Trăng Lạnh Như Sương
Chương 23: Điện ngọc tinh thuần giếng ngọc lạnh lẽo
Đợi đến lúc Dự Thân VƯơng lành bệnh thì cơn rét đậm rét hại cũng đã kéo đến.
Sau mấy trận tuyết lớn, rốt cuộc dịch bệnh trong thành cũng dần dần mai danh ẩn tích trong khí trời giá rét, đại dịch đi qua, ngay cả trong cung cũng trơ lại một vẻ tiêu điều cô tịch. Trên đại lộ cấm mênh mông thẳng tắp, chỉ lác đác đôi tiếng bước chân xền xệt vang tai, tựa hồ đang đạp nát cả cái tĩnh mịch ngút ngàn.
Bọn tiểu thái giám đi quét tuyết đã sớm đứng núp ru rú trong góc, bởi vì lạnh, gió cuộn những đám tuyết cuồng lên đập tới tấp vào mặt, đau ê ẩm.
Đến cửa Định Hòa thì xuống ngựa, nội quan đã sớm đứng đợi để nghênh đón, thấy chàng thở phào một hơi:
“Vương gia, Hoàng Đế đang ở trong noãn các phía đông.”
Tiểu thái giám xốc mành, một uồng hơi ấm phả vào mặt, thoang thoảng hương hoa thơm ngát đan xen, trong noãn các bày ngập hoa cúc và những đóa mai hái sớm, đều là thứ hương thơm ngây ngất lòng người. Trong phòng ấm áp, cho nên Hoàng Đế cũng chỉ mặc một tấm áo bào kép, trông qua hình như hao gầy đi đôi phần, khiến người ta cảm giác không có sức sống, thấy chàng tiến vào, lại cười cười, nói:
“Lão Lục quả nhiên cũng có chút bản lĩnh đấy.”
Trên xấp tấu chương còn điểm lốm đốm màu đen, Dự Thân Vương tiếp lấy, mới biết thì ra là vết máu, đã khô từ lâu, máu đỏ đông lại giờ chuyển sang sắc đen. Nét chữ viết tháu rất cẩu thả, hiển nhiên là đã gắng gượng đôi nét cuối cùng trong tình thế hiểm nghèo... Dự Thân Vương đọc lướt qua,xem xong, lại giở lại từ đầu, đoạn mới ngâm cứu tỉ mỉ từng câu từng chữ, trầm mặc không lên tiếng, sau cùng thả bản tấu chương trở lại trên bàn.
Hoàng Đế nói:
“Quân phản loạn đã qua Bàn châu, không lâu sẽ hướng về nam, trước sẽ là sông Mân, Định Trạm...”
Chàng cười lạnh mấy tiếng:
“Ha ha, đến mới thật là mau đó.”
Sắc mặt u ám:
“Lão Thất, rốt cuộc trẫm đã tính sai một bước rồi. Trẫm cứ nghĩ hắn cấu kết cùng Kỷ Nhĩ Mậu, cùng lắm thì cũng tống cổ bọn giặc Hồ đó về bên ải Định Lan mà thôi, nhưng không ngờ ngay cả tổ tiên hắn cũng bất chấp, cuối cùng còn hứa hẹn sẽ cắt sáu quận phía bắc Định Lan cho quân Kỷ Nhĩ Mậu, hòng mượn binh vay lương mà tác loạn, hắn cũng chẳng sợ bêu danh cho đời.”
“Thần đệ có thỉnh cầu”
Dự Thân Vương nói:
“Thỉnh Hoàng Thượng cho Định Loan dẫn binh đi nghênh địch, san bằng quân phản loạn.”
Hoàng Đế nhíu mày.
“Quân doanh trong kinh đô ta cũng không thể giao cho ai khác, chỉ có đệ.”
Dự Thân Vương nói:
“Thần nhất định dốc hết khả năng.”
Hoàng Đế lại nói:
“Quân đội trong kinh chỉ có mười vạn, mà loạn quân thì còn gấp mấy lần đó, ấy trận này tất hung hiểm khó lường.”
Chàng thở dài,trng giọng nói dâng đầy hối hận:
“Chỉ tại trẫm đã quá khinh suất, một lần dụ rắn xuất hang này lại quá tay, để cho hắn thừa cơ tương kế tựu kế.”
Dự Thân Vương chỉ đáp:
“Hoàng Thượng không sai, hắn đã sớm ấp ủ âm mưu làm phản, vừa rồi để cho bọn giặc Hồ nhập quan ải, chính hắn cũng là một kẻ tội nhân thiên cổ của Đại Ngu. Hoàng Đế thay trời hành đạo, ắt thắng là không thể nghi ngờ.”
Hoàng Đế gật đầu, đoạn nói:
“Chủ soái Kỷ Nhĩ Mậu luôn luôn đeo mặt nạ, trong đó tất có sự kỳ quái. Mội lần trinh thám dò la trở về, cũng không nói được một câu cho đích xác. Trẫm cảm thấy nghi ngờ chồng chất, huống chi ngày nay Định Trạm cùng hắn cấu kết, việc khích lệ tinh thần chiến đầu là không cần phải nói.”
Dự Vương đáp:
“Thần đệ hiểu.”
Nguyên là tình hình nguy cấp, cho nên bộ Lễ phải nhanh chóng chọn một ngày lành gần nhất, làm lễ suất ấn(giao binh quyền), Hoàng Đế thân chinh đưa tiễn ba quân ra tận cổng Thắng Môn, mười vạn binh sĩ trong quân doanh kinh thành rầm rầm rộ rộ xuất phát, kinh đô cùng ngoại ô chật ních hầu như không còn nửa khoảng trống, Dự Thân Vương sợ trong kinh có biến, trước khi đi đã khéo léo khuyên nhủ hết lần này lượt khác, rốt cuộc Hoàng Đế cũng phải cho triệu hồi đứa em ruột Kính Thân Vương, mệnh cho hắn thống lĩnh ngự lâm quân.
Kính Thân Vương trải qua một chuyện lần trước đã trở nên lão thành rất nhiều, sau khi phụng chiếu về kinh thì hết sức cẩn trọng, tuân theo lề lối quy củ răm rắp. Lại kiêm việc lúc bấy giờ chiến tranh đã nổi dậy, lòng bách tính trong kinh thấp thỏm không yên, mội ngày chàng đều tự mình điều khiển đội tuần tra trong thành.
Ngày hôm đó là hai mươi tám tháng chạp, nha môn trong kinh thành đều đóng cửa nghỉ ngơi, trăm họ muôn dân cũng tất bật sắm sửa ăn tết. Tảng sáng hôm ấy tuyết đã rơi, đầu đường cuối phố đều chìm ngập trong bùn tuyết, Kính Thân Vương đi tuần thành trở về, đôi ủng đã sớm ướt sũng. Vừa mới tháo cương ngựa, chợt thấy Từ Trường chậm chạp tiến vào, thân vận một bộ trang phục vải dầu màu xanh, lúc hành lễ mà đã lạnh đến sắp đóng băng:
“Vương gia.”
“Sao ngươi đã trở lại rồi?”
