Tinh Hà Rực Rỡ, May Mắn Thay
Quyển 4 Chương 137
Khi tiểu hoàng môn tuyên triệu hai người vào điện, Thiếu Thương đã lấy lại bình tĩnh, lau sạch nước mắt, ngoài hốc mắt ửng đỏ thì không có điểm bất ổn, nhưng đối với một tiểu nữ có vị hôn phu vừa làm ra chuyện tày trời thì đấy cũng là chuyện bình thường.
Tam hoàng tử thần kỳ phát hiện cô gái này như biến thành người khác, rất cung kính nhún nhường hành lễ với Hoàng đế và chư thần, thậm chí giọng nói còn lộ vẻ sợ hãi – cứ như thể kẻ vừa đập vỡ ngọc mắng hoàng tử ở ngoài điện ban nãy không phải là nàng.
Những đĩa dầu treo cao trên đỉnh vòm, cứ ba bước lại có một ngọn đèn mười hai nhánh cao ngang người, cả đại điện sáng như ban ngày. Từ trên ngai vàng trở xuống, hai bên trái phải là khoảng hai mươi vị đại thần ngồi theo thứ tự quan trật, Thiếu Thương đã gặp hầu hết bọn họ, một phần ba trong số họ là những gương mặt quen thuộc. Hoàng đế ngồi trên ghế ngự nổi giận lôi đình, bên trái là Thôi Hầu đang kéo tay ông khóc lóc cầu xin.
Thiếu Thương nghĩ trong đầu, Hoàng đế quả là niềm tình với Lăng Bất Nghi, chỉ tuyên gặp những người này, lại còn là những tâm phúc biết hiểu chuyện; nếu tổ chức đại triều hội, một khi quần thần hô to như núi như biển ‘xin bệ hạ xử lý Lăng Bất Nghi theo đúng quốc pháp’ thì càng khó thoái lui.
“Bệ hạ, dù thằng bé phạm phải tội tày trời, nhưng xin bệ hạ nương tình nhẹ tay…” Khi Thiếu Thương và Tam hoàng tử vào điện, bọn họ nghe được Thôi Hữu đang nước mắt nước mũi giàn giụa cầu xin.
Thiếu Thương thở dài. Người và người đúng là khác nhau, cùng là bị lừa không hay biết gì, thậm chí tới giờ Thôi Hữu vẫn còn mơ màng không rõ nguyên do, nhưng dù muốn hay không, dù nằm trên giường bệnh thì ông ấy vẫn sẽ cầu xin cho Lăng Bất Nghi.
Có lẽ nàng đúng là người bạc tình bẩm sinh.
Tam hoàng tử sải bước đi tới quỳ bên cạnh Thôi Hầu, Hoàng đế không nhìn hắn mà chỉ vẫy tay với Thiếu Thương, Thiếu Thương bèn quỳ vào bên phải dưới Hoàng đế, sau đó nhân lúc chỉnh sửa tay áo nhìn lén lên ngai vàng, để rồi không khỏi sợ hãi.
Hoàng lão bá tính tình hiền lành, dù ngồi trên long ỷ cũng không đổi bản tính. Ở Trường Thu cung hầu như ông luôn dịu dàng vui vẻ, ở chỗ Việt Phi thường là cười xòa bất lực, ngay cả khi ở Thượng Thư đài cũng chỉ có ba phần xấu bụng – vì ông cơ trí hơn người, dù chỉ ba phần xấu bụng cũng đủ để chấn chỉnh triều chính; gặp quốc sự trọng đại thì thêm vài phần mưu mô là đủ.
Ấy vậy mà giờ đây, trên người Hoàng đế tỏa ra lệ khí không cách nào tiêu tan, mày rậm khóa chặt, sắc mặt sầm sì, phẫn nộ phừng phừng trong mắt. Có lẽ Tam công Cửu khanh cùng phản bội hàng địch cộng thêm Hoàng hậu Việt Phi muốn ly hôn với ông thì cũng chỉ như vậy là cùng.
Thiếu Thương thở dài. Nếu là mọi khi, nàng chắc chắn không dám đâm đầu vào Hoàng đế, nhưng bây giờ dù Hoàng lão bá có giận tới đâu nàng vẫn phải cầu xin.
Thôi Hầu vẫn còn sướt mướt, Nhữ Dương vương Thế tử đứng bật dậy, tức giận nói: “Khởi bẩm bệ hạ, bệ hạ hiểu thần đệ đấy, từ xưa đến nay chưa bao giờ tiếp xúc với Lăng gia, vợ chồng Thành Dương Hầu mời tiệc mấy lần, thần đệ cũng ra lệnh thân nhân không được phép tham dự. Nếu không vì chút chuyện hư hỏng của Thuần Vu thị và Lăng Ích thì chưa chắc phụ mẫu đã lâm vào nông nỗi về sau! Nhưng!”
Ông ta hít sâu một hơi, “Giận dữ coi thường là một chuyện, giết người phóng hỏa lại là chuyện khác! Hoắc phu nhân có uất ức đến đâu, Lăng Bất Nghi cũng không thể ôm hận thay mẹ giết cha! Tội giết cha đến trời đất cũng không dung, gia mẫu giận đến nỗi đã một ngày không thiết ăn uống, không dám tin trên đời lại xảy ra chuyện nổi loạn điên cuồng như vậy!”
Câu phát biểu rất hợp tình hợp lý, xung quanh ồ ạt đồng ý.
Hoàng đế im lặng, Ngu Hầu cười nói: “Thế tử khoan hẵng phẫn nộ, cứ ngồi xuống đi đã. À phải rồi, Nhữ Dương lão vương phi thế nào rồi. Nửa tháng trước ta nghe nói lão vương phi ăn uống khó.”
Nhữ Dương vương Thế tử lấy lại bình tĩnh: “… Vài hôm trước gia mẫu đã đỡ, ăn uống, ăn uống bình thường rồi.”
Ngu Hầu cười híp mắt: “Ra là vậy, được rồi, được rồi.”
Nhữ Dương vương Thế tử không vui: “Ngu Hầu có ý gì?”
Ngu Hầu cười không đáp, Ngô đại tướng quân tiếp lời: “Ý của Ngu đại nhân là, để người khác không cảm thấy ông đang lừa vua nhận thưởng, nguyền rủa tôn thân đi sớm, sau này nên chờ bệnh tình nguy kịch thật thì hẵng bẩm báo…. Thế tử đừng trợn mắt với ta, ta cũng vì tốt cho Nhữ Dương vương phủ thôi.”
Nhữ Dương vương Thế tử đỏ mặt.
Kỳ thực đúng là ông ta không có giao tình với Lăng gia, nhưng nói gì lão nương cũng là mẹ ruột của mình, ngày trước khi thoi thóp nằm trên giường bệnh, liên tục xin hắn bẩm báo với Hoàng đế, sao hắn có thể không đồng ý.
“Cũng không phải Nhữ Dương vương phủ cố ý lừa bệ hạ chuyện của gia mẫu, thật sự, thật sự chưa từng ngờ…” Nhữ Dương vương Thế tử ra vẻ khó khăn, “Bệ hạ, dù gia mẫu hồ đồ nhưng Dụ Xương quận chúa vô tội! Nàng thủ tiết còn trẻ, luôn hiền thục nết na, chưa bao giờ hành sự ngang ngược, khó khăn lắm mới kết được nhân duyên lần này, vậy mà bây giờ đã, đã….”
Vừa nói ông ta vừa nức nở, “Sau huyết án, mẹ con Thuần Vu thị suốt đêm chạy tới chỗ gia mẫu, không khác gì chim sợ ná! May mắn Thuần Vu thị và gia mẫu quan hệ thân thiết, mười mấy năm qua vẫn luôn thư từ qua lại, đêm qua gia mẫu hay tin lập tức phái gia tướng đến cứu, lần này, lần này Nữ Oánh phải thủ tiết nữa rồi…”
Một hạ thần phốp pháp râu lệch đứng bật dậy, cao giọng nói: “Thế tử nói đúng! Ai chẳng có người thân, ai chẳng gặp tai nạn! Bệ hạ, thần cũng không che giấu, muội muội thần là vợ kế của Lăng lão nhị! Những năm trước thế đạo loạn lạc, hai lang tế trước sau của muội ấy đã qua đời, khó khăn lắm mới lấy Lăng lão nhị, cũng coi như vợ chồng ấm êm. Nào ngờ một đêm biến cố, muội ấy lại thành quả phụ! Lần này muội ấy về nhà đòi chết, thần biết nói lý lẽ với ai đây! Lăng Bất Nghi ôm hận vì mẹ thì chỉ nhắm vào Lăng Ích là đủ, hà tất đuổi cùng giết tận, giết cả Lăng lão nhị và Lăng lão tam. Không lẽ nổi điên lên là máu thành tính sao!”
Đại Việt Hầu cau mày: “Ông đừng nói ghê rợn như vậy. Nếu thật sự là máu thành tính đuổi cùng giết tận, muội muội rồi mấy đứa bé của cô ta làm sao có thể sống khỏe mạnh. Còn không mau ngồi xuống!”
Một vị đại nhân mặt đen người lùn khác không cam lòng nói: “Lăng Bất Nghi giết người không hề ít! Những đứa con trưởng thành của Lăng lão nhị và Lăng lão tam đứa chết đứa bị thương…”
Trung Việt Hầu nói: “Đao gươm không có mắt, lúc giao tranh ngươi chết ta sống, đâu để ý là con trai ai rồi lang tế của ai.”
Đại nhân mặt đen ngập ngừng, hậm hực ngồi xuống. Thiếu Thương đoán được ngay, có lẽ con gái của người mặt đen này được gả cho một đường huynh của Lăng Bất Nghi.
Một vị đại nhân mặt trắng ít râu bật dậy, nói với Kỷ Tuân ở đối diện: “Kỷ đại nhân, ngài là Đình Úy mà không nói câu nào à?”
Dưới ánh đèn, trên mặt Kỷ Tuân nhăn nheo nếp nhăn. Ông nói: “Đêm qua Lăng Bất Nghi phạm phải trọng tội, giết cha, giả chiếu chỉ, khinh suất động binh, lừa dối Đông cung, gây họa triều chính, dù là ân oán giữa vợ chồng hay cha con Lăng thị, hôm nay lão thần chỉ hỏi quốc pháp vương luật! Nếu xác thực những tội danh này, vậy Lăng Bất Nghi đáng chết vạn lần!”
Thiếu Thương thầm nhủ đúng là lợi hại, gừng càng già càng cay, như lão Kỷ đây mới gọi là đánh trúng chỗ hiểm.
Thôi Hầu đứng bật dậy, chỉ vào Kỷ Tuân nói nhanh: “Lão Kỷ, ông ông… Ông cũng nhìn Tử Thịnh lớn lên, năm thằng bé mười bốn tuổi chính ông đã dạy nó về luật lệ hình án… Bây giờ nó đang khổ sở thoi thóp dưới vách núi, sao ông có thể bỏ đá xuống giếng!” Nói đoạn, ông ta lại òa khóc.
Kỷ Tuân hệt như mỏm đá, sắc mặt oai nghiêm, không hé môi một lời.
Vị đại nhân mặt trắng râu ít xoay người chắp tay với Hoàng đế: “Bệ hạ, thân thích bao che âu là lẽ bình thường, chư vị đại nhân đây nếu có vướng mắc ắt cũng sẽ loạn. Nhưng quốc có quốc pháp, dẫu Lăng Bất Nghi có muôn vàn nỗi khổ cũng không thể điều binh loạn chính, suýt gây ra náo loạn tại sáu doanh trại. Nếu hôm nay bệ hạ không xử phạt thích đáng, thần e rằng tương lai sẽ có họa liên tục!”
Đại tư không Thái Doãn vỗ đùi khen: “Nói rất hay!”
Vị đại nhân râu lệch như có linh cảm, cũng nhào đến khóc rống: “Bệ hạ, thần biết bệ hạ nhớ tình xưa với Hoắc gia, nhưng ba anh em Lăng gia cũng có mấy chục năm kết giao với chúng thần, dù Lăng Ích yếu ớt song cũng từng cùng chúng thân xách đao giao chiến xông ra từ huyện Phong! Giờ đây cả nhà ông ta đã bị tiêu diệt gần hết, bệ hạ không thể không làm chủ cho họ!”
“Bệ hạ, đến phụ thân ruột thịt của mình Lăng Bất Nghi còn dám giết, chứng tỏ hắn quá lạnh lùng độc ác, không bằng cầm thú, bệ hạ chớ cần niệm tình dưỡng dục với hắn!”
Mười mấy vị đại thần còn lại cũng hưởng ứng, hoặc hô hào hoặc khóc lóc…
“Các ngươi nói đủ chưa!”
Một tiếng quát sắc sảo vút lên, mọi người vội nghiêng đầu nhìn, thấy Tam hoàng tử nổi giận gầm to.
Sương giá phủ lấy gương mặt của Tam hoàng tử, ánh mắt sắc như băng quét qua từng chúng thần: “Nói đi nói lại cũng chỉ có vài lời như thế, rốt cuộc khác gì sáng nay hả! Thân là hạ thần, không chịu tìm hiểu điểm kỳ lạ trong chuyện đêm qua mà chỉ biết cố niệm quan hệ thông gia nhà mình, lắm mồm lắm chuyện, làm rối um lên, cần các ngươi có ích gì nữa! Rốt cuộc lương trật các ngươi nhận được là triều đình hay Lăng gia phát!”
Dưới sự chấn nhiếp của Tam hoàng tử, chúng thần đồng loạt nín thinh thít.
Hoàng đế nghiêng đầu, vẻ mặt phức tạp nhìn con trai; hai vị Việt Hầu nhìn cháu ngoại với ánh mắt vừa kiêu ngạo vừa khó xử; Ngu Hầu mỉm cười bình tĩnh ung dung, Ngô đại tướng quân rất quen thuộc chuyển bầu rượu nhạt trước mặt Ngu Hầu đến chỗ mình.
Thiếu Thương nghĩ, nếu so về oai phong và khí phách, có một chuỗi Thái tử cũng không bằng được Tam hoàng tử.
“Từ nhỏ Tử Thịnh được nuôi dưỡng ở Trường Thu cung, phụ hoàng hết lòng bồi dưỡng, bọn ta cũng coi như huynh đệ, đến kẻ mù cũng nhìn thấy hắn có tương lai tiền đồ như gấm, rực rỡ vô biên! hắn điên hay ngu mà đang yên đang lành lại chạy đi tiêu diệt phụ tộc của mình, rồi lại để một đám còn không bằng kẻ mù như các ngươi lên án hắn?! Các ngươi lắp não vào mà nghĩ cho kỹ, với tính cách chín chắn của Tử Thịnh, rốt cuộc vì sao hắn phải gây nên chuyện khó tin đến thế, còn hơn là ở đây lải nhải, nhai đi nhai lại mấy lời cũ rích!”
Tiếng quát của Tam hoàng tử như sấm giáng, rất có khí thế áp đảo, nhóm Nhữ Dương vương Thế tử không dám ngóc đầu lên. Thôi Hầu vừa lau nước mắt vừa nói: “Tam điện hạ nói phải, chắc chắn trong chuyện này có điểm lạ!”
Một lúc lâu sau, đại nhân mặt trắng râu ngắn mới hỏi thử: “Dám hỏi Tam điện hạ, điện hạ cho rằng kỳ lạ ở chỗ nào?”
“Cô không biết, nhưng cô biết chắc trong chuyện này có ẩn tình. Còn về ẩn tình gì thì ngươi cứ chờ tự đánh giá đi! Bằng không còn cần chúng thần làm gì nữa hả?!” Tam hoàng tử thực sự ngang ngược bất chấp lý lẽ.
Thiếu Thương tiếp tục thở dài.
