Thương Hải
Chương 47-2: Luyện binh (2)
Thích Kế Quang tủm tỉm cười, gật đầu, Vương Như Long ra vẻ sốt ruột, lớn tiếng hỏi: "Công tử gia, hãy mau chọn cho mình một món binh khí, rồi chúng mình nhập trận!". Lục Tiệm lắc đầu, bảo: "Ta hãy khoan dùng binh khí đã, để xem trận pháp biến hoá uy lực lớn nhỏ ra sao?"
Nếu là người khác nói câu đó, Vương Như Long tất nhiên sẽ thấy khoa trương lớn lối, nhưng nghe Lục Tiệm nói thế, gã trong lòng càng chắc mẩm hơn nữa, tự nhủ: "Đúng thế, cách dùng binh khí, quả nhiên là phong phạm truyền nhân Kim Cương môn!" Gã bèn hỏi: "Thích đại nhân, vậy thì định đọat hơn thua ra sao đây?" Thích Kế Quang vui vẻ bảo: "Hễ ngươi chạm được vào mình Lục huynh đệ, là kể như thắng!", Vương Như Long cười ầm. quát lên một tiếng lớn, điều động cái Lang Tiển, tấn công thẳng vào Lục Tiệm.
Lục Tiệm khi thấy hai cây Lang Tiển xáp lại, khoa tay một vòng, rùn mình, chợt nghe tiếng gió phía dưới, đó là hai đao thủ và bài thủ đã lăn vào, huơ đao chém vào hai chân gã. Lục Tiệm vừa đóan được lang tiển tuy hung mãnh, nhưng thật sự chỉ là hư chiêu, dùng làm hoa mắt đối thủ, để cho hai đao thủ lẻn nhập nội tấn công, gã bèn lập tức tung mình, đá song cước ra nhằm vào chính diện hai tấm thuẫn bài, song thủ cùng lúc vươn ra, xuất ra hai quyền đánh vào hai lang tiển.
Lập tức gió ào ạt tới, hai luồng hồng quang đỏ như máu, hai cây trường thương ngù đỏ đã vụt mạnh vào, hai đầu thương chia ra làm hai đường trên dưới kích tới. Lục Tiệm né mình tránh trường thương, mắt nhìn thấy hai cây lang tiển quá đà, chưa thu về kịp, bèn xông xáo vào sát hai cây lang tiển, chẳng dè hai cây địa đường đao đã dùng thuẫn bài đưa ra chặn trước, đao thủ nhắm vào hướng tấn công của Lục Tiệm mà chém hai cây đao ra, vung ngược đao lên như một đường kiếm, nhắm vào ngực của Lục Tiệm. Lục Tiệm búng ngón tay ra, nghe soạt soạt hai tiếng, đúng vào đường đi của đao, nơi hổ khẩu tay hai đao thủ bỗng dưng đau buốt lên, nếu LụcTiệm mà không nhẹ đòn, đao đã bị đánh bay vuột mất khỏi tay rồi.
Lúc khẩn cấp, Lục Tiệm phải sử Đại Kim Cương thần lực, trong lòng gã có hơi ngường ngượng, trước mắt bỗng chớp loé lên hai luồng hắc quang từ hai cây đinh ba đang chia ra làm hai đường trên dưới tấn công vào. Lục Tiệm lui lại một chút, đôi chân rùn xuống, một đầu quyền vung ra giữa không trung, gã chợt nổi hiếu thắng, bèn quát nhẹ lên một tiếng, song quyền hai bên tả hữu vung ra, hai luồng kình phong sầm sập như núi đổ ào tới, quét vào đỉnh đầu cả toán quân lập trận.
Gã cứ tưởng khi quyền kình phát ra rồi, mọi người bên địch sẽ bị đánh ngã, gã chỉ dùng có nửa lực đạo, không dè kình phong vưà xuất ra, đã nghe Vương Như Long hô lên một tiếng "Phân" (Tẽ ra). Trận thế chợt biến chuyển, hai cây lang tiển tách ra, chia toàn trận ra làm hai bên tả hữu. Quyền kình của Lục Tiệm đánh hụt, chạm vào đất đá, tung bụi bay lên mù mịt. Trận đội né một chút, tiến ngang qua hai bên mình Lục Tiệm, đồng lúc, lang tiển, thuẫn bài xuất ra, khoá kín đường lui của Lục Tiệm, bốn phía các mũi nhọn của đao thương dưạ theo mấy cây tre, cùng lúc đâm vào, hai bên tả hữu cùng tập kích.
Cái chuyển biến này thật là lăng lệ, Lục Tiệm không kịp tránh né, trong lúc cấp bách, gã bèn sử "Thiên Kiếp Ngự binh pháp", hai cánh tay chập lại, trước cản mấy mũi trường thương, rồi định trằn mình né xuống, chợt thấy đao thủ đã sáp vào nhanh như điện, hươi đao chém vào trước mặt. Tâm niệm Lục Tiệm chuyển biến thật nhanh, gã nghĩ thầm: "Nếu ta mà không đoạt mấy cây thương để thủ thắng, khó lòng ra khỏi cái trận này, nhưng mà đã bó buộc được ta phải sử đến 'Thiên Kiếp Ngự Binh pháp', cái trận này quả thực có lợi hại!" Lập tức tách hai cây trưòng thương ra, né mình tránh hai cây đao, chẳng dè, lang tiển, đinh ba đã vòng ra phía sau lưng, rồi hai cây trước, hai cây sau, hai mũi nhọn đâm vào, lang tiển vung lên, cành lá mù mịt, như nhiều đám mây mù sa xuống, ào ạt tấn công. Đang lúc tay chân Lục Tiệm bối rối, hai cây đinh ba đã lén lút quật tới.
Lúc ấy, người quan chiến chỉ thấy Lục Tiệm thân hình di chuyển phiêu hốt, như quỷ như ma, gã có ý định xuất thủ cực nhanh, khiến đối thủ giữ trận không phản ứng kịp, trận Âm Dương vì lẽ đó sẽ bị phá tan, không ngờ, chưa kịp thi hành, trận đã phân ra rồi hợp lại, quay qua, biến thành hai đội, quay lại, đã thấy hoá ra làm ba, vụt một cái, mặt chính diện tấn công theo chiều ngang, vụt một cái nữa, người đang tẽ ra bỗng dưng họp lại, lang tiển trông vào hỗ trợ của thuẫn bài, song thương phối hợp trợ cho lang tiển, đoản đao che chắn cho trường thương, đinh ba lén lút đánh ngược, mỗi lúc mỗi thứ binh khí đóng vai trò sát thương, năm thứ binh khí lần lượt thay nhau công thủ, hỗ trợ cho nhau, mỗi lúc mỗi sinh ra một thế biến hoá bất ngờ, không những đã tránh né được các đòn phản công sát thủ của Lục Tiệm, mà còn phản công lại bằng những đòn phối hợp lăng lệ.