Kính Thân Vương không kìm được hỏi.
“Hôm nay không phải là ngươi trực sao?”
Từ Trường đáp:
“Hoàng Đế cho truyền Vương gia tiến cung.”
Lại tiếp:
“Nghe nói có quân cấp bào về, có vẻ không phải tin tốt lành.”
Kính Thân Vương đội gió tuyết mà vào cung, Hoàng Đế ucng kông ngồi trong phòng ấm điện Chính Thanh nữa mà đã đứng đợi sẵn ngoài cửa rồi, Kính Thân Vương trông thấy xa xa mưa tuyết lất phất làn bụi,tán ô phấp phới, bức tường loan giá trong mười bước đứng lặng im, nhóm nội quan đầu đội mũ đứng nghiêm nghị xung quanh, trên đầu vai đều đã đọng một tầng tuyết mỏng, cũng chẳng biết Hoàng Đế dứng đó đã bao lâu. Vì thế lập tức bước lên thi lễ, sắc mặt Hoàng Đế vẫn bình thường như cũ, nói:
“Đứng lên đi.”
Giọng điệu ôn hòa, ánh mắt vẫn đang rơi vào khoảng tuyết bạt ngàn trước cửa điện Chính Thanh, sau một hồi lâu mới nói với Kính Thân Vương:
“Bốnmới vạn loạn quân đã vào đến Phổ Lan.”
Mà Dự Thân Vương bất quá cũng chỉ suất lĩnh có mười vạn quân, Kính Thân Vương chỉ thấy trên má lành lạnh, hóa ra có một bông tuyết đã nhẹ nhàng vo thnah vô tức đậu trên mặt chàng, chàng đựa tay gạt đi, nói:
“Dự Thân Vương dụng binh như thần, tuy là địch mạnh ta yếu, song cũng sẽ không rơi vào thế hạ phong.”
***************************************
Hoàng Đế cười một tiếng:
“Khó mà nghe được ngươi khen cậu ta một câu.”
Kính Thân Vương đáp:
“Thần cũng chỉ ăn ngay nói thật.”
Hoàng Đế nói:
“Bồi trẫm đi dạo đi, đợt tuyết đẹp như vậy.”
Kính Thần Vương đành lĩnh mệnh, Hoàng Đế lệnh cho Triệu Hữu Trí cùng đám nô tì đều đứng yên chỗ cũ, chính mình lững thững đi dọc theo con đường chạy về hướng đông. Kính Thân Vương cắm đầu cắm cổ mà đi sau chàng. Tuyết rơi càng lúc càng nặng hạt, chỉ lát sau, toàn bộ cung điện xa xa đều biến thành một màn trắng xóa những lầu quỳnh điện ngọc.
Hoàng Đế đi một đôi ủng da tuần lộc, giẫm lên vũng tuyết đọng vang lên tiếng lóc tóc, đi một lát, đã đi thẳng đến trước cửa cung Song Thái, Hoàng Đế lúc bấy giơ mới dừng bước, nói:
“Định Vịnh, những năm gần đây trong lòng ngươi hẳn rất oán hận trẫm?”
Kính Thân Vương còn đang để đầu óc bay bổng đâu đâu, chợt nghe những lời ấy, chỉ thưa:
“Thần đệ không dám.”
Hoàng Đế thở dài, nói:
“Đại Ngu ta khai triều đã hơn ba trăm năm, trải qua hơn mười cuộc phản loạn lớn nhỏ, mỗi lần đều kết thúc bằng máu chảy đầu rơi, nội bộ bất hòa, anh em thanh toán lẫn nhau, ngươi không hiểu.”
Kính Thân Vương vẫn lặng thinh.
Hoàng Đế lại tiếp:
“Những năm gần đây, ta đối xử lạnh nhạt với đệ, thậm chí còn không thân thiết bằng lão Thất, kỳ thực là muốn tốt cho đệ, cũng chính là tốt cho trẫm, giữ cho cả hai một đường lui.”
Kính Thân Vương lúc này mới ngẩng đầu lên, có vẻ hoang mang nhìn Hoàng Đế.
Hoàng Đế mỉm cười, chỉ vào một dãy cửa hang bên cửa Song Thái, đoạn nói:
“Đệ còn nhớ hồi còn bé, ta vẫn thường đưa đệ tới đây bắt dế mèn không?”
Khi đó Kính Thân Vương cùng lắm mới năm tuổi, Hoàng Đế mới mười hai, mỗi ngày đều phải đi cung Cảnh Thái thỉnh an mẫu phi. Định Thuần lớn hơn, buổi chiều nếu không có giờ học, liền dẫn Định Vịnh theo ra phía ngoài cửa Song Thái chơi đùa. Khoảng thời gian ấy có lẽ là thời kỳ thân mật nhất của hai anh em, về sau tuổi càng lớn, hai người dần dần trở nên xa lạ, không thể nào còn trở lại như ngày xưa.
Lúc này đứng ngay trước cửa điện Song Thái, từng bông tuyết cứ rơi trong thầm lặng, phóng tầm mắt ra xa, những chóp ngọc lưu ly kéo dài bất tận một màu trắng xóa, ngay cả trên đỉnh hang cũng đều phủ một tầng tuyết mỏng manh. Gió thổi khẽ phất vạt áo bào khâm của hai người, một góc trời phía tây cũng nặng trĩu những đụn mây xám xịt, hơi tuyết càng nặng
“Mây đèn đè lên tường thành như thể muốn phá sập ấy.”
Sau cùng Hoàng Đế thở dài đánh thượt, nói:
“Tuyết đã rơi dày, chúng ta vào trong uống ly rượu thôi.”
Cứ ngày mồng tám tháng chạp Hoàng Đế lại ban thưởng ly rượu chống hàn cho hoàng thân quốc thích. Ngày hôm đó Kính Thân Vương cũng uống hai chén. Tửu lượng của chàng vốn không cao, lại thêm mấy ngày liên tiếp vất vả, vừa mới hồi phủ lập tức đã say ngã chỏng vó mà ngủ khì khì, chợt lại bị người hầu đánh thức, báo rằng:
“Vương gia, Lý tướng quân sai người đến, nói có việc gấp cầu kiến Vương gia.”
Bởi vì đã phong ấn, chỉ có thể là quân lệnh khẩn cấp mới có cách hành xử như thế, trong lòng Kính Thân Vương trùng xuống, chỉ sợ nơi thành Phổ Lan đã có tin chẳng lành, vội vã cho truyền gặp.
Đi đến gồm hai người, đều vận áo choàng một màu phẩm xanh, người đi trước vẫn chưa hề cởi mũ trùm đầu, lập tức khom mình thi lễ:
“Thỉnh Vương gia cho tả hữu thối lui cả đi.”
Thanh âm the thé, rõ ràng là một gã nội quan.
Kính Thân Vương tỏ ý ra hiệu, người hầu hai bên đều lặng lẽ lui ra ngoài. Người đi trước lúc bấy giờ mới lùi lại vài bước, tên còn lại thì chẳng ừ hử một câu, lúc này cởi mũ trùm ra, chỉ thấy một đôi con ngươi lấp lánh sáng quắc, trong trẻo đến rực rỡ chẳng khác nào tuyết trằng ngoài cửa sổ, mà áo choàng dài cũng không thể nào che đậy được vóc người, đích thị là một cô thiếu nữ thanh xuân.