Không biết là vị đại thần nào đã từng nói, vua tôi cũng như thê thiếp, người có học chưa trải nghiệm thực tế cũng như đàn ông tự cho là đúng. Đàn ông luôn hy vọng thê thiếp hòa thuận vui vẻ, nhưng đấy chỉ là chuyện trong truyền thuyết. Trên thực tế, không phải quân mạnh thần yếu thì cũng là quân yếu thần mạnh, rất ít khi có ngoại lệ. Nhưng so với Thái tử đến những hạ thần trung đẳng còn không đối phó được thì Tam hoàng tử áp đảo hơn nhiều.
Đại tư không Thái Doãn nhìn Ngu Hầu, Ngu Hầu khẽ gật đầu, Thái Doãn chắp tay: “Chuyện xảy ra gấp gáp, nhiều lời rối rắm, chẳng hay Tam điện hạ có nhận xét gì, chi bằng nói ra để bệ hạ và các ngu thần rửa tai.”
Thiếu Thương thầm mắng: Đồ lão già xảo quyệt, quả nhiên ông và cháu rể tương lai của mình là trời sinh một đôi!
Tam hoàng tử tỏ vẻ hài lòng với bầu không khí hiện tại, thủng thẳng nói: “Trình thị, ngươi nói đi. Đêm qua chính ngươi đã bẩm báo với phụ hoàng chuyện Tử Thịnh đến biệt viện Lăng gia, vì sao ngươi lại biết.”
Lời thốt ra, ánh mắt của mọi người đồng loạt bắn về phía cô gái luôn im lặng kể từ khi đi vào.
Vị đại nhân mặt trắng râu ngắn nói: “Ra là Trình nương tử, Lăng Bất Nghi là lang tế tương lai của ngươi, lẽ nào bây giờ ngươi muốn phân bua cho hắn?”
Tam hoàng tử cướp lời: “Ngay ban nãy Đinh đại nhân còn nói thân thích bao che là lẽ thường tình, giờ Trình thị cầu tình thì làm sao?”
Đinh đại nhân á khẩu, đoạn nói: “Trình tiểu nương tử, tuy Lăng Bất Nghi phạm phải tội tày trời, nhưng dù sao cũng có tình hôn nhân với ngươi, vì sao đêm qua ngươi lại cáo trạng hắn?”
“Ấy là vì tình hôn nhân vẫn chưa thành, Trình thị nghĩ cho gia tộc cha anh nhà mình trước thì làm sao!” Tam hoàng tử mất kiên nhẫn.
Chúng thần: … Lý lẽ bị ngươi nói hết rồi, dĩ nhiên bọn ta cũng không dám ‘làm sao’.
Ngu Hầu khẽ cười, bước ra giảng hòa: “Đinh đại nhân chớ nóng nảy, cứ nghe xem Trình tiểu nương tử nói gì đã. Trình thị, có phải Tử Thịnh đã tiết lộ nội tình với ngươi không, ngươi cứ nói từng chuyện một.”
Thôi Hầu cũng nói to: “Đúng vậy, Thiếu Thương cháu nói đi nói đi!”
Thiếu Thương cúi thấp đầu như mọi tiểu cô nương rụt rè không chỗ dựa, “Trước đêm hôm qua, Tử Thịnh đại nhân không hề nói gì với thiếp cả.”
Ngu Hầu nghi hoặc: “Vậy làm sao ngươi biết đêm qua Tử Thịnh sẽ ra ngoài thành, rồi vì sao lại biết hắn làm hại phụ tộc?”
“Thực ra từ lâu trong lòng thiếp đã luôn nghi ngờ Tử Thịnh đại nhân.” Tiểu cô nương chậm rãi ngẩng đầu, ánh mắt yếu đuối lướt qua các chư thần bên dưới như đang cầu cạnh, “Chẳng nhẽ các vị đại nhân chưa bao giờ cảm thấy trên người Tử Thịnh đại nhân có điểm kỳ lạ ư?”
Chúng thần: Ngươi đã nói như vậy thì lý nào bọn ta có thể nói không, vậy là mọi người đồng loạt ậm ờ mấy tiếng cao thấp không đều.
“Nhớ mỗi lần đến biệt viện Hạnh Hoa, A ảo hầu hạ Hoắc phu nhân từng nói với thiếp, Hoắc phu nhân rất thương yêu con trai, không cho con trai lên bất cứ chỗ cao nào. Nhưng thiếp nhớ Tử Thịnh đại nhân từng nói, hồi bé phụ thần thường ném bổng ngài ấy lên rồi đón lấy. Chư vị đại nhân có cảm thấy kỳ lạ không?” Thiếu Thương nói.
Chúng thần thầm nghĩ: Chuyện này kỳ chỗ nào, nghe một tiểu nữ nương không học hành như ngươi đứng trên đại điện nói chuyện mới là kỳ lạ!
Cuối cùng vẫn là Ngô đại tướng quân mở miệng: “Kỳ lạ chỗ nào, chỉ là hai chuyện không liên quan.”
“Không phải thế.” Thiếu Thương bất đắc dĩ, “Nếu Hoắc phu nhân không cho phép con trai lên bất cứ chỗ cao nào, thì sao có thể để Lăng Hầu thường xuyên ném con lên rồi bắt lấy?”
Chúng thần ngẩn người, Đinh đại nhân nói: “Có lẽ Hoắc phu nhân tin rằng lang tế sẽ không làm con trai ngã, hoặc có lẽ Lăng Hầu giấu Hoắc phu nhân chơi đùa với con trai… Đây chỉ là chút chuyện nhỏ ở nội trạch, có gì đáng thắc mắc!”
Mọi người đồng loạt gật đầu tỏ vẻ đồng ý.
Hoàng đế chợt mở lời: “Không đúng, phải mất nhiều năm Quân Hoa mới mang thai, vì thế rất để ý đến con trai. Dù là ở nhà, Lăng Ích cũng chưa bao giờ dám ném con lên cao. Thiếu Thương, ngươi nói tiếp đi.”
Chúng thần rụt cổ.
Thiếu Thương cung kính chắp tay: “Nếu chỉ có một chuyện như vậy thì thiếp cũng sẽ không nghi thần nghi quỷ… Dám hỏi đại tướng quân, ngài có biết năm xưa khi thất lạc, mẹ con Hoắc phu nhân đã trở về như thế nào không?”
Ngô đại tướng quân không hiểu: “Ngươi có ý gì. Không phải là Lăng Ích tục huyền không lâu thì nàng ta tự tìm về à, còn gây nên náo loạn ầm ĩ. Chuyện này thì sao?”
Thiếu Thương hỏi ngược lại: “Ngu Hầu ngài cũng nghe nói như vậy ạ?”
Ngu Hầu: “Lý nào không phải như vậy?”
“Không đúng!” Thôi Hựu la lên, “Không phải Quân Hoa tự tìm về, mà là chính ta đón nàng ấy về!”
Hoàng đế cũng ngạc nhiên.
Vị đại nhân râu lệch kia nói: “Sao có thể có chuyện này, ta nghe phu nhân trong nhà nói Hoắc phu nhân tự tìm về, còn vừa đánh vừa chửi Lăng Ích, nói ông ta vô lương tâm quên sống chết của mẹ con họ.”
Thôi Hựu lại la lên: “Không đúng không đúng, hai năm ấy Quân Hoa luôn trốn ở quê, nếu không phải ta vô tình nghe thấy dân làng bàn luận mà tìm đến, thì không biết bao giờ mới tìm được Quân Hoa về! Chuyện chuyện chuyện… chuyện này bệ hạ cũng biết mà…!”
Quần thần bàn luận sôi nổi.
Ngu Hầu trầm ngâm, cao giọng nói: “Chư vị yên nào, ta nghe nói… Năm đó chiến tranh quá kịch liệt, các tướng lĩnh thần công bên cạnh bệ hạ cũng không được rảnh rỗi. Khi Hoắc phu nhân thất lạc tìm về, ta đang ở Hà Tây thuyết phục vài vị danh sĩ, lão Ngô và tướng lĩnh cũng đang bàn chuyện, nên mãi về sau chúng ta mới nghe nói lại chuyện này.”
Hoàng đế gật đầu: “Đúng vậy. Lúc ấy bên cạnh trẫm chỉ có Thôi Hựu đang huấn luyện mật thám. Lăng Ích cũng vừa tổ chức hôn sự, vẫn chưa rời đi. Đúng là chính Thôi Hựu tìm Quân Hoa về.”
Ngô đại tướng quân không tinh tế bằng Ngu Hầu, vẫn hỏi: “Nhưng thế thì sao?”
Thiếu Thương lập tức nhìn Thôi Hựu: “Thôi thúc phụ, ngài và Hoắc phu nhân lớn lên cùng nhau, ngài không cảm thấy chuyện năm ấy rất lạ lùng ư. Đâu phải Lăng Ích chưa từng nạp thiếp, nhưng cớ gì phu nhân lại muốn sống muốn chết với Thuần Vu thị? Khi ấy Thuần Vu thị đang mang thai, Hoắc phu nhân giả vờ đồng ý, sau đó từ từ nghĩ cách đuổi Thuần Vu thị đi là được mà, đâu phải ngày trước bà ấy chưa từng làm.”
Vị đại nhân mặt đen cao giọng nói: “Ta là người huyện Nhiêu nhưng cũng nghe nói Hoắc phu nhân độc ác ương bướng, tính khí khó chịu. Khi Hoắc Xung tướng quân còn sống, dĩ nhiên nàng ta có thể từ từ dày vò cơ thiếp, nhưng khi Hoắc Xung tướng quân qua đời, nàng ta không nơi nương tựa, nên mới muốn sống muốn chết!”
Thiếu Thương phản đối: “Không đúng. Sự nôn nóng độc ác của Hoắc phu nhân lúc ấy khác với trước kia, không phải ép Thuần Vu thị không được vào cửa Lăng gia, mà là muốn giết chết Thuần Vu thị! Thế tử điện hạ, chuyện này hẳn điện hạ cũng biết.”
Nhữ Dương vương Thế tử thấy quân thần đồng loạt nhìn sang, vội đáp: “Không sai! Lúc trước mẫu thân thường bảo Hoắc phu nhân lòng dạ ác độc. Khi ấy mẫu thân thấy bệ hạ thương hại cả nhà Hoắc gia trung liệt nên mới nhân nhượng một bước, định chờ Thuần Vu thị sinh con xong sẽ tìm một lang tế khác như ý cho nàng ta – Thuần Vu phu nhân cũng đồng ý. Nào ngờ Hoắc phu nhân không chịu tha, khăng khăng đòi giết chết Thuần Vu phu nhân, ầm ĩ quá lớn nên cuối cùng mới hủy hôn!”
Trong điện lập tức xôn xao, Đinh đại nhân mặt trắng chậm rãi nói: “Vẫn chỉ là chuyện nhỏ, được tìm về hay tự quay về có gì quan trọng? Ép Lăng Hầu bỏ Thuần Vu thị còn chưa đủ, Hoắc phu nhân lại khăng khăng đòi giết người, sau đó hủy hôn phát điên, mà nói không chừng lúc đó nàng ta đã điên rồi…”
Thôi Hầu đang định mắng lại thì Thiếu Thương đã cướp lời: “Nhưng nếu Hoắc phu nhân không hề điên? Nếu từ trước đến giờ bà chỉ giả điên thì sao!”
Chợt ngoài điện vang lên tiếng sấm đầu xuân, chúng thần kể cả Hoàng đế kinh ngạc sững sờ.
Bên ngoài vang lên tiếng tí tách, hóa ra mưa xuân đã rơi. Tam hoàng tử lên tiếng: “Không ổn, Tử Thịnh vẫn đang nằm dưới vách núi, phụ hoàng…” Hắn khẩn cầu nhìn Hoàng đế.
Hoàng đế lại chỉ nhìn Thiếu Thương đăm đăm: “Ngươi nói tiếp đi.”
Lồng ngực Thiếu Thương nhói đau, nàng nói: “Sau khi đính hôn với Tử Thịnh đại nhân, gia mẫu cũng từng nghe về chuyện cũ giữa hai nhà Hoắc Lăng, cũng nghe được ‘Hoắc phu nhân tự trở về’. E rằng đa số mọi người trong đô thành đều nghe tin ấy. Nhưng không ai để ý rằng, thiếp nghĩ, chỉ cần có người điều tra rõ sẽ phát hiện, thực chất chính biệt viện Hạnh Hoa đã tung tin ‘Hoắc phu nhân tự trở về’.”
Thôi Hựu cứng lưỡi: “Cháu nói là, là Quân Hoa tự làm? Chuyện chuyện chuyện, chuyện này là vì sao…”
“Thôi thúc phụ, ngài nhớ lại dáng vẻ của Hoắc phu nhân trước khi lâm chung đi, ngài cảm thấy bà ấy điên thật ư?” Thiếu Thương ứa lệ.
Thôi Hữu nhớ lại chuyện đêm ấy, bên tai là tiếng gào khóc thê lương đau nhói tận tim của Hoắc Quân Hoa: ‘Ta là kẻ mù, là đồ ngu, nếu ta cưới huynh thì tốt quá’… Ông điếng người, trong lòng đã mơ hồ có suy đoán.
Hoàng đế xoay cả người lại, nhìn thẳng vào Thiếu Thương nói: “Còn gì nữa không?”
“Có ạ!” Thiếu Thương đáp chắc nịch.
“Những năm qua, Tử Thịnh không thể hầu hạ Hoắc phu nhân, có lẽ bệ hạ biết được nguyên nhân trong đó.”
Hoàng đế nói: “Đương nhiên trẫm biết! Vì mỗi lần Quân Hoa thấy Tử Thịnh là lại nhớ đến Lăng Ích, chứng điên khởi phát!”
“Bệ hạ nghĩ kỹ đi, bệ hạ thực sự cảm thấy Tử Thịnh đại nhân và Lăng Hầu giống nhau ạ?” Thiếu Thương nói lớn.
Hơi thở của Hoàng đế bắt đầu bất ổn, hai mắt mở to.
Thiếu Thương đánh bạo nhìn thẳng vào Hoàng đế: “Thiếp không hề cảm thấy Tử Thịnh đại nhân và Lăng Hầu giống nhau chút nào. Rõ ràng chàng giống Hoắc phu nhân, nhưng Đại Việt Hầu từng nói, Hoắc phu nhân lại rất giống huynh trưởng Hoắc Xung tướng quân, nên…”
“Nên sự thật là, Tử Thịnh giống Hoắc Xung tướng quân?” Tam hoàng tử thốt lên.
Thiếu Thương quay người, nói với các vị đại thần: “Thiếp còn tấm bé, nhưng ắt hẳn các vị đại nhân đây đều đã gặp Hoắc Xung tướng quân, thiếp cả gan xin chư vị nhớ kỹ lại, rốt cuộc tướng mạo của Tử Thịnh đại nhân giống ai?!”
Ngoài điện lại vang lên trận sấm mùa xuân, như búa nặng đập vào tim mọi người, sắc mặt mỗi người thay đổi rất ngoạn mục.
“Nói hết đi!” Hoàng đế thở dốc, hai tay siết chặt tay vịn.
“Trong lòng thiếp có suy đoán mơ hồ nhưng không dám nói ra. Mãi đến đêm hôm qua, chính miệng Tử Thịnh đại nhân nói với thiếp, chàng không phải con của Lăng Hầu mà là con của Hoắc Hầu đã qua đời. Năm ấy trọng binh bao vây cô thành, chính Lăng Hầu đã thông đồng với ngoại địch hại chết già trẻ Hoắc gia, vì thế đêm qua ngài ấy mới báo thù rửa hận!”
Vừa dứt câu, trong điện vang lên tiếng cảm thán nối tiếp, ngay đến Ngu Hầu luôn thong dong bình tĩnh cũng khiếp sợ ra mặt, ngồi thẳng người dậy, Ngô đại tướng quân đã làm đổ bầu rượu.
