Trăng Lặn
Chương 2
Ban tham mưu của đại tá Lanser lấy tầng trên của cái dinh thị trưởng nhỏ bé làm bộ chỉ huy. Không kể ông đại tá, ban tham mưu có năm người. Thiếu tá Hunter, dáng người nhỏ thó, với khuôn mặt như bị ma ám, là một người của chữ số. Một người nhỏ bé, nhưng vốn là một phần tử đáng tin cậy, hắn coi tất cả những người khác hoặc là những phần tử đáng tin cậy hoặc là không xứng đáng để sống. Thiếu tá Hunter là một kĩ sư, ngoại trừ trường hợp chiến tranh không ai có thể nghĩ đến việc giao cho hắn chức vụ điều khiển binh lính. Bởi thiếu tá Hunter sắp lính của mình thành hàng như dãy chữ số và hắn làm tính cộng, trừ, nhân với những số lính đó. Hắn là một nhà số học hơn là một nhà toán học. Chẳng có chất khôi hài, nhã nhạc và huyền bí nào của toán học cao cấp từng len lỏi vào đầu của hắn được. Binh lính có thể có khác biệt về chiều cao hoặc cân nặng hoặc màu da, tựa như số 6 khác với số 8, nhưng họ ít có khác biệt về những mặt khác. Hắn đã lấy vợ mấy lần, nhưng hắn không hiểu sao những bà vợ tỏ ra rất sợ sệt rồi sau đó họ bỏ hắn mà đi.
Ðại úy Bentick là một người đàn ông yêu mái ấm gia đình, hắn thích nuôi chó, thích những đứa bé hồng hào và những ngày lễ Giáng Sinh. Hắn đã quá già đối với cấp bậc đại úy, nhưng vì hắn thiếu vắng tham vọng một cách kì lạ nên bị kẹt mãi ở cấp bậc đó. Trước chiến tranh hắn rất thán phục cái phong thái của những người lịch sự ở miền quê xứ Ăng-Lê, hắn mặc y phục Ăng-Lê, nuôi chó Ăng-Lê, hút ống điếu Ăng-Lê với thuốc lá pha trộn đặc biệt gửi đến từ Luân Ðôn, hắn đặt mua dài hạn tạp chí đồng quê ca ngợi những công việc vườn tược và liên tục tranh luận về đức tính của giống chó tìm mồi Ăng-Lê và Gordon. Ðại úy Bentick luôn nghỉ hè ở Sussex và hắn thích được người sống ở Paris hay ở Pudapest tưởng lầm là người Ăng-Lê. Chiến tranh làm tất cả thay đổi ở mặt ngoài, nhưng mà hắn ngậm ống điếu và cầm cây can đã quá lâu, nay bỗng dưng không thể bỏ chúng ngay được. Có một lần, cách đây năm năm, hắn viết thư gửi cho tờ Times về việc cỏ bị chết ở vùng Midlands, kí tên Luật sư Edmund Twitchell; sau đó tờ Times có đăng bức thư ấy.
Nếu Bentick đã quá già với cấp bậc đại úy thì Ðại úy Loft lại quá trẻ. Ðại úy Loft đối với mọi người là một đại úy lý tưởng. Hắn sống và thở với tinh thần chỉ huy binh lính. Không có giây phút nào hắn xa rời quân kỉ. Tham vọng thúc đẩy hắn vượt lên từng cấp bậc. Hắn ngoi lên như váng bơ nổi lên trên mặt sữa tươi. Hắn giậm gót giày nhuần nhuyễn như những tay vũ công. Hắn rành hết tất cả những nghi lễ nhà binh và kiên quyết thực hành tất cả những nghi lễ đó. Các vị tướng lãnh cũng e dè hắn vì hắn biết nhiều hơn họ về tác phong cần có của một người lính. Ðại úy Loft cho rằng người lính là mức tiến triển cao cấp nhất của đời sống sinh vật. Nếu hắn có chút nào nghĩ đến Thượng đế, hắn sẽ tưởng tượng Thượng đế là một vị tướng già về hưu đáng kính, tóc bạc, sống trong hồi ức về những trận chiến, và hằng năm vài lần đến viếng mộ những người phụ tá mình với những vòng hoa tưởng niệm. Ðại úy Loft tin rằng tất cả đàn bà sẽ đem lòng yêu tấm áo quân phục, hắn không hiểu nổi làm sao đàn bà có thể khác hơn như vậy được. Nếu sự việc diễn tiến bình thường có thể hắn sẽ làm chuẩn tướng ở cái tuổi bốn mươi lăm, có hình chụp trên họa báo, đứng cặp kè với những người đàn bà cao nhòng, da trắng nuột, đầy nam tính, đội trên đầu những chiếc mũ thêu ren như tranh vẽ.
Thiếu úy Prackle và Tonker thuộc vào loại sinh viên sĩ quan mới ra trường, quẹt mũi ngang chưa sạch, được đào tạo từ trong không khí chính trị của thời đại, họ tin rằng cái hệ thống vĩ đại tân kì, được sáng tạo bởi một thiên tài, sẽ vĩ đại đến mức họ không cần phải bận tâm đến việc kiểm chứng thành quả của nó. Bọn họ là những anh chàng giàu cảm xúc, mềm lòng trước những giọt nước mắt và những cơn giận dữ. Thiếu úy Prackle đem theo một lọn tóc gói trong một mẩu sa-tanh xanh, nhét vào mặt sau chiếc đồng hồ bỏ túi, lọn tóc thường hay xổ ra kẹt vào bánh lắc, hắn đành phải mang đồng hồ đeo tay để xem giờ. Prackle là một tay khêu vũ, một chàng trai vui tánh, tuy vậy cũng có thể cau có và trầm tư như Ngài Lãnh tụ. Hắn ghét loại nghệ thuật suy đồi, tự tay hắn đã xé nát mấy bức họa. Ðôi khi trong những hộp đêm hắn phác họa bằng bút chì chân dung một vài người cùng bàn, những bức phác họa khá đẹp và người ta bảo hắn nên làm họa sĩ. Prackle rất tự hào về mấy người chị em gái tóc vàng của mình, khiến có vài lần hắn gây chuyện huyên náo vì hắn nghĩ họ bị nhục mạ. Các chị em gái hơi phiền về chuyện ấy vì họ e là sẽ có một ai đó đứng ra làm chứng về chuyện nhục mạ, một việc vốn không có gì khó khăn cả. Thiếu úy Prackle thường dành hết giờ nghỉ, không bận công vụ, mơ tưởng đến việc rù quến cô em gái tóc vàng của thiếu úy Tonder, một cô gái thân mình tròn lẳng, chỉ thích được những người đàn ông lớn tuổi hơn quyến rủ vì họ không làm rối tóc cô như anh chàng thiếu úy Prackle.
Thiếu úy Tonder là một nhà thơ, một nhà thơ cay đắng, mơ về một tình yêu lý tưởng, toàn thiện của những chàng trai thượng lưu đối với các cô gái nghèo hèn. Trong lòng Tonder có cái lãng mạn u ám với một ảo tưởng rộng lớn tương đương với trải nghiệm của hắn. Có lúc hắn đọc lên những câu thơ mơ hồ qua hơi thở về những người đàn bà ảm đạm trong tâm tưởng. Hắn hoài vọng về một cái chết nơi chiến trường, ở đằng sau, nơi hậu trường cha mẹ đang nhỏ lệ, và Ngài Lãnh tụ, can trường nhưng u buồn, đang chứng kiến cái chết của chàng trai trẻ. Hắn thường mơ tưởng luôn đến cái chết của hắn, soi sáng bởi ánh tà dương đang dần lặn, vài tia nắng lóe rọi lên những quân cụ vỡ nát, những người lính của hắn đứng quanh lặng im, với những chiếc đầu cúi thấp, và trên đám mây bồng đang phi nhanh những thiên nữ Valkyrie[1], bầu vú to, người mẹ và người tình lẫn làm một, trong lúc ấy những giai điệu Wagner[2] nổ ra như sấm động làm nhạc nền. Và hắn cũng đã có sẵn lời tử biệt.
[1] Thiên Nữ Valkyrie: Tượng trưng cho cái chết anh dũng của chiến sĩ. Là những thiên nữ trong thần thoại Bắc Âu, cỡi trên những con ngựa có cánh, mặc giáp, mang thương, nhưng không có nhiệm vụ chiến đấu. Họ phục vụ cho Odin, chúa tể các thần. Nhiệm vụ của Valkyrie là chọn những chiến sĩ dũng cảm bị tử thương trên chiến trường, dẫn họ về phục vụ trong đội quân của Thần Odin, để chuẩn bị cho trận chiến Ragnarok, trận chiến của ngày tận thế trong thần thoại Bắc Âu.
[2] Wilhelm Richard Wagner: Nhà soạn nhạc người Ðức (1813-1883) người mở đường khai phá về thể loại giao hưởng opera (symphonic-operas). Nổi tiếng với bộ The Ring of the Nibelungen bao gồm 4 vở diễn opera với chủ đề dựa theo thần thoại Bắc âu và Ðức (The Rhinegold, The Valkyrie, Siegfried, Twilight of the Gods).
Ðấy là những người trong ban tham mưu, mỗi người đang chơi với chiến tranh như trẻ con chơi trò “Chạy, Chạy Ði Cừu”[3]. Thiếu tá Hunter nghĩ về chiến tranh như một bài toán số học cần phải giải cho xong để hắn có thể quay lại bên chiếc lò sưởi; đại úy Loft coi đó là một nghề nghiệp chính đáng của một thanh niên được giáo dục đúng đắn; thiếu úy Prackle và Tonder nghĩ về chiến tranh qua những mơ tưởng không chút gì có dính dáng đến thực tế. Và như thế họ đã chơi trò chiến tranh – bằng vũ khí tốt, bằng kế hoạch chu đáo đối lại với kẻ địch không vũ trang, thiếu sách lược. Họ không thua một trận nào và chỉ thiệt hại chút ít. Bọn họ, nếu bị áp lực, cũng có thể hèn nhát hoặc can đảm, như bao người khác. Trong bọn họ chỉ có đại tá Lanser là biết được về lâu về dài cuộc chiến thật sự sẽ đi tới đâu.
[3] Run Sheep Run: Trò chơi của trẻ con, những đứa bé chia làm hai nhóm, nhóm cừu và nhóm sói. Bắt đầu chơi nhóm sói đứng ở khởi điểm, nhóm cừu đi trốn, khi trốn xong một đứa (trưởng nhóm) của nhóm cừu sẽ đi đến bảo cho nhóm sói biết là đã sẵn sàng. Nhóm sói sẽ đi tìm, nếu thấy nhóm sói đã đi xa khởi điểm và xa chỗ nấp của nhóm cừu, trưởng nhóm sẽ kêu “Run Sheep Run” báo hiệu cho nhóm cừu mau chạy về khởi điểm, nếu nhóm nào chạy về khởi điểm trước nhóm đó sẽ thắng. Trong khi chơi toàn nhóm phải cùng nấp và cùng chạy chung với nhau, không được tách rời, trừ trưởng nhóm cừu đứng riêng có nhiệm vụ thông tin.
Lanser đã từng ở Bỉ và Pháp hai mươi năm về trước, ông không muốn nghĩ đến những gì ông biết – cuộc chiến ấy có giả trá, có căm thù, có sự hồ đồ của những tướng lãnh bất tài, có tra tấn, giết chóc, bệnh tật, chán nản; để rồi cuối cùng mọi sự cũng qua đi, không có gì thay đổi ngoại trừ những nhọc nhằn và hận thù mới. Lanser tự nhủ rằng ông là một người lính, nhận mệnh lệnh và thực thi nó. Ông không nên đặt nghi vấn, xét lại, ông chỉ thực thi mệnh lệnh; ông cố gạt qua một bên những kí ức đen tối về cuộc chiến trước kia cũng như điều khẳng định rằng cuộc chiến này rồi cũng như cuộc chiến trước. Cuộc chiến này rồi sẽ khác, ông tự nói với mình như thế năm mươi lần một ngày; cuộc chiến này rồi sẽ rất khác.
