Thủy Tinh Đăng Chi Kim Tuế Đông Phong Vãn
Quyển 2 - Chương 14: Thân thế chi mê
*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.
(Bí mật thân thế)
“Bánh táo, quán hãm đường, cơm nắm nếp đen, bánh nướng mầm liễu, bánh bao......” (1)
Đàn Huyền Vọng móc hết đống lương khô trong tay nải ra, mặt mày không ngớt co giật.
“Nha đầu Tiểu Vân chết tiệt, cái này mà gọi là lương khô chuẩn bị đặc biệt sao? Rõ ràng toàn là điểm tâm Hàn thực làm sẵn từ đời nào rồi!”
Hắn nhìn lướt qua Tạ Khiếu Phong đang ngồi xếp bằng trị thương trên giường, nhắm mắt vận khí, lẳng lặng không hề nhúc nhích, có vẻ như hoàn toàn không để lời hắn lọt vào tai. Đàn Huyền Vọng cụt hứng, nghĩ nghĩ, lập tức chọn ra hai loại điểm tâm mặn là bánh mầm liễu và bánh bao, nhai ngấu nghiến bằng hết cho hả giận, quyết tâm nửa cái cũng không để lại! Nhìn cái bộ dạng nửa sống nửa chết, âm dương quái khí (quái gở ^”^) kia, hừ, chẳng qua chỉ là một tên thổ bao tử, thì ra vẫn còn biết rùng mình. Đã thế, chờ đến lúc đói bụng, để xem ngươi có buộc phải ăn mấy món điểm tâm ngọt ngấy chết người này không!
Nơi hắn đang đứng là một thôn nhỏ cách chân núi Thạch Bình chừng ba mươi dặm.
Sau đêm Hàn thực ấy, thần trí Tạ Tấn đã thanh tỉnh trở lại. Hắn một mực muốn đưa Đàn Huyền Vọng và Tạ Khiếu Phong xuống núi, Liễu Phương dẫu không tình không nguyện cũng buộc phải bằng lòng. Tiểu Vân thấy thế liền nhiệt tình giúp bọn họ chuẩn bị hành lý và lương khô mang theo dọc đường.
Thân phận của Đàn Huyền Vọng, Tạ Tấn có lẽ đã mơ hồ đoán được. Nhưng vị tiền lục lâm minh chủ này quả nhiên lòng dạ thâm trầm, chẳng những không nói lấy nửa lời, còn đích thân hộ tống hai người rời khỏi sơn trại.
Thân là Thái Sơn Bắc Đẩu đứng đầu giới võ lâm phương Bắc, Đàn Huyền Vọng cảm thấy tính cách của Tạ Tấn chỉ có thể dùng bốn chữ “biến ảo khôn lường” để hình dung. Bởi lẽ, dưới chân núi Thạch Bình, sau khi vận chân khí thay nhi tử Tạ Khiếu Phong trị thương, hắn lại bằng lòng thu Tiểu Vân trước đó không hề có căn cơ làm quan môn đệ tử (*) hết lòng chiếu cố nàng. Đối với Đàn Huyền Vọng “nhất kiến như cố”, hắn cũng ra tay hào phóng, đem tặng một bộ kiếm phổ tự mình sáng chế ra.
(*) Quan môn đệ tử: Chỉ đệ tử cuối cùng mà lão sư thu nhận (thu xong thì đóng cửa không nhận đệ tử nữa) Thông thường đây là đệ tử được yêu quý nhất, hay được truyền những ngón độc, nói nôm na là đệ tử ruột đó:)
Xem qua bản Lưu Vân kiếm phổ thâm ảo tinh diệu kia, Đàn Huyền Vọng vừa vui mừng lại vừa e sợ. Rõ ràng ngày đó trong sơn động Tạ Tấn đã chứng kiến từ đầu tới cuối gút mắc giữa hắn và Tạ Khiếu Phong, nhìn thế nào thì mình cũng là kẻ tiểu nhân lấy oán trả ơn, không hiểu sao vẫn được coi trọng đến thế? Hắn chẳng những không trách cứ, còn tặng kiếm phổ, thật khiến người ta khó hiểu.
Đến khi sắp sửa xuất phát, Đàn Huyền Vọng vẫn nghĩ Tạ Tấn thế nào cũng nói vài lời răn đe, thấp thỏm không yên. Nào ngờ Tạ Tấn chỉ cho vời Tạ Khiếu Phong vào trò chuyện hồi lâu rồi ung dung đi mất.
Đêm đó Tạ Khiếu Phong thụ thương quá nặng, mặc dù trước đấy đã được đích thân Tạ Tấn đả thông kỳ kinh bát mạch, nhưng nội thương nặng nề vẫn chưa khỏi hẳn, đúng ra nên ở lại trong sơn trại yên tĩnh mà dưỡng bệnh. Nhưng Liễu Phương và hắn đã trở mặt, bất cứ lúc nào cũng có thể hạ độc thủ mưu hại; sơn trại dù tốt, cũng không còn là nơi hắn có thể yên tâm lưu lại dưỡng thương. Bởi vậy Tạ Tấn mới nhanh chóng quyết định đưa hai người xuống núi.
Quả nhiên, mới đi được hơn ba mươi dặm, thân thể Tạ Khiếu Phong đã không thể tiếp tục chống đỡ, phải tìm một thôn gần đó tá túc. Cũng từ khi ấy, Đàn Huyền Vọng phát hiện ra Tạ Khiếu Phong vậy mà lại dám dùng thái độ coi thường nhìn mà không thấy, nghe mà không lọt với mình!
Từ khi gặp hắn, Đàn Huyền Vọng chưa từng chịu đựng chuyện gì bực bội đến thế. Từ ngày hai người kết giao tới nay, Tạ Khiếu Phong vẫn luôn luôn một mực bảo sao nghe vậy, bảo hắn đi về hướng đông, hắn tuyệt không dám đi về hướng tây, vậy mà giờ đây cũng đã học được cái tính thích đùa dai. Nếu đổi lại là trước kia, Đàn Huyền Vọng đã sớm nổi khùng lên, phất tay áo bỏ đi, làm sao có thể dây dưa với hắn một quãng đường dài như vậy. Thế nhưng –
Nhớ lại tình thế tuyệt vọng khi lọt giữa vòng vây loạn tiễn, Đàn Huyền Vọng chợt nghĩ, có lẽ những chuyện mình làm trước kia quả thực quá đáng, hết lần này tới lần khác lợi dụng hãm hại, phàm là người bình thường đương nhiên phải chán nản thất vọng...... Có lẽ nên cho Tạ Khiếu Phong thêm chút thời gian nữa, mong sao hắn sẽ sớm trở lại là tên ngốc đơn thuần chất phác lại rất biết nghe lời như trước kia.
Nói thì nói vậy, nhưng rốt cuộc trong lòng vẫn cảm thấy khó chịu. Những trò trả thù trẻ con như hất đổ điểm tâm của người ta, thả gián vô chén nước của người ta, ăn hết sạch điểm tâm Tiểu Vân đã khéo léo chuẩn bị, vân vân và vũ vũ, Đàn Huyền Vọng vẫn không chịu ngừng. Nhưng Tạ Khiếu Phong dĩ bất biến ứng vạn biến, bất kể hắn khiêu khích ra sao, độc mồm độc miệng thế nào, cứ một mực phớt lờ hắn, lẳng lặng vận công chữa thương. Nhoáng cái đã qua mấy ngày, vẫn chưa mở miệng nói với Đàn Huyền Vọng lấy một câu.
Đàn Huyền Vọng nghiến răng nghiến lợi, hết lần này tới lần khác vô kế khả thi.
Từ khi nào hắn đã bắt đầu để ý đến phản ứng của thổ bao tử này chứ? Cảm giác khác thường tận đáy lòng này, phải chăng đã bắt đầu từ một cái liếc mắt trước khi hắn rơi vào hôn mê? Từ lúc nào, chính bản thân hắn cũng không thể phân định rõ ràng......
Có chút gì đó cảm động, có chút gì đó áy náy, có chút gì đó đồng bệnh tương liên......
Người này nhìn qua thì thấy gia thế hiển hách, lại là học võ kỳ tài. Thực chất thì sao, phụ thân – đại hiệp Tạ Tấn chẳng qua chỉ là một kẻ nửa điên nửa dại tóm lại không bình thường, hơn phân nửa thời gian tỉnh táo chỉ sợ đều chui vào sơn động khắc chân dung tình nhân cũ, cứ lên cơn là sáu thân không nhận. Mẹ ruột không biết rốt cuộc có phải cái bà Hoàn Nhan Chỉ hồng nhan bạc mệnh đó không, dưỡng mẫu Liễu Phương thì trăm phương ngàn kế muốn đưa hắn vào chỗ chết. Ngay cả nghĩa đệ kết bái là mình, cũng nhiều lần muốn mưu hại......
Rơi xuống vực thẳm ở Kì Tú phong, một kiếm xuyên tim nơi khách điếm thành Lâm An, trúng Bạch My châm dưới làn mưa hoa hạnh sau núi Thạch Bình… Chưa kể lần ở trong động treo, một lần bị cột đá đổ xuống, một lần bị trọng chưởng của Tạ Tấn đánh trúng hậu tâm, sau đó lại bị loạn tiễn bắn ra ào ào, tên cắm chi chít như nhím......
Sau lưng đầm đìa mồ hôi lạnh, hắn cảm thán: Tạ Khiếu Phong có thể chịu đựng đến giờ mà vẫn chưa chết thật sự là kỳ tích! Mà những vết thương chí mạng hắn mang trên người, hoặc nhiều hoặc ít, không, căn bản là toàn bộ đều liên quan đến mình......
Nói cho cùng, hoàn cảnh hiện giờ của Tạ Khiếu Phong thực sự rất đáng thương, coi như không nhà để về. Lại còn vì mình mà gặp phải quá nhiều kiếp nạn sinh tử như thế......
Phải rồi, chính vì thế Đàn Huyền Vọng mới trăm năm khó được một lần đại phát thiện tâm, quyết định mang hắn về Đại Kim Trung Đô Tể vương phủ. Lấy thân phận đường đường là Thế tử Tể vương phủ của hắn, nuôi một tên thổ bao tử ăn không ngồi rồi vốn không thành vấn đề. Vả lại người này công phu cao cường như thế, mang theo bên người cũng là một trợ thủ đắc lực. Chỉ cần hắn không mang ý đồ đen tối gì là được rồi......