Đại Việt Hầu vừa kinh ngạc vừa phá lệ nhìn Thiếu Thương, nghĩ bụng tiểu nữ nương này đúng là thông minh. Nếu nàng vừa vào đã nói chuyện này, chắc hẳn mọi người sẽ mắng nàng ta ăn nói càn rỡ; nhưng đầu tiên nàng ta ra vẻ yếu đuối, sau đó lần lượt dẫn dắt móc nối mọi chuyện với nhau, kéo tâm trạng của tất cả mọi người trong điện đến điểm then chốt, sau đó giáng mạnh trọng chùy, cuối cùng đạt được hiệu quả.
Sau một hồi kinh ngạc, không khí trong điện như có ngòi nổ bị châm lửa, bắt đầu nổ bùm bụp.
Đại nhân râu lệch giận dữ đứng dậy: “Hàm hồ! Ta chưa từng nghe nói về chuyện này, ngày trước Hoắc Xung trấn thủ cô thành, dùng mấy ngàn binh mã ngăn chặn hai trăm nghìn tặc tử manh giáp, bọn ta vô cùng kính nể cảm kích! Nhưng không thể vì Lăng Ích không chết trong trận chiến thủ thành mà nói ông ta cấu kết với ngoại địch!”
Đại nhân mặt đen cũng quát to: “Đúng thế! Hoắc Xung tướng quân thương yêu Hoắc phu nhân, Lăng Ích lại không giỏi chinh chiến, nên mỗi lần ra trận Hoắc Xung tướng quân đều để Lăng Ích ở lại nơi an toàn phía sau, không để ông ta bị liên lụy, chuyện này ai cũng biết! Cô thành nọ tựa lưng vào núi Tuần Dương, ba huynh đệ Lăng gia được sắp xếp trông coi lương thảo ở nơi đó. Sau khi thành bị phá, Lăng gia cũng là bên cuối cùng gặp quân địch!”
Thôi Hầu điên cuồng hét lớn: “Toàn quân khắp thành đều đã chết, ngay tới phụ nữ già trẻ ở Hoắc gia cũng chết, dựa vào đâu Lăng Ích vẫn sống, cả nhà bọn họ vẫn còn sống! Trên đời này lý nào lại có chuyện trùng hợp như vậy!”
Nhữ Dương vương Thế tử thấp giọng cãi: “Còn không phải vì bọn ta cứu binh kịp thời ư? Nửa ngày sau khi thành bị công phá, Ngô đại tướng quân đã dẫn binh đến…”
Ngô đại tướng quân lên tiếng: “Nói thế không đúng. Dù thủ thành đến mức gian nan nhất thì vẫn còn tiền quân hậu quân, xung phong hoặc bọc hậu, lẽ ra tướng sĩ binh lính phải lên đầu tường thủ thành mới đúng! Khi ấy ta đã cảm thấy lạ, phụ nữ già trẻ được bố trí sau thành dưới chân núi Tuần Dương nghe còn hợp lý, nhưng ba huynh đệ Lăng gia và bộ khúc đều là tráng dũng, cớ gì lại trốn tránh ở đó?”
Trung Việt Hầu nhếch mép: “Lẽ nào Lăng Ích tham sống sợ chết, trốn tránh không chịu ra?”
Đại nhân râu lệch vẫn gầm to: “Sao ông dám ngậm máu phun người! Nói không chừng Lăng Ích đang bảo vệ phụ nữ trẻ nhỏ.”
Thôi Hầu chửi lại: “Họ Vũ kia, ông cũng đã từng ra trận, cũng từng thủ thành, mà giờ bị ngu rồi hả! Một khi thành bị công phá, phụ nữ trẻ nhỏ khó thoát khỏi đại nạn, để lại nhân lực bảo vệ phụ nữ trẻ nhỏ cái gì, đương nhiên phải lên tường thành chống lại địch! Ta biết nhiều năm qua huynh muội các ông sống nương tựa vào nhau, tình thâm nghĩa hậu, nhưng ông chớ bị mê muội lương tâm!”
“Mê muội lương tâm cái gì! Nếu Lăng Ích thật sự thông đồng với ngoại địch, há nào ta lại hạ thủ lưu tình! Nhưng hôm nay chỉ bằng đôi ba lời của Lăng Bất Nghi, ông lại muốn để toàn tộc Lăng thị bị định tội chết hả!”
“Đúng! Chuyện của mười mấy năm trước, ba anh em Lăng thị đã chết, bây giờ chết không còn đối chứng, không phải ai thích nói gì thì nói hả!”
“Không hẳn, dù huynh đệ Lăng Hầu còn sống, lý nào bọn họ chịu ngoan ngoãn thừa nhận nhà mình cấu kết với ngoại giặc? Khi ấy là lúc bệ hạ chúng ta đang khó khăn nhất, nếu Lăng Ích thật sự đâm một đao sau lưng, tội danh còn nặng hơn cả Bành Chân!”
“Nói nhảm nhiều như vậy ích gì, có chứng cứ hẵng nói, không thì đừng nói lung tung!”
…
“Được rồi!” Tam hoàng tử mất kiên nhẫn, nghiêm nghị quát: “Phụ hoàng vẫn còn đây, các ngươi dám thất lễ trước quân vương hả!”
Chúng thần không cam lòng ngồi xuống, đồng thời nhìn ý của vị trên ghế ngự.
Nào ngờ Hoàng đế đã dựa cả người vào tay vịn, một tay che mặt, nước mắt dưới bàn tay tuôn như suối.
Quần thần lập tức im bặt.
“Hóa ra, nó không phải A Ly, nó là A Tranh.” Hoàng đế chầm chậm buông tay, để lộ khuôn mặt đầy nước mắt đau thương, “A Tranh lớn hơn A Ly hai tháng. A Tranh sinh ra đã vui vẻ, gặp ai cũng cười. Nhưng A Ly ốm yếu từ nhỏ, cho nên Quân Hoa mới lấy tên của A Tranh, Lăng Bất Nghi, Hoắc Bất Nghi… A a, a a…”
Thấy tình hình ấy, hội Ngu Hầu đã hiểu rõ, mà những hạ thần luôn nói đỡ cho Lăng Ích cũng ngạc nhiên.
Thiếu Thương im lặng gạt nước mắt, trong đầu nghĩ, hóa ra chàng tên là A Tranh – Tranh là kỳ thú thượng cổ, vừa đáng sợ nhưng cũng dũng mãnh.
Vị Đinh đại nhân mặt trắng thấy tình hình không ổn, vội thưa: “Bệ hạ hẵng khoan kết luận chuyện này đã, cậu cháu giống nhau cũng là chuyện bình thường, Lăng Bất Nghi giống Hoắc Xung tướng quân cũng không có gì lạ…”
“Nhưng nếu cậu ta đúng là con của Hoắc Xung thì sao?” Ngu Hầu ngắt lời ông ta.
Ngô đại tướng quân tiếp lời: “Đúng thế, con trai của liệt sĩ lại chết đi như vậy?”
Nhữ Dương vương Thế tử ôm đầu, mệt mỏi nói: “Hai vị đại nhân cũng có tình thông gia với Lăng thị, vì sao không nói đỡ cho Lăng gia…”
Ngu Hầu sờ mũi, cười nói: “Ta không thân với tộc đệ ấy cho lắm, và cũng chưa từng gặp con gái của hắn. Lão Ngô ông nói đi, người cưới con gái Lăng gia chính là đường đệ ruột của ông.”
“Thôi đi.” Ngô đại tướng quân giễu, “Hồi ta còn bé nhà nghèo, chẳng thấy thân thích nào đến cứu trợ, ta còn tưởng thân thích chết hết cả rồi. Đến khi ta lập nên công danh, họ hàng mới lục tục kéo đến tìm ta. Ta thấy cũng lạ, lẽ nào một người khi thăng quan tiến chức thì họ hàng cũng sẽ nhiều lên sao.”
Đại tư không Thái Doãn và hai vị Việt Hầu cười phá lên, sắc mặt của Đinh đại nhân vô cùng khó coi.
Ngô đại tướng quân nói: “Dù ta cũng xuất thân từ quận Cảnh Thăng nhưng chưa bao giờ có quan hệ tốt với Hoắc Xung. Bởi vì ta nóng tính, thiết giết chóc đánh lộn, ông ấy lại muốn quở trách ta, nên ta không thích qua lại với ông ấy.”
Sắc mặt mấy người Đinh đại nhân dần khá lên.
“Nhưng…” Ngô đại tướng quân nói tiếp, “Ai cũng biết năm xưa trấn thủ tòa cô thành ấy là chuyện thập tử nhất sinh, đáng nhẽ ta phải đi, nhưng ta lo cho mẹ già không ai phụng dưỡng nên cứ lần lữa, cuối cùng nghe nói Hoắc Xung đã lĩnh mệnh. Những năm qua ta thường nghĩ, nếu ngày ấy người đi là ta, liệu các đồng liêu thấy ta chết thì sẽ chăm sóc cho mẹ già con nhỏ của ta, hay sẽ giẫm đạp giày xéo đây.”
Trong đại điện lặng như tờ, không ai dám tiếp lời.
Đại Việt Hầu chau mày bảo: “Nói càn, tính ông chỉ đánh tiên phong, làm gì thủ được thành.”
Ngô đại tướng quân đổi hướng: “Ta thích đánh tiên phong, ông là người có học, lão Ngu chỉ có được cái miệng. Nhưng kiểu gì cũng có người biết thủ thành, vì sao lúc ấy không ai lĩnh mệnh?”
Những võ tướng nói hộ Lăng gia không lên tiếng. Ngu Hầu kéo khóe miệng: “Xem ra ông tiến bộ rồi, còn biết nói vòng vo cơ đấy.”
Đinh đại nhân mặt trắng mất kiên nhẫn, mồ hôi úa ra trên trán nhễ nhại, cao giọng tâu với Hoàng đế: “Bệ hạ, xin nghe thần nói một lời nữa! Chuyện này quá nghiêm trọng, không thể khinh suất kết luận Lăng Bất Nghi là con ai được! Lẽ nào đến cả con mình mà Lăng Hầu cũng không nhận ra ư, nhiều năm qua chưa từng nghe thấy Lăng Hầu có nghi vấn gì…”
“Không phải đại nhân mới nói ‘cậu cháu vốn giống nhau’ à, nói không chừng A Ly con của Lăng Hầu cũng giống Hoắc Xung tướng quân, nên hai huynh đệ cách nhau hai tháng tuổi cũng giống bảy tám phần?” Thiếu Thương thấp giọng nói.
Đinh đại nhân bị nắm thóp, tức giận nói: “Giống đến đâu cũng không có chuyện Lăng Hầu không nhận ra con mình!”
Thôi Hầu chợt hiểu ra, nói: “Nên Quân Hoa mới trốn ở quê không chịu quay về. Nàng định chờ thêm mấy năm nữa, chờ khi Tử Thịnh lớn lên khác biệt mới trở lại, nào ngờ chỉ mới hơn một năm đã bị ta tìm ra! Không phải nàng ấy thật sự muốn giết Thuần Vu thị, mà là muốn gây lớn chuyện không thể giải quyết, sau đó nhân cơ hội hủy hôn với Lăng Ích, như thế Lăng Ích sẽ không thể gặp con trai…”
Đinh đại nhân cười lạnh: “Thôi Hầu chớ tự đoán càn, bệ hạ và Hoắc Xung tướng quân có ân tình bậc nào, cớ gì Hoắc phu nhân phải ẩn nấp mấy năm, cứ báo thẳng chuyện này cho bệ hạ biết là đủ, lẽ nào bệ hạ không làm chủ cho nàng ta?! Nếu Lăng Ích thực sự hại chết Hoắc Xung thì có một trăm Lăng thị cũng bị tru di toàn tộc!”
Thôi Hữu cứng họng.
“… Đó là vì, Hoắc phu nhân lo không ai tin lời mình.” Tranh cãi nãy giờ, Đại Việt Hầu luôn đa mưu túc trí lần đầu tiên chủ động đưa ra ý kiến, mọi người ngoái nhìn ông.
Ông lặp lại lần nữa, “Vì Hoắc phu nhân cho rằng sẽ không ai tin mình. Có lần thần muội gặp nạn, bệ hạ từng nói, cả đời này sẽ không bao giờ tin Hoắc phu nhân nữa. Nên là, Hoắc phu nhân định tự tìm bằng chứng Lăng Hầu móc nối với địch.”
Thiếu Thương đau đớn nhắm mắt lại.
Trên đời này nào có nhiều việc liệu sự như thần cơ chứ, chẳng qua chỉ là trời xui đất khiến, Hoắc phu nhân không phải người thông minh, bà chỉ làm theo quyết định mà bản thân cho là tốt nhất.
Ánh mắt Đinh đại nhân thoáng dao động, lạnh lùng nói: “Dù ta ở huyện Nhiêu nhưng cũng thường nghe nói thuở nhỏ Hoắc phu nhân thích nói dối. Năm đó chỉ vì hãm hại Việt nương nương mà đặt điều rất nhiều! Khi Hoắc gia tuẫn thành, Lăng Bất Nghi chỉ mới năm sáu tuổi, nếu Hoắc phu nhân vì giận Lăng Hầu hai lòng, ngày ngày nói dối với con nhỏ khiến Lăng Bất Nghi tin thật thì sao?”
Mọi người cẩn thận suy ngẫm, đúng là rất có khả năng này.
Thôi Hầu giận dữ quát to: “Rõ ràng Tử Thịnh là con trai Hoắc Xung, trả thù rửa hận là lẽ bất di bất dịch!”
Đinh đại nhân không hề nhượng bộ: “Nếu Lăng Bất Nghi bị Hoắc phu nhân lừa mình là con của Hoắc Xung, nhưng thực chất là con của Lăng thị, vậy hắn vẫn phạm phải tội giết cha!”
Người kia nói: “Nếu người nhà Lăng thị đều đang trốn trong núi Tuần Dương, vậy đứa con của hai nhà tráo đổi như thế nào?”
“Tóm lại chuyện này có quá nhiều điểm khả nghi, thần kính xin bệ hạ điều tra rõ ràng!”
Thiếu Thương cảm thấy tay chân mình lạnh buốt, trước mắt nhòa đi, xúc giác cũng trì trệ. Nàng không còn sức làm trò nữa, cố cao giọng nói: “Bệ hạ!”
Hoàng đế như đang trầm ngâm suy tư, nghe tiếng gọi mới giật mình hoàn hồn.
Thiếu Thương rưng rưng khấu đầu, đoạn bẩm: “Bệ hạ, cuối cùng hôm nay thiếp cũng đã hiểu được nỗi khổ của Tử Thịnh đại nhân.” Ánh mắt nàng lướt qua từng người một trong điện.
“Thời gian dần trôi, chẳng những Tử Thịnh đại nhân không có bằng chứng Lăng Hầu cấu kết với ngoại địch, mà thậm chí còn chẳng cách nào chứng minh mình là con ai! Lăng Hầu đã chết, ấy là chết không có đối chứng! Nhưng nếu Lăng Hầu còn sống, ông ta vẫn sẽ nhận định Tử Thịnh đại nhân là con trai mình, con trai sao có thể giết cha!”
“Cuối cùng thiếp cũng đã hiểu, Tử Thịnh đại nhân đã hết đường nên đêm qua mới đưa ra hạ sách đó.”
Nghe tới đây, cuối cùng Tam hoàng tử cũng đã hiểu rõ ngọn nguồn, trong lòng khó chịu, đấm liên tục vào chân. Thôi Hầu đã khóc òa: “Tử Thịnh, đứa trẻ đáng thương…”
Kỷ Tuân im lặng nãy giờ bỗng đứng lên thưa: “Bệ hạ, cuối cùng vẫn không thể chắc chắn Lăng Bất Nghi là con ai, nhưng lỡ đâu có ngộ nhỡ! Ngộ nhỡ cậu ta là Hoắc…”
“Trẫm có cách chứng minh.”
