Trăng Lạnh Như Sương
Chương 5: Hương khai đầy đất gió đông xưa
Trời mưa.
Tháng tư cuối xuân, một vài trận mưa đi qua, sắc xanh thêm đậm mà sắc hồng càng phai, trước mắt thấy cảnh xuân đã dần tàn.
Trong tách trà như băng như ngọc có nắp đậy là trà mới xanh biếc, hương thơm lượn lờ, quả nhiên là loại trà Phong Sơn Ngọc Bích vừa được cống. Rất nóng, Hoa phi nhẹ nhàng thổi, lại đặt xuống, thờ ơ nói:
“E rằng lại là một yêu nghiệt nữa rồi.”
Hàm phi dáng người nhỏ nhắn xinh xắn, lúc cười thì lộ ra hai lúm đồng tiền bên má, trong giọng nói nhàn nhã không thiếu có phần mỉa mai:
“Chị nói mới thật là đúng, không chừng thật sự là yêu nghiệt, chứ không tại sao rơi xuống hồ rồi còn chưa chịu chết, mà đến lúc vớt lên, hoàng thượng chỉ mới nhìn thoáng qua mà sắc mặt cũng đã thay đổi rồi.”
Hoa phi nói:
“Nói cho cùng thì cũng chỉ là một đứa con gái của tội thần, cái loại nô tì ti tiện, có gì mà cứ suốt ngày giận dỗi cơ chứ. Hoàng Thượng xem ra cũng chỉ là vì Hoàng quý phi, cho nên đối xử mới có phần đặc biệt.”
Hàm phi lại nói:
“Em chẳng sợ gì khác, chỉ là vừa rồi Mộ gia xảy ra đại biến, lỡ may ả ta mà có tâm địa tính toan gì, rồi lại làm ra cái việc đại nghịch bất đạo. Hiện tại còn cho ả ở trong “Phương nội yến an”, loại người như vậy ở bên cạnh Hoàng Thượng, rốt cuộc làm cho người ta cảm giác sợ hãi. Chi bằng thỉnh Thất gia khuyên nhủ Hoàng Thượng, hiện thời cũng chỉ có Thất gia nói Hoàng Thượng mới để lọt tai.”
Dự Thân Vương là con trai thứ bảy của Hưng Tông, là anh em sớm tối thân cận nhất với Hoàng Thượng, người trong cung đều gọi chàng một tiếng “Thất gia”. Hoa phi lắc đầu nói:
“Khuyên là khuyên thế nào? Hiện tại Hoàng Thượng ngay cả danh phận cũng chưa cho ả ta, thậm chí còn chưa lâm hạnh ả, Thất gia dù không phải người ngoài cũng không cách nào đi khuyên, nói rằng không nên giữ một cung nhân bên người?”
Hàm phi đột nhiên thốt lên:
“Ả ta vốn là cung nữ ban thưởng cho Đa Nhĩ hãn vương mà, không bằng bảo Thất gia khuyên hoàng thượng cứ theo như cũ ban cho hãn vương là được.”
Hoa phi bật cười một tiếng:
“Đã giữ được rồi, lẽ nào còn để cho đi? Chị khuyên cô em, tốt hơn là an phận thủ thường, cho nó yên cái thân đi.”
Hàm phi còn muốn nói, bị Hoa phi dùng thái độ ôn hòa ngăn cản, đành nuốt lại, chỉ nở một nụ cười, nói vài câu bâng quơ rồi cáo về.
Cô ở cách chỗ Hoa phi không xa, cho nên vẫn không có dùng kiệu, nội quan dùng ô lớn bằng giấy dầu che, cô vịn vào vai cung nữ, chậm rãi mà đi. Đến chỗ cầu Song Kính, thấy bên cầu có người, tưởng là mấy đứa cung nữ tránh mưa, cũng không để ý lắm. Lúc đi lại gần, vài cung nữ cuống quýt bái chào, chỉ có duy nhất một người nhan sắc mỹ miều đang dựa vào thành cầu, ngẩn ngơ ngắm mặt hồ xanh biếc, ngay cả đầu cũng chẳng buồn quay lại.
Nội quan bên cạnh Hàm phi cao giọng quát lên:
“Con nô tì lớn mật, thấy nương nương đến mà còn ngồi ngông nghênh ở đó, chán sống rồi sao?”
Người nọ lúc này mới ngoảnh lại, Hàm phi chấn động trong lòng, chẳng phải là xinh đẹp phi thường, song dung nhan như tuyết, con ngươi lạnh như băng, có một loại ánh mắt khiến cho người ta không dám nhìn gần, song lại không thể dời mắt đi được. Hàm phi thầm nghĩ trong lòng, một đôi con ngươi như vậy, chỉ có thể là Mộ phi đã quá cố. Thù Nhi quỳ gối ở dưới đã cười nịnh nọt nói:
“Xin nương nương thứ lỗi, Mộ cô nương vì trong người có bệnh nên không thể hành lễ.”
Hàm phi nghe đến ba chữ ” Mộ cô nương” thì bất giác cười lạnh. Cô là mẹ đẻ con trưởng của Hoàng Thượng, thường ngày trong cung Hoa phi cũng phải nhường nhịn ba phần, thật không khỏi mỉa mai một tiếng, nói:
“Đã có bệnh mà trời mưa còn muốn đi dạo, ta xem thấy bệnh cũng chả có gì nặng. Ta vào cung bao năm, thế nhưng chưa từng nghe qua bị bệnh là có thể không giữ quy củ, ngay cả tôn ti cao thấp cũng chẳng biết.”
Thù Nhi cười cười nói:
“Nương nương bớt giận, hôm nay Hoàng Thương đặc chỉ, muốn Mộ cô nương ra ngoài giải sầu, định ra một tí, ai ngờ về lại gặp trời mưa, cũng không phải cố ý đụng chạm nương nương. Mộ cô nương vốn tính như thế, vào cung cũng không bao lâu, ngay cả Hoàng Thượng thường ngày cũng không có trách phạt.”
Một câu nói cuối cùng như gió thoảng mây bay, thế nhưng Hàm phi nghe lại cực kỳ chói tai, không khỏi giận dữ:
“Ngươi luôn miệng lấy Hoàng Thượng ra dọa ta. Thấy bản cung, cô ta lại ngồi yên chẳng nhúc nhích, đó là cài quy củ gì? Một đứa nghiệt chủng của tên loạn thần tặc tử, cho cô ta sống đến hôm nay là ân huệ lắm rồi, lại còn không biết điều, lôi ả xuống đánh chết, cho đi bồi cái đám Mộ gia tiện nghi hơn người đó đi!”