Nghĩ đến đây, những lời hắn nói trong trà lâu thành Lâm An chợt vang vọng bên tai: “Nhị đệ ngươi...... Quả thực chính là Thất tiên nữ của vi huynh a!” Trên mặt tức khắc nổi lên vô số hắc tuyến.
Phi phi phi! Xem ra cái tiếng vung tiền như rác đã gắn liền với ta rồi – tại sao cho đến bây giờ các người đều ăn uống bằng tiền của ta!
Đúng lúc này, ngoài cửa chợt truyền đến tiếng gõ rất khẽ, Đàn Huyền Vọng mở cửa ra xem, thì ra là cô con gái chủ nhà đến đưa món cháo loãng điểm tâm. Con gái nhà nông đương nhiên không đeo vàng bạc, nhưng cài trâm gỗ mặc quần vải thô, gương mặt trắng trẻo, lại có một loại phong tình khác. Bản tính phong lưu của Đàn thế tử được thể phát tác, phe phẩy chiết phiến mỉm cười với nàng, ôn nhu nói: “Ai, cô nương vất vả rồi!”
Những vết sưng phù xanh tím trên mặt hắn đã tiêu tan, phục sức cũng đã mua mới, trở lại với bộ dáng quý công tử phong lưu. Nụ cười tươi như hoa đào, tức khắc khiến cho thiếu nữ phương tâm đại loạn, trước khi đi còn quay đầu lại, đôi mắt đa tình long lanh như sóng nước.
(phương tâm đại loại là tâm hồn thiếu nữ lãng mạn mộng mơ mỏng manh íu đuối dễ vỡ dễ tổn thương ấy)
Đàn thế tử ăn xong, dư vị chưa dứt, chợt cảm thấy phía sau mơ hồ truyền đến hai luồng ánh mắt sáng quắc. Quay đầu lại, đã thấy Tạ Khiếu Phong cúi đầu, không hề nhìn mình lấy một cái. Hắn hơi động tâm, nói: “Ai, đại ca, ngươi có muốn ăn chút cháo không? Cô chủ này cũng thật nhanh nhẹn tháo vát, Hàn thực đã qua rồi, còn bỏ công nấu cháo hoa dương (3), dùng để ăn với bánh táo thì không còn gì hợp hơn.”
Nguyên người phương Bắc có tập tục hái muôn vàn loài hoa, nấu thành các loại cháo dùng trong lễ Hàn thực. Hai người bọn họ ở nhờ gia đình này, cũng đã đưa không ít bạc. Người nhà nông thuần phác, không có điều kiện để tiếp đãi cho tốt, vì thế trong mấy ngày này họ thường cố gắng chuẩn bị đồ ăn chu đáo để bù lại. Nhưng Hàn thực đã qua mấy ngày, cô nương này vẫn giữ thói quen mỗi ngày chế ra một món cháo, nào cháo hoa dương, hoa mai, hoa đào, cháo mạch, hạnh lạc (*), rõ ràng là muốn vị quý công tử phong lưu này vui lòng.
(*) Hạnh lạc: Nhân hạnh ngâm vào nước, cho thêm gạo nếp và đường, đun nhừ (đừng đọc hạnh thành hành, toi đấy)
Tạ Khiếu Phong trong lòng buồn bực, liếc mắt nhìn hắn, cuối cùng vẫn ngậm miệng không nói nửa lời, lẳng lặng vận công chữa thương.
Đàn Huyền Vọng vừa làm chuyện mất mặt, theo như tính tình của hắn, đương nhiên không có chuyện tiếp tục chủ động xử nhũn với Tạ Khiếu Phong. Siết chặt chiết phiến đứng đực ra hồi lâu, hừ một tiếng, bất ngờ vung cước đá đổ cái bàn thấp, nào cháo nào canh vung vãi dưới đất. Thấy Tạ Khiếu Phong ngạc nhiên nhìn mình, hắn lạnh lùng nói: “Ta đi luyện kiếm đây.” Phất tay áo một cái đã biến đâu mất dạng.
Tạ Khiếu Phong nhìn bát cháo hoa dương vung vãi trên mặt đất mà cười khổ. Người này vẫn ích kỷ tùy hứng như vậy, hắn chỉ cần biết cái thân hắn, mặc kệ người khác ra sao. Cô nương kia rõ ràng là ái mộ hắn, tuy không phải tuyệt đại giai nhân, nhưng cũng là tiểu gia bích ngọc (cứ hiểu là con gái nhà nghèo mà xinh xắn), vì Đàn lang mà tự mình xuống bếp nấu canh, một tấm chân tình lại bị vô tình chà đạp...... Ai, nói là đồng bệnh tương liên có lẽ hơi quá lời, nhưng suy cho cùng, chẳng phải tình cảnh của ta cũng giống y như vị cô nương này? Không chừng còn thê thảm hơn......
– Mấy ngày gần đây hắn rầu rĩ không vui, không phải chỉ vì đêm đó thất vọng về Đàn Huyền Vọng. Vị nhị đệ kết nghĩa kim lan này thiên tính vốn lãnh bạc, hắn không phải đến giờ mới biết. Từng bị xuyên một kiếm phía sau lưng, còn có chuyện gì là không thể? Thế nhưng sau đợt vũ tiễn ấy hắn đã thực sự cảm thấy tâm mình tàn úa......
Không chỉ vì một mình Đàn Huyền Vọng, mà chủ yếu là vì dưỡng mẫu Liễu Phương!
Dưỡng mẫu...... Không sai, khi nhìn thấy nét bút bằng than của phụ thân Tạ Tấn khắc trên vách đá trong động treo, hắn mới biết thì ra thân mẫu của mình không phải là Liễu Phương. Phụ thân quanh năm mặt mày rầu rĩ thì ra là vì nhớ nhung tình cũ, mà Liễu Phương từ nhỏ đã đối xử với hắn có phần khắc nghiệt, cũng chỉ vì thói ghen tị của nữ nhi...... Lúc đó hắn không sao ngờ được dưỡng mẫu đã nuôi dưỡng mình hơn mười năm lại có thể tuyệt tình đến thế, nỡ nhẫn tâm hạ lệnh đem mình cùng với Đàn Huyền Vọng bắn chết một lượt.
Sau đó lại thêm cử chỉ tuyệt tình trong vô thức của Đàn Huyền Vọng, không khác gì xát muối lên miệng vết thương đầm đìa máu tươi, đau đến nỗi ruột gan đứt đoạn. Tình cảm dưỡng dục hơn mười năm trời phút chốc hóa hư không. Người mình hết lòng yêu thương, lại lãnh bạc vô tình đến thế. Huống chi –
Trước khi xuống núi, phụ thân Tạ Tấn đã trò chuyện với hắn hồi lâu. Những gì Tạ Tấn nói không khác gì sấm sét giữa trời quang: khối ngọc bội hắn vẫn đeo bên người nhiều năm, quả nhiên là tín vật duy nhất mà thân mẫu là Đại Kim Phi Yến quận chúa Hoàn Nhan Chỉ lưu lại cho hắn!
...... Nói như vậy, dưới chân Kì Tú phong, lão bà điên Hoàn Nhan Chỉ mà hắn và Đàn Huyền Vọng đều xem thường đích thực là thân mẫu của hắn! Ngày đó trong khách điếm phủ Lâm An, để cứu hắn, mẫu thân đã không tiếc mạng sống truyền hết công lực, nguyên khí cạn kiệt mà chết! Thậm chí hắn còn chưa bao giờ thật lòng gọi bà một tiếng mẫu thân......
Hơn nữa, Tạ Tấn còn cho hắn biết một bí mật, khiến cho thế giới của hắn càng thêm chao đảo......
Hắn tự vấn bản thân từ nay về sau rốt cuộc nên cư xử thế nào cho phải. Đã nhiều ngày trăn trở, trong lòng chỉ nghĩ đến duy nhất chuyện này, hơn nữa đối với hành động tuyệt tình của Đàn Huyền Vọng ngày ấy ít nhiều có chút oán hận, hiển nhiên đối xử với hắn cũng lạnh nhạt hơn hẳn. Nhưng thật kỳ quái, gần đây hắn đối xử lạnh nhạt với Đàn Huyền Vọng, đối phương lại suốt ngày chăm chăm để ý đến hắn. Mấy trò đùa quái đản mà trẻ con ấy, cùng với tính tình ngạo mạn hắn thường xuyên bộc lộ ra, nói là phát tiết, chi bằng nói là muốn được hắn chú ý. Tạ Khiếu Phong thật sự là đầu đầy sương mù (ý là chẳng hiểu nổi chuyện gì đang xảy ra ấy ^^)
...... Thế nhưng, dẫu có bực bội và bất mãn với Đàn Huyền Vọng tới đâu, thì thấy bộ dạng săn đón nhiệt tình của cô con gái chủ nhà, Tạ Khiếu Phong vẫn đầy bụng dấm chua. Cái tật khoái đong đưa của Đàn Huyền Vọng không thay đổi chút nào, cặp mắt hoa đào tựa tiếu phi tiếu, câu hồn nhiếp phách, khó trách nữ nhi nông gia phải động xuân tâm.
Còn nhớ trước khi đi phụ thân Tạ Tấn từng trêu chọc hắn: “Khiếu Phong, nghĩa đệ của ngươi tuy không phải nam sinh nữ tướng (nam mà tướng mạo như nữ), nhưng cặp mắt hoa đào kia lại khiến người ta điên đảo, chỉ sợ sẽ reo rắc không biết bao nhiêu nợ phong tình.”
– Ai, suy cho cùng, chẳng phải chính mình cũng vì ngày đó thoáng thấy bóng hồng (*) nơi ven hồ mà sa chân vào lưới tình, vạn kiếp bất phục đó sao?
(*) Nguyên văn: kinh hồng nhất miết, nghĩa là bóng chim hồng nhạn lướt qua khiến người ta nhớ mãi không thôi.