Bọn tướng sĩ nhìn diễn tiến trận đánh mà bị hoa mắt, trong lòng vừa mong trận đừng bị phá, vừa nể phục thần thông của Lục Tiệm, chỉ e gã sơ ý bị quệt phải, mất đi cái oai phong tuyệt thế. Nhìn song phương giao tranh, trong lòng sinh ra bất định, cuối cùng, không biết nên ủng hộ bên nào!
Thích Kế Quang vốn biết Lục Tiệm công phu đã đến mức tuyệt diệu, lúc ban sơ, y chỉ e sợ cái trận pháp mà y đã khổ công nghiên cứu và sáng chế dễ dàng bị đối phương phá tan, giờ đây xem tình hình, thấy có cơ thủ thắng, bèn từ trên suý đài giải thích, đàm luận cùng Cốc Chẩn về biến hoá của trận pháp, Ông bảo: "Cái trận này dùng năm thứ binh khí, dài ngắn tượng như âm dương, số năm ẩn về ngũ hành, thương là kim. tiển là thuỷ, thuẫn là thổ, đao là mộc và đinh ba là hoả. Nễu triển khai đúng cách thức, thì sẽ như ngũ hành tương sinh, không thể phá được, nếu sai đường lối, sẽ như ngũ hành tương khắc, chẳng chờ đối thủ tấn công mà đã tự mình hại mình rồi. Những biến hoá tương sinh, tương khắc bên trong đó, khó có thể chỉ một vài câu mà giải thích cho hết được. Mà các binh khí lại đi cặp đôi, nếu đụng cường địch, sẽ có thế phân ra làm hai mặt âm dương lưỡng nghi, một cương một nhu, tả hữu hai nhánh, rồi thì ứng biến thành Tam tài, hợp lại bao vây, như vậy sẽ làm cho đối thủ tay chân luống cuống, đến lúc bị mỏi mệt, tam tài sẽ hợp nhất, chuyển qua tấn công."
Cốc Chẩn gật gù, bảo: "Âm Dương, Tam tài, Ngũ hành biến hoá, ai nấy đều rành, nhưng từ xưa đến giờ, học cho thông rồi ứng dụng cho giỏi, đến nay, đếm chẳng được bao nhiêu người!" Nói đến đấy, gã cười xoà, bảo: "Thích tướng quân, xin lỗi tiểu tử ta đây lắm mồm, cái trận pháp rất tuyệt, nhưng cái tên thì lại không hay!"
Thích Kế Quang hơi sựng, hỏi: "Sao lại không hay?" Cốc Chẩn đáp: "Âm Dương là hai từ đã bị lạm dụng nhiều, chẳng hiểu đã do ai bầy đầu ra, trừ phi Thích huynh làm lốc cốc tử, hay làm đạo sĩ vẽ bùa, đã không nhầm lẫn dữ lắm khi đặt cái tên đó!" Thích Kế Quang không nhịn dược cười, bèn hỏi: "Vậy thì nên đổi tên trận như thế nào?"
Cốc Chẩn đáp: "Ta thấy trận đó chia làm hai cánh, mở, đóng bất định, giống như cánh chim lượn, lướt, theo gió mà đổi hướng, đổi cao thấp. Vậy chi bằng tìm tên chim mà đặt cho trận, cứ tìm thứ chim nào có đủ cặp âm dương, thư hùng... tỉ như hoặc Phượng Hoàng, hoặc Uyên Ương. Tướng quân vừa mới bảo đó, nếu đẹp đẽ quá thì sẽ vô dụng, nếu thực dụng thời không cần đẹp mã. Phượng hoàng là vua các loài chim, lông cánh thật hoa lệ, dùng đặt trên cho trận không hợp cái thực dụng, chỉ còn đôi Uyên Ương, loài chim tầm thường, nhưng tình ý với nhau thật là sâu đậm, bền chặt."
"Tên thật hay!", Thích Kế Quang vỗ tay khen, "từ giờ trở đi trận pháp đó sẽ mang tên 'Uyên Ương trận'!"
Trong lúc họ đang đàm luận, Lục Tiệm đã nhìn ra cái ưu cũng như khuyết điểm của trận, cái hư và cái thực của nó, bèn chuyển sang phản công, thi triển Đại Kim Cương thần lực, quyền cước tung ra, có kèm theo kình lực ồ ạt, quân sĩ thủ trận bị quét trúng, đều bước chân loạng choạng, cử động mất trầm ổn, chợt nghe gã quát lên một tiếng, một cây trường thương đã bị Lục Tiệm quét mạnh trúng, bay tuốt ra ngoài, Thích Kế Quang trợn ngược hàng lông mày, lớn tiếng hô: "Lý Đồng Tiên, đội của ngươi hãy tiến vào tiếp viện từ mé đông đi!"
Một hán tử cao lớn cất tiếng nhận lệnh, thống lĩnh tiểu đội của hắn kết Uyên Ương trận, tiến sát vào Lục Tiệm. Hai tiểu trận Uyên Ương tả hữu qua lại, kết hợp thành một Uyên Ương đại trận, biến hoá vô hình, quay vòng, hư thực bất định, làm uy lực trận pháp gia tăng gấp bội.
Trận pháp trở thành cương mãnh, Lục Tiệm cũng cường mãnh theo, thần lực như sấm sét không ngớt tung ra, ẩn hiện Kim Cương pháp, quyền chưởng đều lồng theo "Thiên Kiếp Ngự binh pháp", đấu không bao lâu, tả thủ giáng ngang ra một quyền, đánh gục hai cây Lang Xiển xuống, dính chặt theo đôi thương tùm hụm một mớ vào nhau. Thích Kế Quang thấy tình hình như vậy, tự y đái lĩnh một đội khác tham chiến, sau một lúc, thành ra tình thế ba đội Uyên Ương hai trước một sau, kết thành Tam tài, rồi chuyển qua một hợp, một phân, lại quay về Lưỡng Nghi.
Lục Tiệm càng đấu cành kinh hãi, chung quanh hắn binh khí vù vù qua lại, phiêu hốt, bất định, số binh khí dài ngắn kết theo ngũ hành, tương sinh tương ứng, xem ra so với môn "Thiên Kiếp Ngự Binh pháp" của gã cũng có điểm tuyệt diệu tương đồng, Chỗ khác nhau, là "Thiên Kiếp Ngự Binh pháp" do gốc gác từ "Bổ Thiên Kiếp thủ", thích hợp để đối phó cùng lúc mười loại vũ khí khác nhau, chống món vũ khí nào cũng có bài bản thích hợp, nhưng khi nhìn cách vận dụng kết hợp của năm thứ binh khí trong trận Uyên Ương, cái biến hoá kỳ diệu của chúng dựa vào hỗ trợ tương ứng giữa dài và ngắn, sự tương sinh của ngũ hành, đã tổng hợp vào thành một thể duy nhất, cho thấy uy lực không lường trước được của chúng.