Trong cuộc hành quân, cuộc nổi loạn, trận đá bóng, và trong chiến tranh, những kế hoạch trở nên mơ hồ; sự thực trở thành ảo giác và có màn sương mù len lỏi vào tâm trí. Căng thẳng, phấn kích, mệt nhọc, tất tả bôn ba – mọi thứ hòa vào nhau thành một giấc mơ lớn u ám; để rồi khi nó qua đi, khó mà nhớ được tại sao anh phải giết người hay ra lệnh giết người. Sau này có những kẻ khác không có mặt ở đó thuật lại với anh chuyện đã xảy ra như thế nào và anh nói mơ hồ, “Ừ, tôi nghĩ nó như vậy đó.”
Ban tham mưu chiếm lấy ba phòng ở tầng trên của dinh thị trưởng. Trong phòng ngủ họ đặt giường xếp, chăn mền, quân cụ; và ở phòng kế bên, nằm ngay trên phòng khách nhỏ ở tầng dưới, họ biến nó thành một câu lạc bộ, một câu lạc bộ không được thoải mái, với vài cái ghế và một cái bàn. Họ dùng phòng này để đọc thư, viết thư; và ở đó họ bàn bạc, gọi cà phê, lập kế hoạch và nghỉ ngơi. Trên khoảng tường giữa những khuôn cửa sổ có những bức tranh vẽ những con bò, hồ nước và những ngôi nhà theo kiểu thôn quê nho nhỏ. Từ những cửa sổ họ có thể trông xuống thị trấn cho đến tận bến cảng, đến những ụ tàu có những chiếc tàu đang buộc neo, đến những ụ tàu có những xà lan tải than đến đậu lại, nhận hàng rồi đi ra biển. Họ có thể trông xuống cái thị trấn nhỏ bé, đang uốn mình trườn qua quảng trường vươn tới bến cảng, họ có thể thấy những thuyền đánh cá cuốn buồm lại nằm neo mình trong vịnh, và có thể ngửi thấy mùi cá khô từ bãi biển đưa lên, bay vào tận cửa sổ.
Một chiếc bàn lớn đặt giữa phòng, thiếu tá Hunter ngồi bên cạnh. Cái bảng vẽ nằm trên vế hắn, tựa vào bàn, bằng một chiếc thước vuông chữ T và thước ê-ke hắn đang vẽ bản thiết kế về một đoạn rẽ của đường xe lửa. Cái bảng vẽ lắc lư và thiếu tá đang phát bực với nó. Hắn quay qua phía sau gọi, “Prackle!” Rồi lại gọi, “Thiếu úy Prackle!”
Cửa phòng ngủ mở, thiếu úy bước ra, một nửa khuôn mặt hắn phủ đầy xà bông xạo râu. Tay hắn còn cầm cọ quét xà bông. “Vâng?” hắn nói.
Thiếu tá Hunter giục giặc cái bảng vẽ. “Cái giá vẽ của tôi có xếp lẫn trong đám hành lý không?”
“Không biết nữa, thưa thiếu tá,” Prackle nói. “Tôi chưa xem lại.”
“Vậy bây giờ xem lại đi. Làm việc dưới ánh sáng như thế này thật là tệ. Tôi phải vẽ lại trước khi đồ mực lên.”
Prackle nói. “Cạo râu xong tôi sẽ đi tìm ngay.”
Hunter gắt lên, “Ðoạn đường sắt này quan trọng hơn cái khuôn mặt của anh. Tìm xem có cái bọc bằng vải bố giống như túi đánh gôn, nằm dưới đống đồ ở trong đó không.”
Prackle đi khuất vào trong phòng ngủ. Cánh cửa bên phải mở ra, Ðại úy Loft vào. Hắn đội nón sắt, đeo một cặp ống nhòm, súng cá nhân, và vài thứ túi da nhỏ khác đeo lỉnh kỉnh khắp người. Vừa bước vào là hắn tháo những thứ quân cụ đó ra khỏi người.
“Ông biết không, Bentick thật điên khùng,” Hắn nói. “Ông ta ra ngoài làm nhiệm vụ ngay ở dưới phố mà đội mũ lưỡi trai.”
Loft đặt ống nhòm trên bàn, dỡ nón sắt, rồi đến túi mặt nạ phòng hơi độc, những thứ quân cụ đó chất thành đống nhỏ trên bàn.
Hunter nói, “Ðừng bỏ những thứ đó trên bàn, tôi còn phải làm việc ở đây. Tại sao ông ấy không thể đội mũ lưỡi trai? Ðã có gì rắc rối xảy ra đâu. Tôi phát bịnh với những thứ đồ thiếc ấy. Vừa nặng, vừa chẳng nhìn thấy gì hết.”
Loft cất giọng nghiêm chỉnh, “Không mang nón sắt là một lề lối làm việc xấu. Xấu đối với dân chúng ở đây. Chúng ta phải duy trì mẫu mực quân ngũ, phải cảnh giác, không được biến cải dung dị. Nếu không chúng ta sẽ mời gọi rối loạn.”
“Tại sao anh nghĩ vậy?” Hunter hỏi.
Loft hơi dướng người thẳng lên, cặp môi mím lại ra vẻ khẳng định. Sớm hay muộn mọi người ai cũng muốn đấm vào mũi hắn vì cái lối khẳng định đó. Hắn nói, “Không phải tôi nghĩ nó ra, Tôi đang lược thuật cẩm nang X12 về tác phong của binh sĩ ở trong đất nước đang chiếm đóng. Nó được soạn thảo rất kĩ lưỡng.” Thoạt đầu hắn thốt, “Ông...” nhưng rồi đổi thành “Mọi người nên đọc kĩ X-12.”
Hunter nói, “Tôi không biết người viết nó ra có bao giờ từng đem quân chiếm đóng một nước hay chưa. Dân chúng ở đây vô hại. Họ có vẻ là những người tốt, biết nghe lời.
Prackle bước vào, một nửa mặt hắn vẫn còn phủ đầy xà bông. Hắn vác một ống vải bố màu nâu, đi theo sau lưng hắn là Thiếu úy Tonder. “Có phải cái này không?” Prackle hỏi.
“Phải rồi, mở nó ra và dựng lên, được không?”
Prackle và Tonder loay hoay dựng cái giá xếp ba chân, kiểm tra chắc chắn, rồi để nó gần bên Hunter. Thiếu tá vặn ốc gắn bảng vẽ lên, nghiêng qua nghiêng lại bảng vẽ rồi cuối cùng lầm bầm ngồi xuống sau giá vẽ.
Ðại úy Loft nói, “Anh có biết mặt anh bôi đầy xà bông không, thiếu úy?”
“Vâng, thưa đại úy.” Prackle nói. “Tôi đang cạo râu thì thiếu tá bảo tôi đi tìm giá vẽ.”
“Vậy à, anh nên lau sạch đi,” Loft nói. “Thiếu tá có thể trông thấy đấy.”
“Ồ, ông ấy không lý đến đâu. Ông ấy không quan tâm đến những chuyện thuộc loại như vậy.”
Tonder đang đứng sau lưng Hunter xem Hunter làm việc.
Loft nói, “Ừ, Ông ấy có thể không để ý đến, nhưng để vậy coi không được.”
Prackle rút khăn mùi xoa ra lau xà bông trên má. Tonder chỉ vào họa đồ nhỏ ở một góc của bảng vẽ. “Chiếc cầu trông đẹp lắm, thiếu tá. Nhưng chúng ta sẽ xây chiếc cầu này ở nơi nào vậy?”
Hunter nhìn xuống bản họa đồ rồi quay ra sau nhìn Tonder “Hả! À, chẳng có chiếc cầu nào chúng ta cần phải xây cả, ở đây chỉ là bản họa đồ thôi.”
“Vậy thiếu tá vẽ chiếc cầu này làm gì?”
Hunter dường như hơi ngượng ngùng, “À, anh biết không, ở vườn sau nhà tôi, tôi có dựng mô hình của một tuyến đường sắt. Tôi định bắc cầu qua con suối. Tôi dẫn tuyến đường sắt đến suối, nhưng tôi chưa bao giờ xây được chiếc cầu. Tôi nghĩ tôi có thể hoàn tất việc qui hoạch chiếc cầu trước khi tôi trở về.”
Prackle rút từ trong túi một tờ giấy gấp, hắn mở ra, đưa lên ngắm nghía. Ðó là một bức hình một cô gái, in bằng bản kẽm; một cô gái tóc vàng thân hình nẩy nở, thấy rõ cả cặp giò, trang phục, và hàng lông mi. Cô mang một đôi vớ đen thêu ren, thân áo trên xẻ trễ xuống, tay cầm chiếc quạt đen che nghiêng đôi mắt đang e ấp liếc nhìn. Prackle giơ tấm hình cô ả lên và hỏi, “Em này đáng tiền không?” Thiếu úy Tonder nhìn bức hình xoi mói và nói, “Tớ không thích cô ả.”
“Không thích chỗ nào?”
“Chỉ không thích vậy thôi,” Tonder nói. “Cậu làm gì với bức hình đó?”
Prackle nói, “Bởi vì tớ thích cô ả nên tớ dám cá là cậu cũng mê cô ả.”
“Tớ không thích.”
“Cậu nói là nếu được hẹn với cô ta cậu sẽ không thèm đi?” Preackle hỏi.
Tonder nói, “Không.”
“Vậy sao, cậu đúng là điên rồi,” và Prackle đi lại một tấm màn. Hắn nói, “Tớ sẽ dán cô ả này lên đây cho cậu có thời gian tơ tưởng đến cô ả.” Hắn ghim bức hình lên tấm màn.
Ðại úy Loft lúc này đang thu nhặt quân cụ, hắn nói, “Tôi nghĩ bức hình đó ở ngoài này không tốt, thiếu úy. Anh nên lấy nó xuống. Nó sẽ gây ấn tượng không tốt đối với dân chúng ở địa phương.”
Hunter ngước nhìn lên, “Cái gì không tốt.” Hắn trông theo ánh mắt mọi người nhìn về phía bức hình. “Ai vậy,” hắn hỏi.
“Cô ta là một diễn viên,” Prackle nói.
Hunter chăm chú nhìn cô gái. “Ồ, anh biết cô ta?”
Tonder nói, “Cô ả là một con bò lạc.”
Hunter nói, “À, vậy anh biết cô ta?”
Prackle nhìn chăm chắm vào Tonder. Hắn nói, “Nói đi, làm sao cậu biết cô ta là một con bò lạc?”
“Cô ả trông giống như thứ bò lạc,” Tonder nói.
“Anh biết cô ta?”
“Không, và tôi cũng không muốn biết.”
Prackle bắt đầu nói tiếp, “Vậy làm sao cậu biết?” nhưng Loft cắt ngang, hắn nói, “Anh nên gỡ tấm hình đó xuống. Gắn trên đầu giường nếu anh thích. Phòng này ở đây coi như là công sở.”
Prackle nhìn Loft với ánh mắt cự nự sắp sửa lên tiếng, Loft nói, “Ðây là lệnh, thiếu úy,” và Prackle hẩm hiu gấp bức hình bỏ lại vào túi. Hắn cố làm ra vẻ tươi tỉnh thay đổi đề tài. “Ở thị trấn này có vài cô em khá xinh, để đấy,” hắn nói. “Ðợi lúc chúng ta ổn định và mọi việc suông sẻ tôi sẽ làm quen vài em.”
Loft nói, “Anh nên đọc X-12 . Có một đoạn đề cập đến vấn đề tình dục.” Hắn bỏ ra ngoài, mang theo xách, kính và quân cụ. Thiếu úy Tonder vẫn đứng sau Hunter xem họa đồ, nói, “Sáng ý thật, cho xe chuyển than chạy thẳng từ hầm mỏ ra tàu thủy.”
Hunter chậm chạp rứt mình ra khỏi công việc, hắn nói, “Chúng ta cần thúc đẩy nhanh chóng công việc khai thác than. Ðây là một công tác lớn. Chúng ta hết sức cảm ơn dân chúng ở đây đã tỏ ra rất bình tĩnh và có ý thức.”
Loft quay trở vào phòng không mang theo quân cụ. Hắn đứng bên cửa sổ, nhìn ra ngoài về hướng bến cảng, về hướng mỏ than, hắn nói, “Họ bình tĩnh và có ý thức bởi vì chúng ta bình tĩnh và có ý thức. Tôi nghĩ chúng ta đáng được ghi công về điểm này. Ðó là lý do tôi luôn nhắc nhở về các qui củ. Nó đã được soạn thảo rất kĩ lưỡng.”