Tĩnh dưỡng mấy ngày, những vết thương trên thân thể đã nhanh chóng phục hồi, nhưng vết thương trong lòng lại khó lành hơn rất nhiều. Những bí mật về thân thế, tình thù gút mắc, giống như vướng vào một tấm lưới dày. Dọc đường đi, hắn mang tâm sự trong lòng, buồn bực không vui. Vốn là người chất phác hàm hậu, dần dần trở thành trầm mặc ít lời, nếu trông phải chuyện thiết yếu thì một câu cũng không nói.
Tính nết ẩm ương của Đàn Huyền Vọng cũng là do hắn chiều quá hóa hư, thấy hắn tỏ thái độ, hiển nhiên sẽ không chịu hạ mình lấy lòng. Trong khoảng thời gian Tạ Khiếu Phong thương thế chưa lành phải ở lại nông gia, Đàn Huyền Vọng liền một mình đi luyện tập Lưu Vân kiếm pháp, giữa cả hai coi như yên ổn vô sự. Đợi cho thương thế của Tạ Khiếu Phong khỏi hẳn, hai người gấp rút lên đường, không lâu sau đã tới Trung Đô Đại Kim.
Trung Đô xưa có tên là Yên Kinh. Năm Thiên Đức thứ hai triều Kim (1150), giữa tháng tư nhuận, Kim đế Hoàn Nhan Lượng mở rộng Yên Kinh, dời đô thành từ Hội Ninh (*) ở phía nam đến nơi này, đổi Yên Kinh thành Trung Đô. Trải qua vài năm phát triển, dân cư đông đúc, cảnh vật phồn hoa, hiệu buôn san sát, không hề thua kém cố đô Biện Lương của Bắc Tống hay tân đô Lâm An của Nam Tống.
(*) Hội Ninh: kinh đô của triều Kim trong 38 năm từ 1115 đến 1153, nay thuộc Cáp Nhĩ Tân, Hắc Long Giang. Ờm, chỗ này là chị Mộc nhầm lẫn, vì mình tra đủ thứ tài liệu đều ra kết quả Hoàn Nhan Lượng dời đô năm 1153 chứ không phải 1150.
Tạ Khiếu Phong lớn lên trong sơn trại, Bắc ngũ tỉnh lục lâm xưa nay vẫn chủ trương kháng Kim, là đối tượng truy nã số một của quan phủ triều Kim. Thân phận của hắn đặc biệt, cho nên chưa từng tới Trung Đô lần nào. Hai người theo dòng người buôn bán từ khắp bốn phương đổ vào thành, hắn chỉ cảm thấy cảnh vật trước mắt náo nhiệt phồn hoa, đập vào mắt đều là những thứ chưa thấy bao giờ, nhìn hoa cả mắt.
Đàn Huyền Vọng thấy bộ dạng quê mùa như chưa trải sự đời của hắn, phe phẩy chiết phiến tựa tiếu phi tiếu, đưa ánh mắt thấp thoáng nét xảo trá, dương dương tự đắc liếc nhìn hắn.
“Ai, đại ca không cần hết nhìn đông lại nhìn tây như thế, đợi khi nào ta có thời gian rảnh rỗi nhất định sẽ đưa ngươi đi xem hết mọi nơi. Còn bây giờ hãy cứ về vương phủ trước đã.”
Thân phụ Đàn Huyền Vọng chính là Ngự lâm quân thống lĩnh Đàn Thế Bân, lại là quận mã của ngự muội Hoàn Nhan Chỉ, có thể coi như hoàng thân quốc thích, thân càng thêm thân. Đàn gia lại là tông thân thế gia, được ngự ban phủ đệ Tể vương phủ, nằm ngay mặt đông phía trong thành.
Đàn Huyền Vọng mang Tạ Khiếu Phong về, tuy xuất phát từ lòng áy náy, nhưng cũng không hoàn toàn là ý tốt. Hắn nghĩ Tạ Khiếu Phong võ công cao cường, lại là người đơn thuần. Hơn nữa sau khi thân thế phơi bày, quan hệ với dưỡng mẫu Liễu Phương đã như nước với lửa; lại thêm phụ thân Tạ Tấn thần trí thất thường, tính ra đúng là không nhà để về. Vậy chỉ cần mình bố thí chút ơn huệ, lại thêm hắn vốn si mê mình, lôi kéo hắn về phe với mình tuyệt không phải chuyện khó. Ôm trong lòng tráng chí, lại không có được những thuộc hạ đắc lực sẵn sàng liều chết, muốn thành đại sự có thể nói khó hơn lên trời. Tạ Khiếu Phong này chẳng phải là một trợ thủ đắc lực từ trên trời rơi xuống hay sao?
Hai người bước thẳng tới trước cửa Tể vương phủ. Tạ Khiếu Phong nhìn sơ qua một lượt, chỉ thấy cả tòa phủ đệ chiếm hơn mười mẫu đất, trải dài qua hai con phố lớn. Hai bên đại môn đỏ thẫm có hai con sư tử bằng ngọc thạch canh giữ, uy nghi dữ tợn, toát ra vẻ phú quý hào hoa. Tức khắc có tôi tớ ra nghênh đón thế tử hồi phủ, Tạ Khiếu Phong lòng đầy tâm sự, cũng không nói nhiều, theo hắn vào cửa.
Trong Tể vương phủ, con cháu dòng chính của Đàn thị khá đông. Nguyên Tuyết Y hầu Đàn Hạo Thanh chính là con chi trưởng, do đó được tập phong tước vị Bối tử. Nhưng hiện giờ hắn đang lưu lạc Giang Nam, lại có lời đồn hắn phản quốc, nên tước vị thế tập này của Đàn gia lại bỏ trống. Đàn Huyền Vọng là con trai duy nhất của đương kim Vương gia Đàn Thế Bân, chi thứ hai chỉ có một nam đinh, tự nhiên có ưu thế hơn hẳn. Vì vậy nghe tin hắn trở về, mấy vị đường huynh đường đệ trong nhà tức khắc ồn ào như ong vỡ tổ.
“Ai, Huyền Vọng đường đệ đã trở về rồi. Nghe nói ngươi lần này tới núi Thạch Bình lại tay không trở về, ai, đáng tiếc đáng tiếc.”
“Ấy, Huyền Vọng ca sau khi trở về từ Giang Nam, võ nghệ tiến bộ vượt bậc, lí gì lại để ý đến chuyện vặt vãnh ấy, chẳng qua chỉ là vận khí không tốt thôi.”
“Nhưng chưa chắc Hoàng Thượng đã chịu chấp nhận cái lí do bao biện thời vận không tốt này nha.”
“Di? Đường đệ còn mang về thêm một người nữa? Này, này...... Ha ha ha ha!” Mấy hoàn khố (*) vương tôn chỉ vào Tạ Khiếu Phong, cười lên ha hả.
(*) hoàn khố = quần lụa =)) thực ra hoàn khố vốn chỉ chung quần áo đẹp làm từ lụa là, về sau biến nghĩa, dùng để gọi mấy tay công tử nhà giàu ăn mặc bảnh bao mà bất tài vô tướng lười nhác vô tích sự etc… Định để là quần lụa nhưng thấy bóng quá nên thôi tha vậy, dù gì chúng nó cũng chỉ bựa chứ không bóng =))))))
“Nhìn cái bộ dạng nghèo kiết xác của hắn kìa, y phục may bằng vải gì không biết nữa. Chậc chậc, ngay cả giày cũng...... Ai nha, đường đệ à, ngươi tìm đâu ra vị bằng hữu “chất phác” này vậy hả?”
Tạ Khiếu Phong đã quen bị Đàn Huyền Vọng giễu cợt, lòng lại chất chứa tâm sự, mặc kệ đám công tử bột ấy, mím môi không nói.
Đàn Huyền Vọng mặt mày cũng biến sắc: thổ bao tử thổ bao tử...... Hắn ta đúng là nghèo kiết xác, nhưng cũng không đến lượt người khác chê bai. Hơn nữa đánh chó cũng phải ngó mặt chủ, đám đường huynh đường đệ này rõ ràng là muốn làm mình mất mặt!
Hắn mở chiết phiến, khóe môi nhếch lên, thần tình tựa tiếu phi tiếu, ngữ điệu lại âm hiểm: “Ta bôn ba bên ngoài đã lâu, giờ rất mệt mỏi, muốn đi tắm gội thay y phục. Chuyện ở núi Thạch Bình có liên quan tới hoàng mệnh, là chuyện cơ mật trọng yếu, thứ cho ta không thể tiết lộ với các vị huynh đệ. Đương nhiên nếu các ngươi thật sự muốn biết, thì cứ đi mà hỏi hoàng thượng! Những gì cần nói đã nói hết, nếu không có chuyện gì quan trọng, phiền các vị tránh ra!” Cũng không ngại ngùng, kéo tay áo Tạ Khiếu Phong dẫn hắn rời đi.
Mấy hoàn khố vương tôn ngơ ngác đứng như trời trồng, một hồi lâu sau mới hoàn hồn, tức tối giậm chân: “Phi! Xú tiểu tử tự coi mình là cái gì thế, chẳng qua chỉ là tạp chủng do Hán nữ thấp hèn sinh ra thôi! Thiên kiêu bối tử thì không nói làm gì, người ta là thiên sinh quý trụ (dòng dõi cao quý); hắn thân phận thấp hèn, dựa vào đâu mà vênh váo tự cao! Đúng là núi không có hổ thì khỉ cũng leo lên làm chúa mà.”
Đột nhiên Đàn Vũ Anh ở chi thứ ba lên tiếng: “Ta thấy tiểu tử nghèo kiết xác hắn mang về quá nửa là người Hán, chi bằng đi mách với thúc phụ. Thúc phụ ghét nhất là Hán cẩu, nhất định sẽ đuổi tiểu tử kia đi!”
Cả đám đều cho là diệu kế, lập tức ghé vào một chỗ hắc hắc cười gian, cực kì vui vẻ.