Lão Kỷ chưa nói hết câu thì Hoàng đế đã ngắt lời, chúng thần người kinh ngạc, người vui mừng người hốt hoảng nhìn ông. Một tay Hoàng đế day huyệt thái dương, tay kia lắc nhẹ: “Các khanh đừng nói, để trẫm nhớ lại.”
Thế là không ai dám lên tiếng, trong điện lắng đến nỗi có thể nghe được tiếng kim rơi.
Không biết bao lâu trôi qua, Hoàng đế ngẩng đầu lên, hỏi Ngô đại tướng quân: “Khanh có nhớ trên người Hoắc Xung huynh trưởng có vết bớt không?”
Ngô đại tướng quân lúng túng: “Bệ hạ, thần vừa nói rồi đấy, thần và Hoắc tướng quân không thân thiết.”
Rồi Hoàng đế nhìn Thôi Hầu, Thôi Hữu cũng khổ sở: “Hoắc Xung huynh trưởng lớn hơn thần mấy tuổi, khi thần còn chạy chơi bên bờ sông thì huynh trưởng Hoắc gia đã lấy vợ. Hơn nữa, Hoắc huynh trưởng luôn chú trọng ăn vận chỉnh tề, lễ phép chu toàn, chưa bao giờ phanh ngực lộ lưng, nên cũng không ai biết…”
Hoàng đế lại đảo mắt, Ngu Hầu và hai vị Việt Hầu lập tức bày tỏ ‘chúng thần ở huyện bên’.
“… Khoan khoan.” Nhữ Dương vương Thế tử cố gắng nhớ lại, bỗng vỗ đầu cao giọng nói, “Thần nhớ ra rồi. Đúng là Hoắc Xung có một vết bớt, nằm ngay trước ngực! Có năm ông ấy và bệ hạ nghịch bùn quay về, sợ mẫu thân trách móc nên chính thần đã trộm củi đến đun nước!”
“Đúng!” Hoàng đế vỗ tay, “Vết bớt ấy to bằng hai lòng bàn tay! Hoắc Xung còn bảo chúng ta không được nói ra, vì tổ tiên nhà ông ấy từng bị bắt gặp hình dáng vị trí của vết bớt mà bị vu cổ nguyền rủa đến chết!”
“Bệ hạ quả là có trí nhớ tốt!” Nhữ Dương vương Thế tử ca ngợi, “Hồi ấy chúng ta còn chưa tới mười tuổi, mới chớp mắt đã hơn bốn mươi năm! Vậy mà bệ hạ vẫn còn nhớ chút chuyện nhỏ này.”
“… Hôm ấy là tiệc đầy tháng của A Tranh, chúng ta đều uống say.” Hoàng đế có trí nhớ rất tốt, nhưng dù gì cũng là lời say của hơn hai mươi năm trước, bởi vậy mới khó nhớ, “Khi ấy nằm trên bàn rượu, Hoắc Xung huynh trưởng chợt nói, A Tranh có một vết bớt y hệt ông ấy, nhưng vị trí và kích thước khác nhau.”
Cuối cùng Kỷ Tuân cũng thở phào: “Vậy thì tốt quá, thần sẽ lập tức phái người cứu Tử Thịnh dưới đáy vực lên, kiểm tra xem có vết bớt không sẽ khắc biết!”
Các vị đại thần nói đỡ cho Lăng gia nghe thế thì nơm nớp thấp thỏm.
Nếu Lăng Bất Nghi mang họ Hoắc thật, thứ nhất sẽ không bị khép vào trọng tội giết cha, thứ hai Hoàng đế tất sẽ bảo toàn tính mạng cho hắn ta. Những chuyện khác có thể bỏ qua, vì tội làm loạn binh quyền thuộc về vấn đề bàn luận, nếu Hoàng đế sống chết không muốn truy cứu thì cũng không ai làm được gì.
Nhưng bọn họ không biết rằng, ngay cả Thôi Hầu và Tam hoàng tử cũng thấp thỏm y hệt.
Với Thôi Hựu, nếu Lăng Bất Nghi họ Lăng thì ấy là con trai của Hoắc Quân Hoa, có thế nào ông cũng phải bảo vệ; nếu họ Hoắc, vậy là con của Hoắc Xung và cháu của Quân Hoa, ông cũng phải bảo vệ.
Tam hoàng tử lại không quan tâm Lăng Bất Nghi là con ai, miễn có giao tình tốt với hắn là đủ.
Nhưng lỡ đâu kéo Lăng Bất Nghi lên mà không có vết bớt thì sao?
Cả hai đồng thời lo lắng.
“Có phải vết bớt ấy nằm ở mắt cá chân bên trái không?”
Khi mỗi người ôm mối suy nghĩ riêng, chợt một giọng nữ nhỏ nhẹ vang lên – là Thiếu Thương cất tiếng.
Hoàng đế chậm rãi đứng dậy, nhìn nàng chằm chằm, mọi người trong điện đồng loạt nhìn sang.
Thiếu Thương ngẩng đầu nhớ lại: “Ừm, là một đầu hổ be bé, nhưng trên đầu có ba lỗ tai… Chỉ to chừng hai tấc.” Nàng nhớ lại đêm đó dưới núi Tiểu Nguyệt, ngoài kia tuyết nhỏ bay phấp phới, trong lều lò lửa bập bùng, nàng dùng nước ấm rửa chân cho chàng.
Hoàng đế loạng choạng, vì kích động mà suýt đã ngã, Tam hoàng tử lập tức đứng dậy đỡ ông.
“Đúng thế đúng thế, là một đầu hổ ba tai!” Hoàng đế lẩm bẩm, ngay tức khắc ra lệnh.
“Người đâu, người đâu, nhanh lên, mau đưa thằng bé lên khỏi đáy cốc! Không được bị thương tay chân mình mẩy, nhanh lên!”
“Thôi Hữu, khanh đi xem đi, phải đưa thằng bé nguyên vẹn trở về cho trẫm! Gọi ngự y giỏi nhất đến đây, thằng bé đã một ngày một đêm không cơm không nước, phải từ từ… Thôi Hữu, trẫm giao cho khanh…”
“Trẫm phải dẫn nó đến trước linh vị của phụ thân nó, đánh nó một trận, hỏi có phải gan chó của nó bị ma xui quỷ khiến hay không, có chuyện gì sao không nói mà phải bí quá hóa liều!”
Cuối cùng lúc này Tam hoàng tử cũng đã chắc chắn, còn hội của Đinh đại nhân đã xám ngoét mặt mày, chỉ có đại nhân râu lệch đầu óc không nhạy vẫn đang lải nhải: “Bệ hạ, còn tội tự ý điều động binh tốt!”
Câu trả lời của Hoàng đế là hất mạnh bầu rượu mạ vàng, đập mạnh xuống chân người nọ, Hoàng đế giận dữ mắng lớn: “Chi bằng trẫm đền tội cho A Tranh, ngươi thấy được chưa!”
Chuyện đã hạ màn, Thôi Hữu kéo Kỷ Tuân sốt ruột đi cứu người, các hạ thần còn lại cũng nối đuôi rời khỏi đại điện, Tam hoàng tử đi cuối cùng, khi ngoái đầu lại, thấy Thiếu Thương vẫn chưa đi mà đang quỳ bên cạnh Hoàng đế.
“Bệ hạ, bệ hạ chớ nóng giận. Tử Thịnh đại nhân ngoài thông minh nhưng bên trong lại ngốc, về sau bệ hạ từ từ dạy dỗ chàng là được.”
“Dạy cái gì mà dạy, trẫm thấy nó là đồ cố chấp nhẫn tâm, trong mắt không có ai!”
“Bệ hạ đừng như thế. Thực ra vừa nãy thiếp đã nói sai một chuyện, Tử Thịnh đại nhân không phải rơi vào đường cùng. Muốn tiêu diệt Lăng thị vẫn có thể từ từ thực hiện, không đến nỗi bí quá hóa liều. Bệ hạ nghĩ thử đi, sớm muộn gì Tử Thịnh đại nhân cũng sẽ có địa vị cực cao. Chàng là người thông minh, lại có nhiều bản lĩnh mánh khóe, đợi nắm đại quyền rồi từ từ dồn ép Lăng gia cũng được mà… Cách thức có rất nhiều.”
“Nhưng Tử Thịnh đại nhân không muốn. Chỉ mới mấy năm mà Lăng Ích đã kết thân với rất nhiều người, và chỉ chưa tới mấy năm nữa thôi, ngay cả Dụ Xương quận chúa cũng sẽ là dâu Lăng gia. Không phải Tử Thịnh đại nhân kiêng kỵ những mối quan hệ thông gia ấy, mà là không muốn nhiều người liên lụy nữa.”
“Bệ hạ đừng giận, chàng là người như vậy mà. Hoặc đường đường chính chính lấy ra bằng chứng để Lăng thị chịu tội; hoặc dùng máu đổi máu, tự tay giết chết kẻ thù, cùng lắm là tự vẫn đền mạng. Không phải chàng không nghĩ tới những âm mưu này nọ, mà là chàng không muốn dùng. Bệ hạ dạy dỗ chàng rất tốt, chàng không phải là kẻ xấu…”
Lệ chảy dài trên gương mặt già nua của Hoàng đế, trông thoác chốc ông như nhìn thấy nghĩa huynh quang minh lỗi lạc đứng trước mặt. Ông thấp giọng, “Trẫm hiểu ý ngươi, ngươi lui xuống đi, để trẫm một mình.”
Tam hoàng tử im lặng đứng chờ sau cửa đại điện.
Quen biết nhau đã lâu, nhưng đây là lần đầu tiên hắn nghe thấy Trình Thiếu Thương nói những lời như vậy, giọng dịu dàng lẫn phần nào ngây ngô.
Nên khi Thiếu Thương ra khỏi đại điện, hắn lặng thinh đi theo, nhưng không đợi hắn nghĩ xem nên nói gì thì Thiếu Thương đã nghiêng đầu nhìn hắn, vui vẻ nói: “Tam điện hạ sao thế, đừng có lẳng lặng như vậy, dọa chết thiếp mất! À phải rồi, lúc nãy điện hạ có nghe thấy Nhữ Dương vương Thế tử nói gì không? Thuần Vu thị nuôi bồ câu đưa thư, còn thường xuyên gửi thư cho lão vương phi.”
Tam hoàng tử ngơ ngác, “Thế thì sao?”
“Đêm qua khi xảy ra chuyện, một mình Lăng Hầu ẩn trong ám thất thoát thân, còn Thuần Vu thị lại ngay trong đếm đến Nhữ Dương vương phủ trốn, thậm chí còn không nhặt thi thể của Lăng Ích. Rồi mười mấy năm trước, Thuần Vu thị đã đồng ý với lão vương phi sẽ sinh con xong sẽ cưới người khác. Điện hạ xem, bọn họ giống tình sâu ý nặng lắm à?”
“Vậy vì sao năm ấy Lăng Ích khăng khăng cưới Thuần Vu thị xuất thân bần hàn? Thiếp nghe nói lúc bệ hạ còn nhỏ lão vương phi cũng chẳng phải người hiền, cưới vợ nhà giàu còn hơn là đi lấy lòng một thúc mẫu bị bệ hạ lạnh nhạt. Thiếp từng thấy hai vợ chồng họ ở bên nhau mấy lần, cứ có cảm giác Thuần Vu thị rất sợ Lăng Ích, mà Lăng Ích cũng rất không đếm xỉa đến Thuần Vu thị.”
Tam hoàng tử động não cực nhanh, thốt lên: “Lí nào Thuần Vu thị đã nắm được thóp của Lăng Ích, nên Lăng Ích mới phải cưới bà ta?! Thuần Vu thị nuôi bồ câu đưa thư, nói là truyền tin, không bằng nói là đe dọa Lăng Ích, để ông ta không được hành động thiếu suy nghĩ!”
Thiếu Thương lại thở dài, nói chuyện với người thông minh sung thật, lại nghĩ đến Thái tử… Ôi, không nhắc đến y nữa… Nhưng nàng vui chưa được ba giây thì đã nghe thấy Tam hoàng tử nói: “Cũng chỉ có đàn bà các ngươi mới để ý đến những tình tiết nhỏ này.”
Thiếu Thương: …
Tam hoàng tử trầm ngâm: “Chắc hẳn Thuần Vu thị đã biết chuyện Lăng Ích cấu kết với địch, cũng có bằng chứng đang cất giấu nơi khác, bằng không nhiều năm qua Lăng Ích đã sớm giết bà ta diệt khẩu. Vậy đồ giấu ở đâu?”
Tam hoàng tử không biết, chỉ nói: “Nếu điện hạ không ngại thì đi hỏi thử Thuần Vu thị đi, ôi, nhưng cấu kết với địch là tội lớn, có đánh chết cũng không nhận. Một khi thừa nhận, mẹ con Thuần Vu thị cũng sẽ hứng họa.”
Tam hoàng tử sầm mặt: “Ta sẽ đi thẩm vấn Thuần Vu thị!” Vừa cất bước định đi thì chợt thấy Thiếu Thương loạng choạng chực ngã, hắn hiếm khi không đành lòng, “Ngươi đừng đi nữa, ta sai người đem kiệu đến cho ngươi.”
Thiếu Thương đi không đặng, đỡ vào một gốc cây: “Được, đưa ta đến Trường Thu cung là được.”
Tam hoàng tử ngạc nhiên: “Ngươi muốn đến Trường Thu cung?” Hắn cứ tưởng nàng muốn về nhà, “Ngươi gặp Hoàng hậu nói gì?”
Thiếu Thương ừ khẽ, nói: “Cho đến bây giờ nương nương chưa từng hỏi thiếp, nương nương chỉ lắng nghe khi thiếp muốn nói.” Giờ nàng rất mệt, không muốn nói chuyện cũng không muốn giải thích, chỉ muốn một nơi ấm áp ôm ấp nàng.
“Xảy ra chuyện lớn mà Hoàng hậu không hề hỏi ngươi?” Tam hoàng tử cảm thấy khó tin. Đêm qua Lăng Bất Nghi tự mình điều binh, nói trắng ra là nhắm vào Thái tử, vậy mà Hoàng hậu không hề ngăn cản?!
Thiếu Thương mệt mỏi cười: “Điện hạ không hiểu rồi. Điện hạ truy hỏi thiếp vì sao không đồng sinh cộng tử với Tử Thịnh đại nhân, Tử Thịnh đại nhân lại truy hỏi thiếp trong lòng thiếp có chàng hay không, cha mẹ anh em truy hỏi thiếp vì sao lại phải lội xuống vũng bùn này… Chỉ có nương nương, nương nương tin rằng thiếp làm gì cũng có lý do.”
Tam hoàng tử im lặng.
Thật ra hắn cũng rất kính trọng Hoàng hậu, nhưng chuyện hắn muốn làm lại làm tổn thương người phụ nữ hiền hậu ấy.
Kiệu đã đến, Thiếu Thương run rẩy ngồi lên, Tam hoàng tử bất giác đỡ nàng, lúc rụt tay về thì phát hiện trên tay dính máu. Hắn ngạc nhiên, lập tức nhìn nàng: “Sao ngươi lại chảy máu?”
Thiếu Thương mệt mỏi ôm vai, lắc đầu: “Có lẽ vết thương bị nứt, phó mẫu không quấn kỹ. Điện hạ đừng lo, Hoàng hậu nương nương sẽ chăm sóc cho thiếp.”
Lồng ngực Tam hoàng tử phập phồng, sau mấy lần hít thở mới lớn tiếng nói: “Ngươi yên tâm, đợi Tử Thịnh về ta nhất định sẽ bảo hắn hành lễ bồi tội với ngươi, đang yên đang lành lại khiến ngươi bị thương! Nhưng Tử Thịnh thích ngươi như vậy, không chừng mai sau ngươi nói gì hắn sẽ nghe nấy.”
Kiệu chầm chậm nâng lên tiến về phía trước, Thiếu Thương ngoái đầu cười, bơ phờ nói: “Điện hạ vẫn chưa hiểu. Ta và chàng, hai ta không còn mai sau nữa rồi.”