Cửa mở, đại tá Lanser đi vào, vừa đi vừa cởi chiếc áo khoác đang mặc. Các phụ tá của ông chào ông theo kiểu nhà binh, không đến nỗi quá nghiêm, nhưng vừa đủ. Lanser nói, “Ðại úy Loft, anh có thể xuống dưới thay cho Bentick được không? Anh ấy không khỏe lắm, nghe nói là bị chóng mặt.”
“Vâng, thưa đại tá,” Loft nói. “Tôi xin có đề nghị, thưa đại tá, tôi mới vừa xong phiên trực.”
Lanser nhìn Loft dò xét. “Tôi nghĩ anh không phản đối chứ, đại úy.”
“Hoàn toàn không, thưa đại tá; tôi chỉ nhắc đến để việc này được ghi lại trong thành tích cá nhân.”
Vẻ mặt Lanser dịu xuống, ông cười nhẹ, “Anh muốn được nhắc đến trong những bản báo cáo, phải không?”
“Ðâu có điều gì hại, thưa đại tá.”
“Và đến khi có đủ số lần ghi công,” Lanser nói tiếp, “anh sẽ có vật nho nhỏ đeo lủng lẳng trước ngực.”
“Ðó là những cột mốc cho sự nghiệp quân ngũ, thưa đại tá.”
Lanser thở dài. “Phải, tôi cũng cho là như vậy. Nhưng đó không phải là những thứ đáng cho anh nhớ đến đâu, đại úy.”
“Thưa đại tá?” Loft hỏi.
“Sau này anh sẽ hiểu tôi muốn nói gì – có lẽ.”
Loft nhanh nhẹn đeo các thứ quân cụ vào người. “Vâng, thưa đại tá,” hắn nói, rồi đi ra, xuống lầu, bước chân gõ lạch cạch trên bậc gỗ cầu thang. Lanser nhìn theo hắn, ánh mắt vui vui thú vị. Ông nói lặng lẽ, “Một người lính tự bẩm sinh.” Hunter ngước nhìn lên, cây viết chì kẹp thăng bằng trên ngón tay, hắn nói, “Một con lừa tự bẩm sinh.”
“Không đâu,” Lanser nói, “hắn làm lính như nhiều người khác làm chính trị. Hắn sẽ mau chóng được dự vào hành tướng lãnh. Hắn sẽ nhìn chiến tranh từ trên cao nhìn xuống và hắn sẽ luôn yêu thích nó.”
Thiếu úy Prackle nói, “Ðại tá nghĩ đến bao giờ sẽ hết chiến tranh, thưa đại tá.”
“Hết? Hết chiến tranh? Anh muốn nói gì?”
Thiếu úy Prackle nói tiếp, “Ðến bao giờ chúng ta thắng?”
Lanser lắc đầu. “Ồ, Tôi không biết. Thế giới vẫn còn kẻ thù.”
“Nhưng chúng ta sẽ quật bọn chúng,” Prackle nói.
Lanser nói, “Ừ?”
“Ðúng không?”
“Phải, phải, chúng ta luôn luôn thắng.”
Prackle nói, phấn khởi, “Vậy nếu đến Giáng sinh tình hình yên ổn chúng ta có được cho nghỉ phép không?”
“Tôi không biết,” Lanser nói. “Lệnh loại đó phải được đưa ra từ trong nước. Anh muốn về thăm nhà vào Giáng sinh hả?”
“Vâng, được vậy thì cũng thích.”
“Có thể anh sẽ được phép,” Lanser nói, “có thể.”
Thiếu úy Tonder nói, “Sau khi chiến tranh kết thúc, chúng ta sẽ không rút ra khỏi xứ này chứ, phải không, thưa Ðại tá?”
“Tôi không biết,” Ðại tá nói. “Tại sao?”
Tonder nói, “Xứ này đẹp, người dân hiền lành. Người của chúng ta – một số – có thể nghĩ đến việc lập nghiệp ở đây.”
Lanser nói đùa, “Chắc có lẽ anh thấy nơi nào vừa mắt rồi, phải không?”
Tonder nói, “Có vài nông trang ở đây thật đẹp. Nếu có bốn năm cái gộp lại với nhau tôi nghĩ sẽ thành một chỗ khá tốt có thể lập nghiệp.”
“Gia đình anh không có đất đai hay sao?” Lanser hỏi.
“Không thưa đại tá. Không còn nữa, nạn lạm phát đã lấy đi hết.”
Lanser đến lúc này đã mệt với việc chuyện trò cùng trẻ con. Ông nói, “Hừ, chúng ta còn phải chiến đấu, còn phải khai thác than. Anh nghĩ liệu chúng ta có thể chờ được đến lúc chiến tranh kết thúc để chúng ta có thể xây cất những trang trại? Lệnh đó phải được từ trên đưa xuống, đại úy Loft có thể nói cho anh biết chuyện đó.” Ông đổi thái độ và nói tiếp, “Hunter, thép anh cần ngày mai sẽ đến. Tuần này anh có thể khởi công đường ray của anh được rồi.”
Có tiếng gõ cửa, Một người lính gác thò đầu vào. Hắn nói, “Ông Corell muốn được gặp, thưa đại tá.”
“Cho ông ấy vào,” Ðại tá nói. Ông nói với những người khác trong phòng. “Người này đã làm công tác dọn đường cho chúng ta đến đây. Có thể chúng ta có chuyện phiền phức với hắn.”
“Việc hắn làm tốt chứ?” Tonder hỏi.
“Phải, hắn làm tốt, nhưng dân chúng ở đây không ưa hắn. Tôi không biết chúng ta sẽ ưa hắn hay không.”
“Hắn đáng được ghi công, nhất định thế.” Tonder nói.
“Phải,” Lanser nói, “và tôi nghĩ hắn sẽ không quên việc đòi công.”
Corell bước vào, xát hai tay vào nhau. Mặt hắn tỏa ra dáng nét thiện ý và tình thân hữu. Hắn vẫn mặc bộ com-lê màu đen, nhưng trên đầu hắn có một miếng gạc trắng, dán dính trên tóc bằng băng keo chéo hình chữ thập. Hắn tiến vào giữa phòng và nói, “Xin chào ngài đại tá. Ðáng lẽ tôi nên đến vào hôm qua sau vụ rắc rối ở dưới lầu, nhưng tôi hiểu ngài đang bận rộn.”
Ðại tá nói, “Xin chào.” Ông đưa tay vòng làm một cử chỉ giới thiệu, “Ðây là những người phụ tá của tôi.”
“Giỏi lắm,” Corell nói. “Các cậu ấy làm tốt lắm. Ừ, tôi đã ra sức chuẩn bị tốt cho họ.”
Hunter cúi nhìn bản vẽ, hắn lấy ra một cây viết, tẩm mực ngòi viết và bắt đầu tô mực vào bức họa đồ.
Lanser nói, “Ông làm tốt lắm. Nhưng tôi nghĩ có lẽ ông không cần giết sáu người lính nọ. Phải chi họ đừng trở lại.”
Corell dang tay ra và thoải mái nói, “Sáu người chỉ là một mất mát nhỏ so với thị trấn bề thế cở như vầy, với thêm mỏ than nữa.”
Lanser nói, giọng đanh lại, “Tôi không phản đối việc giết người nếu cần để giải quyết cuộc chiến, nhưng đôi lúc tránh được vẫn tốt hơn.”
Corell đưa mắt xem xét các viên sĩ quan. Hắn liếc nhìn hai viên thiếu úy, hắn nói, “Chúng ta có thể - có lẽ – bàn bạc riêng với nhau được không, ngài đại tá?”
“Ðược nếu ông muốn, thiếu úy Prackle và thiếu úy Tonder, hai anh hãy vào phòng mình.” Và đại tá nói với Corell, “Thiếu tá Hunter đang bận việc, ông ấy sẽ không nghe thấy gì trong lúc làm việc.” Hunter ngẩng lên nhìn và mỉm cười lặng lẽ rồi cúi xuống với cái bảng vẽ. Hai chàng thiếu úy trẻ rời khỏi phòng, sau đó Lanser nói, “Rồi, bây giờ chỉ còn chúng ta. Mời ông ngồi?”
“Cám ơn đại tá,” Corell ngồi xuống phía sau bàn.
Lanser nhìn miếng băng dán trên đầu ông Corell. Ông hỏi thẳng, “Bọn họ có ý muốn giết ông rồi sao?”
Corell lấy ngón tay sờ miếng băng, “Cái này? Ồ, hồi sáng này tôi bị một hòn đá trên bờ vực của sườn đồi rơi phải.”
“Ông chắc là không bị người ta ném chứ?”
“Ngài nói sao?” Corell hỏi. “Dân chúng ở đây không dữ như vậy. Ðã mấy trăm năm họ chưa từng có chiến tranh. Họ đã quên mất việc đánh nhau rồi.”
“Ðược, ông sống chung với họ,” Ðại tá nói. “Ông phải biết.” Ông bước tới gần Corell. “Nhưng nếu ông được an toàn, thì dân ở đây khác hẳn với dân các nơi khác trên thế giới. Tôi đã từng tham dự cuộc chiếm đóng ở Bỉ hai mươi năm về trước, và ở Pháp nữa.” Ông lắc đầu nhè nhẹ như muốn xóa nhòa trong kí ức việc đó đi, và ông nói, giọng khô khốc, “Ông đã hoàn thành công tác tốt. Chúng tôi cám ơn ông. Tôi đã nhắc đến công trạng của ông trong bản báo cáo.”
“Cám ơn ngài, thưa đại tá,” Corell nói. “Tôi đã cố gắng hết sức mình.”
Lanser nói, giọng hơi mệt nhọc, “Nào, thưa ông, chúng tôi cần phải làm gì? Ông có muốn trở lại thủ đô không? Chúng tôi có thể gởi ông theo xà lan chở than nếu ông gấp, hoặc có thể theo một chiếc khu trục hạm nếu ông muốn đợi.”
Corell nói, “Nhưng tôi không muốn quay về. Tôi muốn ở đây.”
Lanser ngẫm nghĩ một lát rồi nói, “Ông biết tôi không có được nhiều người lắm. Tôi không thể cấp cho ông một người bảo vệ thích đáng.”
“Nhưng tôi không cần đến bảo vệ. Tôi nói với ngài là dân ở đây không phải là những người thích bạo động.”
Lanser nhìn miếng băng một lúc. Hunter ngẩng đầu lên liếc nhìn và nhận xét, “Tốt hơn ông nên bắt đầu đội nón sắt.” Hắn lại cúi xuống với công việc.
Lanser xoay gót bước lại khung cửa sổ, nhìn ra ngoài, sau đó ông quay người lại lặng lẽ hỏi, “Ý ông là gì?”
“Là như vầy, ngài cần phải có một chính quyền dân sự đáng tin cậy. Tôi nghĩ Thị trưởng Orden bây giờ nên từ chức và – có thể, nếu tôi được thay thế chức vụ ông ấy, chính quyền và quân đội sẽ hợp tác rất tốt đẹp.”
Mắt Lanser dường như mở to và sáng lên. Ông đến gần Corell và nói với giọng gay gắt. “Ông ghi điều đó trong bản báo cáo của ông?”
Corell đáp, “Ồ, vâng, dĩ nhiên – trong phần phân tích tình hình.”
Lanser cắt ngang, “Ông đã có nói chuyện với ai trong thị trấn này kể từ khi chúng ta đến đây chưa – bên ngoài dinh thị trưởng?”
“Ồ, không. Ngài thấy đó, họ vẫn còn ngỡ ngàng. Họ không ngờ như vậy.” Corell cười nhẹ, “Không, thưa ngài, họ nhất định không ngờ được.”
Nhưng Lanser cố nhấn mạnh chủ điểm của mình. “Vậy ông thực sự không biết trong đầu họ đang nghĩ gì?”
“Sao, họ đang ngỡ ngàng,” Corell nói. “Họ − quả thực, họ hầu như vẫn còn đang hoang mang.”
“Ông không biết họ đang nghĩ gì về ông?” Lanser hỏi.
“Tôi có nhiều bạn bè ở đây, tôi biết mọi người.”
“Có ai mua sắm gì ở cửa hiệu của ông sáng nay không?”
“Ồ, dĩ nhiên công việc mua bán bị ngưng lại.” Corell trả lời, “Không ai mua sắm gì cả.”