Đàn Huyền Vọng dẫn Tạ Khiếu Phong đi xuyên qua những hành lang gấp khúc ôm lấy họa lâu, lướt qua mấy đình viện, bước vào nội hoa viên. Đây chính là nơi ở của hắn, chỉ thấy giữa những tàng cây thấp thoáng lộ ra một góc tiểu lâu, cạnh đó có hai ba gian nhà thưa thớt, thanh tĩnh nhã trí. Chợt có hai thiếu nữ tóc búi hình trái đào chạy tới, vui vẻ reo lên: “Thế tử gia, người đã về rồi!”
Đàn Huyền Vọng phân phó: “Vị Tạ công tử này là khách quý, các ngươi hầu hạ cho tốt, không được chậm trễ.” Nói rồi quay về tiểu lâu.
Tạ Khiếu Phong vô thức muốn chạy theo, nào ngờ hai thiếu nữ vội vàng kéo lấy ống tay áo của hắn, cười duyên: “Tạ công tử, thế tử nhà chúng ta phải đi tắm gội thay y phục. Công tử đường xa đến đây, chắc thân thể đã dính nhiều bụi bặm, để nô tỳ chuẩn bị nước sạch cho người.”
Tạ Khiếu Phong ngẩn ngơ, chợt nhớ lại tình cảnh trong khách điếm thành Lâm An, Đàn Huyền Vọng tắm gội trong gian phòng sát vách. Khi đó tâm tư hắn rối loạn, lo lắng không yên, giờ hồi tưởng lại thấy vô cùng hương diễm, gương mặt phút chốc đỏ bừng.
Hai thiếu nữ là đại nha hoàn hầu hạ Đàn Huyền Vọng, một gọi là Yến Nhi, một gọi là Oanh Nhi. Hai nàng dẫn hắn tới phòng khách, trong phòng bài trí tinh tế trang nhã, chăn gối trắng tinh, kéo bình phong ra là có thể tắm rửa.
Tôi tớ trong vương phủ làm việc vô cùng khẩn trương, trong chốc lát đã chuẩn bị xong bồn tắm lẫn nước ấm. Tạ Khiếu Phong dù không phải người ưa sạch sẽ, nhưng đi đường nhiều ngày, quả thực cũng muốn được tắm táp cho thoải mái. Hắn vừa cởi áo ngoài, đang định nhập dục thì hai nha hoàn kia lại chạy vào, cười nói: “Để nô tỳ hầu hạ công tử.”
Tạ Khiếu Phong hoảng sợ, cuống quít xua tay: “Không cần! Ta tự tắm rửa cũng được, không dám làm phiền hai người.”
Oanh Nhi đem y phục mới mình vừa chuẩn bị vắt lên bình phong, cười nói: “Vậy coi sao được? Thế tử gia đặc biệt phân phó hai tỷ muội chúng ta phải hầu hạ công tử cho thật tốt.”
Yến Nhi cũng phụ họa theo: “Hai tỷ muội chúng ta từ nhỏ đã hầu hạ thế tử gia rửa tay thay y phục, mặc dù không dám nhận là khéo tay, nhưng cũng coi như quen việc. Công tử hà tất phải lo lắng?”
Trong lòng Tạ Khiếu Phong đột nhiên có chút tư vị khác lạ, đứng ngẩn ngơ một chỗ, nói không nên lời.
Oanh Nhi coi như hắn đã ngầm ưng thuận, lại gần thay hắn cởi trung y. Tạ Khiếu Phong sợ tới mức nhảy bắn sang một bên, giữ chặt y phục, sắc mặt trắng bệch: “Đừng, ngàn vạn lần đừng...... Để ta tự làm, thỉnh hai vị cô nương ra ngoài đi!” Hắn sinh ra ở sơn trại, dưỡng mẫu tuy có thị nữ, nhưng tuyệt không có thói quen này, cũng khó trách hắn chân tay luống cuống.
Ba người tranh cãi một hồi, cuối cùng hai nàng vẫn không lay chuyển được hắn, bất mãn lui xuống.
Hơi nước mờ mịt.
Tạ Khiếu Phong ngồi trong bồn nước ấm, nhíu mày trầm tư. Một hồi lâu sau, hắn lấy ra ngọc bội vẫn đeo trước ngực chưa từng gỡ xuống, chăm chú nhìn hoa văn xuân thủy khắc trên đó. Hoa văn sinh động như thật, nét bút trong sáng hữu lực, ngoại trừ thiên hạ đệ nhất xảo tượng Khâu Nột Ngôn, còn ai có được tài năng cỡ ấy? Ai ai cũng biết, tác phẩm điêu khắc của Khâu Nột Ngôn hầu hết đều được triều đình Đại Kim cất giữ......
– Khối ngọc bội hắn đeo trên người bao nhiêu năm qua, quả nhiên là tín vật nhận con của Đại Kim quận chúa Hoàn Nhan Chỉ. Mà nơi này, Đại Kim Trung Đô Tể vương phủ, chính là phủ đệ của Đàn Thế Bân trượng phu Hoàn Nhan Chỉ......
Hắn sở dĩ theo Đàn Huyền Vọng tới Trung Đô, chính là vì muốn tận mắt thấy Tể vương phủ, xem qua nơi thân mẫu mình từng sống, cũng mong gặp được –
Thân phụ của mình!
Không sai, vào cái ngày cả hai rời núi Thạch Bình, dưỡng phụ Tạ Tấn sau khi giúp hắn trị thương, đã nói ra bí mật cuối cùng, liên quan tới thân thế của hắn!
Hắn chẳng những không phải con của Liễu Phương, mà cũng không phải con Tạ Tấn..... Thân sinh phụ mẫu của hắn, thì ra lại là hoàng thân quốc thích Đại Kim — bối lặc Đàn Thế Bân và Phi Yến quận chúa Hoàn Nhan Chỉ!
Năm đó, tân nương Hoàn Nhan Chỉ tính tình phóng khoáng, xuất phủ du ngoạn, trong dân gian gặp được thiếu niên anh hiệp Tạ Tấn. Hai người không đánh không biết nhau, trở thành một đôi oan gia. Nhưng Hoàn Nhan Chỉ đã lập gia thất, buộc lòng phải gạt lệ bái biệt tình lang. Tạ Tấn sau khi biết được thân phận của đối phương, lại nổi lên tâm tư khác –
Tạ Tấn từng theo làm môn hạ của một lão giả vô danh, học được Thái Thanh chân khí, bỗng chốc trở thành cao thủ hạng nhất võ lâm. Nhưng hắn không môn không phái, thế cô lực mỏng, thủy chung không thể xưng hùng một phương. Hắn biết Hoàn Nhan Chỉ thân mang Thái Huyền chân khí mà cung đình Kim quốc cất giữ, cũng là một trong số các tàn bản của công pháp Thủy tinh đăng còn lưu lại được.
Cái gọi là Thủy tinh đăng, tức là một ngọn thuỷ tinh cung đăng sáu cạnh được Thái Tông Triệu Khuông Nghĩa ngự ban. Trên sáu mặt của cung đăng có khắc “Lục hợp bát pháp” của Trần Đoàn lão tổ. Nghe nói, nếu học hết lục pháp thì có thể ngộ đạo biến hình, mọc cánh thành tiên. Dĩ nhiên thuyết này quá ư huyền bí, gần như thần thoại. Người trong võ lâm thừa nhận một thuyết khác là một khi học hết lục pháp sẽ trở thành thiên hạ vô địch, muốn kéo dài tuổi thọ cũng không thành vấn đề. Do giữa lục pháp vốn có vô số mối liên hệ chằng chịt, cho dù chỉ học được hai pháp trong đó, công lực cũng có thể tăng lên gấp bội.
Khi Kim quốc xâm lược phương Nam, những bảo vật bí mật trong cung đình nhà Tống bị cướp đi bằng sạch, công pháp bí tịch Thủy tinh đăng đã thất lạc trong cảnh hỗn loạn. Trong đó những bản biết rõ vị trí gồm có: Thái Huyền chân khí bị quân Kim cướp đi, cất giữ trong hoàng cung Đại Kim; Thái Thanh chân khí lưu lạc dân gian, được lão giả vô danh truyền cho Tạ Tấn, Thái Cực chân khí vẫn lưu lại trong tay đệ tử Do Long phái, chân truyền của Trần Đoàn lão tổ; Thái Âm chân khí nghe nói bị hoạn quan trong cung mang đi, mất tăm mất tích. Cũng có người nói, ma giáo Xá Nữ cung trước đây từng gây sóng gió trên giang hồ, Xá nữ Huyền công mà cung này tu luyện chính là biến thể của Thái Âm chân khí. Thái Dương chân khí cùng với Thái Ất chân khí thì không rõ tung tích.
Do đó, Tạ Tấn vì muốn có được Thái Huyền chân khí, nhân lúc Hoàn Nhan Chỉ đang mang thai, dùng hoa ngôn xảo ngữ (lời ngon tiếng ngọt) lừa nàng tới Giang Nam, ước hẹn cùng ẩn cư, chung sống đến bạc đầu, không quan tâm tới chuyện trên giang hồ nữa.
Mà Tạ Khiếu Phong, chính là đứa con trong bụng Hoàn Nhan Chỉ khi ấy!
———————————————-
(1) Chỗ này mình chém quên trời quên đất luôn, tên món ăn gì mà lạ hoắc, toàn phải đuổi hình bắt chữ @@
Nguyên văn đây “枣饼, 贯馅糖 ( 即饴饧), 青精饭团, 柳芽翠烙, 麦 糕......” (Tảo bính, quán hãm đường ( tức di đường), thanh tinh phạn đoàn, liễu nha thúy lạc, mạch cao......) Còn hình ảnh cụ thể từng cái thì thế này
Bánh táo (được món này trông ngon nhất)
Quán hãm đường, cái này không biết dịch sao đành để vậy (trông như bánh chay nhỉ?)
Cơm nắm nếp đen:
Cái này là một món nào đó chế từ mầm liễu, chứ còn bánh mầm liễu chính cống thì bó tay:
Mạch cao, theo như baike thì nó là cách gọi bánh bao của vùng Chiết Giang, chỉ khác là cho thêm nhiều vị, VD thanh mạch cao có thêm ngải, đường mạch cao có thêm đường đỏ, có nơi cho cả sữa hoặc bí ngô.