Kính Thân Vương không kìm được hít một ngụm khí lạnh, mãi nửa ngày mới nghe cái giọng cứng ngắc của chính mình vang lên, hỏi:
“Cô rốt cuộc là người phương nào?”
“Tôi là người chốn nào cũng chẳng quan trong”
Cô gái nở một nụ cười yếu ớt mà xinh đẹp.
“Tôi biết trong lòng Vương gia vẫn luôn luôn canh cánh mối nghi ngờ, cho nên hôm nay đến xin được giải thích.”
Kính Thân Vương thoáng lặng im, bỗng nhiên ngẩng mặt lên nghiêm nghị:
“Mặc kệ cô là ai, bây giờ cô phải mau mau mà rời khỏi nơi đây đi, bản vương coi như chưa từng biết cô là được.”
Cô gái kia thản nhiên cười, xinh đẹp tựa làn gió xuân phất qua lòng người, giọng nói càng thêm hòa nhã êm tai:
“Vương gia lẽ nào thực sự không muốn biết, Hiếu Di Hoàng Thái hậu đã chết như thế nào?”
Kính Thân Vương như chấn động toàn thân, ngay cả mặt cũng đã biến sắc, quát lên:
“Ngươi thật to gan, chớ có ở đây mà tà thuyết mê hoặc kẻ khác, gây chia rẽ tình thân giữa anh em bọn ta.”
Cô gái cười nói:
“Té ra Vương gia vốn đã đoán được đôi điều, cũng không phải trước nay hoàn toàn không có nghi ngờ, chỉ là, còn chưa biết tôi định nói gì.”
Kính Thân Vương đáp:
“Bất kể cô muốn nói gì, dứt khoát đều không phải sự thật.”
Cô gái cười cười:
“Vương gia cần chi phải tự lừa mình dối người như vậy, cho dù tôi đây là nói hươu nói vượn, hẳn cũng sẽ có một điều gì đó không thể nào giả được.”
Lấy từ trong tay áo ra một cuốn lụa vàng, đưa tới trước mặt Kính Thân Vương. Chỉ thấy ngón tay nàng trắng ngần, cầm chặt cái trục bằng ngọc của cuốn sách lụa, màu da trên tay so với sắc ngọc kia dường như chỉ là một:
“Vương gia, vật này, ngài có thể thong thả mà xem, là thật là giả, chính ngài sẽ tự nhận ra.”
Sắc mặt Kính Thân Vương tái mét, dường như đã biết rõ trong tay nàng là thứ gì, chỉ là không đủ sức mà chìa tay ra tiếp, mãi nửa ngày, mứoi nghiến răng nói:
“Ta không xem!”
***************************************
Cô gái cười phì một tiếng:
“Thường nghe người ta ca ngợi Vương gia, đều nói Vương gia là bậc thiếu niên anh hùng, tài cán gan dạ đều không thua kém Dự Thân Vương. Đáng tiếc hôm nay mới gặp, cũng chỉ là như vậy mà thôi.”
Nói đến đây, trong giọng điệu đã hàm chứa sự mỉa mai:
“Ngay cả di chiếu của tiên hoàng cũng chẳng dám liếc mắt nhìn một cái, quả thực là uổng phí cái phận con cháu hoàng tộc Đại Ngu.”
Sắc mặt Kính Thân Vương càng lúc càng tái nhợt:
“Đây nhất định là giả mạo chỉ dụ Hoàng Đế, tiên hoàng bạo bệnh mà qua đời, căn bản không thể có di chiếu.”
“Đây không phải di chiếu của Mục Tông hoàng đế, mà chính là di chiếu của Hưng Tông hoàng đế.”
Hai tròng mắt của nàng loang loáng tinh anh như mặt nước, chăm chú nhìn chàng, tựa hồ là gằn lên từng tiếng:
“Đương kim Hoàng Đế không ngại bức tử mẹ đẻ của mình là Hiếu Di Hoàng Thái hậu, chẳng qua là muốn cướp đoạt một trang di chiếu này, chẳng lẽ Vương gia ngài, hiện tại ngay cả dũng khí liếc qua một cái cũng không có?”
Khóe miệng Kính Thân Vương run run, tuy là cảm thấy giận dữ cùng chê trách, song không thốt nên được một lời. Thình lình vươn tay ra, giật lấy trang chiếu thư. Cố gắng bình tâm lại, cuối cùng chậm chạp mở ra, chỉ thấy nét chữ quen thuộc cứ từng câu từng câu mà hiện ra trước mắt. Bút tích ấy chẳng quá thân quen rồi sao?
Vốn chư hoàng tử ngày còn bé đã được tập viết, Hưng Tông hoàng đế đích thân viết những tấm thiếp mẫu, để chúng hoàng tử viết theo. Lúc này một nét bút kia giống như trảm khắc vào tận xương máu, nét chữ tròn đầy phóng khoáng, lại quen thuộc đến nhường ấy.
Giọng nói cô gái lạnh lẽo như băng:
“Vương gia cần thận mà xem xét, đây không lẽ lại chính giả mạo chỉ dụ Hoàng Đế?”
Kính Thân Vương chỉ thấy mấy con chữ trên trang chiếu thư đang nhảy nhót di động, vặn vẹo như muốn thức giấc, có lẽ đây không phải nét chữ, mà là một dòng nước xoáy vĩ đại, phăng phăng cuốn trôi hết thảy những vật cản trên đường.
Chàng chỉ thấy đầu óc quay cuồng, không kìm được hỏi:
“Rốt cuộc cô muốn cái gì?”
“Hiện thời không phải là thiếp thân muốn gì, mà chính là Vương gia pahỉ làm như thế nào. Phụng chiếu hay không phụng chiếu. Chả lẽ ngay cả di mệnh của tiên hoàng Vương gia cũng đòi kháng chỉ?”
Kính Thân Vương nghiến chặt hàm, qua hồi lâu mới nói:
“Huynh ấy là anh trai ta.”
Cô gái phì cười:
“Thời điểm Lục gia giao thứ này cho tôi, từng nói ‘Thập Nhất đệ của ta tuy là con người ngay thẳng chính trực, song cũng không thoát khỏi cái lòng dạ nhu nhược của đàn bà’,quả nhiên!”
Giọng nói chậm lại:
“Vương gia mềm lòng, đáng tiếc người kia thời điểm phái người đầu độc chết mẹ đẻ của mình, chỉ e cũng chưa từng mềm lòng.”
Cơ bên mà Kính Thân Vương tựa hồ đang giật giật, hai mắt trợn ngược, vẻ mặt thoáng làm người ta khiếp hãi, sau cùng thanh âm cũng đã trở nên lạnh lẽo u ám đến đáng sợ:
“Ngươi nói bậy!”