Lục Tiệm không dè cái diệu dụng của trận pháp, nhất thời bị giam giữ trong trận, bó tay bó chân, xuất thủ khó khăn, hắn bực tức, buông một tràng cười dài, cùng lúc vận "Đại Kim Cương thần lực" và "Thiên Kiếp Ngự binh pháp", đồng thời chuyển, xoay mình, đoạt một cây Lang Tiển, quét nó ra, đánh lui mấy quân sĩ kề cận, quơ cây tre lên, đã hút dính hai cây Lang Tiển khác nữa, rộng đường múa may, các đao thủ, bài thủ rạp cả người xuống định lăn vào phía dưới hạ bàn, chờ cho họ vào sát, gã bỗng như một mũi tên lìà dây cung, nhảy vọt lên hai trượng, hai đội đao thủ thấy tình thế bất lợi, chưa kịp lui ra, đã nghe tiếng đập vào gỗ vang lên liên miên, bao nhiêu mộc thuẫn, mộc đao đều đã bị tan vụn ra.
Lục Tiệm thân mình còn đằng không, sáu cây lang tiển cùng trường thương đã thi nhau hoặc đâm. hoặc quét tấn công tới, cây lang tiển trong tay Lục Tiệm vụt quơ xuống, các trường thương đồng loạt như vụn sắt bị hút vào đá nam châm, dính tất cả vào cây lang tiển của gã, chỉ có mình gã Vương Như Long nhờ sức khoẻ hơn người, đã rút được cây Lang Tiển của hắn về, quơ lên ào ào như một cơn lốc xoáy, nhưng không đủ để bức bách Lục Tiệm chạm đất
Thích Kế Quang thấy thế, đang định gọi thêm tiếp viện, Lục Tiệm đã đánh đầu ngọn Lang Tiển trong tay mình vào đầu cây tiển của Vương Như Long, mượn sức phản chấn, tung mình nhảy vọt ra bên ngoài trận, giơ tay lên, la lớn: "Đại ca, đủ rồi!". Thích Kế Quang nghe y kêu, bèn cho ngừng trận, giải tán chư quân, rồi kêu lên: "Cái trận này thiệt đã không thể cầm chân được đệ!"
Lục Tiệm lắc đầu, đáp: "Trận đó dĩ nhiên vô cùng lợi hại, chỉ có hai nhược điểm, nếu sửa chữa được, đến đệ đây cũng chưa chắc tháo chạy thoát ra khỏi trận được". Thích Kế Quang hỏi: "Nhược điiểm ở đâu?" Lục Tiệm bảo: "Thứ nhất, quân sĩ sử lang tiển chưa đủ khoẻ, ngoài Như huynh ra, mấy người sử tiển vì tiến thoái không linh hoạt, đã không phát huy được hết uy lực của Lang tiển. Thứ hai là thiếu cung tên, súng điểu. Nếu trong trận đó mà có thêm cung nỏ, súng điểu, đệ chẳng thể nào đằng không thật lâu mà tránh khỏi bị làm mục tiêu cho tên, cho đạn.Chỉ cần bổ sung thêm tên đạn, các tiển và trường thương sẽ khó đối phó hơn nhiều"
Thích Kế Quang trầm ngâm, rồi nói: "Chuyện khí lực là do trời sanh, chẳng thể miễn cưỡng dược!" Lục Tiệm vui vẻ bảo ông:"Đại ca, việc tập luyện khí lực đó cứ giao cho đệ lo đi". Thích Kế Quang nhìn gã, tủm tỉm cười, rồi day qua ba quân, ông cất tiếng sang sảng hỏi: "Từ hôm nay trở đi, cái vị Lục huynh này sẽ đảm nhiệm chức giáo đầu, bọn ngươi có chịu phục hay không?" Bọn quân lính thảy đều khâm phục võ nghệ của Lục Tiệm, nghe ông hỏi, đều mừng rỡ, nhất loạt trả lời: "Phục rồi! Phục rồi"
Ngay hôm đó, Lục Tiệm và Cốc Chẩn đứng ra nhậm chức. Lục Tiệm thấy ba mươi hai biến tướng không phải ai cũng có thể tập luyện được, mà còn dễ bị hiểm hoạ rước kiếp lực vào thân, huống hồ phần lớn sĩ tốt tầm thường đều rất dễ bị sai lạc khi luyện tập. Gã suy nghĩ thật lâu, cuối cùng, đem ba mươi hai biến đó gộp lại thành sáu thức,là: kị thức, câu khai thức, giá thượng thức, áp hạ thức, trung bình thức, nhiêu bộ thối thức. Sáu bộ thức đó tư thế giản dị, tâm pháp dễ hiểu, nhắm vào tập luyện tăng thể lực, lại có chiêu thức tiến thoái, Gã tối ưu hoá các chiêu thức, rồi tuyển chọn những quân sĩ sẵn có thể lực, đem truyền dạy họ. Lang tiển vốn dĩ là môn hộ của trận pháp Uyên Ương, các quân sĩ đó, sau khi tăng thể lực rồi, đem đi cho sử dụng Lang tiển, từ chỗ hai người một cụm trở thành tự mỗi người một cụm, chuyện tiến thoái của toàn trận đã tăng uy lực gấp bội. Gã còn đem "Thiên Kiếp Ngự binh pháp" ra chế biến thành chiêu thức cho ma đao thuẫn, đinh ba, trường thương... làm cho giản dị đi, những vẫn giữ că bản, phối hợp cùng các chiêu thức của Lang tiển, nâng cao tính tương sinh ngũ hành, lưỡng nghi tương ứng, làm cho trận thế không còn nhược điểm nữa. Lục Tiệm xuất thân nghèo khó, dễ thân cận cùng quân sĩ, hợp tính hợp tình. Gã vào ở luôn trong doanh trại, cùng ẩm cùng thực với ba quân, cùng chung giường chiếu. Bọn quân lính thấy vị giáo đầu này cùng chia bùi sẻ ngọt với họ, trong lòng càng quý mến, thán phục y hơn, đều ra sức nỗ lực chuyên cần tập luyện. Do gã giốc lòng tập luyện quân sĩ, gã càng lúc càng xa cách Cốc Chẩn. Cho tới một hôm, Lục Tiệm ngẫu nhiên nhớ tới Cốc Chẩn, đi tìm y, thấy phòng ốc vắng lặng, hỏi thăm thì được vệ binh thông báo là Cốc Chẩn mấy lúc sau này ít về qua nhà. Lục Tiệm trong lòng thắc mắc, nhưng việc quân bận rộn, gã cũng đành gác lo âu sang một bên.
