Tình Nhân
Chương 9
Cô nhớ rằng chỉ cần vừa đi qua cổng Dachau, cô đã cảm thấy không được phép nói, vì tất cả những linh hồn kia vẫn quanh quất đâu đây. Lúc nào cô cũng run vì sợ và cảm giác có lỗi. Cô. Mười tám tuổi. Và Jakob lúc đó không để ý đến cặp mắt mở to đầy sợ hãi của cô, đứng trước cô và kể về những đứa trẻ và những thiếu niên bị chết ngạt ở Dachau. Anh đọc cho cô nghe con số và ngày tháng. Cuối cùng anh nói rằng linh hồn những thiếu nữ và những cậu thiếu niên bị chết vì hơi ngạt đó chắc chắn không bao giờ già. Anh nói chính xác như vậy. Rằng chúng luôn trẻ và rằng tối hôm ấy chúng gặp nhau ở đâu đó sau những ngôi nhà lụp xụp hoặc cạnh lò thiêu xác và nói với nhau đầy tự hào rằng: “Các bạn hãy nghe đây, hôm nay Madona đã đến chỗ chúng ta. Madona...”.
Tôi tên là Matylda.
Cái gì Jakob cũng biết. Về những vì sao, những đầu cảm biến, hóa học, cầu chì và tâm lý bạn gái đang trưởng thành. Nhưng tốt nhất vẫn là về giấc ngủ. Cho dù từ mười sáu năm nay anh chỉ ngủ vào ban ngày, nhưng anh biết hầu như tất cả về giấc ngủ ban đêm. Cả về điều này, rằng Giấc Ngủ là chị em của Cái Chết. Thỉnh thoảng, hồi tôi còn trẻ, anh kể cho tôi nghe về điều đó. Anh tắt đèn, thắp nến và đọc cho tôi nghe thơ của Ovid về Giấc Ngủ được phản chiếu trong chiếc gương có Cái Chết đứng ở đằng sau. Khi ấy là tự tôi bảo anh kể. Còn tự anh thì không bao giờ, tuyệt đối không bao giờ làm điều đó. Nhưng bác sĩ tâm lý trị liệu của tôi, người mới chuyển từ Tây Âu về Rostock đã cho rằng tôi “phải trải qua một cuộc thử thách nghịch lý”. Khi tôi nói lại điều này với Jakob, anh rất bực mình và bắt đầu nguyền rủa bằng thổ ngữ vùng miền nam nước Đức. Jakob chỉ nói bằng thổ ngữ này khi nào anh mất tự chủ. Hôm sau, anh không đi làm ở nhà dưỡng lão, mà đến chỗ bà bác sĩ tâm lý trị liệu kia và chờ ở phòng chờ bốn tiếng, để nói với bà ấy rằng bà ấy là một người “cực kỳ ngu xuẩn, ngạo mạn như hầu hết những dân Tây Âu huyênh hoang và thêm vào đó còn vô cùng tàn nhẫn”. Bà ta nghe anh nói hết, sau đó thì anh ở lại đó hai tiếng. Anh về nhà thay đổi hẳn và mấy đêm sau đó bắt đầu đọc cho tôi nghe Ovid. Thỉnh thoảng anh còn đến thư viện của trường đại học tổng hợp và thay vì Ovid, anh mang về những truyện cổ tích Đức. Trong đó có cả Giấc Ngủ và Cái Chết là hai chị em.
Chưa bao giờ Jakob đến nhà tôi mà lại không có hai túi đầy cầu chì. Lần cuối anh còn mang đến cả hai chiếc điện thoại di động.
Bao giờ cũng hai cái. Vì Jakob là người rất cẩn thận.
Anh còn lắp đặt dưới tầng hầm một trạm biến thế. Suốt hai tháng anh chở đến những bộ phận gì đó, anh treo lên tường những bản sơ đồ và chăm chú nghiên cứu. Sau nhiều đêm không ngủ, anh ở lại và tự nhốt mình dưới đó để lắp ráp. Để “dự phòng”, nhỡ đâu họ cắt điện hai lần. Một lần ở khu và một lần ở trạm biến thế của chúng tôi. Bởi sau hai năm xin xỏ của Jakob, thành phố đã đồng ý để anh lắp cho chúng tôi một trạm biến thế đặc biệt. Nhưng như vậy rồi, Jakob vẫn chưa tin. Kể cả thành phố, kể cả trạm của mình.