“Nội quan, cung nữ hầu hạ Thái hậu đều đã bị chôn theo, một lế này vốn cũng hoàn hảo như áo tiên chẳng thấy vết chỉ khâu. Chỉ có mình Tiểu Triệu là người pha thuốc cho Thái Hậu, trước khi chuyện bất hạnh xảy ra thì đã mắc thương hàn, sớm đã nằm liệt giường chờ chết. Không ngờ mệnh gã còn dài, đến này thê nhưng vẫn còn sống.”
Cô quay đầu vẫy vẫy tay, nội quan kia liền chậm chạp tiến lên từng bước, khom người lĩnh mệnh.
“Vương gia nếu không tin, có thể hỏi Tiểu Triệu là biết.”
Nội quan kia có vẻ kinh hãi, cúi đầu kêu một tiếng “Thập Nhất gia”. Kính Thân Vương chỉ cảm thấy trong lồng ngực như phong ba bão táp đổ bộ, phiền muộn khôn xiết. Nhớ lại buổi chiều hôm nay trước cửa Chính Thanh, hành động lời nói của Hoàng Đế, nhất cử nhất động hình như đều có dụng ý. Anh ta thực sự cắn rứt lương tâm, hay là cố ý lợi dụng, hòng lừa gạt chính mình cả cuộc đời?
Tính chàng vốn thẳng thắn, hôm nay gặp đại sự như thế, chỉ cảm thấy máu nóng phập phồng, thực khó mà kìm nén. Đến nay ngàn cân treo sợi tóc, chính mình thân bất do kỷ đã bị cuốn vào vòng xoáy của mạch nước ngầm, dù thịt nát xương tan cũng chẳng màng, mà hết thảy đều quá đột ngột đến đáng sợ, tay siết chặt bản di chiếu, cũng không biết nên thế nào là phải.
Sắc trời dần dần ngả tối, trong phòng chỉ nghe mỗi than cháy trong lò nổ tí tách, cô gái tựa như vô tình vuốt vuốt làn tóc mây, nói:
“Thiếp thân hẳn cũng nên đi thôi, nếu mà chậm chận e cửa cung khóa mất.”
Kính Thân Vương rốt cuộc hạ quyết tâm:
“Có một chuyện ta muốn hỏi cô... ngày ấy ở ngoại thành, người trong xe là cô sao?”
Dứt lời nhìn cô gái chăm chăm, hình như là muốn tìm tòi trên khuôn mặt ấy một chút manh mối.
Cô gái chỉ cười không đáp, tiện tay rút vài cánh mai cắm trong bình, từ phía xa ném về phía chàng, hoa đáp ngay lồng ngực, trong nháy mát làn hương thơm ngát lành lạnh ddào dạt cõi lòng. Cô gái cười xinh đẹp, thản nhiên mà quay đi, giữa căn phòng hương thơm phảng phất đưa tình, hình như có mà lại như không.
Ánh lửa than trong lò nháy sáng, phản chiếu lên mười hai tấm bình phong nhũ vàng vẽ cảnh sơn thủy họa đồ. Núi vàng ngọc bích cùng dòng thác khảm xà cừ trên tấm bình phong lấp lánh sắc màu, gió luồn qua ô cửa giấy kêu phần phật, chàng chỉ cảm giác chính mình như lạc vào cõi mộng.
Tuyết càng rơi càng nặng hạt, đợi đến khi trời tối hẳn, chỉ nghe gió bắc gào thét liên hồi, ngọn tuyết đập vào cửa sổ giấy, sàn sạt lay động. Tuy có long giường ấm áp, trong phòng vẫn phải để thêm vài chậu đồng đựng than, cho nên trong phóng hơi ấm ngập tràn.
Trục Hà chỉ khoác hờ một tấm áo cẩm bào dệt kim như ý thêu hàng trăm đóa sen, tựa vào bên lò sưởi mà chăm chú thêu một tấm hoa văn theo kiểu tân thời. Dáng vẻ cô dạo gần đây luôn luôn uể oải, khi không cũng vui tươi hớn hở, có lúc lại cáu kỉnh một cách kỳ quái. Mội lần phát tác cơn giận, mấy ngày liền ngay cả nội quan thân cận chỉ cần đụng chuyện nho nhỏ cũng đều lôi ra mà đánh, cho nên bọn cung nữ nội quan đều im thin thít không dám động đến cô.
Hoàng Đế vốn đi đôi giày tuần lộc, bước đi của chàng lại nhẹ, mãi tận lúc đến ngay bên cạnh, mới nói:
“Còn không sợ lạnh cóng hay sao?”
Trục Hà như bị giật mình, cung nữ bưng khay trà đứng một bên đã sớm quỳ xuống, cô lại lười biếng di động, chỉ nói:
“Tuyết lớn như vậy, ngày kéo lê thê, chàng còn tới chỗ thiếp làm gì. Người của thiếp tay chân không đủ linh hoạt, chàng vừa tới, bọn họ đã lập tức cuống quít cả lên, còn hơi đâu mà đi lo lắng cho thiếp.”
Hoàng Đế đưa tay nhấc cằm cô, dưới ánh nến rực rỡ diễm lệ, càng toát lên màu da nõn nà, chàng lại nhéo cô ta một cái:
“Nàng hôm nay thật đúng là ngược đời, người trong cung đều mong ngóng trẫm, chỉ có nàng là chưa gì đã vội vội vàng vàng tống cổ ta đi.”
Trục Hà nghiêng mình dựa vào bên lò xông hương, nửa cười nửa không:
“Chàng cũng chỉ là dỗ thiếp mà thôi. Hôm nay Mộ nương còn được đi Đại Phật Tự dự lễ tạ thần, thiếp lại chẳng có cái phúc phận kia, héo hắt trong thâm cung này, có đi chơi được chỗ nào.”
Hoàng Đế cũng như cười như không:
“Nếu nàng muốn đi chơi, vậy chờ đến tết Nguyên Tiêu (><) chúng ta lén xuất cung đi xem người ta đốt đèn.”
Trục Hà than một tiếng:
“Lén lút thì có cái gì hay, người ta có thể quang minh chính đại mà đi lễ tạ thần, thiếp thì chỉ có nước vụng trộm mà đi xem cuộc vui.”
Hoàng Đế nhìn cô nắm chặt cái khung thêu, càng siết càng chặt, siết đến nỗi gần như muốn xé toạc ra, trông có vẻ đang tức giận, bèn nói:
“Nhiều ngày qua nàng cứ đeo cái bộ dạng này, không phải là thật sự ghét bỏ ta đấy chứ?”
Trục Hà cười nhạt:
“Cũng không dám.”
Lại tiếp:
“Chính chàng mới chỉ thuận miệng mà dỗ thiếp thôi, Nguyên Tiêu còn lâu mới tới, tính đợi được cho đến ngày đó, không chừng chàng lại có chuyện này chuyện kia, vứt thiếp quẳng một xó.”
Hoàng Đế bỗng nhiên bật cười:
“Cũng không cần chờ đến ngày đó, tối hôm nay chúng ta ra ngoài đi dạo là được.”
Trục Hà thoáng rùng mình, Hoàng Đế lại thúc giục:
“Mau mau đi thay quần áo, bên ngoài lạnh, tuyết còn đang rơi, phải ăn mặc ấm áp một chút mới được.”