Chiều tối hôm đó, Lục Tiệm đang cùng Thích Kế Quang thao luyện trận pháp, chợt nghe có tiếng trâu rống, ngựa hí, đưa mắt nhìn, thì thấy trước doanh trại nguyên một đại đội trâu và ngựa đang rầm rập tiến đến. Còn đang thắc mắc, đã thấy một kị sĩ bạch bào từ trong đám đó tiến ra, miệng cười hì hì, đich thị Cốc Chẩn. Gã đưa tay vẫy chào hai người, rồi hươ roi ra lệnh mã phu tháo dỡ hàng hoá xuống. Thích Kế Quang lại gần xem xét, thấy đó là khôi giáp, binh khí, vô số lương thảo, đều được đóng gói cẩn thận, chất đầy doanh trại, có nhiều thùng gỗ to, mở ra xem thì thấy bên trong toàn là súng điểu cùng đạn dược mới tinh.
Thích Kế Quang, Lục Tiệm nhìn đến hoa mắt, cứ ngỡ đang nằm mơ, đang định đi tìm Cốc Chẩn tra hỏi, lại đã nghe tiếng ngựa hí vang, tiếng trâu bò nghé ngọ, nhìn ra thì thấy vô số trâu bò đang kéo xe đến, trong đó có nhiều cỗ súng thần cơ to lớn, nòng súng sơn đen dễ khiến người ta trông thấy mà rùng mình. Đàng sau đó là mấy trăm cỗ chiến mã, vóc mình cao lớn, yên cương đều được thắng đầy đủ!
Cốc Chẩn kiểm nhận xong hàng hoá, rời mình ngựa, miệng tủm tỉm cười, bước đến bảo: "Còn năm mươi khoái hạm đang thả neo nơi bờ biển, đã không thể đem đến đây được!". Thích Kế Quang nhăn mặt, hỏi: "Cốc lão đệ, mấy cái này.... toàn do đệ đã mua cả, phải không?" Cốc Chẩn đáp: "Đúng thế! Coi được không?" Thích Kế Quang bảo: "Được thì được đấy, nhưng giá tiền toàn thể cao đến mức kinh khiếp, ta chỉ đã đưa đệ có hai trăm lượng, nếu buôn bán sanh ý thiệt cao, tính ra cũng phải quay vòng vốn cả trăm năm mới kiếm đủ tiền mua chúng!". Cốc Chẩn vui vẻ, hỏi lại: "Thích tướng quân, ông còn nhớ cái điều kiện thứ nhất không?" Thích Kế Quang đáp: "Nhớ chứ! Đệ buộc ta không được tra hỏi lai lịch tiền bạc từ đâu ra! Nhưng đây lại thiệt nhiều đồ quân giới, lương hảo, nhiều khủng khiếp, nếu ta không rõ lai lịch, thiệt Thích mỗ ta không dám...". Cốc Chẩn lại cười, nói: "Điều kiện thỏa thuận thứ hai, những gì ta mua về, ông đều phải nhận lãnh hết. Thích tướng quân đã đồng ý cả hai điều kiện, tướng quân lấy thành tín trị quân, sao lại muốn nuốt lời đã hứa chịu cùng ta?"
Thích Kế Quang sớm đã dự liệu sẽ đến cái ngày này, sẽ bị dưới tay Cốc Chẩn, đã chuẩn bị tinh thần để bước vô tròng của gã, nhất thời ông đành bất đắc dĩ, bấm bụng chịu thua. Vả lại, các món quân giới lương thảo đó, đưa đến đúng lúc ông đang cần gấp, dư để trang bị cho nguyên cả một quân đoàn vô địch, trong lòng Thích Kế Quang vui mừng hớn hở, ông quẳng ráo mấy cái mối lo âu nghi ngờ đó lên chín tầng mây!
Ngày hôm sau, Cốc Chẩn cho cất một gian lều tranh bên ngoài doanh trại, rồi gã thường xuyên có mặt ở đấy. Từ ngày dựng lên gian lều, khách khứa không ngừng lai vãng, phần lớn là phú thương, quần áo diêm dúa se sua nhất đời, đỗ trước lều nườm nượp toàn là xe cộ hoa lệ, buộc kề cận trên đường tinh là ngựa quý, đang không ngừng tranh nhau tiếng hí, các thứ xa hoa hào nhoáng, lụa là gấm vóc quý giá, liên tục vào ra gian lều, đôi lúc, khách khứa có chạm mặt nhìn nhau, đều lộ vẻ thập phần thần bí.
Từ Thích Kế Quang trở xuống, quan quân trong trại không ai không hiếu kỳ, có kẻ thừa lúc khách của y chưa ra về, đã đến trước lều nhòm ngó, chỉ thấy khách ngồi một bên, dáng điệu hết sức cung kính, Cốc Chẩn ngồi một bên, tay tả gõ bàn toán, tay hữu ghi ghi chép chép vào sổ sách, nói cười liền miệng, thấy khách vừa vào cửa là ngẩng đầu mở miệng chào hỏi, là tay nâng chén rượu mời khách, chiêu đãi thực lòng, chủ khách cùng vui vẻ thoải mái.
Lục Tiệm cũng lấy làm lạ, có dọ hỏi y, Cốc Chẩn đều tìm cách nói lảng sang chuyện khác, cười nói chuyện đâu đâu. Lục Tiệm biết gã quen hành sự như vậy, nếu gã chẳng chiụ thố lộ, gã tất có nguyên do, nên Lục Tiệm cũng không gặng hỏi lắm, chỉ hết lòng giúp Thích Kế Quang huấn luyện binh sĩ. Và từ ngày Cốc Chẩn trở về, bất cứ quân giới, vật tư gì Thích Kế Quang cần, gã đều lo cung ứng đầy đủ, từ đó, quân binh của họ Thích được trang bị khí giới, tàu xe vào hàng cực phẩm, đứng đầu toàn Giang Hạ, nếu không muốn nói đứng nhất thiên hạ!
Ngày tháng trôi qua, thấm thoắt đã đến tháng tám, quân lính đều được nghỉ phép về quê, doanh trại trống vắng. Ba người rảnh rỗi, Cốc Chẩn bèn mời Thích, Lục hai người ngồi thuyền dạo chơi trên sông, uống rượu, nói chuyện. Lúc ấy, trăng lên cao vằng vặc, tiếng sóng bủa vào bờ rì rầm, rừng cây thưa thớt lá, Ba người uống đến đỏ mặt đỏ mày, nói chuyện lan man từ nghiệp vụ của mình, lan sang chuyện binh pháp! Cốc Chẩn thuyết rằng: "Động binh động mã, trước hết phải lo cho chu toàn chuyện lương thảo, chẳng phải bàn thêm gì nữa, cái cốt yếu của dụng binh, chủ yếu chính là quân lương. Thời Hán Sở giao tranh, Hán Cao Tổ đánh trăm trận thua cả trăm, nhưng rốt cục chẳng khi nao bị tuyệt lương, toàn nhờ ngài đã có hậu cứ Quan Trung vững chắc, Tiêu Hà (làm thừa tướng cho Hán Cao Tổ) lo việc chuyển vận lương thảo, nguồn lương hướng không bao giờ bị cắt đứt, hôm nay dẫu có thua trận, nhưng lương thực vẫn còn, ngày mai vẫn có thể ra quân trở lại. Việc chuyển vận lương thảo của Hạng Vũ vốn do Bành Việt, Anh Bố (hai đại tướng của bên Sở, sau về đầu về hàng nhà Hán), đảm nhiệm, khi Hạng Vũ mất Bành Việt, Anh Vũ rồi, đường vận lương không còn bảo đảm, tuy Hạng Vũ đã từng chiến thắng trăm trận trước đó, đến khi thua một trận chót duy nhất, y đã không vực trở lại được nữa!"