(3) Hu hu mình chỉ tìm được cháo hàn thực thập cẩm thôi, hoa mai hoa đào hoa dương đủ cả chứ không có hình riêng từng loại, xem tạm vậy =”=
(Bí mật thân thế)
“Bánh táo, quán hãm đường, cơm nắm nếp đen, bánh nướng mầm liễu, bánh bao......” (1)
Đàn Huyền Vọng móc hết đống lương khô trong tay nải ra, mặt mày không ngớt co giật.
“Nha đầu Tiểu Vân chết tiệt, cái này mà gọi là lương khô chuẩn bị đặc biệt sao? Rõ ràng toàn là điểm tâm Hàn thực làm sẵn từ đời nào rồi!”
Hắn nhìn lướt qua Tạ Khiếu Phong đang ngồi xếp bằng trị thương trên giường, nhắm mắt vận khí, lẳng lặng không hề nhúc nhích, có vẻ như hoàn toàn không để lời hắn lọt vào tai. Đàn Huyền Vọng cụt hứng, nghĩ nghĩ, lập tức chọn ra hai loại điểm tâm mặn là bánh mầm liễu và bánh bao, nhai ngấu nghiến bằng hết cho hả giận, quyết tâm nửa cái cũng không để lại! Nhìn cái bộ dạng nửa sống nửa chết, âm dương quái khí (quái gở ^”^) kia, hừ, chẳng qua chỉ là một tên thổ bao tử, thì ra vẫn còn biết rùng mình. Đã thế, chờ đến lúc đói bụng, để xem ngươi có buộc phải ăn mấy món điểm tâm ngọt ngấy chết người này không!
Nơi hắn đang đứng là một thôn nhỏ cách chân núi Thạch Bình chừng ba mươi dặm.
Sau đêm Hàn thực ấy, thần trí Tạ Tấn đã thanh tỉnh trở lại. Hắn một mực muốn đưa Đàn Huyền Vọng và Tạ Khiếu Phong xuống núi, Liễu Phương dẫu không tình không nguyện cũng buộc phải bằng lòng. Tiểu Vân thấy thế liền nhiệt tình giúp bọn họ chuẩn bị hành lý và lương khô mang theo dọc đường.
Thân phận của Đàn Huyền Vọng, Tạ Tấn có lẽ đã mơ hồ đoán được. Nhưng vị tiền lục lâm minh chủ này quả nhiên lòng dạ thâm trầm, chẳng những không nói lấy nửa lời, còn đích thân hộ tống hai người rời khỏi sơn trại.
Thân là Thái Sơn Bắc Đẩu đứng đầu giới võ lâm phương Bắc, Đàn Huyền Vọng cảm thấy tính cách của Tạ Tấn chỉ có thể dùng bốn chữ “biến ảo khôn lường” để hình dung. Bởi lẽ, dưới chân núi Thạch Bình, sau khi vận chân khí thay nhi tử Tạ Khiếu Phong trị thương, hắn lại bằng lòng thu Tiểu Vân trước đó không hề có căn cơ làm quan môn đệ tử (*) hết lòng chiếu cố nàng. Đối với Đàn Huyền Vọng “nhất kiến như cố”, hắn cũng ra tay hào phóng, đem tặng một bộ kiếm phổ tự mình sáng chế ra.
(*) Quan môn đệ tử: Chỉ đệ tử cuối cùng mà lão sư thu nhận (thu xong thì đóng cửa không nhận đệ tử nữa) Thông thường đây là đệ tử được yêu quý nhất, hay được truyền những ngón độc, nói nôm na là đệ tử ruột đó:)
Xem qua bản Lưu Vân kiếm phổ thâm ảo tinh diệu kia, Đàn Huyền Vọng vừa vui mừng lại vừa e sợ. Rõ ràng ngày đó trong sơn động Tạ Tấn đã chứng kiến từ đầu tới cuối gút mắc giữa hắn và Tạ Khiếu Phong, nhìn thế nào thì mình cũng là kẻ tiểu nhân lấy oán trả ơn, không hiểu sao vẫn được coi trọng đến thế? Hắn chẳng những không trách cứ, còn tặng kiếm phổ, thật khiến người ta khó hiểu.
Đến khi sắp sửa xuất phát, Đàn Huyền Vọng vẫn nghĩ Tạ Tấn thế nào cũng nói vài lời răn đe, thấp thỏm không yên. Nào ngờ Tạ Tấn chỉ cho vời Tạ Khiếu Phong vào trò chuyện hồi lâu rồi ung dung đi mất.
Đêm đó Tạ Khiếu Phong thụ thương quá nặng, mặc dù trước đấy đã được đích thân Tạ Tấn đả thông kỳ kinh bát mạch, nhưng nội thương nặng nề vẫn chưa khỏi hẳn, đúng ra nên ở lại trong sơn trại yên tĩnh mà dưỡng bệnh. Nhưng Liễu Phương và hắn đã trở mặt, bất cứ lúc nào cũng có thể hạ độc thủ mưu hại; sơn trại dù tốt, cũng không còn là nơi hắn có thể yên tâm lưu lại dưỡng thương. Bởi vậy Tạ Tấn mới nhanh chóng quyết định đưa hai người xuống núi.
Quả nhiên, mới đi được hơn ba mươi dặm, thân thể Tạ Khiếu Phong đã không thể tiếp tục chống đỡ, phải tìm một thôn gần đó tá túc. Cũng từ khi ấy, Đàn Huyền Vọng phát hiện ra Tạ Khiếu Phong vậy mà lại dám dùng thái độ coi thường nhìn mà không thấy, nghe mà không lọt với mình!
Từ khi gặp hắn, Đàn Huyền Vọng chưa từng chịu đựng chuyện gì bực bội đến thế. Từ ngày hai người kết giao tới nay, Tạ Khiếu Phong vẫn luôn luôn một mực bảo sao nghe vậy, bảo hắn đi về hướng đông, hắn tuyệt không dám đi về hướng tây, vậy mà giờ đây cũng đã học được cái tính thích đùa dai. Nếu đổi lại là trước kia, Đàn Huyền Vọng đã sớm nổi khùng lên, phất tay áo bỏ đi, làm sao có thể dây dưa với hắn một quãng đường dài như vậy. Thế nhưng –
Nhớ lại tình thế tuyệt vọng khi lọt giữa vòng vây loạn tiễn, Đàn Huyền Vọng chợt nghĩ, có lẽ những chuyện mình làm trước kia quả thực quá đáng, hết lần này tới lần khác lợi dụng hãm hại, phàm là người bình thường đương nhiên phải chán nản thất vọng...... Có lẽ nên cho Tạ Khiếu Phong thêm chút thời gian nữa, mong sao hắn sẽ sớm trở lại là tên ngốc đơn thuần chất phác lại rất biết nghe lời như trước kia.
Nói thì nói vậy, nhưng rốt cuộc trong lòng vẫn cảm thấy khó chịu. Những trò trả thù trẻ con như hất đổ điểm tâm của người ta, thả gián vô chén nước của người ta, ăn hết sạch điểm tâm Tiểu Vân đã khéo léo chuẩn bị, vân vân và vũ vũ, Đàn Huyền Vọng vẫn không chịu ngừng. Nhưng Tạ Khiếu Phong dĩ bất biến ứng vạn biến, bất kể hắn khiêu khích ra sao, độc mồm độc miệng thế nào, cứ một mực phớt lờ hắn, lẳng lặng vận công chữa thương. Nhoáng cái đã qua mấy ngày, vẫn chưa mở miệng nói với Đàn Huyền Vọng lấy một câu.
Đàn Huyền Vọng nghiến răng nghiến lợi, hết lần này tới lần khác vô kế khả thi.
Từ khi nào hắn đã bắt đầu để ý đến phản ứng của thổ bao tử này chứ? Cảm giác khác thường tận đáy lòng này, phải chăng đã bắt đầu từ một cái liếc mắt trước khi hắn rơi vào hôn mê? Từ lúc nào, chính bản thân hắn cũng không thể phân định rõ ràng......
Có chút gì đó cảm động, có chút gì đó áy náy, có chút gì đó đồng bệnh tương liên......
Người này nhìn qua thì thấy gia thế hiển hách, lại là học võ kỳ tài. Thực chất thì sao, phụ thân – đại hiệp Tạ Tấn chẳng qua chỉ là một kẻ nửa điên nửa dại tóm lại không bình thường, hơn phân nửa thời gian tỉnh táo chỉ sợ đều chui vào sơn động khắc chân dung tình nhân cũ, cứ lên cơn là sáu thân không nhận. Mẹ ruột không biết rốt cuộc có phải cái bà Hoàn Nhan Chỉ hồng nhan bạc mệnh đó không, dưỡng mẫu Liễu Phương thì trăm phương ngàn kế muốn đưa hắn vào chỗ chết. Ngay cả nghĩa đệ kết bái là mình, cũng nhiều lần muốn mưu hại......
Rơi xuống vực thẳm ở Kì Tú phong, một kiếm xuyên tim nơi khách điếm thành Lâm An, trúng Bạch My châm dưới làn mưa hoa hạnh sau núi Thạch Bình… Chưa kể lần ở trong động treo, một lần bị cột đá đổ xuống, một lần bị trọng chưởng của Tạ Tấn đánh trúng hậu tâm, sau đó lại bị loạn tiễn bắn ra ào ào, tên cắm chi chít như nhím......
Sau lưng đầm đìa mồ hôi lạnh, hắn cảm thán: Tạ Khiếu Phong có thể chịu đựng đến giờ mà vẫn chưa chết thật sự là kỳ tích! Mà những vết thương chí mạng hắn mang trên người, hoặc nhiều hoặc ít, không, căn bản là toàn bộ đều liên quan đến mình......
Nói cho cùng, hoàn cảnh hiện giờ của Tạ Khiếu Phong thực sự rất đáng thương, coi như không nhà để về. Lại còn vì mình mà gặp phải quá nhiều kiếp nạn sinh tử như thế......
Phải rồi, chính vì thế Đàn Huyền Vọng mới trăm năm khó được một lần đại phát thiện tâm, quyết định mang hắn về Đại Kim Trung Đô Tể vương phủ. Lấy thân phận đường đường là Thế tử Tể vương phủ của hắn, nuôi một tên thổ bao tử ăn không ngồi rồi vốn không thành vấn đề. Vả lại người này công phu cao cường như thế, mang theo bên người cũng là một trợ thủ đắc lực. Chỉ cần hắn không mang ý đồ đen tối gì là được rồi......