Đơn giản là Jakob muốn đảm bảo chắc chắn rằng chúng tôi thức dậy cùng nhau.
Hai người. Và rằng những truyện cổ tích của Ovid và cổ tích Đức mà hồi nào anh đã đọc cho tôi nghe, chỉ là truyện cổ tích. Bởi bao giờ cả hai chúng tôi cũng cùng thức dậy.
Rất nhiều khi chúng tôi hoàn toàn không ngủ, mà chỉ kể cho nhau nghe đủ các thứ chuyện. Thỉnh thoảng, theo yêu cầu của tôi, anh kể về một ngày của anh và các ông, bà, các cụ của anh ở nhà dưỡng lão. Những người ở các khu chung cư – Jakob nói – khổ hơn nhiều, kể cả khi họ có ba phòng, vô tuyến màu, người giúp việc, giường nâng hạ bằng điện và phòng tắm có tay vịn. Họ cô đơn. Cô đơn vô cùng. Họ bị những đứa con suốt ngày bận bịu công việc và sự nghiệp bỏ rơi, thậm chí không có cả thời gian để đẻ và nuôi dạy những đứa cháu, những đứa có thể thỉnh thoảng vào thăm ông bà và xua đuổi giúp họ bớt nỗi cô đơn. Ở trong nhà dưỡng lão cũng không có những đứa cháu, nhưng lúc nào cũng có thể cãi nhau, và khi đó người ta không cô đơn.
Thỉnh thoảng Jakob kể về những chuyện không thể tin được về các ông bà của mình. Có lần anh nói rằng có lẽ Chúa đã nhầm khi sắp đặt mọi thứ ngược chiều thời gian. Theo anh, con người phải được sinh ra ngay trước cái chết và sống cho đến lúc thụ thai. Theo chiều ngược lại. Bởi anh cho rằng quá trình chết đi, về mặt sinh học cũng mạnh mẽ chẳng khác gì cuộc sống. Do đó cái chết không có gì khác với sự ra đời. Và do đó con người, về mặt lý thuyết, có thể được sinh ra trước cái chết chỉ vài miligiây. Khi đó, ngay khi bắt đầu cuộc sống, họ đã có sẵn trí thông minh, kinh nghiệm và cùng với tuổi tác là toàn bộ lý trí và sự yên tĩnh. Họ đã phạm mọi sai lầm, phản bội và nhầm lẫn của cuộc đời. Họ đã có tất cả những vết sẹo và nếp nhăn, và tất cả những kỷ niệm, và họ sống theo chiều ngược lại. Da của họ ngày một mịn màng hơn, mỗi ngày lại nảy sinh trong họ trí tò mò hơn, tóc ngày một ít bạc hơn, mắt ngày càng sáng hơn và tim ngày một khỏe hơn và cởi mở hơn để đón nhận những cú sốc mới cũng như tình yêu mới. Và cuối cùng, ở đầu tận cùng bên kia, tức là sự khởi đầu, họ biến mất khỏi thế giới này không buồn, không đau, không thất vọng, nhưng lại trong trạng thái ngây ngất của sự thụ thai.
Nghĩa là trong tình yêu.
Những chuyện tưởng tượng ấy, Jakob của tôi đã kể cho tôi nghe những khi tôi không ngủ được.
Tôi có thể nói với Jakob về tất cả. Chúng tôi cùng trò chuyện với nhau về mọi thứ. Có lần tôi ở trong một tâm trạng như thế nào đấy và chúng tôi đã nói chuyện về bố mẹ tôi. Đó là cái buổi tối khi mẹ bảo là tôi sẽ có em cùng mẹ khác bố. Tôi đã nói với anh rằng tôi không thể tưởng tượng nổi là mẹ tôi lại có lúc phát điên lên vì yêu người đàn ông đã là bố tôi. Rằng thậm chí bà có thể yêu ông ngay trên thảm. Và cũng có thể ở ngoài bãi cỏ. Và rằng bà đã thề thốt với ông là bà sẽ ở bên ông mãi mãi. Và rằng họ sẽ luôn luôn cùng đi dạo, tay trong tay. Và rằng sau đấy, sau tất cả những cái đó, ông có thể quát tháo bà như vậy, khi bà ngồi rúm ró trên cái ghế gỗ nhỏ cạnh tủ lạnh trong bếp.