Mưa đêm đã dừng, cơn gió cuốn theo cái lạnh gấp bội, cô gái đã đi xa, để lại Tam hoàng tử ngạc nhiên chôn chân tại chỗ.
Tam hoàng tử thần kỳ phát hiện cô gái này như biến thành người khác, rất cung kính nhún nhường hành lễ với Hoàng đế và chư thần, thậm chí giọng nói còn lộ vẻ sợ hãi – cứ như thể kẻ vừa đập vỡ ngọc mắng hoàng tử ở ngoài điện ban nãy không phải là nàng.
Những đĩa dầu treo cao trên đỉnh vòm, cứ ba bước lại có một ngọn đèn mười hai nhánh cao ngang người, cả đại điện sáng như ban ngày. Từ trên ngai vàng trở xuống, hai bên trái phải là khoảng hai mươi vị đại thần ngồi theo thứ tự quan trật, Thiếu Thương đã gặp hầu hết bọn họ, một phần ba trong số họ là những gương mặt quen thuộc. Hoàng đế ngồi trên ghế ngự nổi giận lôi đình, bên trái là Thôi Hầu đang kéo tay ông khóc lóc cầu xin.
Thiếu Thương nghĩ trong đầu, Hoàng đế quả là niềm tình với Lăng Bất Nghi, chỉ tuyên gặp những người này, lại còn là những tâm phúc biết hiểu chuyện; nếu tổ chức đại triều hội, một khi quần thần hô to như núi như biển ‘xin bệ hạ xử lý Lăng Bất Nghi theo đúng quốc pháp’ thì càng khó thoái lui.
“Bệ hạ, dù thằng bé phạm phải tội tày trời, nhưng xin bệ hạ nương tình nhẹ tay…” Khi Thiếu Thương và Tam hoàng tử vào điện, bọn họ nghe được Thôi Hữu đang nước mắt nước mũi giàn giụa cầu xin.
Thiếu Thương thở dài. Người và người đúng là khác nhau, cùng là bị lừa không hay biết gì, thậm chí tới giờ Thôi Hữu vẫn còn mơ màng không rõ nguyên do, nhưng dù muốn hay không, dù nằm trên giường bệnh thì ông ấy vẫn sẽ cầu xin cho Lăng Bất Nghi.
Có lẽ nàng đúng là người bạc tình bẩm sinh.
Tam hoàng tử sải bước đi tới quỳ bên cạnh Thôi Hầu, Hoàng đế không nhìn hắn mà chỉ vẫy tay với Thiếu Thương, Thiếu Thương bèn quỳ vào bên phải dưới Hoàng đế, sau đó nhân lúc chỉnh sửa tay áo nhìn lén lên ngai vàng, để rồi không khỏi sợ hãi.
Hoàng lão bá tính tình hiền lành, dù ngồi trên long ỷ cũng không đổi bản tính. Ở Trường Thu cung hầu như ông luôn dịu dàng vui vẻ, ở chỗ Việt Phi thường là cười xòa bất lực, ngay cả khi ở Thượng Thư đài cũng chỉ có ba phần xấu bụng – vì ông cơ trí hơn người, dù chỉ ba phần xấu bụng cũng đủ để chấn chỉnh triều chính; gặp quốc sự trọng đại thì thêm vài phần mưu mô là đủ.
Ấy vậy mà giờ đây, trên người Hoàng đế tỏa ra lệ khí không cách nào tiêu tan, mày rậm khóa chặt, sắc mặt sầm sì, phẫn nộ phừng phừng trong mắt. Có lẽ Tam công Cửu khanh cùng phản bội hàng địch cộng thêm Hoàng hậu Việt Phi muốn ly hôn với ông thì cũng chỉ như vậy là cùng.
Thiếu Thương thở dài. Nếu là mọi khi, nàng chắc chắn không dám đâm đầu vào Hoàng đế, nhưng bây giờ dù Hoàng lão bá có giận tới đâu nàng vẫn phải cầu xin.
Thôi Hầu vẫn còn sướt mướt, Nhữ Dương vương Thế tử đứng bật dậy, tức giận nói: “Khởi bẩm bệ hạ, bệ hạ hiểu thần đệ đấy, từ xưa đến nay chưa bao giờ tiếp xúc với Lăng gia, vợ chồng Thành Dương Hầu mời tiệc mấy lần, thần đệ cũng ra lệnh thân nhân không được phép tham dự. Nếu không vì chút chuyện hư hỏng của Thuần Vu thị và Lăng Ích thì chưa chắc phụ mẫu đã lâm vào nông nỗi về sau! Nhưng!”
Ông ta hít sâu một hơi, “Giận dữ coi thường là một chuyện, giết người phóng hỏa lại là chuyện khác! Hoắc phu nhân có uất ức đến đâu, Lăng Bất Nghi cũng không thể ôm hận thay mẹ giết cha! Tội giết cha đến trời đất cũng không dung, gia mẫu giận đến nỗi đã một ngày không thiết ăn uống, không dám tin trên đời lại xảy ra chuyện nổi loạn điên cuồng như vậy!”
Câu phát biểu rất hợp tình hợp lý, xung quanh ồ ạt đồng ý.
Hoàng đế im lặng, Ngu Hầu cười nói: “Thế tử khoan hẵng phẫn nộ, cứ ngồi xuống đi đã. À phải rồi, Nhữ Dương lão vương phi thế nào rồi. Nửa tháng trước ta nghe nói lão vương phi ăn uống khó.”
Nhữ Dương vương Thế tử lấy lại bình tĩnh: “… Vài hôm trước gia mẫu đã đỡ, ăn uống, ăn uống bình thường rồi.”
Ngu Hầu cười híp mắt: “Ra là vậy, được rồi, được rồi.”
Nhữ Dương vương Thế tử không vui: “Ngu Hầu có ý gì?”
Ngu Hầu cười không đáp, Ngô đại tướng quân tiếp lời: “Ý của Ngu đại nhân là, để người khác không cảm thấy ông đang lừa vua nhận thưởng, nguyền rủa tôn thân đi sớm, sau này nên chờ bệnh tình nguy kịch thật thì hẵng bẩm báo…. Thế tử đừng trợn mắt với ta, ta cũng vì tốt cho Nhữ Dương vương phủ thôi.”
Nhữ Dương vương Thế tử đỏ mặt.
Kỳ thực đúng là ông ta không có giao tình với Lăng gia, nhưng nói gì lão nương cũng là mẹ ruột của mình, ngày trước khi thoi thóp nằm trên giường bệnh, liên tục xin hắn bẩm báo với Hoàng đế, sao hắn có thể không đồng ý.
“Cũng không phải Nhữ Dương vương phủ cố ý lừa bệ hạ chuyện của gia mẫu, thật sự, thật sự chưa từng ngờ…” Nhữ Dương vương Thế tử ra vẻ khó khăn, “Bệ hạ, dù gia mẫu hồ đồ nhưng Dụ Xương quận chúa vô tội! Nàng thủ tiết còn trẻ, luôn hiền thục nết na, chưa bao giờ hành sự ngang ngược, khó khăn lắm mới kết được nhân duyên lần này, vậy mà bây giờ đã, đã….”
Vừa nói ông ta vừa nức nở, “Sau huyết án, mẹ con Thuần Vu thị suốt đêm chạy tới chỗ gia mẫu, không khác gì chim sợ ná! May mắn Thuần Vu thị và gia mẫu quan hệ thân thiết, mười mấy năm qua vẫn luôn thư từ qua lại, đêm qua gia mẫu hay tin lập tức phái gia tướng đến cứu, lần này, lần này Nữ Oánh phải thủ tiết nữa rồi…”
Một hạ thần phốp pháp râu lệch đứng bật dậy, cao giọng nói: “Thế tử nói đúng! Ai chẳng có người thân, ai chẳng gặp tai nạn! Bệ hạ, thần cũng không che giấu, muội muội thần là vợ kế của Lăng lão nhị! Những năm trước thế đạo loạn lạc, hai lang tế trước sau của muội ấy đã qua đời, khó khăn lắm mới lấy Lăng lão nhị, cũng coi như vợ chồng ấm êm. Nào ngờ một đêm biến cố, muội ấy lại thành quả phụ! Lần này muội ấy về nhà đòi chết, thần biết nói lý lẽ với ai đây! Lăng Bất Nghi ôm hận vì mẹ thì chỉ nhắm vào Lăng Ích là đủ, hà tất đuổi cùng giết tận, giết cả Lăng lão nhị và Lăng lão tam. Không lẽ nổi điên lên là máu thành tính sao!”
Đại Việt Hầu cau mày: “Ông đừng nói ghê rợn như vậy. Nếu thật sự là máu thành tính đuổi cùng giết tận, muội muội rồi mấy đứa bé của cô ta làm sao có thể sống khỏe mạnh. Còn không mau ngồi xuống!”
Một vị đại nhân mặt đen người lùn khác không cam lòng nói: “Lăng Bất Nghi giết người không hề ít! Những đứa con trưởng thành của Lăng lão nhị và Lăng lão tam đứa chết đứa bị thương…”
Trung Việt Hầu nói: “Đao gươm không có mắt, lúc giao tranh ngươi chết ta sống, đâu để ý là con trai ai rồi lang tế của ai.”
Đại nhân mặt đen ngập ngừng, hậm hực ngồi xuống. Thiếu Thương đoán được ngay, có lẽ con gái của người mặt đen này được gả cho một đường huynh của Lăng Bất Nghi.
Một vị đại nhân mặt trắng ít râu bật dậy, nói với Kỷ Tuân ở đối diện: “Kỷ đại nhân, ngài là Đình Úy mà không nói câu nào à?”
Dưới ánh đèn, trên mặt Kỷ Tuân nhăn nheo nếp nhăn. Ông nói: “Đêm qua Lăng Bất Nghi phạm phải trọng tội, giết cha, giả chiếu chỉ, khinh suất động binh, lừa dối Đông cung, gây họa triều chính, dù là ân oán giữa vợ chồng hay cha con Lăng thị, hôm nay lão thần chỉ hỏi quốc pháp vương luật! Nếu xác thực những tội danh này, vậy Lăng Bất Nghi đáng chết vạn lần!”
Thiếu Thương thầm nhủ đúng là lợi hại, gừng càng già càng cay, như lão Kỷ đây mới gọi là đánh trúng chỗ hiểm.
Thôi Hầu đứng bật dậy, chỉ vào Kỷ Tuân nói nhanh: “Lão Kỷ, ông ông… Ông cũng nhìn Tử Thịnh lớn lên, năm thằng bé mười bốn tuổi chính ông đã dạy nó về luật lệ hình án… Bây giờ nó đang khổ sở thoi thóp dưới vách núi, sao ông có thể bỏ đá xuống giếng!” Nói đoạn, ông ta lại òa khóc.
Kỷ Tuân hệt như mỏm đá, sắc mặt oai nghiêm, không hé môi một lời.
Vị đại nhân mặt trắng râu ít xoay người chắp tay với Hoàng đế: “Bệ hạ, thân thích bao che âu là lẽ bình thường, chư vị đại nhân đây nếu có vướng mắc ắt cũng sẽ loạn. Nhưng quốc có quốc pháp, dẫu Lăng Bất Nghi có muôn vàn nỗi khổ cũng không thể điều binh loạn chính, suýt gây ra náo loạn tại sáu doanh trại. Nếu hôm nay bệ hạ không xử phạt thích đáng, thần e rằng tương lai sẽ có họa liên tục!”
Đại tư không Thái Doãn vỗ đùi khen: “Nói rất hay!”
Vị đại nhân râu lệch như có linh cảm, cũng nhào đến khóc rống: “Bệ hạ, thần biết bệ hạ nhớ tình xưa với Hoắc gia, nhưng ba anh em Lăng gia cũng có mấy chục năm kết giao với chúng thần, dù Lăng Ích yếu ớt song cũng từng cùng chúng thân xách đao giao chiến xông ra từ huyện Phong! Giờ đây cả nhà ông ta đã bị tiêu diệt gần hết, bệ hạ không thể không làm chủ cho họ!”
“Bệ hạ, đến phụ thân ruột thịt của mình Lăng Bất Nghi còn dám giết, chứng tỏ hắn quá lạnh lùng độc ác, không bằng cầm thú, bệ hạ chớ cần niệm tình dưỡng dục với hắn!”
Mười mấy vị đại thần còn lại cũng hưởng ứng, hoặc hô hào hoặc khóc lóc…
“Các ngươi nói đủ chưa!”
Một tiếng quát sắc sảo vút lên, mọi người vội nghiêng đầu nhìn, thấy Tam hoàng tử nổi giận gầm to.
Sương giá phủ lấy gương mặt của Tam hoàng tử, ánh mắt sắc như băng quét qua từng chúng thần: “Nói đi nói lại cũng chỉ có vài lời như thế, rốt cuộc khác gì sáng nay hả! Thân là hạ thần, không chịu tìm hiểu điểm kỳ lạ trong chuyện đêm qua mà chỉ biết cố niệm quan hệ thông gia nhà mình, lắm mồm lắm chuyện, làm rối um lên, cần các ngươi có ích gì nữa! Rốt cuộc lương trật các ngươi nhận được là triều đình hay Lăng gia phát!”
Dưới sự chấn nhiếp của Tam hoàng tử, chúng thần đồng loạt nín thinh thít.
Hoàng đế nghiêng đầu, vẻ mặt phức tạp nhìn con trai; hai vị Việt Hầu nhìn cháu ngoại với ánh mắt vừa kiêu ngạo vừa khó xử; Ngu Hầu mỉm cười bình tĩnh ung dung, Ngô đại tướng quân rất quen thuộc chuyển bầu rượu nhạt trước mặt Ngu Hầu đến chỗ mình.
Thiếu Thương nghĩ, nếu so về oai phong và khí phách, có một chuỗi Thái tử cũng không bằng được Tam hoàng tử.
“Từ nhỏ Tử Thịnh được nuôi dưỡng ở Trường Thu cung, phụ hoàng hết lòng bồi dưỡng, bọn ta cũng coi như huynh đệ, đến kẻ mù cũng nhìn thấy hắn có tương lai tiền đồ như gấm, rực rỡ vô biên! hắn điên hay ngu mà đang yên đang lành lại chạy đi tiêu diệt phụ tộc của mình, rồi lại để một đám còn không bằng kẻ mù như các ngươi lên án hắn?! Các ngươi lắp não vào mà nghĩ cho kỹ, với tính cách chín chắn của Tử Thịnh, rốt cuộc vì sao hắn phải gây nên chuyện khó tin đến thế, còn hơn là ở đây lải nhải, nhai đi nhai lại mấy lời cũ rích!”
Tiếng quát của Tam hoàng tử như sấm giáng, rất có khí thế áp đảo, nhóm Nhữ Dương vương Thế tử không dám ngóc đầu lên. Thôi Hầu vừa lau nước mắt vừa nói: “Tam điện hạ nói phải, chắc chắn trong chuyện này có điểm lạ!”
Một lúc lâu sau, đại nhân mặt trắng râu ngắn mới hỏi thử: “Dám hỏi Tam điện hạ, điện hạ cho rằng kỳ lạ ở chỗ nào?”
“Cô không biết, nhưng cô biết chắc trong chuyện này có ẩn tình. Còn về ẩn tình gì thì ngươi cứ chờ tự đánh giá đi! Bằng không còn cần chúng thần làm gì nữa hả?!” Tam hoàng tử thực sự ngang ngược bất chấp lý lẽ.
Thiếu Thương tiếp tục thở dài.
Không biết là vị đại thần nào đã từng nói, vua tôi cũng như thê thiếp, người có học chưa trải nghiệm thực tế cũng như đàn ông tự cho là đúng. Đàn ông luôn hy vọng thê thiếp hòa thuận vui vẻ, nhưng đấy chỉ là chuyện trong truyền thuyết. Trên thực tế, không phải quân mạnh thần yếu thì cũng là quân yếu thần mạnh, rất ít khi có ngoại lệ. Nhưng so với Thái tử đến những hạ thần trung đẳng còn không đối phó được thì Tam hoàng tử áp đảo hơn nhiều.