Nghe cô ta sỉ nhục Mộ thị, đáy mắt Như Sương lóe lên ánh sáng lạnh lẽo, khó chịu quay đầu đi, nhìn về phía hồ mười dặm đang tỏa khói sóng. Thanh âm của nàng vốn thô rát lại nói không lớn, chỉ nhấn mạnh rõ ràng rành mạch từng chữ, âm lương đủ để cả người đứng trên lẫn người quỳ dưới đều nghe rõ, lạnh nhạt nói ra ba chữ:
“Cô không dám.”
Hàm phi giận tím mặt, Như Sương lại như chẳng thèm để ý, vươn tay ra phía cành liễu rủ ngoài thành cầu, ngắt một nhánh thưởng thức, lại tùy ý vân vê lá thả xuống nước, quyến rũ cá hồng tụ lại.
Hàm phi tức đến run bần bật:
“Ta không dám? Ngươi bảo ta không dám hả? Chẳng lẽ ta lại trị không nổi một đứa yêu nghiệt nhà ngươi?”
Quay phắt người lệnh cho nội quan:
“Đi lấy gậy! Lôi con tiện tì này xuống, đánh cho mạnh tay vào, đánh cho đến khi ta dạy được nó biết tôn ti trật tự mới thôi!”
Nữ quan đi theo nghe nói muốn đánh người, vội vàng khẽ túm lấy ống tay áo của Hàm phi. Hàm phi thốt ra một câu, Thù Nhi lại dập đầu một cái, thái độ vẫn kính cẩn như trước:
“Thỉnh Hàm phi nương nương hãy cân nhắc, Mộ cô nương không giống với những người khác.”
Những lời này nói còn chưa dứt đã cảm thấy như đổ thêm dầu vào lửa, trong lòng Hàm phi càng bùng giận, lời nói lại càng ác ý:
“Lấy gậy cho ta! Cả con nô tì này cũng đánh nốt!”
Thù Nhi thấy biến động thì nảy ra ý, liên tiếp nháy mắt, ra hiệu cho một cung nữ lặng lẽ chuồn đi báo tin, ai ngờ bị Hàm phi thấy, gọi lại:
“Tất cả đều phải thành thật đứng yên nơi tại chỗ cho ta, kẻ nào dám bước xuống cầu nửa bước, ta đánh gãy chân lập tức, xem đứa nào còn muốn dài mỏ nhọn mồm!”
Nội quan thét ra lệnh cho hai người đi lên, một người lập tức cầm lấy gậy hành hình. Như Sương không giãy giụa phản kháng, để mặc người lôi đi, Hàm phi bỗng nhiên nảy ra một ý, kêu lên:
“Từ từ đã.”
Khóe miệng nhếch một nụ cười lạnh:
“Đánh ngay tại đây đi.”
Gậy trong cung đình không giống với ngoài cung, dài không quá một trượng hai(một trượng tính theo thước mộc là 1.7m), đường kính không quá bảy phân(tầm 4 cm), cũng là dùng gỗ cây táo làm ra, phần thịt đặc, một gậy đập xuống thì xương cốt cũng đứt.
Thù Nhi quỳ nói:
“Nương nương xưa nay tâm địa như bồ tát, cầu nương nương nghĩ cho bệnh tình của Mộ cô nương, chỉ cần dạy dỗ nô tì là đủ rồi.”
Hàm phi nở nụ cười, nói:
“Con nha đầu trung thành ngươi khá lắm, nhưng cũng chẳng phải lo, các ngươi hai đứa, một đứa ít đi chút cũng không được.”
Cô ta có ý muốn cho Như Sương phải thấy sợ hãi mà cầu xin, chỉ chỉ vào Thù Nhi:
“Đánh con này trước đi. Đánh thật sự cho ta.”
Phạt đánh trong triều đình có hai loại, một cái gọi là “đánh nương tay” thì vẫn còn đường sống, còn cái mà gọi là “đánh thật sự” thì chỉ có đánh cho đến chết thôi.
Nội quan hành hình động tác rất nhanh nhẹn, lập tức ấn dúi Thù Nhi ngã xuống, dùng quả đào để bịt miệng, lúc giơ lên thì thật cao, lúc đánh xuống thì dùng hết cả mười phần sức lực, nghe “bốp” một tiếng nặng nề. Thù Nhi đau đến nỗi mồ hôi túa ra đầy đầu, ấm ức khóc ô ô. Như Sương bị áp giải ở một bên, lại giống như chẳng nhìn thấy gì.
Chỉ nghe thái giám hô đếm:
“Một gậy...Hai gậy... Ba gậy...” Đếm đến năm gậy, Thù Nhi đã ngất lịm vì đau, kêu không ra tiếng nữa. Hàm phi thấy Như Sương trên mặt không hề dầy sóng, âm thầm cảm thấy kỳ dị, cho là nàng bị dọa đến choáng váng đầu óc. Hất mặt một cái, nội quan liền tiến lại ấn Như Sương xuống, cũng lấy quả đào nhét vào miệng, nàng theo bản năng nhổ qua một bên, mặt tỏ vẻ ghét cay ghét đắng. Hàm phi lúc này mới thấy trong lòng có chút khoái trá, cười nói:
“Thì ra là ngươi cũng biết sợ hả?”
Như Sương không nói một lời, ánh mắt ngạo nghễ khinh khỉnh, trực tiếp nhìn về phía sau lưng cô ta. Hàm phi còn chưa biết gì, đang muốn nói tiếp, cung nữ bên người đã ào ào quỳ xuống. Hàm phi trong lòng trầm xuống, giật mình quay lại, quả nhiên, nhìn thấy ô lọng thêu rồng vàng quý giá hứng đầy con gió, Hoàng Đế khoanh tay mà đứng, Triệu Hữu Trí theo sau, một bức tường loan giá nghi thức xa lệ đứng bảo vệ xung quanh, nối tiếp trong vòng hơn mười bước, lặng yên không một tiếng động. Nhiều người như thế, vậy mà không một chút động tĩnh, chẳng biết đã đứng ở đó tự bao giờ.
Sự việc phát sinh bất ngờ, Hàm phi chỉ đành vội vàng hành lễ:
“Thần thiếp thỉnh Hoàng Thương vạn phúc kim an.”
Hoàng Đế cười lạnh:
“Vạn phúc? Người của trẫm không phải bị ngươi đánh chết sao, xem ra cũng thật vạn phúc?”