Nghĩ đến đây, những lời hắn nói trong trà lâu thành Lâm An chợt vang vọng bên tai: “Nhị đệ ngươi...... Quả thực chính là Thất tiên nữ của vi huynh a!” Trên mặt tức khắc nổi lên vô số hắc tuyến.
Phi phi phi! Xem ra cái tiếng vung tiền như rác đã gắn liền với ta rồi – tại sao cho đến bây giờ các người đều ăn uống bằng tiền của ta!
Đúng lúc này, ngoài cửa chợt truyền đến tiếng gõ rất khẽ, Đàn Huyền Vọng mở cửa ra xem, thì ra là cô con gái chủ nhà đến đưa món cháo loãng điểm tâm. Con gái nhà nông đương nhiên không đeo vàng bạc, nhưng cài trâm gỗ mặc quần vải thô, gương mặt trắng trẻo, lại có một loại phong tình khác. Bản tính phong lưu của Đàn thế tử được thể phát tác, phe phẩy chiết phiến mỉm cười với nàng, ôn nhu nói: “Ai, cô nương vất vả rồi!”
Những vết sưng phù xanh tím trên mặt hắn đã tiêu tan, phục sức cũng đã mua mới, trở lại với bộ dáng quý công tử phong lưu. Nụ cười tươi như hoa đào, tức khắc khiến cho thiếu nữ phương tâm đại loạn, trước khi đi còn quay đầu lại, đôi mắt đa tình long lanh như sóng nước.
(phương tâm đại loại là tâm hồn thiếu nữ lãng mạn mộng mơ mỏng manh íu đuối dễ vỡ dễ tổn thương ấy)
Đàn thế tử ăn xong, dư vị chưa dứt, chợt cảm thấy phía sau mơ hồ truyền đến hai luồng ánh mắt sáng quắc. Quay đầu lại, đã thấy Tạ Khiếu Phong cúi đầu, không hề nhìn mình lấy một cái. Hắn hơi động tâm, nói: “Ai, đại ca, ngươi có muốn ăn chút cháo không? Cô chủ này cũng thật nhanh nhẹn tháo vát, Hàn thực đã qua rồi, còn bỏ công nấu cháo hoa dương (3), dùng để ăn với bánh táo thì không còn gì hợp hơn.”
Nguyên người phương Bắc có tập tục hái muôn vàn loài hoa, nấu thành các loại cháo dùng trong lễ Hàn thực. Hai người bọn họ ở nhờ gia đình này, cũng đã đưa không ít bạc. Người nhà nông thuần phác, không có điều kiện để tiếp đãi cho tốt, vì thế trong mấy ngày này họ thường cố gắng chuẩn bị đồ ăn chu đáo để bù lại. Nhưng Hàn thực đã qua mấy ngày, cô nương này vẫn giữ thói quen mỗi ngày chế ra một món cháo, nào cháo hoa dương, hoa mai, hoa đào, cháo mạch, hạnh lạc (*), rõ ràng là muốn vị quý công tử phong lưu này vui lòng.
(*) Hạnh lạc: Nhân hạnh ngâm vào nước, cho thêm gạo nếp và đường, đun nhừ (đừng đọc hạnh thành hành, toi đấy)
Tạ Khiếu Phong trong lòng buồn bực, liếc mắt nhìn hắn, cuối cùng vẫn ngậm miệng không nói nửa lời, lẳng lặng vận công chữa thương.
Đàn Huyền Vọng vừa làm chuyện mất mặt, theo như tính tình của hắn, đương nhiên không có chuyện tiếp tục chủ động xử nhũn với Tạ Khiếu Phong. Siết chặt chiết phiến đứng đực ra hồi lâu, hừ một tiếng, bất ngờ vung cước đá đổ cái bàn thấp, nào cháo nào canh vung vãi dưới đất. Thấy Tạ Khiếu Phong ngạc nhiên nhìn mình, hắn lạnh lùng nói: “Ta đi luyện kiếm đây.” Phất tay áo một cái đã biến đâu mất dạng.
Tạ Khiếu Phong nhìn bát cháo hoa dương vung vãi trên mặt đất mà cười khổ. Người này vẫn ích kỷ tùy hứng như vậy, hắn chỉ cần biết cái thân hắn, mặc kệ người khác ra sao. Cô nương kia rõ ràng là ái mộ hắn, tuy không phải tuyệt đại giai nhân, nhưng cũng là tiểu gia bích ngọc (cứ hiểu là con gái nhà nghèo mà xinh xắn), vì Đàn lang mà tự mình xuống bếp nấu canh, một tấm chân tình lại bị vô tình chà đạp...... Ai, nói là đồng bệnh tương liên có lẽ hơi quá lời, nhưng suy cho cùng, chẳng phải tình cảnh của ta cũng giống y như vị cô nương này? Không chừng còn thê thảm hơn......
– Mấy ngày gần đây hắn rầu rĩ không vui, không phải chỉ vì đêm đó thất vọng về Đàn Huyền Vọng. Vị nhị đệ kết nghĩa kim lan này thiên tính vốn lãnh bạc, hắn không phải đến giờ mới biết. Từng bị xuyên một kiếm phía sau lưng, còn có chuyện gì là không thể? Thế nhưng sau đợt vũ tiễn ấy hắn đã thực sự cảm thấy tâm mình tàn úa......
Không chỉ vì một mình Đàn Huyền Vọng, mà chủ yếu là vì dưỡng mẫu Liễu Phương!
Dưỡng mẫu...... Không sai, khi nhìn thấy nét bút bằng than của phụ thân Tạ Tấn khắc trên vách đá trong động treo, hắn mới biết thì ra thân mẫu của mình không phải là Liễu Phương. Phụ thân quanh năm mặt mày rầu rĩ thì ra là vì nhớ nhung tình cũ, mà Liễu Phương từ nhỏ đã đối xử với hắn có phần khắc nghiệt, cũng chỉ vì thói ghen tị của nữ nhi...... Lúc đó hắn không sao ngờ được dưỡng mẫu đã nuôi dưỡng mình hơn mười năm lại có thể tuyệt tình đến thế, nỡ nhẫn tâm hạ lệnh đem mình cùng với Đàn Huyền Vọng bắn chết một lượt.
Sau đó lại thêm cử chỉ tuyệt tình trong vô thức của Đàn Huyền Vọng, không khác gì xát muối lên miệng vết thương đầm đìa máu tươi, đau đến nỗi ruột gan đứt đoạn. Tình cảm dưỡng dục hơn mười năm trời phút chốc hóa hư không. Người mình hết lòng yêu thương, lại lãnh bạc vô tình đến thế. Huống chi –
Trước khi xuống núi, phụ thân Tạ Tấn đã trò chuyện với hắn hồi lâu. Những gì Tạ Tấn nói không khác gì sấm sét giữa trời quang: khối ngọc bội hắn vẫn đeo bên người nhiều năm, quả nhiên là tín vật duy nhất mà thân mẫu là Đại Kim Phi Yến quận chúa Hoàn Nhan Chỉ lưu lại cho hắn!
...... Nói như vậy, dưới chân Kì Tú phong, lão bà điên Hoàn Nhan Chỉ mà hắn và Đàn Huyền Vọng đều xem thường đích thực là thân mẫu của hắn! Ngày đó trong khách điếm phủ Lâm An, để cứu hắn, mẫu thân đã không tiếc mạng sống truyền hết công lực, nguyên khí cạn kiệt mà chết! Thậm chí hắn còn chưa bao giờ thật lòng gọi bà một tiếng mẫu thân......
Hơn nữa, Tạ Tấn còn cho hắn biết một bí mật, khiến cho thế giới của hắn càng thêm chao đảo......
Hắn tự vấn bản thân từ nay về sau rốt cuộc nên cư xử thế nào cho phải. Đã nhiều ngày trăn trở, trong lòng chỉ nghĩ đến duy nhất chuyện này, hơn nữa đối với hành động tuyệt tình của Đàn Huyền Vọng ngày ấy ít nhiều có chút oán hận, hiển nhiên đối xử với hắn cũng lạnh nhạt hơn hẳn. Nhưng thật kỳ quái, gần đây hắn đối xử lạnh nhạt với Đàn Huyền Vọng, đối phương lại suốt ngày chăm chăm để ý đến hắn. Mấy trò đùa quái đản mà trẻ con ấy, cùng với tính tình ngạo mạn hắn thường xuyên bộc lộ ra, nói là phát tiết, chi bằng nói là muốn được hắn chú ý. Tạ Khiếu Phong thật sự là đầu đầy sương mù (ý là chẳng hiểu nổi chuyện gì đang xảy ra ấy ^^)
...... Thế nhưng, dẫu có bực bội và bất mãn với Đàn Huyền Vọng tới đâu, thì thấy bộ dạng săn đón nhiệt tình của cô con gái chủ nhà, Tạ Khiếu Phong vẫn đầy bụng dấm chua. Cái tật khoái đong đưa của Đàn Huyền Vọng không thay đổi chút nào, cặp mắt hoa đào tựa tiếu phi tiếu, câu hồn nhiếp phách, khó trách nữ nhi nông gia phải động xuân tâm.
Còn nhớ trước khi đi phụ thân Tạ Tấn từng trêu chọc hắn: “Khiếu Phong, nghĩa đệ của ngươi tuy không phải nam sinh nữ tướng (nam mà tướng mạo như nữ), nhưng cặp mắt hoa đào kia lại khiến người ta điên đảo, chỉ sợ sẽ reo rắc không biết bao nhiêu nợ phong tình.”
– Ai, suy cho cùng, chẳng phải chính mình cũng vì ngày đó thoáng thấy bóng hồng (*) nơi ven hồ mà sa chân vào lưới tình, vạn kiếp bất phục đó sao?
(*) Nguyên văn: kinh hồng nhất miết, nghĩa là bóng chim hồng nhạn lướt qua khiến người ta nhớ mãi không thôi.