Sau mấy trận tuyết lớn, rốt cuộc dịch bệnh trong thành cũng dần dần mai danh ẩn tích trong khí trời giá rét, đại dịch đi qua, ngay cả trong cung cũng trơ lại một vẻ tiêu điều cô tịch. Trên đại lộ cấm mênh mông thẳng tắp, chỉ lác đác đôi tiếng bước chân xền xệt vang tai, tựa hồ đang đạp nát cả cái tĩnh mịch ngút ngàn.
Bọn tiểu thái giám đi quét tuyết đã sớm đứng núp ru rú trong góc, bởi vì lạnh, gió cuộn những đám tuyết cuồng lên đập tới tấp vào mặt, đau ê ẩm.
Đến cửa Định Hòa thì xuống ngựa, nội quan đã sớm đứng đợi để nghênh đón, thấy chàng thở phào một hơi:
“Vương gia, Hoàng Đế đang ở trong noãn các phía đông.”
Tiểu thái giám xốc mành, một uồng hơi ấm phả vào mặt, thoang thoảng hương hoa thơm ngát đan xen, trong noãn các bày ngập hoa cúc và những đóa mai hái sớm, đều là thứ hương thơm ngây ngất lòng người. Trong phòng ấm áp, cho nên Hoàng Đế cũng chỉ mặc một tấm áo bào kép, trông qua hình như hao gầy đi đôi phần, khiến người ta cảm giác không có sức sống, thấy chàng tiến vào, lại cười cười, nói:
“Lão Lục quả nhiên cũng có chút bản lĩnh đấy.”
Trên xấp tấu chương còn điểm lốm đốm màu đen, Dự Thân Vương tiếp lấy, mới biết thì ra là vết máu, đã khô từ lâu, máu đỏ đông lại giờ chuyển sang sắc đen. Nét chữ viết tháu rất cẩu thả, hiển nhiên là đã gắng gượng đôi nét cuối cùng trong tình thế hiểm nghèo... Dự Thân Vương đọc lướt qua,xem xong, lại giở lại từ đầu, đoạn mới ngâm cứu tỉ mỉ từng câu từng chữ, trầm mặc không lên tiếng, sau cùng thả bản tấu chương trở lại trên bàn.
Hoàng Đế nói:
“Quân phản loạn đã qua Bàn châu, không lâu sẽ hướng về nam, trước sẽ là sông Mân, Định Trạm...”
Chàng cười lạnh mấy tiếng:
“Ha ha, đến mới thật là mau đó.”
Sắc mặt u ám:
“Lão Thất, rốt cuộc trẫm đã tính sai một bước rồi. Trẫm cứ nghĩ hắn cấu kết cùng Kỷ Nhĩ Mậu, cùng lắm thì cũng tống cổ bọn giặc Hồ đó về bên ải Định Lan mà thôi, nhưng không ngờ ngay cả tổ tiên hắn cũng bất chấp, cuối cùng còn hứa hẹn sẽ cắt sáu quận phía bắc Định Lan cho quân Kỷ Nhĩ Mậu, hòng mượn binh vay lương mà tác loạn, hắn cũng chẳng sợ bêu danh cho đời.”
“Thần đệ có thỉnh cầu”
Dự Thân Vương nói:
“Thỉnh Hoàng Thượng cho Định Loan dẫn binh đi nghênh địch, san bằng quân phản loạn.”
Hoàng Đế nhíu mày.
“Quân doanh trong kinh đô ta cũng không thể giao cho ai khác, chỉ có đệ.”
Dự Thân Vương nói:
“Thần nhất định dốc hết khả năng.”
Hoàng Đế lại nói:
“Quân đội trong kinh chỉ có mười vạn, mà loạn quân thì còn gấp mấy lần đó, ấy trận này tất hung hiểm khó lường.”
Chàng thở dài,trng giọng nói dâng đầy hối hận:
“Chỉ tại trẫm đã quá khinh suất, một lần dụ rắn xuất hang này lại quá tay, để cho hắn thừa cơ tương kế tựu kế.”
Dự Thân Vương chỉ đáp:
“Hoàng Thượng không sai, hắn đã sớm ấp ủ âm mưu làm phản, vừa rồi để cho bọn giặc Hồ nhập quan ải, chính hắn cũng là một kẻ tội nhân thiên cổ của Đại Ngu. Hoàng Đế thay trời hành đạo, ắt thắng là không thể nghi ngờ.”
Hoàng Đế gật đầu, đoạn nói:
“Chủ soái Kỷ Nhĩ Mậu luôn luôn đeo mặt nạ, trong đó tất có sự kỳ quái. Mội lần trinh thám dò la trở về, cũng không nói được một câu cho đích xác. Trẫm cảm thấy nghi ngờ chồng chất, huống chi ngày nay Định Trạm cùng hắn cấu kết, việc khích lệ tinh thần chiến đầu là không cần phải nói.”
Dự Vương đáp:
“Thần đệ hiểu.”
Nguyên là tình hình nguy cấp, cho nên bộ Lễ phải nhanh chóng chọn một ngày lành gần nhất, làm lễ suất ấn(giao binh quyền), Hoàng Đế thân chinh đưa tiễn ba quân ra tận cổng Thắng Môn, mười vạn binh sĩ trong quân doanh kinh thành rầm rầm rộ rộ xuất phát, kinh đô cùng ngoại ô chật ních hầu như không còn nửa khoảng trống, Dự Thân Vương sợ trong kinh có biến, trước khi đi đã khéo léo khuyên nhủ hết lần này lượt khác, rốt cuộc Hoàng Đế cũng phải cho triệu hồi đứa em ruột Kính Thân Vương, mệnh cho hắn thống lĩnh ngự lâm quân.
Kính Thân Vương trải qua một chuyện lần trước đã trở nên lão thành rất nhiều, sau khi phụng chiếu về kinh thì hết sức cẩn trọng, tuân theo lề lối quy củ răm rắp. Lại kiêm việc lúc bấy giờ chiến tranh đã nổi dậy, lòng bách tính trong kinh thấp thỏm không yên, mội ngày chàng đều tự mình điều khiển đội tuần tra trong thành.
Ngày hôm đó là hai mươi tám tháng chạp, nha môn trong kinh thành đều đóng cửa nghỉ ngơi, trăm họ muôn dân cũng tất bật sắm sửa ăn tết. Tảng sáng hôm ấy tuyết đã rơi, đầu đường cuối phố đều chìm ngập trong bùn tuyết, Kính Thân Vương đi tuần thành trở về, đôi ủng đã sớm ướt sũng. Vừa mới tháo cương ngựa, chợt thấy Từ Trường chậm chạp tiến vào, thân vận một bộ trang phục vải dầu màu xanh, lúc hành lễ mà đã lạnh đến sắp đóng băng:
“Vương gia.”
“Sao ngươi đã trở lại rồi?”
Kính Thân Vương không kìm được hỏi.
“Hôm nay không phải là ngươi trực sao?”
Từ Trường đáp:
“Hoàng Đế cho truyền Vương gia tiến cung.”