Triệu Hứu Trí nháy mắt, lập tức có người bước lên đỡ Như Sương dậy. Hoàng Đế thấy tóc mai nàng nhẹ buông xõa, thái độ lạnh lùng, nhìn qua thấy cũng chưa có bị thương, song trông Thù Nhi bị đánh cho chết ngất ở đấy, nếu bản thân chậm một bước, chỉ e hậu quả khó lường. Trong lòng không khỏi thấy rợn, mày hơi nhăn lại:
“Còn không có dưỡng bệnh cho tốt, lại ra đây làm chi?”
Như Sương khẽ nhấc khóe miệng, mặt vẫn lạnh lùng như trước:
“Không phải ngài bảo ta ra ngoài đi dạo sao?”
Giọng điệu cực kỳ xấc xược vô lễ, không phải là loại vừa khẩu khí mở miệng nên có. Hoàng Đế đang nổi nóng, quay mặt nhìn phía Hàm phi, ánh mắt lạnh buốt băng giá.
Hàm phi vừa kinh sợ vừa khó tin, vạn lần không thể tưởng tượng được chỉ vì một cung nữ mà hoàng thượng lại tức giận đến như vậy. Bởi vì sự hãi, trong lời nói run rẩy chực khóc:
“Hoàng Thượng, cung nữ này vô lễ như vậy, thần thiếp mới theo quy định trong cung mà dạy dỗ, mong Hoàng Thượng hiểu rõ. Thần thiếp mặc dù không biết gì, song cũng không có ngoài tổ tông gia pháp mà làm việc.”
Con mắt dài của Hoàng Đế liếc qua, khuôn mắt đẹp đẽ tuấn tú bỗng nhiên ẩn ẩn ý cười:
“Tổ tông gia pháp? Ngươi còn có gan đem tổ tông gia pháp ra uy hiếp trẫm? Cái gì mà tổ tông gia pháp, chẳng lẽ các ngươi bày kế sau lưng trẫm, cũng gọi là tổ tông gia pháp?”
Nụ cười tắt lịm, cơn giận bỗng nổi lên, giọng nói lạnh lùng nghiêm khắc:
“Lập tức đưa Hàm phi trở về kinh. Trường Ninh cung nếu không vừa ý nàng, ngày hôm sau lập tức theo nhóm các thái phi ở Vạn Phật đường tu luyện tâm tính. Không có ý chỉ của trẫm, không cho nàng bước qua cửa nửa bước. Ai muốn đến thăm, chỉ cho vào, không cho ra, ở bên mà chăm sóc nàng cả đời luôn mới tốt.”
Vạn Phật đường vốn là nơi các thái phi trong cung ăn chay niệm phật, vắng vẻ hiu quạnh, là chốn đèn nhang đất phật cổ xưa.
Hàm phi không ngờ hoàng đế tức giận đến vậy, lập tức mặt hoa thất sắc, toàn thân run rẩy, nước mắt rơi lã chã. Triệu Hữu Trí khom mình nhỏ giọng khuyên nhủ:
“Vạn Tuế gia, Hàm phi nương nương làm việc quả thực không hay, song thỉnh Hoàng Thượng xem xét đến trưởng hoàng tử...”
Hoàng Đế cười gằn một tiếng:
“Một người đàn bà ngoan độc âm hiểm như vậy, còn xứng đáng làm mẹ hay sao, còn đòi mang giọt máu của trẫm. Càng đưa cô ta vào Vạn Phật Đường sớm, càng để cho cô ta nhanh nhanh sám hối tội lỗi.”
Cục tức còn chưa tiêu, lại bồi thêm một câu:
“Cả trưởng hoàng tử cũng không cho đến thăm.”
Hàm phi che mặt khóc òa. Hoàng Đế từ xưa đến nay lại cực kỳ chán ghét đàn bà con gái mít ướt, bèn quay mặt ngắm Như Sương, thấy ánh mắt của nàng mơ màng, đang nhìn về phía xa xa nơi khói sóng tỏa mù trên mặt hồ, không biết là đang nghĩ cái gì, đối với những lời đối đáp hỗn loạn nãy giờ dường như chẳng nghe thấy gì. Mà nếu có nghe, thì cũng chẳng để vào lòng, điệu bộ vẫn lạnh lùng xa cách như ngày thường.
Hoàng Đế vốn đang nghỉ trưa tại “Phương nội yến an”, bị Triệu Hữu Trí đánh thức, vội vội vàng vàng tới đây, giờ lại đang cáu kỉnh, giấc ngủ trưa đương nhiên đi đời, đành khởi giá quay trở lại.
“Phương nội yến an” là một trong bốn mươi sáu cảnh Thượng Uyển, là nơi nghỉ ngơi chính của Hoàng Đế tại Thượng Uyển, quy mô cũng giống như là ở Chính Thanh điện trong cung.
Chính điện theo lệ thường dùng để triệu kiến những vương công đại thần thân cận, người ta gọi là nơi “Nội triều”. Hoàng Đế ở trong điện phía sườn đông, điện này còn có tấm bảng đề hai chữ “Tĩnh hư” mà Cảnh Tông tự tay đề, vì thế được gọi là Tĩnh Hư Thất(phòng)- là ngự tẩm(chỗ nghỉ ngơi) nội điện chính thức. Tĩnh Hư Thất dù nói là phòng, song so với những điện bình thường khác còn rộng rãi hơn nhiều. Hoàng Đế xưa nay thích yên tĩnh, khắp căn phòng đều được trải những tấm thảm dày cả vài tấc.
Lúc này chỉ phất tay một cái, cung nữ trong nháy mắt đều lặng lẽ thối lui sạch.
Dưới cửa sổ có một cái giường hẹp, Như Sương lúc này có lẽ đã mệt, thần sắc trông uể oải, nhìn thấy cái giường y như bị hút hồn, chẳng thèm để ý Hoàng Đế ở kế bên, cứ như chẳng biết gì về cung quy lễ chế.
Giữa điện có một cái vạc dát vàng thật lớn, bên trong đốt hương hỗn hợp, làn khói trắng mờ nhẹ như tơ, từng sợi tản mạn chui vào sâu bên trong điện. Nơi giường nhỏ bằng gỗ trắc trải gấm thêu hoa hải đường màu đỏ, Như Sương nằm ở đó, viền ống tay áo uốn lượn, lớp lớp vạt áo váy trượt thẳng xuống bên dưới tấm thảm lông cừu, như ráng mặt trời nơi cõi tây thiên cực lạc đẹp đẽ xán lạn.