Và đêm ấy Jakob bảo tôi rằng vì ông ta bị què.
Jakob là một nhà vật lý thiên văn. Anh biết rất rõ các vì sao được sinh ra như thế nào, chúng nở ra và nổ tung như thế nào, chúng biến thành các sao siêu mới hoặc trở thành các pulsar ra sao. Anh còn biết cả chúng chết đi, co lại thành các lỗ đen khủng khiếp và nguy hiểm đối với các dải thiên hà ra sao. Jakob biết hết về những điều đó. Anh có thể nhắm mắt mà vẫn kể được tên các tinh vân, tên và mã số các ngôi sao quan trọng và khoảng cách tính bằng năm ánh sáng đến những ngôi sao đẹp nhất hoặc quan trọng nhất. Và anh kể về điều đó hay đến nỗi khiến tôi như bị ngạt thở. Và nếu như anh có mất tự chủ, thì có nghĩa là với những câu chuyện ấy, anh phấn khích đến mức không biết rằng mình đang nói bằng cái thổ ngữ rất buồn cười của mình. Sao siêu mới và pulsar bằng thổ ngữ của vùng Saksonia hạ!
Jakob nghiên cứu những vì sao của anh trong trường đại học ởRostock. Anh đến đài quan sát trên dốc cạnh Baltic và ngày đêm quan sát bầu trời qua kính thiên văn và kính viễn vọng vô tuyến, sau đó anh viết các bài báo và làm luận văn tiến sĩ về thiên văn. Anh không thể chấp nhận việc mình không thể đến Arecibo để xem chiếc kính viễn vọng vô tuyến lớn nhất thế giới ấy, đến dự các hội nghị ở Mỹ, thậm chí chỉ ở Pháp. Anh cũng không thể chấp nhận cả việc ở viện của anh không có máy sao chụp và rằng trong các buổi seminar vào thứ năm hàng tuần, họ chỉ nói về FDJ(12) và về hệ tư tưởng, thay vì nói về thiên văn học. Do đó anh đã đồng ý để đám bạn cùng hội Tin lành lắp đặt một trạm phát nhỏ trong hệ thống điện tử của đài quan sát và thỉnh thoảng gây nhiễu ở mức độ rất yếu cho những chương trình địa phương về “NRD tự do”.
Một kiểu phản đối trẻ con buồn cười, vớ vẩn, và chẳng hại gì đến ai như vậy đấy. Không một ai có thể nghĩ rằng lại có trạm phát trong đài quan sát. Vì rằng họ phát đi những tín hiệu mạnh đến nỗi những người giám sát sóng của STASI không bao giờ tách những tín hiệu của họ ra khỏi tín hiệu nghiên cứu.
Song, chúng đã tách. Chính xác là ngày hai mốt tháng Mười một. Trong ngày Lễ Tạ Ơn, một trong những lễ quan trọng nhất của đạo Tin lành. Chúng vào đài quan sát ngay sau mười chín giờ. Chúng đánh bác bảo vệ đã bảy mươi tuổi, trói tất cả bằng còng tay, dỡ bình cứu hỏa xuống và phá hủy tất cả những gì có trên màn hình. Monitơ thì bị đập bằng cái bình cứu hỏa màu đỏ, hết cái này đến cái khác nổ tung. Chúng lôi băng từ ghi các số đo từ các bộ đọc ra, chúng kéo những băng ghi dữ liệu giống như kéo những dải giấy trang trí giao thừa. Luận văn tiến sĩ, chương trình, những bản tham luận, những bài báo, những năm tháng lao động và toàn bộ tương lai của bao nhiêu người bị chúng kéo từ những máy đọc ra như kéo những băng giấy màu rồi xé vụn.
