mở to mồm, phô trương thanh thế sao? Việc này cần phải kiểm chứng!
A Thác Sử thấy thế, sắc mặt trắng bệch, trán đầy mồ hôi, trong lòng cực kỳ kinh hãi! Bởi vì những lời nói vô tâm của Đằng Huy Nguyệt lại trúng phóc! Đúng là hắn đã nhận được tin tức bộ lạc lớn thứ nhất và bộ lạc lớn thứ hai chuẩn bị liên thủ để đối phó với tộc Côn Na Lý, mới bất đắc dĩ phải xin hàng với Nguyên Trưng. So với việc ngồi chờ chết, chẳng thà mạnh tay vồ lại. Hắn vẫn đang trông cậy sau khi xin hàng, Nguyên Trưng có thể xuất binh để hắn chống lại hai bộ lạc kia cùng tấn công!
Chỉ là không kìm nén được lòng tham, muốn giành được một ít ưu đãi trước…
Minh đế vuốt ve hai má Đằng Huy Nguyệt, nói: “Sau này trẫm sẽ nói rõ với ngươi. Thủ lĩnh của tộc Côn Na Lý cũng mệt mỏi, chuyện xin hàng, để mai rồi bàn.”
Dưới nụ cười như có thâm ý của Minh đế, A Thác Sử nhẫn nhịn lại, lui xuống. Cho dù vẫn không quỳ, nhưng động tác cúi người đã thấp hơn trước rất nhiều.
Minh đế thấy vậy, ý cười càng đậm.
A Thác Sử đi rồi, Thái Phúc điện lại khôi phục cảnh tượng náo nhiệt ca tụng công đức, ăn uống linh đình. Không ít vương công đại thần đến chúc rượu Minh đế. Minh đế cũng nâng chén cùng uống với bọn họ.
Đằng Huy Nguyệt ngồi bên cạnh Minh đế, rót rượu gắp đồ ăn cho hắn vô cùng ân cần. Tất cả mọi thứ đêm nay vào được miệng Minh đế, đều có người kiểm định kỹ lưỡng, rồi qua tay Liễm Vũ, tiếp tục qua tay Đằng Huy Nguyệt, sau cùng mới đến được tay Minh đế.
Minh đế biết cậu thật sự bị cơn ác mộng kia dọa, sau lưng còn có Trịnh Thái hậu rất tin Phật làm chỗ dựa, đã hóa thân thành Tiểu Nguyệt Tử vô cùng khẩn trương, quản hắn từ đầu xuống chân.
Tuy rằng Minh đế cho là cậu quá khoa trương, nhưng thật sự luyến tiếc một mảnh chân tình quý trọng của cậu, cho nên cứ để mặc cậu.
Ở giữa điện đang có vũ cơ nhảy múa nhẹ nhàng, những mảnh vải đỏ bay trên không trung, vô cùng đẹp mắt.
Nhưng Đằng Huy Nguyệt chỉ cảm thấy màu sắc này quá chói mắt, khiến cậu bất giác căng cứng cả người. Bởi vì cảnh tượng này cùng với cơn ác mộng của cậu, thật sự rất giống.
“A Việt, ngươi vẫn khỏe chứ?” Minh đế nhíu mi nhìn khuôn mặt tái nhợt của cậu.
Đằng Huy Nguyệt chỉ vào giữa điện: “Ta không thích. Có thể bảo họ không nhảy nữa không? Ta chóng mặt…”
Minh đế vung tay lên, thái giám nội thị Tô Thuận lĩnh mệnh rời đi.
Chỉ một lát sau, các vũ cơ lần lượt dừng lại, sau khi hành lễ lùi ra ngoài, đến lượt các Hoàng tử dâng thọ lễ.
Chờ khi toàn bộ vũ cơ và vải đỏ rời khỏi tầm mắt, Đằng Huy Nguyệt mới thở phào một hơi.
“Cần gọi Thái y không?” Minh đế đặt tay lên trán cậu, xem cậu có nóng đầu không.
Đằng Huy Nguyệt lắc đầu, tựa vào ngực Minh đế: “Cữu cữu, ta không sao.”
“Hoàng nhi, A Việt sao vậy?” Trịnh Thái hậu nghiêng đầu hỏi.
“Ngoại tổ mẫu, con không sao.” Đằng Huy Nguyệt ló đầu ra khỏi ngực Minh đế.
Trịnh Thái hậu nói: “Không thoải mái phải nói ra, biết chưa?”
Đằng Huy Nguyệt nhu thuận nói: “Vâng, ngoại tổ mẫu.”
Lúc này Đại Hoàng tử Tề Minh Diệu đã cầm quyển “Hiếu Kinh” khắc trên thẻ ngọc đứng trước mặt Minh đế. Trịnh Thái hậu không nói gì nữa, nhìn về phía hắn.