Lanser đột nhiên có vẻ thư thái. Ông bước lại chiếc ghế, ngồi xuống, gác tréo chân. Ông nói, giọng trầm lặng, “Công tác của ông là một phần hành khó khăn và dũng cảm, đáng được trọng thưởng.”
“Cám ơn đại tá.”
“Ông sẽ bị dân chúng căm ghét trong tương lai,” Ðại tá nói.
“Tôi có thể chịu đựng được điều đó, thưa ngài. Họ là kẻ thù.”
Lanser lúc này ngập ngừng, một chặp lâu sau mới cất tiếng. Ông nói giọng nhẹ nhàng, “Ông sẽ không có cả sự tôn trọng từ phía chúng tôi.”
Corell đứng bật dậy phấn kích. “Ðiều này trái ngược với lời Ngài Lãnh tụ!” hắn nói. “Lãnh tụ từng nói rằng tất cả các ngành phục vụ trong quân đội đều đáng tôn vinh như nhau.”
Lanser nói tiếp, giọng hết sức trầm lặng. “Tôi hi vọng Ngài Lãnh tụ hiểu. Tôi mong ông ta có thể đọc được những gì trong đầu của binh sĩ.” Rồi gần như có vẻ trắc ẩn ông nói, “Ông đáng được trọng thưởng.” Ông ngồi yên lặng một lát rồi chồm thẳng người tới trước. Ông nói, “Bây giờ chúng ta cần phải phân định rõ. Tôi chỉ huy ở đây. Công việc của tôi là khai thác than đá. Ðể làm được chuyện đó tôi phải duy trì trật tự và kỉ luật. Và cũng vì lý do đó tôi cần phải biết dân chúng đang nghĩ gì. Tôi phải liệu trước được cuộc nổi dậy. Ông có hiểu không?”
“Vâng, tôi có thể dò tìm ra được điều ngài muốn biết, thưa ngài. Nếu tôi là thị trưởng ở đây, tôi sẽ làm việc có hiệu quả hơn,” Corell nói.
Lanser lắc đầu. “Tôi không được lệnh về việc đó. Tôi phải vận dụng những nhận định của chính mình. Tôi nghĩ ông sẽ không bao giờ hiểu được những gì đang xảy ra ở đây. Sẽ không có ai nói chuyện với ông; không có ai đến gần ông ngoại trừ những ai muốn sống trên đồng tiền và những ai có khả năng sống trên đồng tiền. Tôi nghĩ nếu không có người bảo vệ ông sẽ rơi vào tình trạng rất nguy hiểm. Tôi rất vui lòng nếu ông trở lại thủ đô, ở đó ông sẽ được tưởng thưởng về công trạng tốt đẹp của ông.”
“Nhưng vị trí của tôi là ở đây, thưa ngài,” Corell nói. “Tôi đã xác định vị trí của mình. Tất cả đã được đề cập đến trong bản báo cáo của tôi.”
Lanser nói tiếp dường như ông không nghe thấy Corell. “Thị trưởng Orden không chỉ là một thị trưởng,” ông nói. “Ông ta là người của dân chúng. Ông biết họ nghĩ gì, làm gì, mà không cần phải nêu câu hỏi. Vì ông ta sẵn lòng suy nghĩ những gì họ suy nghĩ. Khi tôi theo dõi ông ta tôi sẽ hiểu được dân chúng. Ông ta phải ở lại. Ðó là nhận định của tôi.”
Corell nói, “Thành quả của tôi, thưa ngài, xứng đáng được đối đãi tốt hơn thay vì bị đuổi đi.”
“Phải, đúng vậy,” Lanser trả lời chậm rãi. “Nhưng đối với công tác to lớn hơn, tôi nghĩ lúc này ông chỉ là gây hại mà thôi. Nếu bây giờ ông chưa bị người ta căm ghét, thì rồi ông sẽ bị. Chỉ cần một cuộc nổi loạn nhỏ ông sẽ là người đầu tiên bị giết. Theo tôi, tôi đề nghị ông nên quay trở về.”
Corell nói, bướng bỉnh, “Dĩ nhiên ngài sẽ cho phép tôi chờ cho đến khi có trả lời về bản báo cáo của tôi từ thủ đô chứ?”
“Vâng, dĩ nhiên. Nhưng tôi khuyên ông nên quay trở về để được an toàn. Nói thực, ông Corell, ông không có giá trị gì ở đây nữa. Nhưng – vâng, chắc hẳn sẽ có kế hoạch khác, ở đất nước khác. Có lẽ rồi đây ông sẽ đi đến một thị trấn mới ở một đất nước mới. Ông sẽ đạt được lòng tin ở lĩnh vực mới. Ông sẽ được trao cho một thị trấn lớn hơn, kể cả một thành phố, và một trách nhiện to lớn hơn. Tôi sẽ hết lòng tiến cử ông vì công trạng ông ở đây.”
Mắt Corell sáng lên với vẻ biết ơn. “Cám ơn ngài, đại tá,” hắn nói. “Tôi đã làm việc khó nhọc. Có lẽ ngài đúng. Nhưng ngài cho phép tôi được chờ câu trả lời từ thủ đô.”
Giọng Lanser trở nên căng thẳng, mắt ông nheo lại. Ông nói gay gắt. “Ðội nón sắt, ở trong nhà, đừng ra ngoài ban đêm, và, trên hết không được uống rượu. Ðừng tin tưởng đàn bà hay bất kì người đàn ông nào. Ông hiểu không?”
Corell nhìn đại tá với vẻ thương hại. “Tôi nghĩ ngài không hiểu. Tôi có một ngôi nhà nhỏ, một cô hầu gái nhà quê. Tôi còn nghĩ cô ấy thích tôi. Dân chúng ở đây chất phác, hiền hoà. Tôi biết họ.”
Laser nói, “Không có dân chúng nào hiền hòa cả. Ông học được điều đó lúc nào vậy. Không có dân chúng thân thiện. Ông có hiểu không? Chúng tôi xâm chiếm đất nước này – ông đã dọn đường cho chúng tôi và bọn họ gọi ông là kẻ phản bội.” Gương mặt ông đỏ bừng, ông cất cao giọng, “Sao ông không hiểu là chúng ta đang có chiến tranh với họ.”
Corell nói, giọng tự mãn, “Chúng ta đã thắng họ.”
Ðại tá đứng dậy, vung tay lên dáng thất vọng, Hunter ngẩng lên nhìn, đưa tay giữ cái bảng vẽ đang lắc lư. Hunter nói, “Cẩn thận, thưa đại tá. Tôi đang tô mực. Tôi không muốn phải làm lại từ đầu.”
Lanser nhìn xuống Hunter và nói, “Xin lỗi,” ông nói tiếp giống như đang giảng bài trước lớp học. Ông nói, “Chiến thắng chỉ là sự kiện xảy ra chốc lát. Chiến thắng không kéo dài. Chúng ta đã chiến thắng và bây giờ chúng ta đang bị tấn công. Chiến thắng không có ý nghĩa gì hết. Ông có hiểu không? Ông có biết người ta đang nói nhỏ với nhau những gì sau cửa không?”
Corell hỏi, “Ngài có biết không?”
“Không, nhưng tôi nghi ngờ.”
Corell nói bóng gió xa gần, “Ngài sợ chăng, thưa đại tá. Vị tư lệnh của một đội quân chiếm đóng có nên sợ hãi chăng?”
Lanser nặng nề ngồi xuống ghế và nói, “Có thể là vậy.” Và ông nói tiếp, giọng chán ghét. “Tôi chán những người chưa từng chiến đấu nhưng lại rành hết chuyện chiến tranh.” Ông tựa cằm vào tay và nói, “Tôi nhớ một mụ già ở Bỉ − khuôn mặt hiền hậu, tóc bạc trắng; mụ ta chỉ cao thước rưỡi; bàn tay mảnh dẻ. Ông có thể thấy được đường gân máu hơi sẩm đen trên làn da của mụ. Mụ quấn khăn san đen, mái tóc trắng xanh. Mụ hay hát những bài ca yêu nước cho chúng tôi nghe, giọng mụ ngọt ngào rung cảm. Mụ luôn biết được nơi nào có thể kiếm được gái tơ và thuốc lá.” Ông bỏ tay xuống khỏi cằm, giật mình như vừa sực tỉnh một cơn mê. “Chúng tôi không biết con trai bà ta đã bị xử quyết,” ông nói. “Cuối cùng chúng tôi bắn mụ, cho đến lúc ấy mụ đã giết chết mười hai người bằng cây trâm cài nón dài, màu đen. Tôi còn giữ cây trâm đó ở nhà. Nó có một hạt nút cườm đính một con chim trên đó, màu xanh và đỏ.”
Corell nói, “Và ngài bắn mụ ta?”
“Dĩ nhiên, chúng tôi bắn mụ.”
“Và những vụ giết chóc bị chặn đứng?” Corell hỏi.
“Không, những vụ giết chóc vẫn không bị chặn đứng. Và cho đến lúc cuối khi chúng tôi rút lui, dân chúng chặn những người lính đi lạc hàng, những nguời ấy một số bị đốt, một số bị móc mắt, có người còn bị đóng đinh trên thập giá.”
Corell nói lớn, “Những chuyện này nói đến không tốt, thưa ngài.”
“Những chuyện này nhớ đến cũng không tốt,” Lanser nói.
Corel nói, “Ngài là vị chỉ huy, ngài không nên sợ hãi.”
Lanser nhẹ giọng trả lời, “Tôi biết phương thức chiến đấu, ông thấy đó. Trong chiến tranh nếu ông biết, ông sẽ không phạm những sai lầm ngu xuẩn.”
“Ông có từng nói như thế đối với các sĩ quan trẻ của ông?”
Lanser lắc đầu, “Không, họ không tin tôi.”
“Vậy sao ông nói với tôi?”
“Bởi vì, Ông Corell, công tác của ông đã chấm dứt. Tôi nhớ có một lần...” ngay lúc ông nói có tiếng chân vấp ở cầu thang và cánh cửa bật mở. Một người lính gác nhìn vào, đại úy Loft đi lướt qua. Loft trông nghiêm ngặt, lạnh lùng và khuôn khổ; hắn nói, “Có chuyện rắc rối, thưa đại tá.”
“Rắc rối?”
“Tôi xin báo cáo, thưa đại tá, rằng đại úy Bentick đã bị sát hại.”
Lanser nói, “Ồ... hả... Bentick!”
Có nhiều tiếng chân bước lên cầu thang, hai người khiêng băng ca vào, trên băng ca một hình người phủ chăn.
Lanser nói, “Anh có chắc là anh ta chết?”
“Hoàn toàn chắc,” Loft nói, giọng khô khốc.
Hai viên thiếu úy từ phòng ngủ bước ra, miệng họ hơi há ra, khuôn mặt trông có vẻ sợ hãi. Lanser nói, “Ðặt anh ta xuống ở đằng kia,” ông chỉ đến khoảng tường bên cạnh cửa sổ. Lúc hai người khiêng băng ca đi rồi, Lanser quỳ xuống nâng một góc tấm chăn lên và đặt ngay xuống lại. Và vẫn còn quỳ, ông nhìn qua Loft, ông nói, “Ai làm vậy?”
“Một người thợ mỏ,” Loft nói.
“Tại sao?”
“Tôi có ở đó, thưa đại tá.”
“Ðược, vậy báo cáo đi! Báo cáo đi, chuyện quỷ quái gì hả!”
Loft đứng thẳng người và nói nghiêm túc. “Tôi vừa mới đến thay thế đại úy Bentick, theo lệnh của đại tá. Lúc đại úy Bentick sắp sửa quay ra để trở về đây thì tôi gặp rắc rối với một thợ mỏ bất tuân lệnh, hắn ta muốn bỏ việc. Hắn la lối gì đó về chuyện làm một người tự do. Khi tôi ra lệnh hắn đi làm việc, hắn xông tới tôi với cái cuốc chim. Ðại úy Bentick cố can thiệp.” Hắn làm một cử động hơi hướng về phía các xác.
Lanser, vẫn còn quì, gật đầu. “Bentick là một người kì dị,” ông nói. “Anh ta thích người Anh, thích mọi thứ về họ.Tôi nghĩ anh ta không thích đánh nhau cho lắm... Anh bắt giữ nguời kia chứ?”
“Vâng, thưa đại tá.” Loft nói.