Lại tiếp:
“Nghe nói có quân cấp bào về, có vẻ không phải tin tốt lành.”
Kính Thân Vương đội gió tuyết mà vào cung, Hoàng Đế ucng kông ngồi trong phòng ấm điện Chính Thanh nữa mà đã đứng đợi sẵn ngoài cửa rồi, Kính Thân Vương trông thấy xa xa mưa tuyết lất phất làn bụi,tán ô phấp phới, bức tường loan giá trong mười bước đứng lặng im, nhóm nội quan đầu đội mũ đứng nghiêm nghị xung quanh, trên đầu vai đều đã đọng một tầng tuyết mỏng, cũng chẳng biết Hoàng Đế dứng đó đã bao lâu. Vì thế lập tức bước lên thi lễ, sắc mặt Hoàng Đế vẫn bình thường như cũ, nói:
“Đứng lên đi.”
Giọng điệu ôn hòa, ánh mắt vẫn đang rơi vào khoảng tuyết bạt ngàn trước cửa điện Chính Thanh, sau một hồi lâu mới nói với Kính Thân Vương:
“Bốnmới vạn loạn quân đã vào đến Phổ Lan.”
Mà Dự Thân Vương bất quá cũng chỉ suất lĩnh có mười vạn quân, Kính Thân Vương chỉ thấy trên má lành lạnh, hóa ra có một bông tuyết đã nhẹ nhàng vo thnah vô tức đậu trên mặt chàng, chàng đựa tay gạt đi, nói:
“Dự Thân Vương dụng binh như thần, tuy là địch mạnh ta yếu, song cũng sẽ không rơi vào thế hạ phong.”
***************************************
Hoàng Đế cười một tiếng:
“Khó mà nghe được ngươi khen cậu ta một câu.”
Kính Thân Vương đáp:
“Thần cũng chỉ ăn ngay nói thật.”
Hoàng Đế nói:
“Bồi trẫm đi dạo đi, đợt tuyết đẹp như vậy.”
Kính Thần Vương đành lĩnh mệnh, Hoàng Đế lệnh cho Triệu Hữu Trí cùng đám nô tì đều đứng yên chỗ cũ, chính mình lững thững đi dọc theo con đường chạy về hướng đông. Kính Thân Vương cắm đầu cắm cổ mà đi sau chàng. Tuyết rơi càng lúc càng nặng hạt, chỉ lát sau, toàn bộ cung điện xa xa đều biến thành một màn trắng xóa những lầu quỳnh điện ngọc.
Hoàng Đế đi một đôi ủng da tuần lộc, giẫm lên vũng tuyết đọng vang lên tiếng lóc tóc, đi một lát, đã đi thẳng đến trước cửa cung Song Thái, Hoàng Đế lúc bấy giơ mới dừng bước, nói:
“Định Vịnh, những năm gần đây trong lòng ngươi hẳn rất oán hận trẫm?”
Kính Thân Vương còn đang để đầu óc bay bổng đâu đâu, chợt nghe những lời ấy, chỉ thưa:
“Thần đệ không dám.”
Hoàng Đế thở dài, nói:
“Đại Ngu ta khai triều đã hơn ba trăm năm, trải qua hơn mười cuộc phản loạn lớn nhỏ, mỗi lần đều kết thúc bằng máu chảy đầu rơi, nội bộ bất hòa, anh em thanh toán lẫn nhau, ngươi không hiểu.”
Kính Thân Vương vẫn lặng thinh.
Hoàng Đế lại tiếp:
“Những năm gần đây, ta đối xử lạnh nhạt với đệ, thậm chí còn không thân thiết bằng lão Thất, kỳ thực là muốn tốt cho đệ, cũng chính là tốt cho trẫm, giữ cho cả hai một đường lui.”
Kính Thân Vương lúc này mới ngẩng đầu lên, có vẻ hoang mang nhìn Hoàng Đế.
Hoàng Đế mỉm cười, chỉ vào một dãy cửa hang bên cửa Song Thái, đoạn nói:
“Đệ còn nhớ hồi còn bé, ta vẫn thường đưa đệ tới đây bắt dế mèn không?”
Khi đó Kính Thân Vương cùng lắm mới năm tuổi, Hoàng Đế mới mười hai, mỗi ngày đều phải đi cung Cảnh Thái thỉnh an mẫu phi. Định Thuần lớn hơn, buổi chiều nếu không có giờ học, liền dẫn Định Vịnh theo ra phía ngoài cửa Song Thái chơi đùa. Khoảng thời gian ấy có lẽ là thời kỳ thân mật nhất của hai anh em, về sau tuổi càng lớn, hai người dần dần trở nên xa lạ, không thể nào còn trở lại như ngày xưa.
Lúc này đứng ngay trước cửa điện Song Thái, từng bông tuyết cứ rơi trong thầm lặng, phóng tầm mắt ra xa, những chóp ngọc lưu ly kéo dài bất tận một màu trắng xóa, ngay cả trên đỉnh hang cũng đều phủ một tầng tuyết mỏng manh. Gió thổi khẽ phất vạt áo bào khâm của hai người, một góc trời phía tây cũng nặng trĩu những đụn mây xám xịt, hơi tuyết càng nặng
“Mây đèn đè lên tường thành như thể muốn phá sập ấy.”
Sau cùng Hoàng Đế thở dài đánh thượt, nói:
“Tuyết đã rơi dày, chúng ta vào trong uống ly rượu thôi.”
Cứ ngày mồng tám tháng chạp Hoàng Đế lại ban thưởng ly rượu chống hàn cho hoàng thân quốc thích. Ngày hôm đó Kính Thân Vương cũng uống hai chén. Tửu lượng của chàng vốn không cao, lại thêm mấy ngày liên tiếp vất vả, vừa mới hồi phủ lập tức đã say ngã chỏng vó mà ngủ khì khì, chợt lại bị người hầu đánh thức, báo rằng:
“Vương gia, Lý tướng quân sai người đến, nói có việc gấp cầu kiến Vương gia.”
Bởi vì đã phong ấn, chỉ có thể là quân lệnh khẩn cấp mới có cách hành xử như thế, trong lòng Kính Thân Vương trùng xuống, chỉ sợ nơi thành Phổ Lan đã có tin chẳng lành, vội vã cho truyền gặp.
Đi đến gồm hai người, đều vận áo choàng một màu phẩm xanh, người đi trước vẫn chưa hề cởi mũ trùm đầu, lập tức khom mình thi lễ:
“Thỉnh Vương gia cho tả hữu thối lui cả đi.”
Thanh âm the thé, rõ ràng là một gã nội quan.
Kính Thân Vương tỏ ý ra hiệu, người hầu hai bên đều lặng lẽ lui ra ngoài. Người đi trước lúc bấy giờ mới lùi lại vài bước, tên còn lại thì chẳng ừ hử một câu, lúc này cởi mũ trùm ra, chỉ thấy một đôi con ngươi lấp lánh sáng quắc, trong trẻo đến rực rỡ chẳng khác nào tuyết trằng ngoài cửa sổ, mà áo choàng dài cũng không thể nào che đậy được vóc người, đích thị là một cô thiếu nữ thanh xuân.