Thật đúng là cuối xuân uể oải, ngoài cửa sổ mưa rơi tí tách, rèm châu là loại vải lụa màu ráng chiều mới được cống nạp, từ dưới bậc thềm lờ mờ nhô lên hoa lan cỏ huyên thơm ngát, chút ánh màu xanh lục chiếu trên khuôn mặt nàng, càng làm cho hai gò má trông như ngọc. Hai hàng lông mày của Hoàng Đế dần nới lỏng, sau một lúc lâu, phì cười:
“Lần sau cũng không được vô lễ như vậy nữa đấy.”
Như Sương chậm rãi mở mắt, bình tĩnh nhìn chàng chốc lát. Hoàng Đế nói:
“Trong cung nhiều thị phi, mà các cung nữ phi tần cũng không phải dễ đối phó...”
Như Sương đưa tay vuốt tóc, làm như không nghe thấy. Hoàng đế dần dần thu lại nụ cười:
“Con bé Thù nhi có lẽ đã bị đánh cho thành tàn phế rồi, nếu trẫm mà chậm một bước, nàng phải làm sao bây giờ?”
Như Sương nhếch khóe miệng, nói:
“Con bé đó đáng bị như thế.”
Hoàng Đế mắt sáng như đuốc, chăm chăm nhìn nàng. Như Sương giọng điệu vẫn lạnh lùng xa cách như cũ:
“Nó là người của Hoa phi, hôm nay là do nó ở giữa cố ý khiêu khích.”
Hoàng Đế như có vài phần không ngờ đến, không khỏi nói:
“Thì ra là nàng cũng biết rồi... vậy, nếu trẫm thật sự đến muộn thì sao?”
Như Sương mệt mỏi không buồn nói nữa, nhưng bị ánh mắt của Hoàng Đế nhìn mãi, nên cũng không thể không phun ra ba chữ:
“Sẽ không muộn.”
Làm sao mà sẽ muộn cho được?? Triệu Hữu Trí tuy là thái giám chấp bút trong ban Ti Lễ, thực tế cũng là người đứng đầu trong ban cai quản cung điện, đứng đầu tất cả cung nhân nội thần, trong Thượng Uyển cung từng bông hoa từng cái cây, từng ngọn gió thổi lá bay, có cái nào qua mắt nổi lão. Lão tất nhiên sẽ đánh thức Hoàng Thượng đi giải vây cho nàng, huống chi...
Lại lười suy nghĩ tiếp, bởi vì hoàng đế vươn tay đến. Đầu ngón tay chàng thật lạnh, mang theo một luồng hơi thở thoang thoảng hương cam thảo như có như không, sâu thẳm thấm vào người. Chàng dùng ngón tay trỏ nhẹ nhàng vuốt hai gò má không có chút máu của nàng, dịu giọng nói:
“Trẫm sẽ không để cho nàng phải chịu tủi thân lần nữa.”
Tủi thân? Nàng cười lạnh trong lòng, hận thù xương máu lại chỉ dùng có hai chữ “tủi thân” mà xóa bỏ?
Thế nhưng thân mình nghiêng nhẹ, đã tựa vào đầu vai của chàng, hô hấp tràn ngập hơi thở của chàng, nàng bỗng có chút ngẩn ngơ. Đạt được quá dễ dàng, lại khiến cho người ta có cảm giác không chân thực, tựa như bước hụt nấc thang, trong lòng không hiểu sao chột dạ. Mạch đập dần trở nên dồn dập, trực tiếp đánh thẳng vào quả tim, ngực như muốn vỡ tung ra, nháy mắt nàng đã thấm ra vài giọt mồ hôi lạnh. Hoàng đế cảm thấy khác thường hỏi:
“Làm sao vậy?”
Nàng đè nén không được khí huyết quay cuồng, tựa như chỉ cần mở miệng là sẽ phun ra một ngụm máu tươi. Nàng phải cố dùng hết sức mới nuốt lại được vị ngọt trong cổ, duy trì vẻ lạnh nhạt trên khuôn mặt chỉ nói hai chữ:
“Mệt mỏi.”
Hoàng Đế đã quen nàng xưa nay ít lời, ngón tay mơn trớn bên thái dương lạnh băng ướt đẫm của nàng, giọng điệu ôn hòa:
“Còn ra cả mồ hôi lạnh đây này, đi xuống đi nghỉ đi.”
Nàng lui xuống. Nàng vốn ở trong căn phòng sau hành lang Tĩnh Hư Thất, ra khỏi điện đi xuyên qua hành lang dài thì đến. Đi một đoạn mấy chục bước, toàn thân nàng ra đầy mồ hôi, chật vật trở về phòng. Vừa đóng cánh cửa lại, vội vàng lấy ra từ dưới gối lọ thuốc, nuốt xuống một viên, cả người đã mềm nhũn không leo được lên giường, chỉ đành ngồi dựa dưới chân, nửa quỳ nửa bò bên thành giường. Sau một hồi lâu thuốc mới phát huy công hiệu, cuối cùng cũng hít thở được một hơi.
Ngoài cửa sổ mưa đã tạnh, những giọt nước còn đọng lại tí tách rơi xuống từ mái hiên, xa xa ở trên điện cao treo một quả chuông đồng, bị gió thổi lắc lư rung động, ngẫu nhiên phát ra một tiếng, truyền đi rất xa, lọt vào trong tai, cảm giác như một ngôi chùa cổ tĩnh mịch hoang vu.
Nàng nằm bẹp bên mép giường, trên trán còn đầy mồ hôi lạnh toát. Nàng còn chưa chết được, con đường tương lai xa vạn dặm, nàng ngay cả bước đầu tiên còn chưa đến, tuyệt đối không thể chết được. Nàng nhớ tới khuôn mắt trắng bệch như tử thi của Thù Nhi, một cô gái như hoa như ngọc, lúc này chỉ e đang nằm dài chờ chết. Đây là kết cục của một bước đi sai lầm. Ở bên nàng còn chưa quá mười ngày nửa tháng, lại đã nóng lòng muốn mượn đao giết người, kết quả là gậy ông đập lưng ông.
Nàng hờ hững nghĩ trong lòng, Hàm phi cho mình là cái đồ yêu nghiệt, Hoa phi cũng vậy, thế nhưng họ căn bản còn chưa hiểu rõ- chỉ cần một ngày còn có hoàng đế ở bên, họ cũng chẳng làm gì được nàng.