Lanser chậm chạp đứng dậy, nói như với chính mình. “Vậy là nó lại bắt đầu. Chúng ta bắn người này và sẽ có hai chục kẻ thù mới.”
Prackle nói, “Thưa đại tá, ông nói gì?”
Lanser trả lời, “Không, không có gì cả. Tôi đang suy nghĩ thôi.” Ông quay sang Loft và nói, “Làm ơn gửi lời chúc của tôi đến Thị trưởng Orden và thỉnh cầu ông ấy đến gặp tôi ngay. Việc này rất quan trọng.”
Thiếu tá Hunter ngước lên nhìn, lau khô cây viết mực cẩn thận, đặt nó vào trong chiếc hộp bọc nhung.
Ðại úy Bentick là một người đàn ông yêu mái ấm gia đình, hắn thích nuôi chó, thích những đứa bé hồng hào và những ngày lễ Giáng Sinh. Hắn đã quá già đối với cấp bậc đại úy, nhưng vì hắn thiếu vắng tham vọng một cách kì lạ nên bị kẹt mãi ở cấp bậc đó. Trước chiến tranh hắn rất thán phục cái phong thái của những người lịch sự ở miền quê xứ Ăng-Lê, hắn mặc y phục Ăng-Lê, nuôi chó Ăng-Lê, hút ống điếu Ăng-Lê với thuốc lá pha trộn đặc biệt gửi đến từ Luân Ðôn, hắn đặt mua dài hạn tạp chí đồng quê ca ngợi những công việc vườn tược và liên tục tranh luận về đức tính của giống chó tìm mồi Ăng-Lê và Gordon. Ðại úy Bentick luôn nghỉ hè ở Sussex và hắn thích được người sống ở Paris hay ở Pudapest tưởng lầm là người Ăng-Lê. Chiến tranh làm tất cả thay đổi ở mặt ngoài, nhưng mà hắn ngậm ống điếu và cầm cây can đã quá lâu, nay bỗng dưng không thể bỏ chúng ngay được. Có một lần, cách đây năm năm, hắn viết thư gửi cho tờ Times về việc cỏ bị chết ở vùng Midlands, kí tên Luật sư Edmund Twitchell; sau đó tờ Times có đăng bức thư ấy.
Nếu Bentick đã quá già với cấp bậc đại úy thì Ðại úy Loft lại quá trẻ. Ðại úy Loft đối với mọi người là một đại úy lý tưởng. Hắn sống và thở với tinh thần chỉ huy binh lính. Không có giây phút nào hắn xa rời quân kỉ. Tham vọng thúc đẩy hắn vượt lên từng cấp bậc. Hắn ngoi lên như váng bơ nổi lên trên mặt sữa tươi. Hắn giậm gót giày nhuần nhuyễn như những tay vũ công. Hắn rành hết tất cả những nghi lễ nhà binh và kiên quyết thực hành tất cả những nghi lễ đó. Các vị tướng lãnh cũng e dè hắn vì hắn biết nhiều hơn họ về tác phong cần có của một người lính. Ðại úy Loft cho rằng người lính là mức tiến triển cao cấp nhất của đời sống sinh vật. Nếu hắn có chút nào nghĩ đến Thượng đế, hắn sẽ tưởng tượng Thượng đế là một vị tướng già về hưu đáng kính, tóc bạc, sống trong hồi ức về những trận chiến, và hằng năm vài lần đến viếng mộ những người phụ tá mình với những vòng hoa tưởng niệm. Ðại úy Loft tin rằng tất cả đàn bà sẽ đem lòng yêu tấm áo quân phục, hắn không hiểu nổi làm sao đàn bà có thể khác hơn như vậy được. Nếu sự việc diễn tiến bình thường có thể hắn sẽ làm chuẩn tướng ở cái tuổi bốn mươi lăm, có hình chụp trên họa báo, đứng cặp kè với những người đàn bà cao nhòng, da trắng nuột, đầy nam tính, đội trên đầu những chiếc mũ thêu ren như tranh vẽ.
Thiếu úy Prackle và Tonker thuộc vào loại sinh viên sĩ quan mới ra trường, quẹt mũi ngang chưa sạch, được đào tạo từ trong không khí chính trị của thời đại, họ tin rằng cái hệ thống vĩ đại tân kì, được sáng tạo bởi một thiên tài, sẽ vĩ đại đến mức họ không cần phải bận tâm đến việc kiểm chứng thành quả của nó. Bọn họ là những anh chàng giàu cảm xúc, mềm lòng trước những giọt nước mắt và những cơn giận dữ. Thiếu úy Prackle đem theo một lọn tóc gói trong một mẩu sa-tanh xanh, nhét vào mặt sau chiếc đồng hồ bỏ túi, lọn tóc thường hay xổ ra kẹt vào bánh lắc, hắn đành phải mang đồng hồ đeo tay để xem giờ. Prackle là một tay khêu vũ, một chàng trai vui tánh, tuy vậy cũng có thể cau có và trầm tư như Ngài Lãnh tụ. Hắn ghét loại nghệ thuật suy đồi, tự tay hắn đã xé nát mấy bức họa. Ðôi khi trong những hộp đêm hắn phác họa bằng bút chì chân dung một vài người cùng bàn, những bức phác họa khá đẹp và người ta bảo hắn nên làm họa sĩ. Prackle rất tự hào về mấy người chị em gái tóc vàng của mình, khiến có vài lần hắn gây chuyện huyên náo vì hắn nghĩ họ bị nhục mạ. Các chị em gái hơi phiền về chuyện ấy vì họ e là sẽ có một ai đó đứng ra làm chứng về chuyện nhục mạ, một việc vốn không có gì khó khăn cả. Thiếu úy Prackle thường dành hết giờ nghỉ, không bận công vụ, mơ tưởng đến việc rù quến cô em gái tóc vàng của thiếu úy Tonder, một cô gái thân mình tròn lẳng, chỉ thích được những người đàn ông lớn tuổi hơn quyến rủ vì họ không làm rối tóc cô như anh chàng thiếu úy Prackle.
Thiếu úy Tonder là một nhà thơ, một nhà thơ cay đắng, mơ về một tình yêu lý tưởng, toàn thiện của những chàng trai thượng lưu đối với các cô gái nghèo hèn. Trong lòng Tonder có cái lãng mạn u ám với một ảo tưởng rộng lớn tương đương với trải nghiệm của hắn. Có lúc hắn đọc lên những câu thơ mơ hồ qua hơi thở về những người đàn bà ảm đạm trong tâm tưởng. Hắn hoài vọng về một cái chết nơi chiến trường, ở đằng sau, nơi hậu trường cha mẹ đang nhỏ lệ, và Ngài Lãnh tụ, can trường nhưng u buồn, đang chứng kiến cái chết của chàng trai trẻ. Hắn thường mơ tưởng luôn đến cái chết của hắn, soi sáng bởi ánh tà dương đang dần lặn, vài tia nắng lóe rọi lên những quân cụ vỡ nát, những người lính của hắn đứng quanh lặng im, với những chiếc đầu cúi thấp, và trên đám mây bồng đang phi nhanh những thiên nữ Valkyrie[1], bầu vú to, người mẹ và người tình lẫn làm một, trong lúc ấy những giai điệu Wagner[2] nổ ra như sấm động làm nhạc nền. Và hắn cũng đã có sẵn lời tử biệt.
[1] Thiên Nữ Valkyrie: Tượng trưng cho cái chết anh dũng của chiến sĩ. Là những thiên nữ trong thần thoại Bắc Âu, cỡi trên những con ngựa có cánh, mặc giáp, mang thương, nhưng không có nhiệm vụ chiến đấu. Họ phục vụ cho Odin, chúa tể các thần. Nhiệm vụ của Valkyrie là chọn những chiến sĩ dũng cảm bị tử thương trên chiến trường, dẫn họ về phục vụ trong đội quân của Thần Odin, để chuẩn bị cho trận chiến Ragnarok, trận chiến của ngày tận thế trong thần thoại Bắc Âu.
[2] Wilhelm Richard Wagner: Nhà soạn nhạc người Ðức (1813-1883) người mở đường khai phá về thể loại giao hưởng opera (symphonic-operas). Nổi tiếng với bộ The Ring of the Nibelungen bao gồm 4 vở diễn opera với chủ đề dựa theo thần thoại Bắc âu và Ðức (The Rhinegold, The Valkyrie, Siegfried, Twilight of the Gods).
Ðấy là những người trong ban tham mưu, mỗi người đang chơi với chiến tranh như trẻ con chơi trò “Chạy, Chạy Ði Cừu”[3]. Thiếu tá Hunter nghĩ về chiến tranh như một bài toán số học cần phải giải cho xong để hắn có thể quay lại bên chiếc lò sưởi; đại úy Loft coi đó là một nghề nghiệp chính đáng của một thanh niên được giáo dục đúng đắn; thiếu úy Prackle và Tonder nghĩ về chiến tranh qua những mơ tưởng không chút gì có dính dáng đến thực tế. Và như thế họ đã chơi trò chiến tranh – bằng vũ khí tốt, bằng kế hoạch chu đáo đối lại với kẻ địch không vũ trang, thiếu sách lược. Họ không thua một trận nào và chỉ thiệt hại chút ít. Bọn họ, nếu bị áp lực, cũng có thể hèn nhát hoặc can đảm, như bao người khác. Trong bọn họ chỉ có đại tá Lanser là biết được về lâu về dài cuộc chiến thật sự sẽ đi tới đâu.
[3] Run Sheep Run: Trò chơi của trẻ con, những đứa bé chia làm hai nhóm, nhóm cừu và nhóm sói. Bắt đầu chơi nhóm sói đứng ở khởi điểm, nhóm cừu đi trốn, khi trốn xong một đứa (trưởng nhóm) của nhóm cừu sẽ đi đến bảo cho nhóm sói biết là đã sẵn sàng. Nhóm sói sẽ đi tìm, nếu thấy nhóm sói đã đi xa khởi điểm và xa chỗ nấp của nhóm cừu, trưởng nhóm sẽ kêu “Run Sheep Run” báo hiệu cho nhóm cừu mau chạy về khởi điểm, nếu nhóm nào chạy về khởi điểm trước nhóm đó sẽ thắng. Trong khi chơi toàn nhóm phải cùng nấp và cùng chạy chung với nhau, không được tách rời, trừ trưởng nhóm cừu đứng riêng có nhiệm vụ thông tin.
Lanser đã từng ở Bỉ và Pháp hai mươi năm về trước, ông không muốn nghĩ đến những gì ông biết – cuộc chiến ấy có giả trá, có căm thù, có sự hồ đồ của những tướng lãnh bất tài, có tra tấn, giết chóc, bệnh tật, chán nản; để rồi cuối cùng mọi sự cũng qua đi, không có gì thay đổi ngoại trừ những nhọc nhằn và hận thù mới. Lanser tự nhủ rằng ông là một người lính, nhận mệnh lệnh và thực thi nó. Ông không nên đặt nghi vấn, xét lại, ông chỉ thực thi mệnh lệnh; ông cố gạt qua một bên những kí ức đen tối về cuộc chiến trước kia cũng như điều khẳng định rằng cuộc chiến này rồi cũng như cuộc chiến trước. Cuộc chiến này rồi sẽ khác, ông tự nói với mình như thế năm mươi lần một ngày; cuộc chiến này rồi sẽ rất khác.
Trong cuộc hành quân, cuộc nổi loạn, trận đá bóng, và trong chiến tranh, những kế hoạch trở nên mơ hồ; sự thực trở thành ảo giác và có màn sương mù len lỏi vào tâm trí. Căng thẳng, phấn kích, mệt nhọc, tất tả bôn ba – mọi thứ hòa vào nhau thành một giấc mơ lớn u ám; để rồi khi nó qua đi, khó mà nhớ được tại sao anh phải giết người hay ra lệnh giết người. Sau này có những kẻ khác không có mặt ở đó thuật lại với anh chuyện đã xảy ra như thế nào và anh nói mơ hồ, “Ừ, tôi nghĩ nó như vậy đó.”