Tĩnh dưỡng mấy ngày, những vết thương trên thân thể đã nhanh chóng phục hồi, nhưng vết thương trong lòng lại khó lành hơn rất nhiều. Những bí mật về thân thế, tình thù gút mắc, giống như vướng vào một tấm lưới dày. Dọc đường đi, hắn mang tâm sự trong lòng, buồn bực không vui. Vốn là người chất phác hàm hậu, dần dần trở thành trầm mặc ít lời, nếu trông phải chuyện thiết yếu thì một câu cũng không nói.
Tính nết ẩm ương của Đàn Huyền Vọng cũng là do hắn chiều quá hóa hư, thấy hắn tỏ thái độ, hiển nhiên sẽ không chịu hạ mình lấy lòng. Trong khoảng thời gian Tạ Khiếu Phong thương thế chưa lành phải ở lại nông gia, Đàn Huyền Vọng liền một mình đi luyện tập Lưu Vân kiếm pháp, giữa cả hai coi như yên ổn vô sự. Đợi cho thương thế của Tạ Khiếu Phong khỏi hẳn, hai người gấp rút lên đường, không lâu sau đã tới Trung Đô Đại Kim.
Trung Đô xưa có tên là Yên Kinh. Năm Thiên Đức thứ hai triều Kim (1150), giữa tháng tư nhuận, Kim đế Hoàn Nhan Lượng mở rộng Yên Kinh, dời đô thành từ Hội Ninh (*) ở phía nam đến nơi này, đổi Yên Kinh thành Trung Đô. Trải qua vài năm phát triển, dân cư đông đúc, cảnh vật phồn hoa, hiệu buôn san sát, không hề thua kém cố đô Biện Lương của Bắc Tống hay tân đô Lâm An của Nam Tống.
(*) Hội Ninh: kinh đô của triều Kim trong 38 năm từ 1115 đến 1153, nay thuộc Cáp Nhĩ Tân, Hắc Long Giang. Ờm, chỗ này là chị Mộc nhầm lẫn, vì mình tra đủ thứ tài liệu đều ra kết quả Hoàn Nhan Lượng dời đô năm 1153 chứ không phải 1150.
Tạ Khiếu Phong lớn lên trong sơn trại, Bắc ngũ tỉnh lục lâm xưa nay vẫn chủ trương kháng Kim, là đối tượng truy nã số một của quan phủ triều Kim. Thân phận của hắn đặc biệt, cho nên chưa từng tới Trung Đô lần nào. Hai người theo dòng người buôn bán từ khắp bốn phương đổ vào thành, hắn chỉ cảm thấy cảnh vật trước mắt náo nhiệt phồn hoa, đập vào mắt đều là những thứ chưa thấy bao giờ, nhìn hoa cả mắt.
Đàn Huyền Vọng thấy bộ dạng quê mùa như chưa trải sự đời của hắn, phe phẩy chiết phiến tựa tiếu phi tiếu, đưa ánh mắt thấp thoáng nét xảo trá, dương dương tự đắc liếc nhìn hắn.
“Ai, đại ca không cần hết nhìn đông lại nhìn tây như thế, đợi khi nào ta có thời gian rảnh rỗi nhất định sẽ đưa ngươi đi xem hết mọi nơi. Còn bây giờ hãy cứ về vương phủ trước đã.”
Thân phụ Đàn Huyền Vọng chính là Ngự lâm quân thống lĩnh Đàn Thế Bân, lại là quận mã của ngự muội Hoàn Nhan Chỉ, có thể coi như hoàng thân quốc thích, thân càng thêm thân. Đàn gia lại là tông thân thế gia, được ngự ban phủ đệ Tể vương phủ, nằm ngay mặt đông phía trong thành.
Đàn Huyền Vọng mang Tạ Khiếu Phong về, tuy xuất phát từ lòng áy náy, nhưng cũng không hoàn toàn là ý tốt. Hắn nghĩ Tạ Khiếu Phong võ công cao cường, lại là người đơn thuần. Hơn nữa sau khi thân thế phơi bày, quan hệ với dưỡng mẫu Liễu Phương đã như nước với lửa; lại thêm phụ thân Tạ Tấn thần trí thất thường, tính ra đúng là không nhà để về. Vậy chỉ cần mình bố thí chút ơn huệ, lại thêm hắn vốn si mê mình, lôi kéo hắn về phe với mình tuyệt không phải chuyện khó. Ôm trong lòng tráng chí, lại không có được những thuộc hạ đắc lực sẵn sàng liều chết, muốn thành đại sự có thể nói khó hơn lên trời. Tạ Khiếu Phong này chẳng phải là một trợ thủ đắc lực từ trên trời rơi xuống hay sao?
Hai người bước thẳng tới trước cửa Tể vương phủ. Tạ Khiếu Phong nhìn sơ qua một lượt, chỉ thấy cả tòa phủ đệ chiếm hơn mười mẫu đất, trải dài qua hai con phố lớn. Hai bên đại môn đỏ thẫm có hai con sư tử bằng ngọc thạch canh giữ, uy nghi dữ tợn, toát ra vẻ phú quý hào hoa. Tức khắc có tôi tớ ra nghênh đón thế tử hồi phủ, Tạ Khiếu Phong lòng đầy tâm sự, cũng không nói nhiều, theo hắn vào cửa.
Trong Tể vương phủ, con cháu dòng chính của Đàn thị khá đông. Nguyên Tuyết Y hầu Đàn Hạo Thanh chính là con chi trưởng, do đó được tập phong tước vị Bối tử. Nhưng hiện giờ hắn đang lưu lạc Giang Nam, lại có lời đồn hắn phản quốc, nên tước vị thế tập này của Đàn gia lại bỏ trống. Đàn Huyền Vọng là con trai duy nhất của đương kim Vương gia Đàn Thế Bân, chi thứ hai chỉ có một nam đinh, tự nhiên có ưu thế hơn hẳn. Vì vậy nghe tin hắn trở về, mấy vị đường huynh đường đệ trong nhà tức khắc ồn ào như ong vỡ tổ.
“Ai, Huyền Vọng đường đệ đã trở về rồi. Nghe nói ngươi lần này tới núi Thạch Bình lại tay không trở về, ai, đáng tiếc đáng tiếc.”
“Ấy, Huyền Vọng ca sau khi trở về từ Giang Nam, võ nghệ tiến bộ vượt bậc, lí gì lại để ý đến chuyện vặt vãnh ấy, chẳng qua chỉ là vận khí không tốt thôi.”
“Nhưng chưa chắc Hoàng Thượng đã chịu chấp nhận cái lí do bao biện thời vận không tốt này nha.”
“Di? Đường đệ còn mang về thêm một người nữa? Này, này...... Ha ha ha ha!” Mấy hoàn khố (*) vương tôn chỉ vào Tạ Khiếu Phong, cười lên ha hả.
(*) hoàn khố = quần lụa =)) thực ra hoàn khố vốn chỉ chung quần áo đẹp làm từ lụa là, về sau biến nghĩa, dùng để gọi mấy tay công tử nhà giàu ăn mặc bảnh bao mà bất tài vô tướng lười nhác vô tích sự etc… Định để là quần lụa nhưng thấy bóng quá nên thôi tha vậy, dù gì chúng nó cũng chỉ bựa chứ không bóng =))))))
“Nhìn cái bộ dạng nghèo kiết xác của hắn kìa, y phục may bằng vải gì không biết nữa. Chậc chậc, ngay cả giày cũng...... Ai nha, đường đệ à, ngươi tìm đâu ra vị bằng hữu “chất phác” này vậy hả?”
Tạ Khiếu Phong đã quen bị Đàn Huyền Vọng giễu cợt, lòng lại chất chứa tâm sự, mặc kệ đám công tử bột ấy, mím môi không nói.
Đàn Huyền Vọng mặt mày cũng biến sắc: thổ bao tử thổ bao tử...... Hắn ta đúng là nghèo kiết xác, nhưng cũng không đến lượt người khác chê bai. Hơn nữa đánh chó cũng phải ngó mặt chủ, đám đường huynh đường đệ này rõ ràng là muốn làm mình mất mặt!
Hắn mở chiết phiến, khóe môi nhếch lên, thần tình tựa tiếu phi tiếu, ngữ điệu lại âm hiểm: “Ta bôn ba bên ngoài đã lâu, giờ rất mệt mỏi, muốn đi tắm gội thay y phục. Chuyện ở núi Thạch Bình có liên quan tới hoàng mệnh, là chuyện cơ mật trọng yếu, thứ cho ta không thể tiết lộ với các vị huynh đệ. Đương nhiên nếu các ngươi thật sự muốn biết, thì cứ đi mà hỏi hoàng thượng! Những gì cần nói đã nói hết, nếu không có chuyện gì quan trọng, phiền các vị tránh ra!” Cũng không ngại ngùng, kéo tay áo Tạ Khiếu Phong dẫn hắn rời đi.
Mấy hoàn khố vương tôn ngơ ngác đứng như trời trồng, một hồi lâu sau mới hoàn hồn, tức tối giậm chân: “Phi! Xú tiểu tử tự coi mình là cái gì thế, chẳng qua chỉ là tạp chủng do Hán nữ thấp hèn sinh ra thôi! Thiên kiêu bối tử thì không nói làm gì, người ta là thiên sinh quý trụ (dòng dõi cao quý); hắn thân phận thấp hèn, dựa vào đâu mà vênh váo tự cao! Đúng là núi không có hổ thì khỉ cũng leo lên làm chúa mà.”
Đột nhiên Đàn Vũ Anh ở chi thứ ba lên tiếng: “Ta thấy tiểu tử nghèo kiết xác hắn mang về quá nửa là người Hán, chi bằng đi mách với thúc phụ. Thúc phụ ghét nhất là Hán cẩu, nhất định sẽ đuổi tiểu tử kia đi!”
Cả đám đều cho là diệu kế, lập tức ghé vào một chỗ hắc hắc cười gian, cực kì vui vẻ.
Đàn Huyền Vọng dẫn Tạ Khiếu Phong đi xuyên qua những hành lang gấp khúc ôm lấy họa lâu, lướt qua mấy đình viện, bước vào nội hoa viên. Đây chính là nơi ở của hắn, chỉ thấy giữa những tàng cây thấp thoáng lộ ra một góc tiểu lâu, cạnh đó có hai ba gian nhà thưa thớt, thanh tĩnh nhã trí. Chợt có hai thiếu nữ tóc búi hình trái đào chạy tới, vui vẻ reo lên: “Thế tử gia, người đã về rồi!”