Kính Thân Vương không kìm được hít một ngụm khí lạnh, mãi nửa ngày mới nghe cái giọng cứng ngắc của chính mình vang lên, hỏi:
“Cô rốt cuộc là người phương nào?”
“Tôi là người chốn nào cũng chẳng quan trong”
Cô gái nở một nụ cười yếu ớt mà xinh đẹp.
“Tôi biết trong lòng Vương gia vẫn luôn luôn canh cánh mối nghi ngờ, cho nên hôm nay đến xin được giải thích.”
Kính Thân Vương thoáng lặng im, bỗng nhiên ngẩng mặt lên nghiêm nghị:
“Mặc kệ cô là ai, bây giờ cô phải mau mau mà rời khỏi nơi đây đi, bản vương coi như chưa từng biết cô là được.”
Cô gái kia thản nhiên cười, xinh đẹp tựa làn gió xuân phất qua lòng người, giọng nói càng thêm hòa nhã êm tai:
“Vương gia lẽ nào thực sự không muốn biết, Hiếu Di Hoàng Thái hậu đã chết như thế nào?”
Kính Thân Vương như chấn động toàn thân, ngay cả mặt cũng đã biến sắc, quát lên:
“Ngươi thật to gan, chớ có ở đây mà tà thuyết mê hoặc kẻ khác, gây chia rẽ tình thân giữa anh em bọn ta.”
Cô gái cười nói:
“Té ra Vương gia vốn đã đoán được đôi điều, cũng không phải trước nay hoàn toàn không có nghi ngờ, chỉ là, còn chưa biết tôi định nói gì.”
Kính Thân Vương đáp:
“Bất kể cô muốn nói gì, dứt khoát đều không phải sự thật.”
Cô gái cười cười:
“Vương gia cần chi phải tự lừa mình dối người như vậy, cho dù tôi đây là nói hươu nói vượn, hẳn cũng sẽ có một điều gì đó không thể nào giả được.”
Lấy từ trong tay áo ra một cuốn lụa vàng, đưa tới trước mặt Kính Thân Vương. Chỉ thấy ngón tay nàng trắng ngần, cầm chặt cái trục bằng ngọc của cuốn sách lụa, màu da trên tay so với sắc ngọc kia dường như chỉ là một:
“Vương gia, vật này, ngài có thể thong thả mà xem, là thật là giả, chính ngài sẽ tự nhận ra.”
Sắc mặt Kính Thân Vương tái mét, dường như đã biết rõ trong tay nàng là thứ gì, chỉ là không đủ sức mà chìa tay ra tiếp, mãi nửa ngày, mứoi nghiến răng nói:
“Ta không xem!”
***************************************
Cô gái cười phì một tiếng:
“Thường nghe người ta ca ngợi Vương gia, đều nói Vương gia là bậc thiếu niên anh hùng, tài cán gan dạ đều không thua kém Dự Thân Vương. Đáng tiếc hôm nay mới gặp, cũng chỉ là như vậy mà thôi.”
Nói đến đây, trong giọng điệu đã hàm chứa sự mỉa mai:
“Ngay cả di chiếu của tiên hoàng cũng chẳng dám liếc mắt nhìn một cái, quả thực là uổng phí cái phận con cháu hoàng tộc Đại Ngu.”
Sắc mặt Kính Thân Vương càng lúc càng tái nhợt:
“Đây nhất định là giả mạo chỉ dụ Hoàng Đế, tiên hoàng bạo bệnh mà qua đời, căn bản không thể có di chiếu.”
“Đây không phải di chiếu của Mục Tông hoàng đế, mà chính là di chiếu của Hưng Tông hoàng đế.”
Hai tròng mắt của nàng loang loáng tinh anh như mặt nước, chăm chú nhìn chàng, tựa hồ là gằn lên từng tiếng:
“Đương kim Hoàng Đế không ngại bức tử mẹ đẻ của mình là Hiếu Di Hoàng Thái hậu, chẳng qua là muốn cướp đoạt một trang di chiếu này, chẳng lẽ Vương gia ngài, hiện tại ngay cả dũng khí liếc qua một cái cũng không có?”
Khóe miệng Kính Thân Vương run run, tuy là cảm thấy giận dữ cùng chê trách, song không thốt nên được một lời. Thình lình vươn tay ra, giật lấy trang chiếu thư. Cố gắng bình tâm lại, cuối cùng chậm chạp mở ra, chỉ thấy nét chữ quen thuộc cứ từng câu từng câu mà hiện ra trước mắt. Bút tích ấy chẳng quá thân quen rồi sao?
Vốn chư hoàng tử ngày còn bé đã được tập viết, Hưng Tông hoàng đế đích thân viết những tấm thiếp mẫu, để chúng hoàng tử viết theo. Lúc này một nét bút kia giống như trảm khắc vào tận xương máu, nét chữ tròn đầy phóng khoáng, lại quen thuộc đến nhường ấy.
Giọng nói cô gái lạnh lẽo như băng:
“Vương gia cần thận mà xem xét, đây không lẽ lại chính giả mạo chỉ dụ Hoàng Đế?”
Kính Thân Vương chỉ thấy mấy con chữ trên trang chiếu thư đang nhảy nhót di động, vặn vẹo như muốn thức giấc, có lẽ đây không phải nét chữ, mà là một dòng nước xoáy vĩ đại, phăng phăng cuốn trôi hết thảy những vật cản trên đường.
Chàng chỉ thấy đầu óc quay cuồng, không kìm được hỏi:
“Rốt cuộc cô muốn cái gì?”
“Hiện thời không phải là thiếp thân muốn gì, mà chính là Vương gia pahỉ làm như thế nào. Phụng chiếu hay không phụng chiếu. Chả lẽ ngay cả di mệnh của tiên hoàng Vương gia cũng đòi kháng chỉ?”
Kính Thân Vương nghiến chặt hàm, qua hồi lâu mới nói:
“Huynh ấy là anh trai ta.”
Cô gái phì cười:
“Thời điểm Lục gia giao thứ này cho tôi, từng nói ‘Thập Nhất đệ của ta tuy là con người ngay thẳng chính trực, song cũng không thoát khỏi cái lòng dạ nhu nhược của đàn bà’,quả nhiên!”
Giọng nói chậm lại:
“Vương gia mềm lòng, đáng tiếc người kia thời điểm phái người đầu độc chết mẹ đẻ của mình, chỉ e cũng chưa từng mềm lòng.”
Cơ bên mà Kính Thân Vương tựa hồ đang giật giật, hai mắt trợn ngược, vẻ mặt thoáng làm người ta khiếp hãi, sau cùng thanh âm cũng đã trở nên lạnh lẽo u ám đến đáng sợ:
“Ngươi nói bậy!”
“Nội quan, cung nữ hầu hạ Thái hậu đều đã bị chôn theo, một lế này vốn cũng hoàn hảo như áo tiên chẳng thấy vết chỉ khâu. Chỉ có mình Tiểu Triệu là người pha thuốc cho Thái Hậu, trước khi chuyện bất hạnh xảy ra thì đã mắc thương hàn, sớm đã nằm liệt giường chờ chết. Không ngờ mệnh gã còn dài, đến này thê nhưng vẫn còn sống.”