Ban tham mưu chiếm lấy ba phòng ở tầng trên của dinh thị trưởng. Trong phòng ngủ họ đặt giường xếp, chăn mền, quân cụ; và ở phòng kế bên, nằm ngay trên phòng khách nhỏ ở tầng dưới, họ biến nó thành một câu lạc bộ, một câu lạc bộ không được thoải mái, với vài cái ghế và một cái bàn. Họ dùng phòng này để đọc thư, viết thư; và ở đó họ bàn bạc, gọi cà phê, lập kế hoạch và nghỉ ngơi. Trên khoảng tường giữa những khuôn cửa sổ có những bức tranh vẽ những con bò, hồ nước và những ngôi nhà theo kiểu thôn quê nho nhỏ. Từ những cửa sổ họ có thể trông xuống thị trấn cho đến tận bến cảng, đến những ụ tàu có những chiếc tàu đang buộc neo, đến những ụ tàu có những xà lan tải than đến đậu lại, nhận hàng rồi đi ra biển. Họ có thể trông xuống cái thị trấn nhỏ bé, đang uốn mình trườn qua quảng trường vươn tới bến cảng, họ có thể thấy những thuyền đánh cá cuốn buồm lại nằm neo mình trong vịnh, và có thể ngửi thấy mùi cá khô từ bãi biển đưa lên, bay vào tận cửa sổ.
Một chiếc bàn lớn đặt giữa phòng, thiếu tá Hunter ngồi bên cạnh. Cái bảng vẽ nằm trên vế hắn, tựa vào bàn, bằng một chiếc thước vuông chữ T và thước ê-ke hắn đang vẽ bản thiết kế về một đoạn rẽ của đường xe lửa. Cái bảng vẽ lắc lư và thiếu tá đang phát bực với nó. Hắn quay qua phía sau gọi, “Prackle!” Rồi lại gọi, “Thiếu úy Prackle!”
Cửa phòng ngủ mở, thiếu úy bước ra, một nửa khuôn mặt hắn phủ đầy xà bông xạo râu. Tay hắn còn cầm cọ quét xà bông. “Vâng?” hắn nói.
Thiếu tá Hunter giục giặc cái bảng vẽ. “Cái giá vẽ của tôi có xếp lẫn trong đám hành lý không?”
“Không biết nữa, thưa thiếu tá,” Prackle nói. “Tôi chưa xem lại.”
“Vậy bây giờ xem lại đi. Làm việc dưới ánh sáng như thế này thật là tệ. Tôi phải vẽ lại trước khi đồ mực lên.”
Prackle nói. “Cạo râu xong tôi sẽ đi tìm ngay.”
Hunter gắt lên, “Ðoạn đường sắt này quan trọng hơn cái khuôn mặt của anh. Tìm xem có cái bọc bằng vải bố giống như túi đánh gôn, nằm dưới đống đồ ở trong đó không.”
Prackle đi khuất vào trong phòng ngủ. Cánh cửa bên phải mở ra, Ðại úy Loft vào. Hắn đội nón sắt, đeo một cặp ống nhòm, súng cá nhân, và vài thứ túi da nhỏ khác đeo lỉnh kỉnh khắp người. Vừa bước vào là hắn tháo những thứ quân cụ đó ra khỏi người.
“Ông biết không, Bentick thật điên khùng,” Hắn nói. “Ông ta ra ngoài làm nhiệm vụ ngay ở dưới phố mà đội mũ lưỡi trai.”
Loft đặt ống nhòm trên bàn, dỡ nón sắt, rồi đến túi mặt nạ phòng hơi độc, những thứ quân cụ đó chất thành đống nhỏ trên bàn.
Hunter nói, “Ðừng bỏ những thứ đó trên bàn, tôi còn phải làm việc ở đây. Tại sao ông ấy không thể đội mũ lưỡi trai? Ðã có gì rắc rối xảy ra đâu. Tôi phát bịnh với những thứ đồ thiếc ấy. Vừa nặng, vừa chẳng nhìn thấy gì hết.”
Loft cất giọng nghiêm chỉnh, “Không mang nón sắt là một lề lối làm việc xấu. Xấu đối với dân chúng ở đây. Chúng ta phải duy trì mẫu mực quân ngũ, phải cảnh giác, không được biến cải dung dị. Nếu không chúng ta sẽ mời gọi rối loạn.”
“Tại sao anh nghĩ vậy?” Hunter hỏi.
Loft hơi dướng người thẳng lên, cặp môi mím lại ra vẻ khẳng định. Sớm hay muộn mọi người ai cũng muốn đấm vào mũi hắn vì cái lối khẳng định đó. Hắn nói, “Không phải tôi nghĩ nó ra, Tôi đang lược thuật cẩm nang X12 về tác phong của binh sĩ ở trong đất nước đang chiếm đóng. Nó được soạn thảo rất kĩ lưỡng.” Thoạt đầu hắn thốt, “Ông...” nhưng rồi đổi thành “Mọi người nên đọc kĩ X-12.”
Hunter nói, “Tôi không biết người viết nó ra có bao giờ từng đem quân chiếm đóng một nước hay chưa. Dân chúng ở đây vô hại. Họ có vẻ là những người tốt, biết nghe lời.
Prackle bước vào, một nửa mặt hắn vẫn còn phủ đầy xà bông. Hắn vác một ống vải bố màu nâu, đi theo sau lưng hắn là Thiếu úy Tonder. “Có phải cái này không?” Prackle hỏi.
“Phải rồi, mở nó ra và dựng lên, được không?”
Prackle và Tonder loay hoay dựng cái giá xếp ba chân, kiểm tra chắc chắn, rồi để nó gần bên Hunter. Thiếu tá vặn ốc gắn bảng vẽ lên, nghiêng qua nghiêng lại bảng vẽ rồi cuối cùng lầm bầm ngồi xuống sau giá vẽ.
Ðại úy Loft nói, “Anh có biết mặt anh bôi đầy xà bông không, thiếu úy?”
“Vâng, thưa đại úy.” Prackle nói. “Tôi đang cạo râu thì thiếu tá bảo tôi đi tìm giá vẽ.”
“Vậy à, anh nên lau sạch đi,” Loft nói. “Thiếu tá có thể trông thấy đấy.”
“Ồ, ông ấy không lý đến đâu. Ông ấy không quan tâm đến những chuyện thuộc loại như vậy.”
Tonder đang đứng sau lưng Hunter xem Hunter làm việc.
Loft nói, “Ừ, Ông ấy có thể không để ý đến, nhưng để vậy coi không được.”
Prackle rút khăn mùi xoa ra lau xà bông trên má. Tonder chỉ vào họa đồ nhỏ ở một góc của bảng vẽ. “Chiếc cầu trông đẹp lắm, thiếu tá. Nhưng chúng ta sẽ xây chiếc cầu này ở nơi nào vậy?”
Hunter nhìn xuống bản họa đồ rồi quay ra sau nhìn Tonder “Hả! À, chẳng có chiếc cầu nào chúng ta cần phải xây cả, ở đây chỉ là bản họa đồ thôi.”
“Vậy thiếu tá vẽ chiếc cầu này làm gì?”
Hunter dường như hơi ngượng ngùng, “À, anh biết không, ở vườn sau nhà tôi, tôi có dựng mô hình của một tuyến đường sắt. Tôi định bắc cầu qua con suối. Tôi dẫn tuyến đường sắt đến suối, nhưng tôi chưa bao giờ xây được chiếc cầu. Tôi nghĩ tôi có thể hoàn tất việc qui hoạch chiếc cầu trước khi tôi trở về.”
Prackle rút từ trong túi một tờ giấy gấp, hắn mở ra, đưa lên ngắm nghía. Ðó là một bức hình một cô gái, in bằng bản kẽm; một cô gái tóc vàng thân hình nẩy nở, thấy rõ cả cặp giò, trang phục, và hàng lông mi. Cô mang một đôi vớ đen thêu ren, thân áo trên xẻ trễ xuống, tay cầm chiếc quạt đen che nghiêng đôi mắt đang e ấp liếc nhìn. Prackle giơ tấm hình cô ả lên và hỏi, “Em này đáng tiền không?” Thiếu úy Tonder nhìn bức hình xoi mói và nói, “Tớ không thích cô ả.”
“Không thích chỗ nào?”
“Chỉ không thích vậy thôi,” Tonder nói. “Cậu làm gì với bức hình đó?”
Prackle nói, “Bởi vì tớ thích cô ả nên tớ dám cá là cậu cũng mê cô ả.”
“Tớ không thích.”
“Cậu nói là nếu được hẹn với cô ta cậu sẽ không thèm đi?” Preackle hỏi.
Tonder nói, “Không.”
“Vậy sao, cậu đúng là điên rồi,” và Prackle đi lại một tấm màn. Hắn nói, “Tớ sẽ dán cô ả này lên đây cho cậu có thời gian tơ tưởng đến cô ả.” Hắn ghim bức hình lên tấm màn.
Ðại úy Loft lúc này đang thu nhặt quân cụ, hắn nói, “Tôi nghĩ bức hình đó ở ngoài này không tốt, thiếu úy. Anh nên lấy nó xuống. Nó sẽ gây ấn tượng không tốt đối với dân chúng ở địa phương.”
Hunter ngước nhìn lên, “Cái gì không tốt.” Hắn trông theo ánh mắt mọi người nhìn về phía bức hình. “Ai vậy,” hắn hỏi.
“Cô ta là một diễn viên,” Prackle nói.
Hunter chăm chú nhìn cô gái. “Ồ, anh biết cô ta?”
Tonder nói, “Cô ả là một con bò lạc.”
Hunter nói, “À, vậy anh biết cô ta?”
Prackle nhìn chăm chắm vào Tonder. Hắn nói, “Nói đi, làm sao cậu biết cô ta là một con bò lạc?”
“Cô ả trông giống như thứ bò lạc,” Tonder nói.
“Anh biết cô ta?”
“Không, và tôi cũng không muốn biết.”
Prackle bắt đầu nói tiếp, “Vậy làm sao cậu biết?” nhưng Loft cắt ngang, hắn nói, “Anh nên gỡ tấm hình đó xuống. Gắn trên đầu giường nếu anh thích. Phòng này ở đây coi như là công sở.”
Prackle nhìn Loft với ánh mắt cự nự sắp sửa lên tiếng, Loft nói, “Ðây là lệnh, thiếu úy,” và Prackle hẩm hiu gấp bức hình bỏ lại vào túi. Hắn cố làm ra vẻ tươi tỉnh thay đổi đề tài. “Ở thị trấn này có vài cô em khá xinh, để đấy,” hắn nói. “Ðợi lúc chúng ta ổn định và mọi việc suông sẻ tôi sẽ làm quen vài em.”
Loft nói, “Anh nên đọc X-12 . Có một đoạn đề cập đến vấn đề tình dục.” Hắn bỏ ra ngoài, mang theo xách, kính và quân cụ. Thiếu úy Tonder vẫn đứng sau Hunter xem họa đồ, nói, “Sáng ý thật, cho xe chuyển than chạy thẳng từ hầm mỏ ra tàu thủy.”
Hunter chậm chạp rứt mình ra khỏi công việc, hắn nói, “Chúng ta cần thúc đẩy nhanh chóng công việc khai thác than. Ðây là một công tác lớn. Chúng ta hết sức cảm ơn dân chúng ở đây đã tỏ ra rất bình tĩnh và có ý thức.”
Loft quay trở vào phòng không mang theo quân cụ. Hắn đứng bên cửa sổ, nhìn ra ngoài về hướng bến cảng, về hướng mỏ than, hắn nói, “Họ bình tĩnh và có ý thức bởi vì chúng ta bình tĩnh và có ý thức. Tôi nghĩ chúng ta đáng được ghi công về điểm này. Ðó là lý do tôi luôn nhắc nhở về các qui củ. Nó đã được soạn thảo rất kĩ lưỡng.”
Cửa mở, đại tá Lanser đi vào, vừa đi vừa cởi chiếc áo khoác đang mặc. Các phụ tá của ông chào ông theo kiểu nhà binh, không đến nỗi quá nghiêm, nhưng vừa đủ. Lanser nói, “Ðại úy Loft, anh có thể xuống dưới thay cho Bentick được không? Anh ấy không khỏe lắm, nghe nói là bị chóng mặt.”
“Vâng, thưa đại tá,” Loft nói. “Tôi xin có đề nghị, thưa đại tá, tôi mới vừa xong phiên trực.”
Lanser nhìn Loft dò xét. “Tôi nghĩ anh không phản đối chứ, đại úy.”
“Hoàn toàn không, thưa đại tá; tôi chỉ nhắc đến để việc này được ghi lại trong thành tích cá nhân.”