Thích Kế Quang xua tay lia lịa, cãi: "Cốc lão đệ câu đó nói sai rồi! Việc binh dựa vào NGHĨA, cái cốt yếu của hành quân, là ở hai chữ ĐẠO NGHĨA.Thánh nhân đã từng nói: 'Người quân tử nhằm vào nghĩa, kẻ tiểu nhân hám vào lợi.' Lương tiền tuy quan trọng, nhưng thứ đó nhắm vào mặt lợi! Trong mắt tướng sĩ chỉ thấy lợi, nên còn lợi thì còn đánh nhau hăng, hết lợi thì tan rã hàng ngũ. Hạng Vũ dụng binh như thần, nhưng tính tình bạo ngược, sai giết sạch hàng binh, đem chôn sống hai mươi vạn quân Tần, đánh mất nhân tâm, đến lúc thua không vực lên được, đã phải đâm cổ tự vẫn! Cao Tổ định ra ba chương ước pháp, được lòng người, dẫu thua trận liên tiếp, nhưng cuối cùng đã đoạt được thiên hạ. Chỉ có lấy nhân nghĩa làm gốc, mới có thể chuyển từ yếu sang mạnh, trước thua, sau thắng. Các danh tướng đời xưa, Thích mỗ phục nhất Nhạc Vũ Mục (Nhạc Phi), Quân sĩ của Nhạc gia:
'Ngạ tử bất lỗ lược,
Đống tử bất sách ốc'
(Nghĩa: Đói khát không đi cướp bóc lương thực của dân, Rét mướt không đi chiếm dụng nhà cửa của dân)
cái đó, mới thật đạo nghĩa kinh hồn!"
Cốc Chẩn hỏi: "Nói như Thích tướng quân đây, nếu tuyệt lương, chắc để quân lính bụng rỗng, cầm đao gỗ, thương trúc đi đánh trận?"
Thích Kế Quang đáp: "Cổ nhân lúc đầu đi đánh trận, dùng gậy tầm vông còn được, huống hồ đao gỗ, trúc thương?"
Cốc Chẩn cười ầm, day sang hỏi Lục Tiệm: "Ý ngươi ra sao?". Lục Tiệm đáp: "Ta thấy Thích đại ca nói đúng, chỉ khi nào ra trận vì bá tánh, mới có được hùng tâm tráng chí, không chút bận tâm!". Thích Kế Quang vỗ tay, khen:"Nói rất hay, chỉ cần không chút vướng mắc trong lòng!"
Đang lúc truyện trò, chợt từ phía đầu nguồn, trên bờ sông có thấp thoáng ánh đèn, ẩn ẩn hiện hiện tiến đến, lúc đến thật gần, có một giọng nam tử ngàn ngạt hỏi: "Có Cốc thiếu gia ở trên thuyền đấy không?"
Cốc Chẩn lớn tiếng hỏi lại: "Ai tìm ta đấy?". Lửa đèn nơi đó vụt bừng lên, đồng loạt hơn mười cây đuốc cháy sáng, cảnh tượng bên bờ sông hiện rõ như ban ngày. Ba người dõi mắt trông về chỗ bờ sông nơi ấy, thấy hai hàng người Hồ đang quỳ mọp, họ mình trần, mắt xanh, tóc vàng, tay chân đeo đầy những vòng vàng lớn, trên dây lưng có đính một viên hồng ngọc bảo thạch, dưới áng sáng đuốc, thấy nó lập loè, lóng lánh.
Trên vai tám người là một cái cáng gỗ lớn, có cái ngai, trên ngai ngồi vắt vẻo một nàng Hồ nữ, tóc đen nhánh như mực, thịt da đầy đặn, mặt che một tấm sa mỏng, cho thấy đôi nhãn châu màu xanh, đầy nét kiều mị câu hồn đoạt phách. Đứng tản ra quanh đấy còn có hơn mười tuỳ tùng, nam có, nữ có, toàn là người Hồ.
Thích Kế Quang và Lục Tiệm chưa từng thấy người Hồ, đều cảm thấy kỳ lạ. Cốc Chẩn hình như từng dự liệu trước, cười cười, hỏi: "Các vị tìm ta, chẳng hay có chuyện gì gấp gáp?". Nàng Hồ nữ trên cáng ngó gã, mắt nhìn không chớp, một lúc lâu. Cốc Chẩn hì hì, hỏi "Mỹ nhân nhân, sao nàng lại nhìn ta chăm chú đến thế? Nàng đang định ve vãn tình nhân là ta đây sao? Rồi đem ta về lấy làm chồng?"
Nàng Hồ nữ cười khanh khách, đưa tay che miệng một hồi lâu, rồi ỏn ẻn: "Đông Tài thần quả thật như lời đồn đại, một gã thiếu niên ngông cuồng, nhưng cũng là một gã mặt mày anh tuấn, làm người ta mê đến chết luôn đây này!"
Cốc Chẩn ngoác miệng ra cười, "Nàng mà mê chết rồi, ta cũng không buông tha!" Hồ nữ cười hi hi, bước xuống khỏi cái ngai, trên hai tay nàng bưng một cái hộp cẩn bảo thạch, thênh thênh bước đến ven bờ sông, nói: "Ta vâng mệnh chủ nhân, mời túc hạ ngày mười lăm tháng này ghé qua gặp ngài ở lũng Linh Thuý, tỉnh GiangTây"
Cốc Chẩn đứng lên, chống sào cho thuyền cập vào, lên đến bờ, hắn nhận cái hộp, liếc sơ qua, rồi bất ngờ, cúi thụp người xuống ngang tầm đầu gối Hồ nữ, nghe soạt một tiếng, ném cái hộp bay vù ra giữa sông. Hồ nữ ánh mắt hoảng hốt, lui lại một bước, cùng lúc đó, nghe tiếng suỳ suỳ từ giữa dòng sông, có mấy tia nho nhỏ bắn ra, phút chốc, dưới ánh sáng mấy ngọn đuốc, nước sông chỗ đó đổi màu đen kịt như mực.