Sau đó chúng đưa tất cả những người bị xích bằng còng tay xuống phòng giam dưới tầng hầm cạnh tháp trung tâm Rostock. Bác bảo vệ thì chúng thả sau bốn mươi tám giờ, khi bác đã kiệt sức và đằng nào cũng phải đưa bác đi bệnh viện. Ba ngày sau chúng mới thả giám đốc đài quan sát, một người bị bệnh tiểu đường vì đã hết insulin. Những người còn lại bị chúng giam hai tuần. Không có lệnh bắt giữ, không được phép liên hệ với luật sư, không được gọi điện cho vợ hoặc mẹ. Tròn hai tuần.
Tôi tên là Matylda.
Cái gì Jakob cũng biết. Về những vì sao, những đầu cảm biến, hóa học, cầu chì và tâm lý bạn gái đang trưởng thành. Nhưng tốt nhất vẫn là về giấc ngủ. Cho dù từ mười sáu năm nay anh chỉ ngủ vào ban ngày, nhưng anh biết hầu như tất cả về giấc ngủ ban đêm. Cả về điều này, rằng Giấc Ngủ là chị em của Cái Chết. Thỉnh thoảng, hồi tôi còn trẻ, anh kể cho tôi nghe về điều đó. Anh tắt đèn, thắp nến và đọc cho tôi nghe thơ của Ovid về Giấc Ngủ được phản chiếu trong chiếc gương có Cái Chết đứng ở đằng sau. Khi ấy là tự tôi bảo anh kể. Còn tự anh thì không bao giờ, tuyệt đối không bao giờ làm điều đó. Nhưng bác sĩ tâm lý trị liệu của tôi, người mới chuyển từ Tây Âu về Rostock đã cho rằng tôi “phải trải qua một cuộc thử thách nghịch lý”. Khi tôi nói lại điều này với Jakob, anh rất bực mình và bắt đầu nguyền rủa bằng thổ ngữ vùng miền nam nước Đức. Jakob chỉ nói bằng thổ ngữ này khi nào anh mất tự chủ. Hôm sau, anh không đi làm ở nhà dưỡng lão, mà đến chỗ bà bác sĩ tâm lý trị liệu kia và chờ ở phòng chờ bốn tiếng, để nói với bà ấy rằng bà ấy là một người “cực kỳ ngu xuẩn, ngạo mạn như hầu hết những dân Tây Âu huyênh hoang và thêm vào đó còn vô cùng tàn nhẫn”. Bà ta nghe anh nói hết, sau đó thì anh ở lại đó hai tiếng. Anh về nhà thay đổi hẳn và mấy đêm sau đó bắt đầu đọc cho tôi nghe Ovid. Thỉnh thoảng anh còn đến thư viện của trường đại học tổng hợp và thay vì Ovid, anh mang về những truyện cổ tích Đức. Trong đó có cả Giấc Ngủ và Cái Chết là hai chị em.
Chưa bao giờ Jakob đến nhà tôi mà lại không có hai túi đầy cầu chì. Lần cuối anh còn mang đến cả hai chiếc điện thoại di động.
Bao giờ cũng hai cái. Vì Jakob là người rất cẩn thận.
Anh còn lắp đặt dưới tầng hầm một trạm biến thế. Suốt hai tháng anh chở đến những bộ phận gì đó, anh treo lên tường những bản sơ đồ và chăm chú nghiên cứu. Sau nhiều đêm không ngủ, anh ở lại và tự nhốt mình dưới đó để lắp ráp. Để “dự phòng”, nhỡ đâu họ cắt điện hai lần. Một lần ở khu và một lần ở trạm biến thế của chúng tôi. Bởi sau hai năm xin xỏ của Jakob, thành phố đã đồng ý để anh lắp cho chúng tôi một trạm biến thế đặc biệt. Nhưng như vậy rồi, Jakob vẫn chưa tin. Kể cả thành phố, kể cả trạm của mình.
Đơn giản là Jakob muốn đảm bảo chắc chắn rằng chúng tôi thức dậy cùng nhau.
Hai người. Và rằng những truyện cổ tích của Ovid và cổ tích Đức mà hồi nào anh đã đọc cho tôi nghe, chỉ là truyện cổ tích. Bởi bao giờ cả hai chúng tôi cũng cùng thức dậy.