Vẻ mặt Lanser dịu xuống, ông cười nhẹ, “Anh muốn được nhắc đến trong những bản báo cáo, phải không?”
“Ðâu có điều gì hại, thưa đại tá.”
“Và đến khi có đủ số lần ghi công,” Lanser nói tiếp, “anh sẽ có vật nho nhỏ đeo lủng lẳng trước ngực.”
“Ðó là những cột mốc cho sự nghiệp quân ngũ, thưa đại tá.”
Lanser thở dài. “Phải, tôi cũng cho là như vậy. Nhưng đó không phải là những thứ đáng cho anh nhớ đến đâu, đại úy.”
“Thưa đại tá?” Loft hỏi.
“Sau này anh sẽ hiểu tôi muốn nói gì – có lẽ.”
Loft nhanh nhẹn đeo các thứ quân cụ vào người. “Vâng, thưa đại tá,” hắn nói, rồi đi ra, xuống lầu, bước chân gõ lạch cạch trên bậc gỗ cầu thang. Lanser nhìn theo hắn, ánh mắt vui vui thú vị. Ông nói lặng lẽ, “Một người lính tự bẩm sinh.” Hunter ngước nhìn lên, cây viết chì kẹp thăng bằng trên ngón tay, hắn nói, “Một con lừa tự bẩm sinh.”
“Không đâu,” Lanser nói, “hắn làm lính như nhiều người khác làm chính trị. Hắn sẽ mau chóng được dự vào hành tướng lãnh. Hắn sẽ nhìn chiến tranh từ trên cao nhìn xuống và hắn sẽ luôn yêu thích nó.”
Thiếu úy Prackle nói, “Ðại tá nghĩ đến bao giờ sẽ hết chiến tranh, thưa đại tá.”
“Hết? Hết chiến tranh? Anh muốn nói gì?”
Thiếu úy Prackle nói tiếp, “Ðến bao giờ chúng ta thắng?”
Lanser lắc đầu. “Ồ, Tôi không biết. Thế giới vẫn còn kẻ thù.”
“Nhưng chúng ta sẽ quật bọn chúng,” Prackle nói.
Lanser nói, “Ừ?”
“Ðúng không?”
“Phải, phải, chúng ta luôn luôn thắng.”
Prackle nói, phấn khởi, “Vậy nếu đến Giáng sinh tình hình yên ổn chúng ta có được cho nghỉ phép không?”
“Tôi không biết,” Lanser nói. “Lệnh loại đó phải được đưa ra từ trong nước. Anh muốn về thăm nhà vào Giáng sinh hả?”
“Vâng, được vậy thì cũng thích.”
“Có thể anh sẽ được phép,” Lanser nói, “có thể.”
Thiếu úy Tonder nói, “Sau khi chiến tranh kết thúc, chúng ta sẽ không rút ra khỏi xứ này chứ, phải không, thưa Ðại tá?”
“Tôi không biết,” Ðại tá nói. “Tại sao?”
Tonder nói, “Xứ này đẹp, người dân hiền lành. Người của chúng ta – một số – có thể nghĩ đến việc lập nghiệp ở đây.”
Lanser nói đùa, “Chắc có lẽ anh thấy nơi nào vừa mắt rồi, phải không?”
Tonder nói, “Có vài nông trang ở đây thật đẹp. Nếu có bốn năm cái gộp lại với nhau tôi nghĩ sẽ thành một chỗ khá tốt có thể lập nghiệp.”
“Gia đình anh không có đất đai hay sao?” Lanser hỏi.
“Không thưa đại tá. Không còn nữa, nạn lạm phát đã lấy đi hết.”
Lanser đến lúc này đã mệt với việc chuyện trò cùng trẻ con. Ông nói, “Hừ, chúng ta còn phải chiến đấu, còn phải khai thác than. Anh nghĩ liệu chúng ta có thể chờ được đến lúc chiến tranh kết thúc để chúng ta có thể xây cất những trang trại? Lệnh đó phải được từ trên đưa xuống, đại úy Loft có thể nói cho anh biết chuyện đó.” Ông đổi thái độ và nói tiếp, “Hunter, thép anh cần ngày mai sẽ đến. Tuần này anh có thể khởi công đường ray của anh được rồi.”
Có tiếng gõ cửa, Một người lính gác thò đầu vào. Hắn nói, “Ông Corell muốn được gặp, thưa đại tá.”
“Cho ông ấy vào,” Ðại tá nói. Ông nói với những người khác trong phòng. “Người này đã làm công tác dọn đường cho chúng ta đến đây. Có thể chúng ta có chuyện phiền phức với hắn.”
“Việc hắn làm tốt chứ?” Tonder hỏi.
“Phải, hắn làm tốt, nhưng dân chúng ở đây không ưa hắn. Tôi không biết chúng ta sẽ ưa hắn hay không.”
“Hắn đáng được ghi công, nhất định thế.” Tonder nói.
“Phải,” Lanser nói, “và tôi nghĩ hắn sẽ không quên việc đòi công.”
Corell bước vào, xát hai tay vào nhau. Mặt hắn tỏa ra dáng nét thiện ý và tình thân hữu. Hắn vẫn mặc bộ com-lê màu đen, nhưng trên đầu hắn có một miếng gạc trắng, dán dính trên tóc bằng băng keo chéo hình chữ thập. Hắn tiến vào giữa phòng và nói, “Xin chào ngài đại tá. Ðáng lẽ tôi nên đến vào hôm qua sau vụ rắc rối ở dưới lầu, nhưng tôi hiểu ngài đang bận rộn.”
Ðại tá nói, “Xin chào.” Ông đưa tay vòng làm một cử chỉ giới thiệu, “Ðây là những người phụ tá của tôi.”
“Giỏi lắm,” Corell nói. “Các cậu ấy làm tốt lắm. Ừ, tôi đã ra sức chuẩn bị tốt cho họ.”
Hunter cúi nhìn bản vẽ, hắn lấy ra một cây viết, tẩm mực ngòi viết và bắt đầu tô mực vào bức họa đồ.
Lanser nói, “Ông làm tốt lắm. Nhưng tôi nghĩ có lẽ ông không cần giết sáu người lính nọ. Phải chi họ đừng trở lại.”
Corell dang tay ra và thoải mái nói, “Sáu người chỉ là một mất mát nhỏ so với thị trấn bề thế cở như vầy, với thêm mỏ than nữa.”
Lanser nói, giọng đanh lại, “Tôi không phản đối việc giết người nếu cần để giải quyết cuộc chiến, nhưng đôi lúc tránh được vẫn tốt hơn.”
Corell đưa mắt xem xét các viên sĩ quan. Hắn liếc nhìn hai viên thiếu úy, hắn nói, “Chúng ta có thể - có lẽ – bàn bạc riêng với nhau được không, ngài đại tá?”
“Ðược nếu ông muốn, thiếu úy Prackle và thiếu úy Tonder, hai anh hãy vào phòng mình.” Và đại tá nói với Corell, “Thiếu tá Hunter đang bận việc, ông ấy sẽ không nghe thấy gì trong lúc làm việc.” Hunter ngẩng lên nhìn và mỉm cười lặng lẽ rồi cúi xuống với cái bảng vẽ. Hai chàng thiếu úy trẻ rời khỏi phòng, sau đó Lanser nói, “Rồi, bây giờ chỉ còn chúng ta. Mời ông ngồi?”
“Cám ơn đại tá,” Corell ngồi xuống phía sau bàn.
Lanser nhìn miếng băng dán trên đầu ông Corell. Ông hỏi thẳng, “Bọn họ có ý muốn giết ông rồi sao?”
Corell lấy ngón tay sờ miếng băng, “Cái này? Ồ, hồi sáng này tôi bị một hòn đá trên bờ vực của sườn đồi rơi phải.”
“Ông chắc là không bị người ta ném chứ?”
“Ngài nói sao?” Corell hỏi. “Dân chúng ở đây không dữ như vậy. Ðã mấy trăm năm họ chưa từng có chiến tranh. Họ đã quên mất việc đánh nhau rồi.”
“Ðược, ông sống chung với họ,” Ðại tá nói. “Ông phải biết.” Ông bước tới gần Corell. “Nhưng nếu ông được an toàn, thì dân ở đây khác hẳn với dân các nơi khác trên thế giới. Tôi đã từng tham dự cuộc chiếm đóng ở Bỉ hai mươi năm về trước, và ở Pháp nữa.” Ông lắc đầu nhè nhẹ như muốn xóa nhòa trong kí ức việc đó đi, và ông nói, giọng khô khốc, “Ông đã hoàn thành công tác tốt. Chúng tôi cám ơn ông. Tôi đã nhắc đến công trạng của ông trong bản báo cáo.”
“Cám ơn ngài, thưa đại tá,” Corell nói. “Tôi đã cố gắng hết sức mình.”
Lanser nói, giọng hơi mệt nhọc, “Nào, thưa ông, chúng tôi cần phải làm gì? Ông có muốn trở lại thủ đô không? Chúng tôi có thể gởi ông theo xà lan chở than nếu ông gấp, hoặc có thể theo một chiếc khu trục hạm nếu ông muốn đợi.”
Corell nói, “Nhưng tôi không muốn quay về. Tôi muốn ở đây.”
Lanser ngẫm nghĩ một lát rồi nói, “Ông biết tôi không có được nhiều người lắm. Tôi không thể cấp cho ông một người bảo vệ thích đáng.”
“Nhưng tôi không cần đến bảo vệ. Tôi nói với ngài là dân ở đây không phải là những người thích bạo động.”
Lanser nhìn miếng băng một lúc. Hunter ngẩng đầu lên liếc nhìn và nhận xét, “Tốt hơn ông nên bắt đầu đội nón sắt.” Hắn lại cúi xuống với công việc.
Lanser xoay gót bước lại khung cửa sổ, nhìn ra ngoài, sau đó ông quay người lại lặng lẽ hỏi, “Ý ông là gì?”
“Là như vầy, ngài cần phải có một chính quyền dân sự đáng tin cậy. Tôi nghĩ Thị trưởng Orden bây giờ nên từ chức và – có thể, nếu tôi được thay thế chức vụ ông ấy, chính quyền và quân đội sẽ hợp tác rất tốt đẹp.”
Mắt Lanser dường như mở to và sáng lên. Ông đến gần Corell và nói với giọng gay gắt. “Ông ghi điều đó trong bản báo cáo của ông?”
Corell đáp, “Ồ, vâng, dĩ nhiên – trong phần phân tích tình hình.”
Lanser cắt ngang, “Ông đã có nói chuyện với ai trong thị trấn này kể từ khi chúng ta đến đây chưa – bên ngoài dinh thị trưởng?”
“Ồ, không. Ngài thấy đó, họ vẫn còn ngỡ ngàng. Họ không ngờ như vậy.” Corell cười nhẹ, “Không, thưa ngài, họ nhất định không ngờ được.”
Nhưng Lanser cố nhấn mạnh chủ điểm của mình. “Vậy ông thực sự không biết trong đầu họ đang nghĩ gì?”
“Sao, họ đang ngỡ ngàng,” Corell nói. “Họ − quả thực, họ hầu như vẫn còn đang hoang mang.”
“Ông không biết họ đang nghĩ gì về ông?” Lanser hỏi.
“Tôi có nhiều bạn bè ở đây, tôi biết mọi người.”
“Có ai mua sắm gì ở cửa hiệu của ông sáng nay không?”
“Ồ, dĩ nhiên công việc mua bán bị ngưng lại.” Corell trả lời, “Không ai mua sắm gì cả.”
Lanser đột nhiên có vẻ thư thái. Ông bước lại chiếc ghế, ngồi xuống, gác tréo chân. Ông nói, giọng trầm lặng, “Công tác của ông là một phần hành khó khăn và dũng cảm, đáng được trọng thưởng.”
“Cám ơn đại tá.”
“Ông sẽ bị dân chúng căm ghét trong tương lai,” Ðại tá nói.
“Tôi có thể chịu đựng được điều đó, thưa ngài. Họ là kẻ thù.”
Lanser lúc này ngập ngừng, một chặp lâu sau mới cất tiếng. Ông nói giọng nhẹ nhàng, “Ông sẽ không có cả sự tôn trọng từ phía chúng tôi.”