“Chúc phụ hoàng phúc như Đông Hải, thọ tỉ Nam Sơn.” Tề Minh Diệu nói.
Mấy năm nay ý Minh đế là không muốn có Hoàng tử nữa. Trịnh phi, Đặng phi và Trương Chiêu nghi đều cai quản hậu cung. Vì có Trịnh Thái hậu ở đây, địa vị của Trịnh phi vẫn không thay đổi, vẫn được sủng ái như cũ, nhưng muốn tiến thêm một bước thì gần như không thể nào. Minh đế cũng không còn cho phép văn tử và nữ tử của Trịnh gia vào cung. Thay vào đó, là được trọng dụng trong chính sự. So với việc trông cậy vào phi tần thị quân họ Trịnh có vận may ở hậu cung, chi bằng nắm chặt quyền lợi trước mắt, chấn hưng gia tộc.
Huống hồ trong Cam Tuyền cung của Trịnh phi đã có hai Hoàng tử, có được một nửa cơ hội. Nếu còn tiến thêm một bước nữa, động chạm vào then chốt của Minh đế, vậy thì mất nhiều hơn được.
Cho nên, sau khi Trịnh gia rút ra kinh nghiệm xương máu, đã chuyển sang nhờ vào Đại Hoàng tử Tề Minh Diệu.
Bởi vậy mà thái độ của Trịnh Thái hậu đối với Tề Minh Diệu cũng có thay đổi ít nhiều, thân thiết hơn so với trước đây.
“Không tồi. A Diệu có lòng.” Minh đế nhìn thẻ ngọc, gật đầu.
“Quý ở tâm ý.” Trịnh Thái hậu cũng nói.
Tề Minh Diệu được khen ngợi, mỉm cười, hành lễ cẩn thận rồi lùi về phía sau.
Nhị Hoàng tử Tề Minh Uyên tặng một khối mực cổ thượng đẳng, trông chất lượng và hoa văn là biết không phải vật tầm thường. Minh đế nhận, cũng hiếm khi khen một câu.
Tam Hoàng tử Tề Minh Dũng tặng một chiếc bút lông sói tự tay làm ra, thủ công không được tốt lắm, nhưng thành ý thì đầy đủ. Minh đế cũng khen hắn.
Từ Hoàng tử Tề Minh Viêm thì biểu diễn một bài múa kiếm. Thật ra bài múa kiếm này là một loại múa cầu phúc, ngụ ý là bình an khỏe mạnh, vừa đơn giản thẳng thắn lại vừa không theo khuôn mẫu. Hơn nữa Tề Minh Viêm vẫn còn ít tuổi mà đã có thể thực hiện bài múa kiếm này một cách mạnh mẽ sinh lực, rất có thể sau này sẽ đạt được nhiều thành tựu.
Minh đế vỗ tay, nói một tiếng “Hay!”
Các vương công đại thần cũng đều ca ngợi.
“Các Hoàng tử đều có phong thái của Hoàng thượng!”
“… Ai cũng nổi bật, nhân trung long phượng…”
“Chí thành chí hiếu…”
…
Những phi tử có con nuôi hay con ruột đều cười tươi, người không có con thì âm thầm nắm chặt khăn tay, trên mặt còn phải lộ ra nụ cười chấp nhận.
Chỉ có Đằng Huy Nguyệt là biết, tuy rằng Minh đế có khen ngợi, nhưng trong lòng cũng không vui mừng thật sự. Tề Minh Diệu quá mềm mỏng, Tề Minh Uyên qua xa xỉ, Tề Minh Dũng quá vụng về, Tề Minh Viêm quá chấp nhất, tạm thời không thể khiến Minh đế hài lòng. Minh đế luôn luôn nghiêm khắc, đặt yêu cầu rất cao đối với các Hoàng tử.
Bất quá, đang là ngày sinh nhật tốt lành, Minh đế vẫn động viên là chính. Nhưng sau hôm nay, chỉ e các Hoàng tử không còn thời gian rảnh rỗi.
Đằng Huy Nguyệt đồng tình ngẫm nghĩ.
Có lẽ đã nhìn ra tâm tư của cậu, Minh đế bóp hai má mềm mại của cậu: “A Việt vẫn nợ cữu cữu quà sinh nhật…”
“A ợ ì ơ…” Đằng Huy Nguyệt đang ăn đầy mồm, không thể nói rõ.
Không thấy vải đỏ đâu, cậu dần yên tâm, bắt đầu có tâm tình nói đùa với Minh đế.
Sau khi các Hoàng tử tặng quà mừng xong, đến lượt tộc Côn Na Lý dâng quà.
Nghe thấy một tiếng vang lớn, Đằng Huy Nguyệt ngẩng đầu, chỉ thấy một màu đỏ tươi tràn đầy hai mắt ____
Tác giả :
Nhã Mị