Thích Kế Quang cùng Lục Tiệm vụt xanh xám mày mặt, Lục Tiệm quát: "Quân gian tặc giỏi nhỉ, cái hộp đó có ngầm gài ám khí". Lục Tiệm đứng vụt người lên, Cốc Chẩn kịp thời đưa tay cản gã lại, cười cười, bảo: "Tiểu kỹ điêu trùng ấy là thứ hạng bét, vậy mà bà nương này cũng đòi giở giói ra!"
Nàng Hồ nữ gượng cười, nói: "Chủ nhân ta nghe đồn ngươi giỏi tài mở khoá, nên muốn nhân dịp này thử tài, xem ngươi sẽ mở hộp đó ra sao, nếu ngươi mở hộp khéo léo, sẽ không làm phát động cơ quan bắn nước độc, đâu có ngờ ngươi lại làm vậy. Đáng tiếc, cái thiệp mời bên trong cũng bị mất luôn theo cái hộp!"
"Đừng lo!", Cốc Chẩn bảo, "Thiệp mời nếu bị huỷ hoại, sẽ chẳng phải là bổn sự của chủ nhân của nàng". Cái hộp đó, sau khi độc bên trong tan hết vào dòng sông, đã hiện hình dưới đáy nước. Cốc Chẩn vừa định tìm cách vớt nó lên, Lục Tiệm đã đi trước gã một bước, tay y vừa dang ra, đã thấy cái hộp nằm gọn trong lòng bàn tay rồi, hộp toàn bằng vàng, trên mặt hộp có chạm khắc hình thú, hình chim, hình người, nét chạm trổ cực kỳ tinh xảo.
Vận dụng kiếp lực, Lục Tiệm đã thấy được bên trong hộp, gã day qua Cốc Chẩn bảo: "Cơ quan trong hộp đã hết hiệu quả rồi, sẽ chẳng còn gì khác lạ nưã đâu". Cốc Chẩn cười hì hì, nói: "Cái đó đương nhiên, bà nương thực tình rất muốn giết ta, đâu ngờ bị mất cả vốn, cho ta dịp phát tài. Gã bèn lập tức mở hộp, thấy bên trong có một lá bạch kim giát mỏng tựa cánh ve sầu, trên có mấy dòng chữ màu đỏ như máu. Lục Tiệm chăm chú quan sát, gã vụt hít vào một khẩu chân khí thật to, mấy dòng chữ đỏ tựa máu đó đều đã toàn dùng hồng ngọc khảm nên, nhìn chu vi bên trong hộp, mỗi bề có khảm một viên ngọc phỉ thuý lớn, trên viên ngọc chạm trổ hoa văn tỉ mỉ tinh diệu, viên ngọc trong suốt, nét chạm nhìn xuyên thấu qua, thật không biết đã làm cách nào mà chạm khắc tinh xảo được như vậy!
Cái hộp hoàng kim đó, giá trị cỡ ngọc liên thành, Cốc Chẩn liếc sơ qua, cười bảo: "Ngoài kim ngân, còn thì tinh là đá quý, đã lâu ta chưa có dịp xem qua, bà nương này bị nhiễm tục khí nặng đến thế cơ à?" Nói xong, gã đậy nắp hộp lại, day sang bảo Hồ nữ: "Nàng thưa với chủ nhân là Cốc mỗ sẽ đến đấy đúng kỳ hạn, còn chưa gặp mặt, quyết không dời bước ra đi!"
Nàng Hồ nữ vui vẻ đáp: "Vậy thiếp thân xin cáo từ". Cốc Chẩn bảo: "Xin cứ tự nhiên!" Hồ nữ lại lên ngồi trên cái ngai, tám người Hồ khiêng cáng đồng loạt đứng lên, rồi cả đoàn đi xa dần, lửa đuốc tắt ngúm, vầng sáng đèn mỗi lúc một thu nhỏ lại, rồi lẩn khuất vào màn đêm.
Cốc Chẩn tuy không nói gì, nhưng Lục Tiệm cũng đã đoán được phần nào, nhìn đoàn người Hồ đi xa dần, gã không nhịn được nữa, cất tiếng hỏi: "Cốc Chẩn, đó có phải là sứ giả của Tây Tài thần không?". Cốc Chẩn tủm tỉm bảo: "Bà nương bị ta quấy rối ngay trong hang ổ, đã bắt đầu thấy bực bội rồi đó!"
Lục Tiệm thắc mắc: "Ngươi quấy phá cách nào vậy?" Cốc Chẩn đáp: "Cái đó cũng đã không phải đơn giản! Bà nương đó vô quậy nơi Trung thổ của mình, thì ta cũng quậy phá lại vùng Tây Vực cuả mụ. Hai tháng trước đây, quá nửa gia súc ở đất Ba Tư của mụ đã lăn đùng ra chết, hơn mười thuyền buôn bán hương liệu của mụ đã bị chìm ở Tây Trúc. Bà nương mình bị thất thoát khá bộn, nên đã phải tìm cách gặp ta, để thương lượng"
Lục Tiệm vừa hoảng, vừa mừng, buột miệng kêu lên: " Hèn chi! Mấy lúc sau này, ta thấy ngươi toàn tiếp đón phú thương, thì ra chuyện đó!" Cốc Chẩn khẽ gật đầu. Lục Tiệm lại hỏi: "Ngươi đã thừa sức đối phó mụ trên thương trường, sao còn phải đi gặp mụ làm gì?"
Cốc Chẩn lắc đầu, bảo: "Mụ ta tuy mất mát khá bộn tiền của, nhưng mụ còn nắm trong tay nhiều lương thực, vừa rồi, cái thiệp mời đó, nếu ta không khứng gặp mụ, mụ ta sẽ đem lương thực đốt trọn đi, cái ả nữ nhân đó, nói là làm, không giỡn chơi đâu!" Gã nói đến đấy, liếc mắt sang Thích Kế Quang, đùa đùa, bảo: "Thích tướng quân, chừng nào thì ông cất quân đi Giang Tây vậy?"
"Lão đệ nói vậy là ý tứ ra sao?" Thích Kế Quang chau mày hỏi lại, "Không có thánh chỉ từ triều đình ra lệnh, quân đội của ta chẳng thể nào tự ý rời bỏ căn cứ, hành quân sang khu vực khác bên ngoài" Cốc Chẩn vui vẻ bảo: "Cái đó dễ! Ta đã xin được từ kinh đô về một đạo thánh chỉ, chắc chỉ nay mai là đến đây thôi!". Thích Kế Quang ngẩn người ra một lúc, rồi hỏi lại: "Cốc lão đệ nói giỡn chơi ta đấy ư?". Cốc Chẩn chỉ cười cười, không đáp.