Tháng tư cuối xuân, một vài trận mưa đi qua, sắc xanh thêm đậm mà sắc hồng càng phai, trước mắt thấy cảnh xuân đã dần tàn.
Trong tách trà như băng như ngọc có nắp đậy là trà mới xanh biếc, hương thơm lượn lờ, quả nhiên là loại trà Phong Sơn Ngọc Bích vừa được cống. Rất nóng, Hoa phi nhẹ nhàng thổi, lại đặt xuống, thờ ơ nói:
“E rằng lại là một yêu nghiệt nữa rồi.”
Hàm phi dáng người nhỏ nhắn xinh xắn, lúc cười thì lộ ra hai lúm đồng tiền bên má, trong giọng nói nhàn nhã không thiếu có phần mỉa mai:
“Chị nói mới thật là đúng, không chừng thật sự là yêu nghiệt, chứ không tại sao rơi xuống hồ rồi còn chưa chịu chết, mà đến lúc vớt lên, hoàng thượng chỉ mới nhìn thoáng qua mà sắc mặt cũng đã thay đổi rồi.”
Hoa phi nói:
“Nói cho cùng thì cũng chỉ là một đứa con gái của tội thần, cái loại nô tì ti tiện, có gì mà cứ suốt ngày giận dỗi cơ chứ. Hoàng Thượng xem ra cũng chỉ là vì Hoàng quý phi, cho nên đối xử mới có phần đặc biệt.”
Hàm phi lại nói:
“Em chẳng sợ gì khác, chỉ là vừa rồi Mộ gia xảy ra đại biến, lỡ may ả ta mà có tâm địa tính toan gì, rồi lại làm ra cái việc đại nghịch bất đạo. Hiện tại còn cho ả ở trong “Phương nội yến an”, loại người như vậy ở bên cạnh Hoàng Thượng, rốt cuộc làm cho người ta cảm giác sợ hãi. Chi bằng thỉnh Thất gia khuyên nhủ Hoàng Thượng, hiện thời cũng chỉ có Thất gia nói Hoàng Thượng mới để lọt tai.”
Dự Thân Vương là con trai thứ bảy của Hưng Tông, là anh em sớm tối thân cận nhất với Hoàng Thượng, người trong cung đều gọi chàng một tiếng “Thất gia”. Hoa phi lắc đầu nói:
“Khuyên là khuyên thế nào? Hiện tại Hoàng Thượng ngay cả danh phận cũng chưa cho ả ta, thậm chí còn chưa lâm hạnh ả, Thất gia dù không phải người ngoài cũng không cách nào đi khuyên, nói rằng không nên giữ một cung nhân bên người?”
Hàm phi đột nhiên thốt lên:
“Ả ta vốn là cung nữ ban thưởng cho Đa Nhĩ hãn vương mà, không bằng bảo Thất gia khuyên hoàng thượng cứ theo như cũ ban cho hãn vương là được.”
Hoa phi bật cười một tiếng:
“Đã giữ được rồi, lẽ nào còn để cho đi? Chị khuyên cô em, tốt hơn là an phận thủ thường, cho nó yên cái thân đi.”
Hàm phi còn muốn nói, bị Hoa phi dùng thái độ ôn hòa ngăn cản, đành nuốt lại, chỉ nở một nụ cười, nói vài câu bâng quơ rồi cáo về.
Cô ở cách chỗ Hoa phi không xa, cho nên vẫn không có dùng kiệu, nội quan dùng ô lớn bằng giấy dầu che, cô vịn vào vai cung nữ, chậm rãi mà đi. Đến chỗ cầu Song Kính, thấy bên cầu có người, tưởng là mấy đứa cung nữ tránh mưa, cũng không để ý lắm. Lúc đi lại gần, vài cung nữ cuống quýt bái chào, chỉ có duy nhất một người nhan sắc mỹ miều đang dựa vào thành cầu, ngẩn ngơ ngắm mặt hồ xanh biếc, ngay cả đầu cũng chẳng buồn quay lại.
Nội quan bên cạnh Hàm phi cao giọng quát lên:
“Con nô tì lớn mật, thấy nương nương đến mà còn ngồi ngông nghênh ở đó, chán sống rồi sao?”
Người nọ lúc này mới ngoảnh lại, Hàm phi chấn động trong lòng, chẳng phải là xinh đẹp phi thường, song dung nhan như tuyết, con ngươi lạnh như băng, có một loại ánh mắt khiến cho người ta không dám nhìn gần, song lại không thể dời mắt đi được. Hàm phi thầm nghĩ trong lòng, một đôi con ngươi như vậy, chỉ có thể là Mộ phi đã quá cố. Thù Nhi quỳ gối ở dưới đã cười nịnh nọt nói:
“Xin nương nương thứ lỗi, Mộ cô nương vì trong người có bệnh nên không thể hành lễ.”
Hàm phi nghe đến ba chữ ” Mộ cô nương” thì bất giác cười lạnh. Cô là mẹ đẻ con trưởng của Hoàng Thượng, thường ngày trong cung Hoa phi cũng phải nhường nhịn ba phần, thật không khỏi mỉa mai một tiếng, nói:
“Đã có bệnh mà trời mưa còn muốn đi dạo, ta xem thấy bệnh cũng chả có gì nặng. Ta vào cung bao năm, thế nhưng chưa từng nghe qua bị bệnh là có thể không giữ quy củ, ngay cả tôn ti cao thấp cũng chẳng biết.”
Thù Nhi cười cười nói:
“Nương nương bớt giận, hôm nay Hoàng Thương đặc chỉ, muốn Mộ cô nương ra ngoài giải sầu, định ra một tí, ai ngờ về lại gặp trời mưa, cũng không phải cố ý đụng chạm nương nương. Mộ cô nương vốn tính như thế, vào cung cũng không bao lâu, ngay cả Hoàng Thượng thường ngày cũng không có trách phạt.”
Một câu nói cuối cùng như gió thoảng mây bay, thế nhưng Hàm phi nghe lại cực kỳ chói tai, không khỏi giận dữ:
“Ngươi luôn miệng lấy Hoàng Thượng ra dọa ta. Thấy bản cung, cô ta lại ngồi yên chẳng nhúc nhích, đó là cài quy củ gì? Một đứa nghiệt chủng của tên loạn thần tặc tử, cho cô ta sống đến hôm nay là ân huệ lắm rồi, lại còn không biết điều, lôi ả xuống đánh chết, cho đi bồi cái đám Mộ gia tiện nghi hơn người đó đi!”