Cô quay đầu vẫy vẫy tay, nội quan kia liền chậm chạp tiến lên từng bước, khom người lĩnh mệnh.
“Vương gia nếu không tin, có thể hỏi Tiểu Triệu là biết.”
Nội quan kia có vẻ kinh hãi, cúi đầu kêu một tiếng “Thập Nhất gia”. Kính Thân Vương chỉ cảm thấy trong lồng ngực như phong ba bão táp đổ bộ, phiền muộn khôn xiết. Nhớ lại buổi chiều hôm nay trước cửa Chính Thanh, hành động lời nói của Hoàng Đế, nhất cử nhất động hình như đều có dụng ý. Anh ta thực sự cắn rứt lương tâm, hay là cố ý lợi dụng, hòng lừa gạt chính mình cả cuộc đời?
Tính chàng vốn thẳng thắn, hôm nay gặp đại sự như thế, chỉ cảm thấy máu nóng phập phồng, thực khó mà kìm nén. Đến nay ngàn cân treo sợi tóc, chính mình thân bất do kỷ đã bị cuốn vào vòng xoáy của mạch nước ngầm, dù thịt nát xương tan cũng chẳng màng, mà hết thảy đều quá đột ngột đến đáng sợ, tay siết chặt bản di chiếu, cũng không biết nên thế nào là phải.
Sắc trời dần dần ngả tối, trong phòng chỉ nghe mỗi than cháy trong lò nổ tí tách, cô gái tựa như vô tình vuốt vuốt làn tóc mây, nói:
“Thiếp thân hẳn cũng nên đi thôi, nếu mà chậm chận e cửa cung khóa mất.”
Kính Thân Vương rốt cuộc hạ quyết tâm:
“Có một chuyện ta muốn hỏi cô... ngày ấy ở ngoại thành, người trong xe là cô sao?”
Dứt lời nhìn cô gái chăm chăm, hình như là muốn tìm tòi trên khuôn mặt ấy một chút manh mối.
Cô gái chỉ cười không đáp, tiện tay rút vài cánh mai cắm trong bình, từ phía xa ném về phía chàng, hoa đáp ngay lồng ngực, trong nháy mát làn hương thơm ngát lành lạnh ddào dạt cõi lòng. Cô gái cười xinh đẹp, thản nhiên mà quay đi, giữa căn phòng hương thơm phảng phất đưa tình, hình như có mà lại như không.
Ánh lửa than trong lò nháy sáng, phản chiếu lên mười hai tấm bình phong nhũ vàng vẽ cảnh sơn thủy họa đồ. Núi vàng ngọc bích cùng dòng thác khảm xà cừ trên tấm bình phong lấp lánh sắc màu, gió luồn qua ô cửa giấy kêu phần phật, chàng chỉ cảm giác chính mình như lạc vào cõi mộng.
Tuyết càng rơi càng nặng hạt, đợi đến khi trời tối hẳn, chỉ nghe gió bắc gào thét liên hồi, ngọn tuyết đập vào cửa sổ giấy, sàn sạt lay động. Tuy có long giường ấm áp, trong phòng vẫn phải để thêm vài chậu đồng đựng than, cho nên trong phóng hơi ấm ngập tràn.
Trục Hà chỉ khoác hờ một tấm áo cẩm bào dệt kim như ý thêu hàng trăm đóa sen, tựa vào bên lò sưởi mà chăm chú thêu một tấm hoa văn theo kiểu tân thời. Dáng vẻ cô dạo gần đây luôn luôn uể oải, khi không cũng vui tươi hớn hở, có lúc lại cáu kỉnh một cách kỳ quái. Mội lần phát tác cơn giận, mấy ngày liền ngay cả nội quan thân cận chỉ cần đụng chuyện nho nhỏ cũng đều lôi ra mà đánh, cho nên bọn cung nữ nội quan đều im thin thít không dám động đến cô.
Hoàng Đế vốn đi đôi giày tuần lộc, bước đi của chàng lại nhẹ, mãi tận lúc đến ngay bên cạnh, mới nói:
“Còn không sợ lạnh cóng hay sao?”
Trục Hà như bị giật mình, cung nữ bưng khay trà đứng một bên đã sớm quỳ xuống, cô lại lười biếng di động, chỉ nói:
“Tuyết lớn như vậy, ngày kéo lê thê, chàng còn tới chỗ thiếp làm gì. Người của thiếp tay chân không đủ linh hoạt, chàng vừa tới, bọn họ đã lập tức cuống quít cả lên, còn hơi đâu mà đi lo lắng cho thiếp.”
Hoàng Đế đưa tay nhấc cằm cô, dưới ánh nến rực rỡ diễm lệ, càng toát lên màu da nõn nà, chàng lại nhéo cô ta một cái:
“Nàng hôm nay thật đúng là ngược đời, người trong cung đều mong ngóng trẫm, chỉ có nàng là chưa gì đã vội vội vàng vàng tống cổ ta đi.”
Trục Hà nghiêng mình dựa vào bên lò xông hương, nửa cười nửa không:
“Chàng cũng chỉ là dỗ thiếp mà thôi. Hôm nay Mộ nương còn được đi Đại Phật Tự dự lễ tạ thần, thiếp lại chẳng có cái phúc phận kia, héo hắt trong thâm cung này, có đi chơi được chỗ nào.”
Hoàng Đế cũng như cười như không:
“Nếu nàng muốn đi chơi, vậy chờ đến tết Nguyên Tiêu (><) chúng ta lén xuất cung đi xem người ta đốt đèn.”
Trục Hà than một tiếng:
“Lén lút thì có cái gì hay, người ta có thể quang minh chính đại mà đi lễ tạ thần, thiếp thì chỉ có nước vụng trộm mà đi xem cuộc vui.”
Hoàng Đế nhìn cô nắm chặt cái khung thêu, càng siết càng chặt, siết đến nỗi gần như muốn xé toạc ra, trông có vẻ đang tức giận, bèn nói:
“Nhiều ngày qua nàng cứ đeo cái bộ dạng này, không phải là thật sự ghét bỏ ta đấy chứ?”
Trục Hà cười nhạt:
“Cũng không dám.”
Lại tiếp:
“Chính chàng mới chỉ thuận miệng mà dỗ thiếp thôi, Nguyên Tiêu còn lâu mới tới, tính đợi được cho đến ngày đó, không chừng chàng lại có chuyện này chuyện kia, vứt thiếp quẳng một xó.”
Hoàng Đế bỗng nhiên bật cười:
“Cũng không cần chờ đến ngày đó, tối hôm nay chúng ta ra ngoài đi dạo là được.”
Trục Hà thoáng rùng mình, Hoàng Đế lại thúc giục:
“Mau mau đi thay quần áo, bên ngoài lạnh, tuyết còn đang rơi, phải ăn mặc ấm áp một chút mới được.”
Tác giả :
Phỉ Ngã Tư Tồn