Giữa trưa ngày hôm sau, đang lúc Thích Kế Quang huấn luyện binh sĩ, nghe báo Hồ Tôn Hiến đã cử người đem thánh chỉ đến từ Hàng Châu. Thích Kế Quang về đại trướng tiếp chỉ, đại ý thánh chỉ bảo: "Vì oa khấu từ vùng Mân phía bắc đã tràn xuống Giang Tây, quậy phá kịch liệt, làm gián đoạn giao thông thuỷ, bộ, nay ra lệnh cho Thích Kế Quang nội nhật phải thống lĩnh dân quân Nghĩa Ô đi cứu viện Giang Tây, dẹp loạn, trừ khấu. Đồng thời lệnh cho Hồ Tôn Hiến phải hoả tốc xuất quân đi gíup sức quân đội của họ Thích, không được chậm trễ!"
Thích Kế Quang kinh hãi trong dạ, lập tức cho kiểm tra sứ giả, kiểm tra thánh chỉ, thấy đúng thực là ngự ấn, không có gì là trá nguỵ cả.
Ông suy nghĩ hồi lâu, rồi cho triệu Lục Tiệm, Cốc Chẩn đến gặp. Hai người vào trướng xong, Thích Kế Quang đưa thánh chỉ cho hai người xem qua. Lục Tiệm cũng bị kinh hãi, chỉ có Cốc Chẩn cứ tủm tỉm cười. Thích Kế Quang đi tới đi lui chục bước trong trướng, vụt "soạt" một tiếng, rút kiếm, trỏ vào Cốc Chẩn, hỏi: "Rút cục, ngươi là yêu nhân phương nào?"
Cốc Chẩn cười, đáp: "Ta họ Cốc, tên Chẩn, Thích tướng quân không nhận ra ta sao?". Lời chưa dứt, trước mắt đã hoa lên một đạo kiếm quang, mũi kiểm trỏ ngay vào yết hầu, toát hơi lạnh ngắt, rồi nghe Thích Kế Quang trầm giọng bảo: "Ta chỉ đem lòng thành thực chơi với bạn bè, không cho kẻ gian trà trộn vào hàng ngũ!"
Cốc Chẩn nhìn lưỡi kiếm, vẫn giữ nét cười cợt, tròng mắt chẳng hề lay động. Thích Kế Quang thấy gã hết sức bình ổn như thế, có chút nghi ngại, lại thấy Lục Tiệm đưa tay ra đè lưỡi gươm xuống, bảo: "Đại ca, đệ đem tính mạng mình ra đảm bảo, Cốc Chẩn tuyệt chẳng phải là hạng gian manh xảo trá!"
Thích Kế Quang lạnh lùng đáp: "Hắn không phải hạng gian tà, làm sao mà từ một kẻ chân trắng bạch đinh, đã có thể làm cho triều đình hạ chiếu chỉ điều động binh mã?"
Lục Tiệm cũng không sao giải thích được, đưa mắt hỏi Cốc Chẩn. Cốc Chẩn cầm tấm thánh chỉ lên, than rằng: "Thích tướng quân quả là người chân chỉ hạt bột, chẳng ưa trò trào lộng, cái thánh chỉ này, đích thực ta đã phải mất bao nhiêu là công sức, tốn mất ba vạn lượng bạc trắng, đút lót cho thái giám kề cận hoàng đế"
"Thật vậy sao?",Thích Kế Quang sa sầm nét mặt, "ngươi đang mưu toan phản loạn gì, nếu không thành thật khai báo ra, hôm nay, trong trướng này, máu sẽ loang đầy ba thước!"
Bỗng dưng huynh đệ xào xáo, Lục Tiệm mặt mày nhăn nhó, khuyên: "Cốc Chẩn, ngươi toan tính gì, hãy đem trình bày tất cả cho Thích đại ca nghe đi". Cốc Chẩn lườm hắn, rồi nói: "Ta sở dĩ đút lót để mua cái thánh chỉ này, chỉ vì đang định làm một chuyện thật trọng đại. Ta cần cái thánh chỉ này, vì nó là một phần của ba cái mấu chốt, không có đủ cả ba, không thể nào hoàn thành được đại sự đó"
Lục Tiệm hỏi: "Ngươi nói ba mấu chốt là sao?" Cốc Chẩn trỏ tay vào đạo thánh chỉ, giải thích: "Cái thứ nhất, là phải giầu có vào hàng địch quốc, cái thứ nhì, ta cần tuyệt thế thần thông, cái thứ ba, là cần quân đội đã được huấn luyện cho thật kỹ. Giàu có là ta, thần thông đã có Lục Tiệm, chỉ còn tinh binh, nếu thiếu tân binh và thuộc hạ của Thích đại tướng quân, là không xong!"
Thích Kế Quang nửa tin nửa ngờ, hỏi: "Ba cái mấu chốt hết sức khó khăn đó, cuối cùng dùng vào việc đại sự gì?" Cốc Chẩn đáp: "Lục Tiệm, cái này phải để ngươi giải thích, ta mà nói, Thích tướng quân chưa chắc đã chịu tin lời ta"
Lục Tiệm gật đầu, đem đầu đuôi chuyện cứu tế Giang Nam kể lại. Thích Kế Quang nghe như nghe kể chuyện hoang đường, ông quá sức ngạc nhiên! Nếu ông không hết lòng tin cậy Lục Tiệm, không nhìn cái trịnh trọng trong cung cách Lục Tiệm thuật chuyện, thì chưa chắc đã tin! Ông lập tức hiểu ngay những cái đó là sự thật, bèn đút trường kiếm vào vỏ, khoanh tay, trầm tư. Cốc Chẩn lại bảo: "Cái 'địch quốc chi phú' nhằm đối phó 'Tây Tài thần;, cái 'tuyệt thế thần thông' để đối phó cao thủ của đối phương, còn tinh binh, chính để chống bọn oa khấu các tỉnh An Huy, Giang Châu, Quảng Đông và Mân Việt. Ba cái đó, thiếu một, là không xong!"
Thích Kế Quang bảo: "Nếu sự thực là thế, đúng là chuyện khó thể tưởng được, nhưng vì nó có liên quan đến an nguy đất nước, ta đây nguyện vì nghĩa liều thân!". Ánh mắt ông vụt sáng, ông day sang nhìn Cốc Chẩn, bảo: "Ngươi vì cái an nguy đất nước mà đã bất chấp chuyện gian trá, có điều cách làm vậy, thiệt chẳng phải đạo chút nào!"