Đàn Huyền Vọng phân phó: “Vị Tạ công tử này là khách quý, các ngươi hầu hạ cho tốt, không được chậm trễ.” Nói rồi quay về tiểu lâu.
Tạ Khiếu Phong vô thức muốn chạy theo, nào ngờ hai thiếu nữ vội vàng kéo lấy ống tay áo của hắn, cười duyên: “Tạ công tử, thế tử nhà chúng ta phải đi tắm gội thay y phục. Công tử đường xa đến đây, chắc thân thể đã dính nhiều bụi bặm, để nô tỳ chuẩn bị nước sạch cho người.”
Tạ Khiếu Phong ngẩn ngơ, chợt nhớ lại tình cảnh trong khách điếm thành Lâm An, Đàn Huyền Vọng tắm gội trong gian phòng sát vách. Khi đó tâm tư hắn rối loạn, lo lắng không yên, giờ hồi tưởng lại thấy vô cùng hương diễm, gương mặt phút chốc đỏ bừng.
Hai thiếu nữ là đại nha hoàn hầu hạ Đàn Huyền Vọng, một gọi là Yến Nhi, một gọi là Oanh Nhi. Hai nàng dẫn hắn tới phòng khách, trong phòng bài trí tinh tế trang nhã, chăn gối trắng tinh, kéo bình phong ra là có thể tắm rửa.
Tôi tớ trong vương phủ làm việc vô cùng khẩn trương, trong chốc lát đã chuẩn bị xong bồn tắm lẫn nước ấm. Tạ Khiếu Phong dù không phải người ưa sạch sẽ, nhưng đi đường nhiều ngày, quả thực cũng muốn được tắm táp cho thoải mái. Hắn vừa cởi áo ngoài, đang định nhập dục thì hai nha hoàn kia lại chạy vào, cười nói: “Để nô tỳ hầu hạ công tử.”
Tạ Khiếu Phong hoảng sợ, cuống quít xua tay: “Không cần! Ta tự tắm rửa cũng được, không dám làm phiền hai người.”
Oanh Nhi đem y phục mới mình vừa chuẩn bị vắt lên bình phong, cười nói: “Vậy coi sao được? Thế tử gia đặc biệt phân phó hai tỷ muội chúng ta phải hầu hạ công tử cho thật tốt.”
Yến Nhi cũng phụ họa theo: “Hai tỷ muội chúng ta từ nhỏ đã hầu hạ thế tử gia rửa tay thay y phục, mặc dù không dám nhận là khéo tay, nhưng cũng coi như quen việc. Công tử hà tất phải lo lắng?”
Trong lòng Tạ Khiếu Phong đột nhiên có chút tư vị khác lạ, đứng ngẩn ngơ một chỗ, nói không nên lời.
Oanh Nhi coi như hắn đã ngầm ưng thuận, lại gần thay hắn cởi trung y. Tạ Khiếu Phong sợ tới mức nhảy bắn sang một bên, giữ chặt y phục, sắc mặt trắng bệch: “Đừng, ngàn vạn lần đừng...... Để ta tự làm, thỉnh hai vị cô nương ra ngoài đi!” Hắn sinh ra ở sơn trại, dưỡng mẫu tuy có thị nữ, nhưng tuyệt không có thói quen này, cũng khó trách hắn chân tay luống cuống.
Ba người tranh cãi một hồi, cuối cùng hai nàng vẫn không lay chuyển được hắn, bất mãn lui xuống.
Hơi nước mờ mịt.
Tạ Khiếu Phong ngồi trong bồn nước ấm, nhíu mày trầm tư. Một hồi lâu sau, hắn lấy ra ngọc bội vẫn đeo trước ngực chưa từng gỡ xuống, chăm chú nhìn hoa văn xuân thủy khắc trên đó. Hoa văn sinh động như thật, nét bút trong sáng hữu lực, ngoại trừ thiên hạ đệ nhất xảo tượng Khâu Nột Ngôn, còn ai có được tài năng cỡ ấy? Ai ai cũng biết, tác phẩm điêu khắc của Khâu Nột Ngôn hầu hết đều được triều đình Đại Kim cất giữ......
– Khối ngọc bội hắn đeo trên người bao nhiêu năm qua, quả nhiên là tín vật nhận con của Đại Kim quận chúa Hoàn Nhan Chỉ. Mà nơi này, Đại Kim Trung Đô Tể vương phủ, chính là phủ đệ của Đàn Thế Bân trượng phu Hoàn Nhan Chỉ......
Hắn sở dĩ theo Đàn Huyền Vọng tới Trung Đô, chính là vì muốn tận mắt thấy Tể vương phủ, xem qua nơi thân mẫu mình từng sống, cũng mong gặp được –
Thân phụ của mình!
Không sai, vào cái ngày cả hai rời núi Thạch Bình, dưỡng phụ Tạ Tấn sau khi giúp hắn trị thương, đã nói ra bí mật cuối cùng, liên quan tới thân thế của hắn!
Hắn chẳng những không phải con của Liễu Phương, mà cũng không phải con Tạ Tấn..... Thân sinh phụ mẫu của hắn, thì ra lại là hoàng thân quốc thích Đại Kim — bối lặc Đàn Thế Bân và Phi Yến quận chúa Hoàn Nhan Chỉ!
Năm đó, tân nương Hoàn Nhan Chỉ tính tình phóng khoáng, xuất phủ du ngoạn, trong dân gian gặp được thiếu niên anh hiệp Tạ Tấn. Hai người không đánh không biết nhau, trở thành một đôi oan gia. Nhưng Hoàn Nhan Chỉ đã lập gia thất, buộc lòng phải gạt lệ bái biệt tình lang. Tạ Tấn sau khi biết được thân phận của đối phương, lại nổi lên tâm tư khác –
Tạ Tấn từng theo làm môn hạ của một lão giả vô danh, học được Thái Thanh chân khí, bỗng chốc trở thành cao thủ hạng nhất võ lâm. Nhưng hắn không môn không phái, thế cô lực mỏng, thủy chung không thể xưng hùng một phương. Hắn biết Hoàn Nhan Chỉ thân mang Thái Huyền chân khí mà cung đình Kim quốc cất giữ, cũng là một trong số các tàn bản của công pháp Thủy tinh đăng còn lưu lại được.
Cái gọi là Thủy tinh đăng, tức là một ngọn thuỷ tinh cung đăng sáu cạnh được Thái Tông Triệu Khuông Nghĩa ngự ban. Trên sáu mặt của cung đăng có khắc “Lục hợp bát pháp” của Trần Đoàn lão tổ. Nghe nói, nếu học hết lục pháp thì có thể ngộ đạo biến hình, mọc cánh thành tiên. Dĩ nhiên thuyết này quá ư huyền bí, gần như thần thoại. Người trong võ lâm thừa nhận một thuyết khác là một khi học hết lục pháp sẽ trở thành thiên hạ vô địch, muốn kéo dài tuổi thọ cũng không thành vấn đề. Do giữa lục pháp vốn có vô số mối liên hệ chằng chịt, cho dù chỉ học được hai pháp trong đó, công lực cũng có thể tăng lên gấp bội.
Khi Kim quốc xâm lược phương Nam, những bảo vật bí mật trong cung đình nhà Tống bị cướp đi bằng sạch, công pháp bí tịch Thủy tinh đăng đã thất lạc trong cảnh hỗn loạn. Trong đó những bản biết rõ vị trí gồm có: Thái Huyền chân khí bị quân Kim cướp đi, cất giữ trong hoàng cung Đại Kim; Thái Thanh chân khí lưu lạc dân gian, được lão giả vô danh truyền cho Tạ Tấn, Thái Cực chân khí vẫn lưu lại trong tay đệ tử Do Long phái, chân truyền của Trần Đoàn lão tổ; Thái Âm chân khí nghe nói bị hoạn quan trong cung mang đi, mất tăm mất tích. Cũng có người nói, ma giáo Xá Nữ cung trước đây từng gây sóng gió trên giang hồ, Xá nữ Huyền công mà cung này tu luyện chính là biến thể của Thái Âm chân khí. Thái Dương chân khí cùng với Thái Ất chân khí thì không rõ tung tích.
Do đó, Tạ Tấn vì muốn có được Thái Huyền chân khí, nhân lúc Hoàn Nhan Chỉ đang mang thai, dùng hoa ngôn xảo ngữ (lời ngon tiếng ngọt) lừa nàng tới Giang Nam, ước hẹn cùng ẩn cư, chung sống đến bạc đầu, không quan tâm tới chuyện trên giang hồ nữa.
Mà Tạ Khiếu Phong, chính là đứa con trong bụng Hoàn Nhan Chỉ khi ấy!
———————————————-
(1) Chỗ này mình chém quên trời quên đất luôn, tên món ăn gì mà lạ hoắc, toàn phải đuổi hình bắt chữ @@
Nguyên văn đây “枣饼, 贯馅糖 ( 即饴饧), 青精饭团, 柳芽翠烙, 麦 糕......” (Tảo bính, quán hãm đường ( tức di đường), thanh tinh phạn đoàn, liễu nha thúy lạc, mạch cao......) Còn hình ảnh cụ thể từng cái thì thế này
Bánh táo (được món này trông ngon nhất)
Quán hãm đường, cái này không biết dịch sao đành để vậy (trông như bánh chay nhỉ?)
Cơm nắm nếp đen:
Cái này là một món nào đó chế từ mầm liễu, chứ còn bánh mầm liễu chính cống thì bó tay:
Mạch cao, theo như baike thì nó là cách gọi bánh bao của vùng Chiết Giang, chỉ khác là cho thêm nhiều vị, VD thanh mạch cao có thêm ngải, đường mạch cao có thêm đường đỏ, có nơi cho cả sữa hoặc bí ngô.
(3) Hu hu mình chỉ tìm được cháo hàn thực thập cẩm thôi, hoa mai hoa đào hoa dương đủ cả chứ không có hình riêng từng loại, xem tạm vậy =”=
Tác giả :
Mộc Vũ Linh Âm