Rất nhiều khi chúng tôi hoàn toàn không ngủ, mà chỉ kể cho nhau nghe đủ các thứ chuyện. Thỉnh thoảng, theo yêu cầu của tôi, anh kể về một ngày của anh và các ông, bà, các cụ của anh ở nhà dưỡng lão. Những người ở các khu chung cư – Jakob nói – khổ hơn nhiều, kể cả khi họ có ba phòng, vô tuyến màu, người giúp việc, giường nâng hạ bằng điện và phòng tắm có tay vịn. Họ cô đơn. Cô đơn vô cùng. Họ bị những đứa con suốt ngày bận bịu công việc và sự nghiệp bỏ rơi, thậm chí không có cả thời gian để đẻ và nuôi dạy những đứa cháu, những đứa có thể thỉnh thoảng vào thăm ông bà và xua đuổi giúp họ bớt nỗi cô đơn. Ở trong nhà dưỡng lão cũng không có những đứa cháu, nhưng lúc nào cũng có thể cãi nhau, và khi đó người ta không cô đơn.
Thỉnh thoảng Jakob kể về những chuyện không thể tin được về các ông bà của mình. Có lần anh nói rằng có lẽ Chúa đã nhầm khi sắp đặt mọi thứ ngược chiều thời gian. Theo anh, con người phải được sinh ra ngay trước cái chết và sống cho đến lúc thụ thai. Theo chiều ngược lại. Bởi anh cho rằng quá trình chết đi, về mặt sinh học cũng mạnh mẽ chẳng khác gì cuộc sống. Do đó cái chết không có gì khác với sự ra đời. Và do đó con người, về mặt lý thuyết, có thể được sinh ra trước cái chết chỉ vài miligiây. Khi đó, ngay khi bắt đầu cuộc sống, họ đã có sẵn trí thông minh, kinh nghiệm và cùng với tuổi tác là toàn bộ lý trí và sự yên tĩnh. Họ đã phạm mọi sai lầm, phản bội và nhầm lẫn của cuộc đời. Họ đã có tất cả những vết sẹo và nếp nhăn, và tất cả những kỷ niệm, và họ sống theo chiều ngược lại. Da của họ ngày một mịn màng hơn, mỗi ngày lại nảy sinh trong họ trí tò mò hơn, tóc ngày một ít bạc hơn, mắt ngày càng sáng hơn và tim ngày một khỏe hơn và cởi mở hơn để đón nhận những cú sốc mới cũng như tình yêu mới. Và cuối cùng, ở đầu tận cùng bên kia, tức là sự khởi đầu, họ biến mất khỏi thế giới này không buồn, không đau, không thất vọng, nhưng lại trong trạng thái ngây ngất của sự thụ thai.
Nghĩa là trong tình yêu.
Những chuyện tưởng tượng ấy, Jakob của tôi đã kể cho tôi nghe những khi tôi không ngủ được.
Tôi có thể nói với Jakob về tất cả. Chúng tôi cùng trò chuyện với nhau về mọi thứ. Có lần tôi ở trong một tâm trạng như thế nào đấy và chúng tôi đã nói chuyện về bố mẹ tôi. Đó là cái buổi tối khi mẹ bảo là tôi sẽ có em cùng mẹ khác bố. Tôi đã nói với anh rằng tôi không thể tưởng tượng nổi là mẹ tôi lại có lúc phát điên lên vì yêu người đàn ông đã là bố tôi. Rằng thậm chí bà có thể yêu ông ngay trên thảm. Và cũng có thể ở ngoài bãi cỏ. Và rằng bà đã thề thốt với ông là bà sẽ ở bên ông mãi mãi. Và rằng họ sẽ luôn luôn cùng đi dạo, tay trong tay. Và rằng sau đấy, sau tất cả những cái đó, ông có thể quát tháo bà như vậy, khi bà ngồi rúm ró trên cái ghế gỗ nhỏ cạnh tủ lạnh trong bếp.
Và đêm ấy Jakob bảo tôi rằng vì ông ta bị què.