Nghe cô ta sỉ nhục Mộ thị, đáy mắt Như Sương lóe lên ánh sáng lạnh lẽo, khó chịu quay đầu đi, nhìn về phía hồ mười dặm đang tỏa khói sóng. Thanh âm của nàng vốn thô rát lại nói không lớn, chỉ nhấn mạnh rõ ràng rành mạch từng chữ, âm lương đủ để cả người đứng trên lẫn người quỳ dưới đều nghe rõ, lạnh nhạt nói ra ba chữ:
“Cô không dám.”
Hàm phi giận tím mặt, Như Sương lại như chẳng thèm để ý, vươn tay ra phía cành liễu rủ ngoài thành cầu, ngắt một nhánh thưởng thức, lại tùy ý vân vê lá thả xuống nước, quyến rũ cá hồng tụ lại.
Hàm phi tức đến run bần bật:
“Ta không dám? Ngươi bảo ta không dám hả? Chẳng lẽ ta lại trị không nổi một đứa yêu nghiệt nhà ngươi?”
Quay phắt người lệnh cho nội quan:
“Đi lấy gậy! Lôi con tiện tì này xuống, đánh cho mạnh tay vào, đánh cho đến khi ta dạy được nó biết tôn ti trật tự mới thôi!”
Nữ quan đi theo nghe nói muốn đánh người, vội vàng khẽ túm lấy ống tay áo của Hàm phi. Hàm phi thốt ra một câu, Thù Nhi lại dập đầu một cái, thái độ vẫn kính cẩn như trước:
“Thỉnh Hàm phi nương nương hãy cân nhắc, Mộ cô nương không giống với những người khác.”
Những lời này nói còn chưa dứt đã cảm thấy như đổ thêm dầu vào lửa, trong lòng Hàm phi càng bùng giận, lời nói lại càng ác ý:
“Lấy gậy cho ta! Cả con nô tì này cũng đánh nốt!”
Thù Nhi thấy biến động thì nảy ra ý, liên tiếp nháy mắt, ra hiệu cho một cung nữ lặng lẽ chuồn đi báo tin, ai ngờ bị Hàm phi thấy, gọi lại:
“Tất cả đều phải thành thật đứng yên nơi tại chỗ cho ta, kẻ nào dám bước xuống cầu nửa bước, ta đánh gãy chân lập tức, xem đứa nào còn muốn dài mỏ nhọn mồm!”
Nội quan thét ra lệnh cho hai người đi lên, một người lập tức cầm lấy gậy hành hình. Như Sương không giãy giụa phản kháng, để mặc người lôi đi, Hàm phi bỗng nhiên nảy ra một ý, kêu lên:
“Từ từ đã.”
Khóe miệng nhếch một nụ cười lạnh:
“Đánh ngay tại đây đi.”
Gậy trong cung đình không giống với ngoài cung, dài không quá một trượng hai(một trượng tính theo thước mộc là 1.7m), đường kính không quá bảy phân(tầm 4 cm), cũng là dùng gỗ cây táo làm ra, phần thịt đặc, một gậy đập xuống thì xương cốt cũng đứt.
Thù Nhi quỳ nói:
“Nương nương xưa nay tâm địa như bồ tát, cầu nương nương nghĩ cho bệnh tình của Mộ cô nương, chỉ cần dạy dỗ nô tì là đủ rồi.”
Hàm phi nở nụ cười, nói:
“Con nha đầu trung thành ngươi khá lắm, nhưng cũng chẳng phải lo, các ngươi hai đứa, một đứa ít đi chút cũng không được.”
Cô ta có ý muốn cho Như Sương phải thấy sợ hãi mà cầu xin, chỉ chỉ vào Thù Nhi:
“Đánh con này trước đi. Đánh thật sự cho ta.”
Phạt đánh trong triều đình có hai loại, một cái gọi là “đánh nương tay” thì vẫn còn đường sống, còn cái mà gọi là “đánh thật sự” thì chỉ có đánh cho đến chết thôi.
Nội quan hành hình động tác rất nhanh nhẹn, lập tức ấn dúi Thù Nhi ngã xuống, dùng quả đào để bịt miệng, lúc giơ lên thì thật cao, lúc đánh xuống thì dùng hết cả mười phần sức lực, nghe “bốp” một tiếng nặng nề. Thù Nhi đau đến nỗi mồ hôi túa ra đầy đầu, ấm ức khóc ô ô. Như Sương bị áp giải ở một bên, lại giống như chẳng nhìn thấy gì.
Chỉ nghe thái giám hô đếm:
“Một gậy...Hai gậy... Ba gậy...” Đếm đến năm gậy, Thù Nhi đã ngất lịm vì đau, kêu không ra tiếng nữa. Hàm phi thấy Như Sương trên mặt không hề dầy sóng, âm thầm cảm thấy kỳ dị, cho là nàng bị dọa đến choáng váng đầu óc. Hất mặt một cái, nội quan liền tiến lại ấn Như Sương xuống, cũng lấy quả đào nhét vào miệng, nàng theo bản năng nhổ qua một bên, mặt tỏ vẻ ghét cay ghét đắng. Hàm phi lúc này mới thấy trong lòng có chút khoái trá, cười nói:
“Thì ra là ngươi cũng biết sợ hả?”
Như Sương không nói một lời, ánh mắt ngạo nghễ khinh khỉnh, trực tiếp nhìn về phía sau lưng cô ta. Hàm phi còn chưa biết gì, đang muốn nói tiếp, cung nữ bên người đã ào ào quỳ xuống. Hàm phi trong lòng trầm xuống, giật mình quay lại, quả nhiên, nhìn thấy ô lọng thêu rồng vàng quý giá hứng đầy con gió, Hoàng Đế khoanh tay mà đứng, Triệu Hữu Trí theo sau, một bức tường loan giá nghi thức xa lệ đứng bảo vệ xung quanh, nối tiếp trong vòng hơn mười bước, lặng yên không một tiếng động. Nhiều người như thế, vậy mà không một chút động tĩnh, chẳng biết đã đứng ở đó tự bao giờ.
Sự việc phát sinh bất ngờ, Hàm phi chỉ đành vội vàng hành lễ:
“Thần thiếp thỉnh Hoàng Thương vạn phúc kim an.”
Hoàng Đế cười lạnh:
“Vạn phúc? Người của trẫm không phải bị ngươi đánh chết sao, xem ra cũng thật vạn phúc?”