Đại tư không Thái Doãn nhìn Ngu Hầu, Ngu Hầu khẽ gật đầu, Thái Doãn chắp tay: “Chuyện xảy ra gấp gáp, nhiều lời rối rắm, chẳng hay Tam điện hạ có nhận xét gì, chi bằng nói ra để bệ hạ và các ngu thần rửa tai.”
Thiếu Thương thầm mắng: Đồ lão già xảo quyệt, quả nhiên ông và cháu rể tương lai của mình là trời sinh một đôi!
Tam hoàng tử tỏ vẻ hài lòng với bầu không khí hiện tại, thủng thẳng nói: “Trình thị, ngươi nói đi. Đêm qua chính ngươi đã bẩm báo với phụ hoàng chuyện Tử Thịnh đến biệt viện Lăng gia, vì sao ngươi lại biết.”
Lời thốt ra, ánh mắt của mọi người đồng loạt bắn về phía cô gái luôn im lặng kể từ khi đi vào.
Vị đại nhân mặt trắng râu ngắn nói: “Ra là Trình nương tử, Lăng Bất Nghi là lang tế tương lai của ngươi, lẽ nào bây giờ ngươi muốn phân bua cho hắn?”
Tam hoàng tử cướp lời: “Ngay ban nãy Đinh đại nhân còn nói thân thích bao che là lẽ thường tình, giờ Trình thị cầu tình thì làm sao?”
Đinh đại nhân á khẩu, đoạn nói: “Trình tiểu nương tử, tuy Lăng Bất Nghi phạm phải tội tày trời, nhưng dù sao cũng có tình hôn nhân với ngươi, vì sao đêm qua ngươi lại cáo trạng hắn?”
“Ấy là vì tình hôn nhân vẫn chưa thành, Trình thị nghĩ cho gia tộc cha anh nhà mình trước thì làm sao!” Tam hoàng tử mất kiên nhẫn.
Chúng thần: … Lý lẽ bị ngươi nói hết rồi, dĩ nhiên bọn ta cũng không dám ‘làm sao’.
Ngu Hầu khẽ cười, bước ra giảng hòa: “Đinh đại nhân chớ nóng nảy, cứ nghe xem Trình tiểu nương tử nói gì đã. Trình thị, có phải Tử Thịnh đã tiết lộ nội tình với ngươi không, ngươi cứ nói từng chuyện một.”
Thôi Hầu cũng nói to: “Đúng vậy, Thiếu Thương cháu nói đi nói đi!”
Thiếu Thương cúi thấp đầu như mọi tiểu cô nương rụt rè không chỗ dựa, “Trước đêm hôm qua, Tử Thịnh đại nhân không hề nói gì với thiếp cả.”
Ngu Hầu nghi hoặc: “Vậy làm sao ngươi biết đêm qua Tử Thịnh sẽ ra ngoài thành, rồi vì sao lại biết hắn làm hại phụ tộc?”
“Thực ra từ lâu trong lòng thiếp đã luôn nghi ngờ Tử Thịnh đại nhân.” Tiểu cô nương chậm rãi ngẩng đầu, ánh mắt yếu đuối lướt qua các chư thần bên dưới như đang cầu cạnh, “Chẳng nhẽ các vị đại nhân chưa bao giờ cảm thấy trên người Tử Thịnh đại nhân có điểm kỳ lạ ư?”
Chúng thần: Ngươi đã nói như vậy thì lý nào bọn ta có thể nói không, vậy là mọi người đồng loạt ậm ờ mấy tiếng cao thấp không đều.
“Nhớ mỗi lần đến biệt viện Hạnh Hoa, A ảo hầu hạ Hoắc phu nhân từng nói với thiếp, Hoắc phu nhân rất thương yêu con trai, không cho con trai lên bất cứ chỗ cao nào. Nhưng thiếp nhớ Tử Thịnh đại nhân từng nói, hồi bé phụ thần thường ném bổng ngài ấy lên rồi đón lấy. Chư vị đại nhân có cảm thấy kỳ lạ không?” Thiếu Thương nói.
Chúng thần thầm nghĩ: Chuyện này kỳ chỗ nào, nghe một tiểu nữ nương không học hành như ngươi đứng trên đại điện nói chuyện mới là kỳ lạ!
Cuối cùng vẫn là Ngô đại tướng quân mở miệng: “Kỳ lạ chỗ nào, chỉ là hai chuyện không liên quan.”
“Không phải thế.” Thiếu Thương bất đắc dĩ, “Nếu Hoắc phu nhân không cho phép con trai lên bất cứ chỗ cao nào, thì sao có thể để Lăng Hầu thường xuyên ném con lên rồi bắt lấy?”
Chúng thần ngẩn người, Đinh đại nhân nói: “Có lẽ Hoắc phu nhân tin rằng lang tế sẽ không làm con trai ngã, hoặc có lẽ Lăng Hầu giấu Hoắc phu nhân chơi đùa với con trai… Đây chỉ là chút chuyện nhỏ ở nội trạch, có gì đáng thắc mắc!”
Mọi người đồng loạt gật đầu tỏ vẻ đồng ý.
Hoàng đế chợt mở lời: “Không đúng, phải mất nhiều năm Quân Hoa mới mang thai, vì thế rất để ý đến con trai. Dù là ở nhà, Lăng Ích cũng chưa bao giờ dám ném con lên cao. Thiếu Thương, ngươi nói tiếp đi.”
Chúng thần rụt cổ.
Thiếu Thương cung kính chắp tay: “Nếu chỉ có một chuyện như vậy thì thiếp cũng sẽ không nghi thần nghi quỷ… Dám hỏi đại tướng quân, ngài có biết năm xưa khi thất lạc, mẹ con Hoắc phu nhân đã trở về như thế nào không?”
Ngô đại tướng quân không hiểu: “Ngươi có ý gì. Không phải là Lăng Ích tục huyền không lâu thì nàng ta tự tìm về à, còn gây nên náo loạn ầm ĩ. Chuyện này thì sao?”
Thiếu Thương hỏi ngược lại: “Ngu Hầu ngài cũng nghe nói như vậy ạ?”
Ngu Hầu: “Lý nào không phải như vậy?”
“Không đúng!” Thôi Hựu la lên, “Không phải Quân Hoa tự tìm về, mà là chính ta đón nàng ấy về!”
Hoàng đế cũng ngạc nhiên.
Vị đại nhân râu lệch kia nói: “Sao có thể có chuyện này, ta nghe phu nhân trong nhà nói Hoắc phu nhân tự tìm về, còn vừa đánh vừa chửi Lăng Ích, nói ông ta vô lương tâm quên sống chết của mẹ con họ.”
Thôi Hựu lại la lên: “Không đúng không đúng, hai năm ấy Quân Hoa luôn trốn ở quê, nếu không phải ta vô tình nghe thấy dân làng bàn luận mà tìm đến, thì không biết bao giờ mới tìm được Quân Hoa về! Chuyện chuyện chuyện… chuyện này bệ hạ cũng biết mà…!”
Quần thần bàn luận sôi nổi.
Ngu Hầu trầm ngâm, cao giọng nói: “Chư vị yên nào, ta nghe nói… Năm đó chiến tranh quá kịch liệt, các tướng lĩnh thần công bên cạnh bệ hạ cũng không được rảnh rỗi. Khi Hoắc phu nhân thất lạc tìm về, ta đang ở Hà Tây thuyết phục vài vị danh sĩ, lão Ngô và tướng lĩnh cũng đang bàn chuyện, nên mãi về sau chúng ta mới nghe nói lại chuyện này.”
Hoàng đế gật đầu: “Đúng vậy. Lúc ấy bên cạnh trẫm chỉ có Thôi Hựu đang huấn luyện mật thám. Lăng Ích cũng vừa tổ chức hôn sự, vẫn chưa rời đi. Đúng là chính Thôi Hựu tìm Quân Hoa về.”
Ngô đại tướng quân không tinh tế bằng Ngu Hầu, vẫn hỏi: “Nhưng thế thì sao?”
Thiếu Thương lập tức nhìn Thôi Hựu: “Thôi thúc phụ, ngài và Hoắc phu nhân lớn lên cùng nhau, ngài không cảm thấy chuyện năm ấy rất lạ lùng ư. Đâu phải Lăng Ích chưa từng nạp thiếp, nhưng cớ gì phu nhân lại muốn sống muốn chết với Thuần Vu thị? Khi ấy Thuần Vu thị đang mang thai, Hoắc phu nhân giả vờ đồng ý, sau đó từ từ nghĩ cách đuổi Thuần Vu thị đi là được mà, đâu phải ngày trước bà ấy chưa từng làm.”
Vị đại nhân mặt đen cao giọng nói: “Ta là người huyện Nhiêu nhưng cũng nghe nói Hoắc phu nhân độc ác ương bướng, tính khí khó chịu. Khi Hoắc Xung tướng quân còn sống, dĩ nhiên nàng ta có thể từ từ dày vò cơ thiếp, nhưng khi Hoắc Xung tướng quân qua đời, nàng ta không nơi nương tựa, nên mới muốn sống muốn chết!”
Thiếu Thương phản đối: “Không đúng. Sự nôn nóng độc ác của Hoắc phu nhân lúc ấy khác với trước kia, không phải ép Thuần Vu thị không được vào cửa Lăng gia, mà là muốn giết chết Thuần Vu thị! Thế tử điện hạ, chuyện này hẳn điện hạ cũng biết.”
Nhữ Dương vương Thế tử thấy quân thần đồng loạt nhìn sang, vội đáp: “Không sai! Lúc trước mẫu thân thường bảo Hoắc phu nhân lòng dạ ác độc. Khi ấy mẫu thân thấy bệ hạ thương hại cả nhà Hoắc gia trung liệt nên mới nhân nhượng một bước, định chờ Thuần Vu thị sinh con xong sẽ tìm một lang tế khác như ý cho nàng ta – Thuần Vu phu nhân cũng đồng ý. Nào ngờ Hoắc phu nhân không chịu tha, khăng khăng đòi giết chết Thuần Vu phu nhân, ầm ĩ quá lớn nên cuối cùng mới hủy hôn!”
Trong điện lập tức xôn xao, Đinh đại nhân mặt trắng chậm rãi nói: “Vẫn chỉ là chuyện nhỏ, được tìm về hay tự quay về có gì quan trọng? Ép Lăng Hầu bỏ Thuần Vu thị còn chưa đủ, Hoắc phu nhân lại khăng khăng đòi giết người, sau đó hủy hôn phát điên, mà nói không chừng lúc đó nàng ta đã điên rồi…”
Thôi Hầu đang định mắng lại thì Thiếu Thương đã cướp lời: “Nhưng nếu Hoắc phu nhân không hề điên? Nếu từ trước đến giờ bà chỉ giả điên thì sao!”
Chợt ngoài điện vang lên tiếng sấm đầu xuân, chúng thần kể cả Hoàng đế kinh ngạc sững sờ.
Bên ngoài vang lên tiếng tí tách, hóa ra mưa xuân đã rơi. Tam hoàng tử lên tiếng: “Không ổn, Tử Thịnh vẫn đang nằm dưới vách núi, phụ hoàng…” Hắn khẩn cầu nhìn Hoàng đế.
Hoàng đế lại chỉ nhìn Thiếu Thương đăm đăm: “Ngươi nói tiếp đi.”
Lồng ngực Thiếu Thương nhói đau, nàng nói: “Sau khi đính hôn với Tử Thịnh đại nhân, gia mẫu cũng từng nghe về chuyện cũ giữa hai nhà Hoắc Lăng, cũng nghe được ‘Hoắc phu nhân tự trở về’. E rằng đa số mọi người trong đô thành đều nghe tin ấy. Nhưng không ai để ý rằng, thiếp nghĩ, chỉ cần có người điều tra rõ sẽ phát hiện, thực chất chính biệt viện Hạnh Hoa đã tung tin ‘Hoắc phu nhân tự trở về’.”
Thôi Hựu cứng lưỡi: “Cháu nói là, là Quân Hoa tự làm? Chuyện chuyện chuyện, chuyện này là vì sao…”
“Thôi thúc phụ, ngài nhớ lại dáng vẻ của Hoắc phu nhân trước khi lâm chung đi, ngài cảm thấy bà ấy điên thật ư?” Thiếu Thương ứa lệ.
Thôi Hữu nhớ lại chuyện đêm ấy, bên tai là tiếng gào khóc thê lương đau nhói tận tim của Hoắc Quân Hoa: ‘Ta là kẻ mù, là đồ ngu, nếu ta cưới huynh thì tốt quá’… Ông điếng người, trong lòng đã mơ hồ có suy đoán.
Hoàng đế xoay cả người lại, nhìn thẳng vào Thiếu Thương nói: “Còn gì nữa không?”
“Có ạ!” Thiếu Thương đáp chắc nịch.
“Những năm qua, Tử Thịnh không thể hầu hạ Hoắc phu nhân, có lẽ bệ hạ biết được nguyên nhân trong đó.”
Hoàng đế nói: “Đương nhiên trẫm biết! Vì mỗi lần Quân Hoa thấy Tử Thịnh là lại nhớ đến Lăng Ích, chứng điên khởi phát!”
“Bệ hạ nghĩ kỹ đi, bệ hạ thực sự cảm thấy Tử Thịnh đại nhân và Lăng Hầu giống nhau ạ?” Thiếu Thương nói lớn.
Hơi thở của Hoàng đế bắt đầu bất ổn, hai mắt mở to.
Thiếu Thương đánh bạo nhìn thẳng vào Hoàng đế: “Thiếp không hề cảm thấy Tử Thịnh đại nhân và Lăng Hầu giống nhau chút nào. Rõ ràng chàng giống Hoắc phu nhân, nhưng Đại Việt Hầu từng nói, Hoắc phu nhân lại rất giống huynh trưởng Hoắc Xung tướng quân, nên…”
“Nên sự thật là, Tử Thịnh giống Hoắc Xung tướng quân?” Tam hoàng tử thốt lên.
Thiếu Thương quay người, nói với các vị đại thần: “Thiếp còn tấm bé, nhưng ắt hẳn các vị đại nhân đây đều đã gặp Hoắc Xung tướng quân, thiếp cả gan xin chư vị nhớ kỹ lại, rốt cuộc tướng mạo của Tử Thịnh đại nhân giống ai?!”
Ngoài điện lại vang lên trận sấm mùa xuân, như búa nặng đập vào tim mọi người, sắc mặt mỗi người thay đổi rất ngoạn mục.
“Nói hết đi!” Hoàng đế thở dốc, hai tay siết chặt tay vịn.
“Trong lòng thiếp có suy đoán mơ hồ nhưng không dám nói ra. Mãi đến đêm hôm qua, chính miệng Tử Thịnh đại nhân nói với thiếp, chàng không phải con của Lăng Hầu mà là con của Hoắc Hầu đã qua đời. Năm ấy trọng binh bao vây cô thành, chính Lăng Hầu đã thông đồng với ngoại địch hại chết già trẻ Hoắc gia, vì thế đêm qua ngài ấy mới báo thù rửa hận!”
Vừa dứt câu, trong điện vang lên tiếng cảm thán nối tiếp, ngay đến Ngu Hầu luôn thong dong bình tĩnh cũng khiếp sợ ra mặt, ngồi thẳng người dậy, Ngô đại tướng quân đã làm đổ bầu rượu.
Đại Việt Hầu vừa kinh ngạc vừa phá lệ nhìn Thiếu Thương, nghĩ bụng tiểu nữ nương này đúng là thông minh. Nếu nàng vừa vào đã nói chuyện này, chắc hẳn mọi người sẽ mắng nàng ta ăn nói càn rỡ; nhưng đầu tiên nàng ta ra vẻ yếu đuối, sau đó lần lượt dẫn dắt móc nối mọi chuyện với nhau, kéo tâm trạng của tất cả mọi người trong điện đến điểm then chốt, sau đó giáng mạnh trọng chùy, cuối cùng đạt được hiệu quả.