Jakob là một nhà vật lý thiên văn. Anh biết rất rõ các vì sao được sinh ra như thế nào, chúng nở ra và nổ tung như thế nào, chúng biến thành các sao siêu mới hoặc trở thành các pulsar ra sao. Anh còn biết cả chúng chết đi, co lại thành các lỗ đen khủng khiếp và nguy hiểm đối với các dải thiên hà ra sao. Jakob biết hết về những điều đó. Anh có thể nhắm mắt mà vẫn kể được tên các tinh vân, tên và mã số các ngôi sao quan trọng và khoảng cách tính bằng năm ánh sáng đến những ngôi sao đẹp nhất hoặc quan trọng nhất. Và anh kể về điều đó hay đến nỗi khiến tôi như bị ngạt thở. Và nếu như anh có mất tự chủ, thì có nghĩa là với những câu chuyện ấy, anh phấn khích đến mức không biết rằng mình đang nói bằng cái thổ ngữ rất buồn cười của mình. Sao siêu mới và pulsar bằng thổ ngữ của vùng Saksonia hạ!
Jakob nghiên cứu những vì sao của anh trong trường đại học ởRostock. Anh đến đài quan sát trên dốc cạnh Baltic và ngày đêm quan sát bầu trời qua kính thiên văn và kính viễn vọng vô tuyến, sau đó anh viết các bài báo và làm luận văn tiến sĩ về thiên văn. Anh không thể chấp nhận việc mình không thể đến Arecibo để xem chiếc kính viễn vọng vô tuyến lớn nhất thế giới ấy, đến dự các hội nghị ở Mỹ, thậm chí chỉ ở Pháp. Anh cũng không thể chấp nhận cả việc ở viện của anh không có máy sao chụp và rằng trong các buổi seminar vào thứ năm hàng tuần, họ chỉ nói về FDJ(12) và về hệ tư tưởng, thay vì nói về thiên văn học. Do đó anh đã đồng ý để đám bạn cùng hội Tin lành lắp đặt một trạm phát nhỏ trong hệ thống điện tử của đài quan sát và thỉnh thoảng gây nhiễu ở mức độ rất yếu cho những chương trình địa phương về “NRD tự do”.
Một kiểu phản đối trẻ con buồn cười, vớ vẩn, và chẳng hại gì đến ai như vậy đấy. Không một ai có thể nghĩ rằng lại có trạm phát trong đài quan sát. Vì rằng họ phát đi những tín hiệu mạnh đến nỗi những người giám sát sóng của STASI không bao giờ tách những tín hiệu của họ ra khỏi tín hiệu nghiên cứu.
Song, chúng đã tách. Chính xác là ngày hai mốt tháng Mười một. Trong ngày Lễ Tạ Ơn, một trong những lễ quan trọng nhất của đạo Tin lành. Chúng vào đài quan sát ngay sau mười chín giờ. Chúng đánh bác bảo vệ đã bảy mươi tuổi, trói tất cả bằng còng tay, dỡ bình cứu hỏa xuống và phá hủy tất cả những gì có trên màn hình. Monitơ thì bị đập bằng cái bình cứu hỏa màu đỏ, hết cái này đến cái khác nổ tung. Chúng lôi băng từ ghi các số đo từ các bộ đọc ra, chúng kéo những băng ghi dữ liệu giống như kéo những dải giấy trang trí giao thừa. Luận văn tiến sĩ, chương trình, những bản tham luận, những bài báo, những năm tháng lao động và toàn bộ tương lai của bao nhiêu người bị chúng kéo từ những máy đọc ra như kéo những băng giấy màu rồi xé vụn.
Sau đó chúng đưa tất cả những người bị xích bằng còng tay xuống phòng giam dưới tầng hầm cạnh tháp trung tâm Rostock. Bác bảo vệ thì chúng thả sau bốn mươi tám giờ, khi bác đã kiệt sức và đằng nào cũng phải đưa bác đi bệnh viện. Ba ngày sau chúng mới thả giám đốc đài quan sát, một người bị bệnh tiểu đường vì đã hết insulin. Những người còn lại bị chúng giam hai tuần. Không có lệnh bắt giữ, không được phép liên hệ với luật sư, không được gọi điện cho vợ hoặc mẹ. Tròn hai tuần.
Tác giả :
Janusz Leon Wiśniewski