Triệu Hứu Trí nháy mắt, lập tức có người bước lên đỡ Như Sương dậy. Hoàng Đế thấy tóc mai nàng nhẹ buông xõa, thái độ lạnh lùng, nhìn qua thấy cũng chưa có bị thương, song trông Thù Nhi bị đánh cho chết ngất ở đấy, nếu bản thân chậm một bước, chỉ e hậu quả khó lường. Trong lòng không khỏi thấy rợn, mày hơi nhăn lại:
“Còn không có dưỡng bệnh cho tốt, lại ra đây làm chi?”
Như Sương khẽ nhấc khóe miệng, mặt vẫn lạnh lùng như trước:
“Không phải ngài bảo ta ra ngoài đi dạo sao?”
Giọng điệu cực kỳ xấc xược vô lễ, không phải là loại vừa khẩu khí mở miệng nên có. Hoàng Đế đang nổi nóng, quay mặt nhìn phía Hàm phi, ánh mắt lạnh buốt băng giá.
Hàm phi vừa kinh sợ vừa khó tin, vạn lần không thể tưởng tượng được chỉ vì một cung nữ mà hoàng thượng lại tức giận đến như vậy. Bởi vì sự hãi, trong lời nói run rẩy chực khóc:
“Hoàng Thượng, cung nữ này vô lễ như vậy, thần thiếp mới theo quy định trong cung mà dạy dỗ, mong Hoàng Thượng hiểu rõ. Thần thiếp mặc dù không biết gì, song cũng không có ngoài tổ tông gia pháp mà làm việc.”
Con mắt dài của Hoàng Đế liếc qua, khuôn mắt đẹp đẽ tuấn tú bỗng nhiên ẩn ẩn ý cười:
“Tổ tông gia pháp? Ngươi còn có gan đem tổ tông gia pháp ra uy hiếp trẫm? Cái gì mà tổ tông gia pháp, chẳng lẽ các ngươi bày kế sau lưng trẫm, cũng gọi là tổ tông gia pháp?”
Nụ cười tắt lịm, cơn giận bỗng nổi lên, giọng nói lạnh lùng nghiêm khắc:
“Lập tức đưa Hàm phi trở về kinh. Trường Ninh cung nếu không vừa ý nàng, ngày hôm sau lập tức theo nhóm các thái phi ở Vạn Phật đường tu luyện tâm tính. Không có ý chỉ của trẫm, không cho nàng bước qua cửa nửa bước. Ai muốn đến thăm, chỉ cho vào, không cho ra, ở bên mà chăm sóc nàng cả đời luôn mới tốt.”
Vạn Phật đường vốn là nơi các thái phi trong cung ăn chay niệm phật, vắng vẻ hiu quạnh, là chốn đèn nhang đất phật cổ xưa.
Hàm phi không ngờ hoàng đế tức giận đến vậy, lập tức mặt hoa thất sắc, toàn thân run rẩy, nước mắt rơi lã chã. Triệu Hữu Trí khom mình nhỏ giọng khuyên nhủ:
“Vạn Tuế gia, Hàm phi nương nương làm việc quả thực không hay, song thỉnh Hoàng Thượng xem xét đến trưởng hoàng tử...”
Hoàng Đế cười gằn một tiếng:
“Một người đàn bà ngoan độc âm hiểm như vậy, còn xứng đáng làm mẹ hay sao, còn đòi mang giọt máu của trẫm. Càng đưa cô ta vào Vạn Phật Đường sớm, càng để cho cô ta nhanh nhanh sám hối tội lỗi.”
Cục tức còn chưa tiêu, lại bồi thêm một câu:
“Cả trưởng hoàng tử cũng không cho đến thăm.”
Hàm phi che mặt khóc òa. Hoàng Đế từ xưa đến nay lại cực kỳ chán ghét đàn bà con gái mít ướt, bèn quay mặt ngắm Như Sương, thấy ánh mắt của nàng mơ màng, đang nhìn về phía xa xa nơi khói sóng tỏa mù trên mặt hồ, không biết là đang nghĩ cái gì, đối với những lời đối đáp hỗn loạn nãy giờ dường như chẳng nghe thấy gì. Mà nếu có nghe, thì cũng chẳng để vào lòng, điệu bộ vẫn lạnh lùng xa cách như ngày thường.
Hoàng Đế vốn đang nghỉ trưa tại “Phương nội yến an”, bị Triệu Hữu Trí đánh thức, vội vội vàng vàng tới đây, giờ lại đang cáu kỉnh, giấc ngủ trưa đương nhiên đi đời, đành khởi giá quay trở lại.
“Phương nội yến an” là một trong bốn mươi sáu cảnh Thượng Uyển, là nơi nghỉ ngơi chính của Hoàng Đế tại Thượng Uyển, quy mô cũng giống như là ở Chính Thanh điện trong cung.
Chính điện theo lệ thường dùng để triệu kiến những vương công đại thần thân cận, người ta gọi là nơi “Nội triều”. Hoàng Đế ở trong điện phía sườn đông, điện này còn có tấm bảng đề hai chữ “Tĩnh hư” mà Cảnh Tông tự tay đề, vì thế được gọi là Tĩnh Hư Thất(phòng)- là ngự tẩm(chỗ nghỉ ngơi) nội điện chính thức. Tĩnh Hư Thất dù nói là phòng, song so với những điện bình thường khác còn rộng rãi hơn nhiều. Hoàng Đế xưa nay thích yên tĩnh, khắp căn phòng đều được trải những tấm thảm dày cả vài tấc.
Lúc này chỉ phất tay một cái, cung nữ trong nháy mắt đều lặng lẽ thối lui sạch.
Dưới cửa sổ có một cái giường hẹp, Như Sương lúc này có lẽ đã mệt, thần sắc trông uể oải, nhìn thấy cái giường y như bị hút hồn, chẳng thèm để ý Hoàng Đế ở kế bên, cứ như chẳng biết gì về cung quy lễ chế.
Giữa điện có một cái vạc dát vàng thật lớn, bên trong đốt hương hỗn hợp, làn khói trắng mờ nhẹ như tơ, từng sợi tản mạn chui vào sâu bên trong điện. Nơi giường nhỏ bằng gỗ trắc trải gấm thêu hoa hải đường màu đỏ, Như Sương nằm ở đó, viền ống tay áo uốn lượn, lớp lớp vạt áo váy trượt thẳng xuống bên dưới tấm thảm lông cừu, như ráng mặt trời nơi cõi tây thiên cực lạc đẹp đẽ xán lạn.