Sau một hồi kinh ngạc, không khí trong điện như có ngòi nổ bị châm lửa, bắt đầu nổ bùm bụp.
Đại nhân râu lệch giận dữ đứng dậy: “Hàm hồ! Ta chưa từng nghe nói về chuyện này, ngày trước Hoắc Xung trấn thủ cô thành, dùng mấy ngàn binh mã ngăn chặn hai trăm nghìn tặc tử manh giáp, bọn ta vô cùng kính nể cảm kích! Nhưng không thể vì Lăng Ích không chết trong trận chiến thủ thành mà nói ông ta cấu kết với ngoại địch!”
Đại nhân mặt đen cũng quát to: “Đúng thế! Hoắc Xung tướng quân thương yêu Hoắc phu nhân, Lăng Ích lại không giỏi chinh chiến, nên mỗi lần ra trận Hoắc Xung tướng quân đều để Lăng Ích ở lại nơi an toàn phía sau, không để ông ta bị liên lụy, chuyện này ai cũng biết! Cô thành nọ tựa lưng vào núi Tuần Dương, ba huynh đệ Lăng gia được sắp xếp trông coi lương thảo ở nơi đó. Sau khi thành bị phá, Lăng gia cũng là bên cuối cùng gặp quân địch!”
Thôi Hầu điên cuồng hét lớn: “Toàn quân khắp thành đều đã chết, ngay tới phụ nữ già trẻ ở Hoắc gia cũng chết, dựa vào đâu Lăng Ích vẫn sống, cả nhà bọn họ vẫn còn sống! Trên đời này lý nào lại có chuyện trùng hợp như vậy!”
Nhữ Dương vương Thế tử thấp giọng cãi: “Còn không phải vì bọn ta cứu binh kịp thời ư? Nửa ngày sau khi thành bị công phá, Ngô đại tướng quân đã dẫn binh đến…”
Ngô đại tướng quân lên tiếng: “Nói thế không đúng. Dù thủ thành đến mức gian nan nhất thì vẫn còn tiền quân hậu quân, xung phong hoặc bọc hậu, lẽ ra tướng sĩ binh lính phải lên đầu tường thủ thành mới đúng! Khi ấy ta đã cảm thấy lạ, phụ nữ già trẻ được bố trí sau thành dưới chân núi Tuần Dương nghe còn hợp lý, nhưng ba huynh đệ Lăng gia và bộ khúc đều là tráng dũng, cớ gì lại trốn tránh ở đó?”
Trung Việt Hầu nhếch mép: “Lẽ nào Lăng Ích tham sống sợ chết, trốn tránh không chịu ra?”
Đại nhân râu lệch vẫn gầm to: “Sao ông dám ngậm máu phun người! Nói không chừng Lăng Ích đang bảo vệ phụ nữ trẻ nhỏ.”
Thôi Hầu chửi lại: “Họ Vũ kia, ông cũng đã từng ra trận, cũng từng thủ thành, mà giờ bị ngu rồi hả! Một khi thành bị công phá, phụ nữ trẻ nhỏ khó thoát khỏi đại nạn, để lại nhân lực bảo vệ phụ nữ trẻ nhỏ cái gì, đương nhiên phải lên tường thành chống lại địch! Ta biết nhiều năm qua huynh muội các ông sống nương tựa vào nhau, tình thâm nghĩa hậu, nhưng ông chớ bị mê muội lương tâm!”
“Mê muội lương tâm cái gì! Nếu Lăng Ích thật sự thông đồng với ngoại địch, há nào ta lại hạ thủ lưu tình! Nhưng hôm nay chỉ bằng đôi ba lời của Lăng Bất Nghi, ông lại muốn để toàn tộc Lăng thị bị định tội chết hả!”
“Đúng! Chuyện của mười mấy năm trước, ba anh em Lăng thị đã chết, bây giờ chết không còn đối chứng, không phải ai thích nói gì thì nói hả!”
“Không hẳn, dù huynh đệ Lăng Hầu còn sống, lý nào bọn họ chịu ngoan ngoãn thừa nhận nhà mình cấu kết với ngoại giặc? Khi ấy là lúc bệ hạ chúng ta đang khó khăn nhất, nếu Lăng Ích thật sự đâm một đao sau lưng, tội danh còn nặng hơn cả Bành Chân!”
“Nói nhảm nhiều như vậy ích gì, có chứng cứ hẵng nói, không thì đừng nói lung tung!”
…
“Được rồi!” Tam hoàng tử mất kiên nhẫn, nghiêm nghị quát: “Phụ hoàng vẫn còn đây, các ngươi dám thất lễ trước quân vương hả!”
Chúng thần không cam lòng ngồi xuống, đồng thời nhìn ý của vị trên ghế ngự.
Nào ngờ Hoàng đế đã dựa cả người vào tay vịn, một tay che mặt, nước mắt dưới bàn tay tuôn như suối.
Quần thần lập tức im bặt.
“Hóa ra, nó không phải A Ly, nó là A Tranh.” Hoàng đế chầm chậm buông tay, để lộ khuôn mặt đầy nước mắt đau thương, “A Tranh lớn hơn A Ly hai tháng. A Tranh sinh ra đã vui vẻ, gặp ai cũng cười. Nhưng A Ly ốm yếu từ nhỏ, cho nên Quân Hoa mới lấy tên của A Tranh, Lăng Bất Nghi, Hoắc Bất Nghi… A a, a a…”
Thấy tình hình ấy, hội Ngu Hầu đã hiểu rõ, mà những hạ thần luôn nói đỡ cho Lăng Ích cũng ngạc nhiên.
Thiếu Thương im lặng gạt nước mắt, trong đầu nghĩ, hóa ra chàng tên là A Tranh – Tranh là kỳ thú thượng cổ, vừa đáng sợ nhưng cũng dũng mãnh.
Vị Đinh đại nhân mặt trắng thấy tình hình không ổn, vội thưa: “Bệ hạ hẵng khoan kết luận chuyện này đã, cậu cháu giống nhau cũng là chuyện bình thường, Lăng Bất Nghi giống Hoắc Xung tướng quân cũng không có gì lạ…”
“Nhưng nếu cậu ta đúng là con của Hoắc Xung thì sao?” Ngu Hầu ngắt lời ông ta.
Ngô đại tướng quân tiếp lời: “Đúng thế, con trai của liệt sĩ lại chết đi như vậy?”
Nhữ Dương vương Thế tử ôm đầu, mệt mỏi nói: “Hai vị đại nhân cũng có tình thông gia với Lăng thị, vì sao không nói đỡ cho Lăng gia…”
Ngu Hầu sờ mũi, cười nói: “Ta không thân với tộc đệ ấy cho lắm, và cũng chưa từng gặp con gái của hắn. Lão Ngô ông nói đi, người cưới con gái Lăng gia chính là đường đệ ruột của ông.”
“Thôi đi.” Ngô đại tướng quân giễu, “Hồi ta còn bé nhà nghèo, chẳng thấy thân thích nào đến cứu trợ, ta còn tưởng thân thích chết hết cả rồi. Đến khi ta lập nên công danh, họ hàng mới lục tục kéo đến tìm ta. Ta thấy cũng lạ, lẽ nào một người khi thăng quan tiến chức thì họ hàng cũng sẽ nhiều lên sao.”
Đại tư không Thái Doãn và hai vị Việt Hầu cười phá lên, sắc mặt của Đinh đại nhân vô cùng khó coi.
Ngô đại tướng quân nói: “Dù ta cũng xuất thân từ quận Cảnh Thăng nhưng chưa bao giờ có quan hệ tốt với Hoắc Xung. Bởi vì ta nóng tính, thiết giết chóc đánh lộn, ông ấy lại muốn quở trách ta, nên ta không thích qua lại với ông ấy.”
Sắc mặt mấy người Đinh đại nhân dần khá lên.
“Nhưng…” Ngô đại tướng quân nói tiếp, “Ai cũng biết năm xưa trấn thủ tòa cô thành ấy là chuyện thập tử nhất sinh, đáng nhẽ ta phải đi, nhưng ta lo cho mẹ già không ai phụng dưỡng nên cứ lần lữa, cuối cùng nghe nói Hoắc Xung đã lĩnh mệnh. Những năm qua ta thường nghĩ, nếu ngày ấy người đi là ta, liệu các đồng liêu thấy ta chết thì sẽ chăm sóc cho mẹ già con nhỏ của ta, hay sẽ giẫm đạp giày xéo đây.”
Trong đại điện lặng như tờ, không ai dám tiếp lời.
Đại Việt Hầu chau mày bảo: “Nói càn, tính ông chỉ đánh tiên phong, làm gì thủ được thành.”
Ngô đại tướng quân đổi hướng: “Ta thích đánh tiên phong, ông là người có học, lão Ngu chỉ có được cái miệng. Nhưng kiểu gì cũng có người biết thủ thành, vì sao lúc ấy không ai lĩnh mệnh?”
Những võ tướng nói hộ Lăng gia không lên tiếng. Ngu Hầu kéo khóe miệng: “Xem ra ông tiến bộ rồi, còn biết nói vòng vo cơ đấy.”
Đinh đại nhân mặt trắng mất kiên nhẫn, mồ hôi úa ra trên trán nhễ nhại, cao giọng tâu với Hoàng đế: “Bệ hạ, xin nghe thần nói một lời nữa! Chuyện này quá nghiêm trọng, không thể khinh suất kết luận Lăng Bất Nghi là con ai được! Lẽ nào đến cả con mình mà Lăng Hầu cũng không nhận ra ư, nhiều năm qua chưa từng nghe thấy Lăng Hầu có nghi vấn gì…”
“Không phải đại nhân mới nói ‘cậu cháu vốn giống nhau’ à, nói không chừng A Ly con của Lăng Hầu cũng giống Hoắc Xung tướng quân, nên hai huynh đệ cách nhau hai tháng tuổi cũng giống bảy tám phần?” Thiếu Thương thấp giọng nói.
Đinh đại nhân bị nắm thóp, tức giận nói: “Giống đến đâu cũng không có chuyện Lăng Hầu không nhận ra con mình!”
Thôi Hầu chợt hiểu ra, nói: “Nên Quân Hoa mới trốn ở quê không chịu quay về. Nàng định chờ thêm mấy năm nữa, chờ khi Tử Thịnh lớn lên khác biệt mới trở lại, nào ngờ chỉ mới hơn một năm đã bị ta tìm ra! Không phải nàng ấy thật sự muốn giết Thuần Vu thị, mà là muốn gây lớn chuyện không thể giải quyết, sau đó nhân cơ hội hủy hôn với Lăng Ích, như thế Lăng Ích sẽ không thể gặp con trai…”
Đinh đại nhân cười lạnh: “Thôi Hầu chớ tự đoán càn, bệ hạ và Hoắc Xung tướng quân có ân tình bậc nào, cớ gì Hoắc phu nhân phải ẩn nấp mấy năm, cứ báo thẳng chuyện này cho bệ hạ biết là đủ, lẽ nào bệ hạ không làm chủ cho nàng ta?! Nếu Lăng Ích thực sự hại chết Hoắc Xung thì có một trăm Lăng thị cũng bị tru di toàn tộc!”
Thôi Hữu cứng họng.
“… Đó là vì, Hoắc phu nhân lo không ai tin lời mình.” Tranh cãi nãy giờ, Đại Việt Hầu luôn đa mưu túc trí lần đầu tiên chủ động đưa ra ý kiến, mọi người ngoái nhìn ông.
Ông lặp lại lần nữa, “Vì Hoắc phu nhân cho rằng sẽ không ai tin mình. Có lần thần muội gặp nạn, bệ hạ từng nói, cả đời này sẽ không bao giờ tin Hoắc phu nhân nữa. Nên là, Hoắc phu nhân định tự tìm bằng chứng Lăng Hầu móc nối với địch.”
Thiếu Thương đau đớn nhắm mắt lại.
Trên đời này nào có nhiều việc liệu sự như thần cơ chứ, chẳng qua chỉ là trời xui đất khiến, Hoắc phu nhân không phải người thông minh, bà chỉ làm theo quyết định mà bản thân cho là tốt nhất.
Ánh mắt Đinh đại nhân thoáng dao động, lạnh lùng nói: “Dù ta ở huyện Nhiêu nhưng cũng thường nghe nói thuở nhỏ Hoắc phu nhân thích nói dối. Năm đó chỉ vì hãm hại Việt nương nương mà đặt điều rất nhiều! Khi Hoắc gia tuẫn thành, Lăng Bất Nghi chỉ mới năm sáu tuổi, nếu Hoắc phu nhân vì giận Lăng Hầu hai lòng, ngày ngày nói dối với con nhỏ khiến Lăng Bất Nghi tin thật thì sao?”
Mọi người cẩn thận suy ngẫm, đúng là rất có khả năng này.
Thôi Hầu giận dữ quát to: “Rõ ràng Tử Thịnh là con trai Hoắc Xung, trả thù rửa hận là lẽ bất di bất dịch!”
Đinh đại nhân không hề nhượng bộ: “Nếu Lăng Bất Nghi bị Hoắc phu nhân lừa mình là con của Hoắc Xung, nhưng thực chất là con của Lăng thị, vậy hắn vẫn phạm phải tội giết cha!”
Người kia nói: “Nếu người nhà Lăng thị đều đang trốn trong núi Tuần Dương, vậy đứa con của hai nhà tráo đổi như thế nào?”
“Tóm lại chuyện này có quá nhiều điểm khả nghi, thần kính xin bệ hạ điều tra rõ ràng!”
Thiếu Thương cảm thấy tay chân mình lạnh buốt, trước mắt nhòa đi, xúc giác cũng trì trệ. Nàng không còn sức làm trò nữa, cố cao giọng nói: “Bệ hạ!”
Hoàng đế như đang trầm ngâm suy tư, nghe tiếng gọi mới giật mình hoàn hồn.
Thiếu Thương rưng rưng khấu đầu, đoạn bẩm: “Bệ hạ, cuối cùng hôm nay thiếp cũng đã hiểu được nỗi khổ của Tử Thịnh đại nhân.” Ánh mắt nàng lướt qua từng người một trong điện.
“Thời gian dần trôi, chẳng những Tử Thịnh đại nhân không có bằng chứng Lăng Hầu cấu kết với ngoại địch, mà thậm chí còn chẳng cách nào chứng minh mình là con ai! Lăng Hầu đã chết, ấy là chết không có đối chứng! Nhưng nếu Lăng Hầu còn sống, ông ta vẫn sẽ nhận định Tử Thịnh đại nhân là con trai mình, con trai sao có thể giết cha!”
“Cuối cùng thiếp cũng đã hiểu, Tử Thịnh đại nhân đã hết đường nên đêm qua mới đưa ra hạ sách đó.”
Nghe tới đây, cuối cùng Tam hoàng tử cũng đã hiểu rõ ngọn nguồn, trong lòng khó chịu, đấm liên tục vào chân. Thôi Hầu đã khóc òa: “Tử Thịnh, đứa trẻ đáng thương…”
Kỷ Tuân im lặng nãy giờ bỗng đứng lên thưa: “Bệ hạ, cuối cùng vẫn không thể chắc chắn Lăng Bất Nghi là con ai, nhưng lỡ đâu có ngộ nhỡ! Ngộ nhỡ cậu ta là Hoắc…”
“Trẫm có cách chứng minh.”
Lão Kỷ chưa nói hết câu thì Hoàng đế đã ngắt lời, chúng thần người kinh ngạc, người vui mừng người hốt hoảng nhìn ông. Một tay Hoàng đế day huyệt thái dương, tay kia lắc nhẹ: “Các khanh đừng nói, để trẫm nhớ lại.”
Thế là không ai dám lên tiếng, trong điện lắng đến nỗi có thể nghe được tiếng kim rơi.