Corell đứng bật dậy phấn kích. “Ðiều này trái ngược với lời Ngài Lãnh tụ!” hắn nói. “Lãnh tụ từng nói rằng tất cả các ngành phục vụ trong quân đội đều đáng tôn vinh như nhau.”
Lanser nói tiếp, giọng hết sức trầm lặng. “Tôi hi vọng Ngài Lãnh tụ hiểu. Tôi mong ông ta có thể đọc được những gì trong đầu của binh sĩ.” Rồi gần như có vẻ trắc ẩn ông nói, “Ông đáng được trọng thưởng.” Ông ngồi yên lặng một lát rồi chồm thẳng người tới trước. Ông nói, “Bây giờ chúng ta cần phải phân định rõ. Tôi chỉ huy ở đây. Công việc của tôi là khai thác than đá. Ðể làm được chuyện đó tôi phải duy trì trật tự và kỉ luật. Và cũng vì lý do đó tôi cần phải biết dân chúng đang nghĩ gì. Tôi phải liệu trước được cuộc nổi dậy. Ông có hiểu không?”
“Vâng, tôi có thể dò tìm ra được điều ngài muốn biết, thưa ngài. Nếu tôi là thị trưởng ở đây, tôi sẽ làm việc có hiệu quả hơn,” Corell nói.
Lanser lắc đầu. “Tôi không được lệnh về việc đó. Tôi phải vận dụng những nhận định của chính mình. Tôi nghĩ ông sẽ không bao giờ hiểu được những gì đang xảy ra ở đây. Sẽ không có ai nói chuyện với ông; không có ai đến gần ông ngoại trừ những ai muốn sống trên đồng tiền và những ai có khả năng sống trên đồng tiền. Tôi nghĩ nếu không có người bảo vệ ông sẽ rơi vào tình trạng rất nguy hiểm. Tôi rất vui lòng nếu ông trở lại thủ đô, ở đó ông sẽ được tưởng thưởng về công trạng tốt đẹp của ông.”
“Nhưng vị trí của tôi là ở đây, thưa ngài,” Corell nói. “Tôi đã xác định vị trí của mình. Tất cả đã được đề cập đến trong bản báo cáo của tôi.”
Lanser nói tiếp dường như ông không nghe thấy Corell. “Thị trưởng Orden không chỉ là một thị trưởng,” ông nói. “Ông ta là người của dân chúng. Ông biết họ nghĩ gì, làm gì, mà không cần phải nêu câu hỏi. Vì ông ta sẵn lòng suy nghĩ những gì họ suy nghĩ. Khi tôi theo dõi ông ta tôi sẽ hiểu được dân chúng. Ông ta phải ở lại. Ðó là nhận định của tôi.”
Corell nói, “Thành quả của tôi, thưa ngài, xứng đáng được đối đãi tốt hơn thay vì bị đuổi đi.”
“Phải, đúng vậy,” Lanser trả lời chậm rãi. “Nhưng đối với công tác to lớn hơn, tôi nghĩ lúc này ông chỉ là gây hại mà thôi. Nếu bây giờ ông chưa bị người ta căm ghét, thì rồi ông sẽ bị. Chỉ cần một cuộc nổi loạn nhỏ ông sẽ là người đầu tiên bị giết. Theo tôi, tôi đề nghị ông nên quay trở về.”
Corell nói, bướng bỉnh, “Dĩ nhiên ngài sẽ cho phép tôi chờ cho đến khi có trả lời về bản báo cáo của tôi từ thủ đô chứ?”
“Vâng, dĩ nhiên. Nhưng tôi khuyên ông nên quay trở về để được an toàn. Nói thực, ông Corell, ông không có giá trị gì ở đây nữa. Nhưng – vâng, chắc hẳn sẽ có kế hoạch khác, ở đất nước khác. Có lẽ rồi đây ông sẽ đi đến một thị trấn mới ở một đất nước mới. Ông sẽ đạt được lòng tin ở lĩnh vực mới. Ông sẽ được trao cho một thị trấn lớn hơn, kể cả một thành phố, và một trách nhiện to lớn hơn. Tôi sẽ hết lòng tiến cử ông vì công trạng ông ở đây.”
Mắt Corell sáng lên với vẻ biết ơn. “Cám ơn ngài, đại tá,” hắn nói. “Tôi đã làm việc khó nhọc. Có lẽ ngài đúng. Nhưng ngài cho phép tôi được chờ câu trả lời từ thủ đô.”
Giọng Lanser trở nên căng thẳng, mắt ông nheo lại. Ông nói gay gắt. “Ðội nón sắt, ở trong nhà, đừng ra ngoài ban đêm, và, trên hết không được uống rượu. Ðừng tin tưởng đàn bà hay bất kì người đàn ông nào. Ông hiểu không?”
Corell nhìn đại tá với vẻ thương hại. “Tôi nghĩ ngài không hiểu. Tôi có một ngôi nhà nhỏ, một cô hầu gái nhà quê. Tôi còn nghĩ cô ấy thích tôi. Dân chúng ở đây chất phác, hiền hoà. Tôi biết họ.”
Laser nói, “Không có dân chúng nào hiền hòa cả. Ông học được điều đó lúc nào vậy. Không có dân chúng thân thiện. Ông có hiểu không? Chúng tôi xâm chiếm đất nước này – ông đã dọn đường cho chúng tôi và bọn họ gọi ông là kẻ phản bội.” Gương mặt ông đỏ bừng, ông cất cao giọng, “Sao ông không hiểu là chúng ta đang có chiến tranh với họ.”
Corell nói, giọng tự mãn, “Chúng ta đã thắng họ.”
Ðại tá đứng dậy, vung tay lên dáng thất vọng, Hunter ngẩng lên nhìn, đưa tay giữ cái bảng vẽ đang lắc lư. Hunter nói, “Cẩn thận, thưa đại tá. Tôi đang tô mực. Tôi không muốn phải làm lại từ đầu.”
Lanser nhìn xuống Hunter và nói, “Xin lỗi,” ông nói tiếp giống như đang giảng bài trước lớp học. Ông nói, “Chiến thắng chỉ là sự kiện xảy ra chốc lát. Chiến thắng không kéo dài. Chúng ta đã chiến thắng và bây giờ chúng ta đang bị tấn công. Chiến thắng không có ý nghĩa gì hết. Ông có hiểu không? Ông có biết người ta đang nói nhỏ với nhau những gì sau cửa không?”
Corell hỏi, “Ngài có biết không?”
“Không, nhưng tôi nghi ngờ.”
Corell nói bóng gió xa gần, “Ngài sợ chăng, thưa đại tá. Vị tư lệnh của một đội quân chiếm đóng có nên sợ hãi chăng?”
Lanser nặng nề ngồi xuống ghế và nói, “Có thể là vậy.” Và ông nói tiếp, giọng chán ghét. “Tôi chán những người chưa từng chiến đấu nhưng lại rành hết chuyện chiến tranh.” Ông tựa cằm vào tay và nói, “Tôi nhớ một mụ già ở Bỉ − khuôn mặt hiền hậu, tóc bạc trắng; mụ ta chỉ cao thước rưỡi; bàn tay mảnh dẻ. Ông có thể thấy được đường gân máu hơi sẩm đen trên làn da của mụ. Mụ quấn khăn san đen, mái tóc trắng xanh. Mụ hay hát những bài ca yêu nước cho chúng tôi nghe, giọng mụ ngọt ngào rung cảm. Mụ luôn biết được nơi nào có thể kiếm được gái tơ và thuốc lá.” Ông bỏ tay xuống khỏi cằm, giật mình như vừa sực tỉnh một cơn mê. “Chúng tôi không biết con trai bà ta đã bị xử quyết,” ông nói. “Cuối cùng chúng tôi bắn mụ, cho đến lúc ấy mụ đã giết chết mười hai người bằng cây trâm cài nón dài, màu đen. Tôi còn giữ cây trâm đó ở nhà. Nó có một hạt nút cườm đính một con chim trên đó, màu xanh và đỏ.”
Corell nói, “Và ngài bắn mụ ta?”
“Dĩ nhiên, chúng tôi bắn mụ.”
“Và những vụ giết chóc bị chặn đứng?” Corell hỏi.
“Không, những vụ giết chóc vẫn không bị chặn đứng. Và cho đến lúc cuối khi chúng tôi rút lui, dân chúng chặn những người lính đi lạc hàng, những nguời ấy một số bị đốt, một số bị móc mắt, có người còn bị đóng đinh trên thập giá.”
Corell nói lớn, “Những chuyện này nói đến không tốt, thưa ngài.”
“Những chuyện này nhớ đến cũng không tốt,” Lanser nói.
Corel nói, “Ngài là vị chỉ huy, ngài không nên sợ hãi.”
Lanser nhẹ giọng trả lời, “Tôi biết phương thức chiến đấu, ông thấy đó. Trong chiến tranh nếu ông biết, ông sẽ không phạm những sai lầm ngu xuẩn.”
“Ông có từng nói như thế đối với các sĩ quan trẻ của ông?”
Lanser lắc đầu, “Không, họ không tin tôi.”
“Vậy sao ông nói với tôi?”
“Bởi vì, Ông Corell, công tác của ông đã chấm dứt. Tôi nhớ có một lần...” ngay lúc ông nói có tiếng chân vấp ở cầu thang và cánh cửa bật mở. Một người lính gác nhìn vào, đại úy Loft đi lướt qua. Loft trông nghiêm ngặt, lạnh lùng và khuôn khổ; hắn nói, “Có chuyện rắc rối, thưa đại tá.”
“Rắc rối?”
“Tôi xin báo cáo, thưa đại tá, rằng đại úy Bentick đã bị sát hại.”
Lanser nói, “Ồ... hả... Bentick!”
Có nhiều tiếng chân bước lên cầu thang, hai người khiêng băng ca vào, trên băng ca một hình người phủ chăn.
Lanser nói, “Anh có chắc là anh ta chết?”
“Hoàn toàn chắc,” Loft nói, giọng khô khốc.
Hai viên thiếu úy từ phòng ngủ bước ra, miệng họ hơi há ra, khuôn mặt trông có vẻ sợ hãi. Lanser nói, “Ðặt anh ta xuống ở đằng kia,” ông chỉ đến khoảng tường bên cạnh cửa sổ. Lúc hai người khiêng băng ca đi rồi, Lanser quỳ xuống nâng một góc tấm chăn lên và đặt ngay xuống lại. Và vẫn còn quỳ, ông nhìn qua Loft, ông nói, “Ai làm vậy?”
“Một người thợ mỏ,” Loft nói.
“Tại sao?”
“Tôi có ở đó, thưa đại tá.”
“Ðược, vậy báo cáo đi! Báo cáo đi, chuyện quỷ quái gì hả!”
Loft đứng thẳng người và nói nghiêm túc. “Tôi vừa mới đến thay thế đại úy Bentick, theo lệnh của đại tá. Lúc đại úy Bentick sắp sửa quay ra để trở về đây thì tôi gặp rắc rối với một thợ mỏ bất tuân lệnh, hắn ta muốn bỏ việc. Hắn la lối gì đó về chuyện làm một người tự do. Khi tôi ra lệnh hắn đi làm việc, hắn xông tới tôi với cái cuốc chim. Ðại úy Bentick cố can thiệp.” Hắn làm một cử động hơi hướng về phía các xác.
Lanser, vẫn còn quì, gật đầu. “Bentick là một người kì dị,” ông nói. “Anh ta thích người Anh, thích mọi thứ về họ.Tôi nghĩ anh ta không thích đánh nhau cho lắm... Anh bắt giữ nguời kia chứ?”
“Vâng, thưa đại tá.” Loft nói.
Lanser chậm chạp đứng dậy, nói như với chính mình. “Vậy là nó lại bắt đầu. Chúng ta bắn người này và sẽ có hai chục kẻ thù mới.”
Prackle nói, “Thưa đại tá, ông nói gì?”
Lanser trả lời, “Không, không có gì cả. Tôi đang suy nghĩ thôi.” Ông quay sang Loft và nói, “Làm ơn gửi lời chúc của tôi đến Thị trưởng Orden và thỉnh cầu ông ấy đến gặp tôi ngay. Việc này rất quan trọng.”
Thiếu tá Hunter ngước lên nhìn, lau khô cây viết mực cẩn thận, đặt nó vào trong chiếc hộp bọc nhung.
Tác giả :
John Steinbeck