Thật đúng là cuối xuân uể oải, ngoài cửa sổ mưa rơi tí tách, rèm châu là loại vải lụa màu ráng chiều mới được cống nạp, từ dưới bậc thềm lờ mờ nhô lên hoa lan cỏ huyên thơm ngát, chút ánh màu xanh lục chiếu trên khuôn mặt nàng, càng làm cho hai gò má trông như ngọc. Hai hàng lông mày của Hoàng Đế dần nới lỏng, sau một lúc lâu, phì cười:
“Lần sau cũng không được vô lễ như vậy nữa đấy.”
Như Sương chậm rãi mở mắt, bình tĩnh nhìn chàng chốc lát. Hoàng Đế nói:
“Trong cung nhiều thị phi, mà các cung nữ phi tần cũng không phải dễ đối phó...”
Như Sương đưa tay vuốt tóc, làm như không nghe thấy. Hoàng đế dần dần thu lại nụ cười:
“Con bé Thù nhi có lẽ đã bị đánh cho thành tàn phế rồi, nếu trẫm mà chậm một bước, nàng phải làm sao bây giờ?”
Như Sương nhếch khóe miệng, nói:
“Con bé đó đáng bị như thế.”
Hoàng Đế mắt sáng như đuốc, chăm chăm nhìn nàng. Như Sương giọng điệu vẫn lạnh lùng xa cách như cũ:
“Nó là người của Hoa phi, hôm nay là do nó ở giữa cố ý khiêu khích.”
Hoàng Đế như có vài phần không ngờ đến, không khỏi nói:
“Thì ra là nàng cũng biết rồi... vậy, nếu trẫm thật sự đến muộn thì sao?”
Như Sương mệt mỏi không buồn nói nữa, nhưng bị ánh mắt của Hoàng Đế nhìn mãi, nên cũng không thể không phun ra ba chữ:
“Sẽ không muộn.”
Làm sao mà sẽ muộn cho được?? Triệu Hữu Trí tuy là thái giám chấp bút trong ban Ti Lễ, thực tế cũng là người đứng đầu trong ban cai quản cung điện, đứng đầu tất cả cung nhân nội thần, trong Thượng Uyển cung từng bông hoa từng cái cây, từng ngọn gió thổi lá bay, có cái nào qua mắt nổi lão. Lão tất nhiên sẽ đánh thức Hoàng Thượng đi giải vây cho nàng, huống chi...
Lại lười suy nghĩ tiếp, bởi vì hoàng đế vươn tay đến. Đầu ngón tay chàng thật lạnh, mang theo một luồng hơi thở thoang thoảng hương cam thảo như có như không, sâu thẳm thấm vào người. Chàng dùng ngón tay trỏ nhẹ nhàng vuốt hai gò má không có chút máu của nàng, dịu giọng nói:
“Trẫm sẽ không để cho nàng phải chịu tủi thân lần nữa.”
Tủi thân? Nàng cười lạnh trong lòng, hận thù xương máu lại chỉ dùng có hai chữ “tủi thân” mà xóa bỏ?
Thế nhưng thân mình nghiêng nhẹ, đã tựa vào đầu vai của chàng, hô hấp tràn ngập hơi thở của chàng, nàng bỗng có chút ngẩn ngơ. Đạt được quá dễ dàng, lại khiến cho người ta có cảm giác không chân thực, tựa như bước hụt nấc thang, trong lòng không hiểu sao chột dạ. Mạch đập dần trở nên dồn dập, trực tiếp đánh thẳng vào quả tim, ngực như muốn vỡ tung ra, nháy mắt nàng đã thấm ra vài giọt mồ hôi lạnh. Hoàng đế cảm thấy khác thường hỏi:
“Làm sao vậy?”
Nàng đè nén không được khí huyết quay cuồng, tựa như chỉ cần mở miệng là sẽ phun ra một ngụm máu tươi. Nàng phải cố dùng hết sức mới nuốt lại được vị ngọt trong cổ, duy trì vẻ lạnh nhạt trên khuôn mặt chỉ nói hai chữ:
“Mệt mỏi.”
Hoàng Đế đã quen nàng xưa nay ít lời, ngón tay mơn trớn bên thái dương lạnh băng ướt đẫm của nàng, giọng điệu ôn hòa:
“Còn ra cả mồ hôi lạnh đây này, đi xuống đi nghỉ đi.”
Nàng lui xuống. Nàng vốn ở trong căn phòng sau hành lang Tĩnh Hư Thất, ra khỏi điện đi xuyên qua hành lang dài thì đến. Đi một đoạn mấy chục bước, toàn thân nàng ra đầy mồ hôi, chật vật trở về phòng. Vừa đóng cánh cửa lại, vội vàng lấy ra từ dưới gối lọ thuốc, nuốt xuống một viên, cả người đã mềm nhũn không leo được lên giường, chỉ đành ngồi dựa dưới chân, nửa quỳ nửa bò bên thành giường. Sau một hồi lâu thuốc mới phát huy công hiệu, cuối cùng cũng hít thở được một hơi.
Ngoài cửa sổ mưa đã tạnh, những giọt nước còn đọng lại tí tách rơi xuống từ mái hiên, xa xa ở trên điện cao treo một quả chuông đồng, bị gió thổi lắc lư rung động, ngẫu nhiên phát ra một tiếng, truyền đi rất xa, lọt vào trong tai, cảm giác như một ngôi chùa cổ tĩnh mịch hoang vu.
Nàng nằm bẹp bên mép giường, trên trán còn đầy mồ hôi lạnh toát. Nàng còn chưa chết được, con đường tương lai xa vạn dặm, nàng ngay cả bước đầu tiên còn chưa đến, tuyệt đối không thể chết được. Nàng nhớ tới khuôn mắt trắng bệch như tử thi của Thù Nhi, một cô gái như hoa như ngọc, lúc này chỉ e đang nằm dài chờ chết. Đây là kết cục của một bước đi sai lầm. Ở bên nàng còn chưa quá mười ngày nửa tháng, lại đã nóng lòng muốn mượn đao giết người, kết quả là gậy ông đập lưng ông.
Nàng hờ hững nghĩ trong lòng, Hàm phi cho mình là cái đồ yêu nghiệt, Hoa phi cũng vậy, thế nhưng họ căn bản còn chưa hiểu rõ- chỉ cần một ngày còn có hoàng đế ở bên, họ cũng chẳng làm gì được nàng.
Tác giả :
Phỉ Ngã Tư Tồn