Không biết bao lâu trôi qua, Hoàng đế ngẩng đầu lên, hỏi Ngô đại tướng quân: “Khanh có nhớ trên người Hoắc Xung huynh trưởng có vết bớt không?”
Ngô đại tướng quân lúng túng: “Bệ hạ, thần vừa nói rồi đấy, thần và Hoắc tướng quân không thân thiết.”
Rồi Hoàng đế nhìn Thôi Hầu, Thôi Hữu cũng khổ sở: “Hoắc Xung huynh trưởng lớn hơn thần mấy tuổi, khi thần còn chạy chơi bên bờ sông thì huynh trưởng Hoắc gia đã lấy vợ. Hơn nữa, Hoắc huynh trưởng luôn chú trọng ăn vận chỉnh tề, lễ phép chu toàn, chưa bao giờ phanh ngực lộ lưng, nên cũng không ai biết…”
Hoàng đế lại đảo mắt, Ngu Hầu và hai vị Việt Hầu lập tức bày tỏ ‘chúng thần ở huyện bên’.
“… Khoan khoan.” Nhữ Dương vương Thế tử cố gắng nhớ lại, bỗng vỗ đầu cao giọng nói, “Thần nhớ ra rồi. Đúng là Hoắc Xung có một vết bớt, nằm ngay trước ngực! Có năm ông ấy và bệ hạ nghịch bùn quay về, sợ mẫu thân trách móc nên chính thần đã trộm củi đến đun nước!”
“Đúng!” Hoàng đế vỗ tay, “Vết bớt ấy to bằng hai lòng bàn tay! Hoắc Xung còn bảo chúng ta không được nói ra, vì tổ tiên nhà ông ấy từng bị bắt gặp hình dáng vị trí của vết bớt mà bị vu cổ nguyền rủa đến chết!”
“Bệ hạ quả là có trí nhớ tốt!” Nhữ Dương vương Thế tử ca ngợi, “Hồi ấy chúng ta còn chưa tới mười tuổi, mới chớp mắt đã hơn bốn mươi năm! Vậy mà bệ hạ vẫn còn nhớ chút chuyện nhỏ này.”
“… Hôm ấy là tiệc đầy tháng của A Tranh, chúng ta đều uống say.” Hoàng đế có trí nhớ rất tốt, nhưng dù gì cũng là lời say của hơn hai mươi năm trước, bởi vậy mới khó nhớ, “Khi ấy nằm trên bàn rượu, Hoắc Xung huynh trưởng chợt nói, A Tranh có một vết bớt y hệt ông ấy, nhưng vị trí và kích thước khác nhau.”
Cuối cùng Kỷ Tuân cũng thở phào: “Vậy thì tốt quá, thần sẽ lập tức phái người cứu Tử Thịnh dưới đáy vực lên, kiểm tra xem có vết bớt không sẽ khắc biết!”
Các vị đại thần nói đỡ cho Lăng gia nghe thế thì nơm nớp thấp thỏm.
Nếu Lăng Bất Nghi mang họ Hoắc thật, thứ nhất sẽ không bị khép vào trọng tội giết cha, thứ hai Hoàng đế tất sẽ bảo toàn tính mạng cho hắn ta. Những chuyện khác có thể bỏ qua, vì tội làm loạn binh quyền thuộc về vấn đề bàn luận, nếu Hoàng đế sống chết không muốn truy cứu thì cũng không ai làm được gì.
Nhưng bọn họ không biết rằng, ngay cả Thôi Hầu và Tam hoàng tử cũng thấp thỏm y hệt.
Với Thôi Hựu, nếu Lăng Bất Nghi họ Lăng thì ấy là con trai của Hoắc Quân Hoa, có thế nào ông cũng phải bảo vệ; nếu họ Hoắc, vậy là con của Hoắc Xung và cháu của Quân Hoa, ông cũng phải bảo vệ.
Tam hoàng tử lại không quan tâm Lăng Bất Nghi là con ai, miễn có giao tình tốt với hắn là đủ.
Nhưng lỡ đâu kéo Lăng Bất Nghi lên mà không có vết bớt thì sao?
Cả hai đồng thời lo lắng.
“Có phải vết bớt ấy nằm ở mắt cá chân bên trái không?”
Khi mỗi người ôm mối suy nghĩ riêng, chợt một giọng nữ nhỏ nhẹ vang lên – là Thiếu Thương cất tiếng.
Hoàng đế chậm rãi đứng dậy, nhìn nàng chằm chằm, mọi người trong điện đồng loạt nhìn sang.
Thiếu Thương ngẩng đầu nhớ lại: “Ừm, là một đầu hổ be bé, nhưng trên đầu có ba lỗ tai… Chỉ to chừng hai tấc.” Nàng nhớ lại đêm đó dưới núi Tiểu Nguyệt, ngoài kia tuyết nhỏ bay phấp phới, trong lều lò lửa bập bùng, nàng dùng nước ấm rửa chân cho chàng.
Hoàng đế loạng choạng, vì kích động mà suýt đã ngã, Tam hoàng tử lập tức đứng dậy đỡ ông.
“Đúng thế đúng thế, là một đầu hổ ba tai!” Hoàng đế lẩm bẩm, ngay tức khắc ra lệnh.
“Người đâu, người đâu, nhanh lên, mau đưa thằng bé lên khỏi đáy cốc! Không được bị thương tay chân mình mẩy, nhanh lên!”
“Thôi Hữu, khanh đi xem đi, phải đưa thằng bé nguyên vẹn trở về cho trẫm! Gọi ngự y giỏi nhất đến đây, thằng bé đã một ngày một đêm không cơm không nước, phải từ từ… Thôi Hữu, trẫm giao cho khanh…”
“Trẫm phải dẫn nó đến trước linh vị của phụ thân nó, đánh nó một trận, hỏi có phải gan chó của nó bị ma xui quỷ khiến hay không, có chuyện gì sao không nói mà phải bí quá hóa liều!”
Cuối cùng lúc này Tam hoàng tử cũng đã chắc chắn, còn hội của Đinh đại nhân đã xám ngoét mặt mày, chỉ có đại nhân râu lệch đầu óc không nhạy vẫn đang lải nhải: “Bệ hạ, còn tội tự ý điều động binh tốt!”
Câu trả lời của Hoàng đế là hất mạnh bầu rượu mạ vàng, đập mạnh xuống chân người nọ, Hoàng đế giận dữ mắng lớn: “Chi bằng trẫm đền tội cho A Tranh, ngươi thấy được chưa!”
Chuyện đã hạ màn, Thôi Hữu kéo Kỷ Tuân sốt ruột đi cứu người, các hạ thần còn lại cũng nối đuôi rời khỏi đại điện, Tam hoàng tử đi cuối cùng, khi ngoái đầu lại, thấy Thiếu Thương vẫn chưa đi mà đang quỳ bên cạnh Hoàng đế.
“Bệ hạ, bệ hạ chớ nóng giận. Tử Thịnh đại nhân ngoài thông minh nhưng bên trong lại ngốc, về sau bệ hạ từ từ dạy dỗ chàng là được.”
“Dạy cái gì mà dạy, trẫm thấy nó là đồ cố chấp nhẫn tâm, trong mắt không có ai!”
“Bệ hạ đừng như thế. Thực ra vừa nãy thiếp đã nói sai một chuyện, Tử Thịnh đại nhân không phải rơi vào đường cùng. Muốn tiêu diệt Lăng thị vẫn có thể từ từ thực hiện, không đến nỗi bí quá hóa liều. Bệ hạ nghĩ thử đi, sớm muộn gì Tử Thịnh đại nhân cũng sẽ có địa vị cực cao. Chàng là người thông minh, lại có nhiều bản lĩnh mánh khóe, đợi nắm đại quyền rồi từ từ dồn ép Lăng gia cũng được mà… Cách thức có rất nhiều.”
“Nhưng Tử Thịnh đại nhân không muốn. Chỉ mới mấy năm mà Lăng Ích đã kết thân với rất nhiều người, và chỉ chưa tới mấy năm nữa thôi, ngay cả Dụ Xương quận chúa cũng sẽ là dâu Lăng gia. Không phải Tử Thịnh đại nhân kiêng kỵ những mối quan hệ thông gia ấy, mà là không muốn nhiều người liên lụy nữa.”
“Bệ hạ đừng giận, chàng là người như vậy mà. Hoặc đường đường chính chính lấy ra bằng chứng để Lăng thị chịu tội; hoặc dùng máu đổi máu, tự tay giết chết kẻ thù, cùng lắm là tự vẫn đền mạng. Không phải chàng không nghĩ tới những âm mưu này nọ, mà là chàng không muốn dùng. Bệ hạ dạy dỗ chàng rất tốt, chàng không phải là kẻ xấu…”
Lệ chảy dài trên gương mặt già nua của Hoàng đế, trông thoác chốc ông như nhìn thấy nghĩa huynh quang minh lỗi lạc đứng trước mặt. Ông thấp giọng, “Trẫm hiểu ý ngươi, ngươi lui xuống đi, để trẫm một mình.”
Tam hoàng tử im lặng đứng chờ sau cửa đại điện.
Quen biết nhau đã lâu, nhưng đây là lần đầu tiên hắn nghe thấy Trình Thiếu Thương nói những lời như vậy, giọng dịu dàng lẫn phần nào ngây ngô.
Nên khi Thiếu Thương ra khỏi đại điện, hắn lặng thinh đi theo, nhưng không đợi hắn nghĩ xem nên nói gì thì Thiếu Thương đã nghiêng đầu nhìn hắn, vui vẻ nói: “Tam điện hạ sao thế, đừng có lẳng lặng như vậy, dọa chết thiếp mất! À phải rồi, lúc nãy điện hạ có nghe thấy Nhữ Dương vương Thế tử nói gì không? Thuần Vu thị nuôi bồ câu đưa thư, còn thường xuyên gửi thư cho lão vương phi.”
Tam hoàng tử ngơ ngác, “Thế thì sao?”
“Đêm qua khi xảy ra chuyện, một mình Lăng Hầu ẩn trong ám thất thoát thân, còn Thuần Vu thị lại ngay trong đếm đến Nhữ Dương vương phủ trốn, thậm chí còn không nhặt thi thể của Lăng Ích. Rồi mười mấy năm trước, Thuần Vu thị đã đồng ý với lão vương phi sẽ sinh con xong sẽ cưới người khác. Điện hạ xem, bọn họ giống tình sâu ý nặng lắm à?”
“Vậy vì sao năm ấy Lăng Ích khăng khăng cưới Thuần Vu thị xuất thân bần hàn? Thiếp nghe nói lúc bệ hạ còn nhỏ lão vương phi cũng chẳng phải người hiền, cưới vợ nhà giàu còn hơn là đi lấy lòng một thúc mẫu bị bệ hạ lạnh nhạt. Thiếp từng thấy hai vợ chồng họ ở bên nhau mấy lần, cứ có cảm giác Thuần Vu thị rất sợ Lăng Ích, mà Lăng Ích cũng rất không đếm xỉa đến Thuần Vu thị.”
Tam hoàng tử động não cực nhanh, thốt lên: “Lí nào Thuần Vu thị đã nắm được thóp của Lăng Ích, nên Lăng Ích mới phải cưới bà ta?! Thuần Vu thị nuôi bồ câu đưa thư, nói là truyền tin, không bằng nói là đe dọa Lăng Ích, để ông ta không được hành động thiếu suy nghĩ!”
Thiếu Thương lại thở dài, nói chuyện với người thông minh sung thật, lại nghĩ đến Thái tử… Ôi, không nhắc đến y nữa… Nhưng nàng vui chưa được ba giây thì đã nghe thấy Tam hoàng tử nói: “Cũng chỉ có đàn bà các ngươi mới để ý đến những tình tiết nhỏ này.”
Thiếu Thương: …
Tam hoàng tử trầm ngâm: “Chắc hẳn Thuần Vu thị đã biết chuyện Lăng Ích cấu kết với địch, cũng có bằng chứng đang cất giấu nơi khác, bằng không nhiều năm qua Lăng Ích đã sớm giết bà ta diệt khẩu. Vậy đồ giấu ở đâu?”
Tam hoàng tử không biết, chỉ nói: “Nếu điện hạ không ngại thì đi hỏi thử Thuần Vu thị đi, ôi, nhưng cấu kết với địch là tội lớn, có đánh chết cũng không nhận. Một khi thừa nhận, mẹ con Thuần Vu thị cũng sẽ hứng họa.”
Tam hoàng tử sầm mặt: “Ta sẽ đi thẩm vấn Thuần Vu thị!” Vừa cất bước định đi thì chợt thấy Thiếu Thương loạng choạng chực ngã, hắn hiếm khi không đành lòng, “Ngươi đừng đi nữa, ta sai người đem kiệu đến cho ngươi.”
Thiếu Thương đi không đặng, đỡ vào một gốc cây: “Được, đưa ta đến Trường Thu cung là được.”
Tam hoàng tử ngạc nhiên: “Ngươi muốn đến Trường Thu cung?” Hắn cứ tưởng nàng muốn về nhà, “Ngươi gặp Hoàng hậu nói gì?”
Thiếu Thương ừ khẽ, nói: “Cho đến bây giờ nương nương chưa từng hỏi thiếp, nương nương chỉ lắng nghe khi thiếp muốn nói.” Giờ nàng rất mệt, không muốn nói chuyện cũng không muốn giải thích, chỉ muốn một nơi ấm áp ôm ấp nàng.
“Xảy ra chuyện lớn mà Hoàng hậu không hề hỏi ngươi?” Tam hoàng tử cảm thấy khó tin. Đêm qua Lăng Bất Nghi tự mình điều binh, nói trắng ra là nhắm vào Thái tử, vậy mà Hoàng hậu không hề ngăn cản?!
Thiếu Thương mệt mỏi cười: “Điện hạ không hiểu rồi. Điện hạ truy hỏi thiếp vì sao không đồng sinh cộng tử với Tử Thịnh đại nhân, Tử Thịnh đại nhân lại truy hỏi thiếp trong lòng thiếp có chàng hay không, cha mẹ anh em truy hỏi thiếp vì sao lại phải lội xuống vũng bùn này… Chỉ có nương nương, nương nương tin rằng thiếp làm gì cũng có lý do.”
Tam hoàng tử im lặng.
Thật ra hắn cũng rất kính trọng Hoàng hậu, nhưng chuyện hắn muốn làm lại làm tổn thương người phụ nữ hiền hậu ấy.
Kiệu đã đến, Thiếu Thương run rẩy ngồi lên, Tam hoàng tử bất giác đỡ nàng, lúc rụt tay về thì phát hiện trên tay dính máu. Hắn ngạc nhiên, lập tức nhìn nàng: “Sao ngươi lại chảy máu?”
Thiếu Thương mệt mỏi ôm vai, lắc đầu: “Có lẽ vết thương bị nứt, phó mẫu không quấn kỹ. Điện hạ đừng lo, Hoàng hậu nương nương sẽ chăm sóc cho thiếp.”
Lồng ngực Tam hoàng tử phập phồng, sau mấy lần hít thở mới lớn tiếng nói: “Ngươi yên tâm, đợi Tử Thịnh về ta nhất định sẽ bảo hắn hành lễ bồi tội với ngươi, đang yên đang lành lại khiến ngươi bị thương! Nhưng Tử Thịnh thích ngươi như vậy, không chừng mai sau ngươi nói gì hắn sẽ nghe nấy.”
Kiệu chầm chậm nâng lên tiến về phía trước, Thiếu Thương ngoái đầu cười, bơ phờ nói: “Điện hạ vẫn chưa hiểu. Ta và chàng, hai ta không còn mai sau nữa rồi.”
Mưa đêm đã dừng, cơn gió cuốn theo cái lạnh gấp bội, cô gái đã đi xa, để lại Tam hoàng tử ngạc nhiên chôn chân tại chỗ.
Tác giả :
Quan Tâm Tắc Loạn