Cốc Chẩn cười mà rằng: "Ta bình sanh hành sự, chỉ cần được việc, bất cần để ý đến nguyên tắc kẻ khác. Người ta nói 'Nuôi lang sói là có dã tâm, nuôi hổ báo là gây nạn về sau', ta thì bảo 'Ta theo lòng trời mà nuôi hổ nuôi sài lang, dùng lợi mà nhử, chúng hết lòng hết sức làm việc cho ta', mấy cái đứa cận thần, thái giám của hoàng đế đó, có chuyện ác nào mà chúng không làm! Nhưng bọn chúng may mắn còn có ta, dù chúng có ra tay vì tham bạc tiền, cũng đã góp phần vào hảo sự, cũng có tích được đôi chút âm đức, một công mà ba chuyện, lợi cho họ, mà cũng lợi cho ta. Ha ha, nói về chuyện hám lợi, Thích huynh là chính nhân, hành sự luôn luôn đặt đạo nghĩa lên hàng đầu, còn bọn thương nhân ta, làm gì cũng đặt chữ lợi lên trên, cái tánh đó, ta không sửa đổi được!"
Thích Kế Quang tưởng được dịp giáo huấn gã, đem đạo đức ra thuyết, ai dè Cốc Chẩn giỏi tài nguỵ biện, nói qua nói lại ba điều bốn chuyện, đã làm ông khó đối đáp, nhất thời không có cách gì khác, đành dẹp bỏ ý định lên lớp gã, mặt mày bí xị!
Cốc Chẩn lại bảo: "Cái bí mật đó, để tránh cho đối phương đánh hơi được kế sách của ta, ba người mình nên đi tẽ ra. Để ta với Lục Tiệm đi trước, Thích tướng quân thống suất quân đội đi sau, ta sẽ đưa cho Thích tướng quân một bản địa đồ hành quân, trước ngày mười lăm, phải có mặt tại chỗ, ngày nghỉ đêm đi, không được đánh động!".
Gã nói xong, lấy từ trong tay áo ra một tấm địa đồ, đưa cho Thích Kế Quang. Thích Kế Quang mở ra, thoáng nhìn đã nhận ra bản đố tỉnh Giang Tây, trên đó các tuyến hành quân đã được tô màu đỏ. Ông sẽ chau mày, suy nghĩ một vài giây, rồi bảo: "Hai vị cứ yên tâm. ta sẽ chỉnh đốn binh mã, rồi sẽ theo sau hai vị đúng kỳ hạn"
Cốc Chẩn cười ha hả, đưa cả hai bàn tay ra. Thích Kế Quang cũng cất tiếng cười, đưa hai bàn tay vỗ vào hai lòng bàn tay gã!
Nếu là người khác nói câu đó, Vương Như Long tất nhiên sẽ thấy khoa trương lớn lối, nhưng nghe Lục Tiệm nói thế, gã trong lòng càng chắc mẩm hơn nữa, tự nhủ: "Đúng thế, cách dùng binh khí, quả nhiên là phong phạm truyền nhân Kim Cương môn!" Gã bèn hỏi: "Thích đại nhân, vậy thì định đọat hơn thua ra sao đây?" Thích Kế Quang vui vẻ bảo: "Hễ ngươi chạm được vào mình Lục huynh đệ, là kể như thắng!", Vương Như Long cười ầm. quát lên một tiếng lớn, điều động cái Lang Tiển, tấn công thẳng vào Lục Tiệm.
Lục Tiệm khi thấy hai cây Lang Tiển xáp lại, khoa tay một vòng, rùn mình, chợt nghe tiếng gió phía dưới, đó là hai đao thủ và bài thủ đã lăn vào, huơ đao chém vào hai chân gã. Lục Tiệm vừa đóan được lang tiển tuy hung mãnh, nhưng thật sự chỉ là hư chiêu, dùng làm hoa mắt đối thủ, để cho hai đao thủ lẻn nhập nội tấn công, gã bèn lập tức tung mình, đá song cước ra nhằm vào chính diện hai tấm thuẫn bài, song thủ cùng lúc vươn ra, xuất ra hai quyền đánh vào hai lang tiển.
Lập tức gió ào ạt tới, hai luồng hồng quang đỏ như máu, hai cây trường thương ngù đỏ đã vụt mạnh vào, hai đầu thương chia ra làm hai đường trên dưới kích tới. Lục Tiệm né mình tránh trường thương, mắt nhìn thấy hai cây lang tiển quá đà, chưa thu về kịp, bèn xông xáo vào sát hai cây lang tiển, chẳng dè hai cây địa đường đao đã dùng thuẫn bài đưa ra chặn trước, đao thủ nhắm vào hướng tấn công của Lục Tiệm mà chém hai cây đao ra, vung ngược đao lên như một đường kiếm, nhắm vào ngực của Lục Tiệm. Lục Tiệm búng ngón tay ra, nghe soạt soạt hai tiếng, đúng vào đường đi của đao, nơi hổ khẩu tay hai đao thủ bỗng dưng đau buốt lên, nếu LụcTiệm mà không nhẹ đòn, đao đã bị đánh bay vuột mất khỏi tay rồi.
Lúc khẩn cấp, Lục Tiệm phải sử Đại Kim Cương thần lực, trong lòng gã có hơi ngường ngượng, trước mắt bỗng chớp loé lên hai luồng hắc quang từ hai cây đinh ba đang chia ra làm hai đường trên dưới tấn công vào. Lục Tiệm lui lại một chút, đôi chân rùn xuống, một đầu quyền vung ra giữa không trung, gã chợt nổi hiếu thắng, bèn quát nhẹ lên một tiếng, song quyền hai bên tả hữu vung ra, hai luồng kình phong sầm sập như núi đổ ào tới, quét vào đỉnh đầu cả toán quân lập trận.
Gã cứ tưởng khi quyền kình phát ra rồi, mọi người bên địch sẽ bị đánh ngã, gã chỉ dùng có nửa lực đạo, không dè kình phong vưà xuất ra, đã nghe Vương Như Long hô lên một tiếng "Phân" (Tẽ ra). Trận thế chợt biến chuyển, hai cây lang tiển tách ra, chia toàn trận ra làm hai bên tả hữu. Quyền kình của Lục Tiệm đánh hụt, chạm vào đất đá, tung bụi bay lên mù mịt. Trận đội né một chút, tiến ngang qua hai bên mình Lục Tiệm, đồng lúc, lang tiển, thuẫn bài xuất ra, khoá kín đường lui của Lục Tiệm, bốn phía các mũi nhọn của đao thương dưạ theo mấy cây tre, cùng lúc đâm vào, hai bên tả hữu cùng tập kích.
Cái chuyển biến này thật là lăng lệ, Lục Tiệm không kịp tránh né, trong lúc cấp bách, gã bèn sử "Thiên Kiếp Ngự binh pháp", hai cánh tay chập lại, trước cản mấy mũi trường thương, rồi định trằn mình né xuống, chợt thấy đao thủ đã sáp vào nhanh như điện, hươi đao chém vào trước mặt. Tâm niệm Lục Tiệm chuyển biến thật nhanh, gã nghĩ thầm: "Nếu ta mà không đoạt mấy cây thương để thủ thắng, khó lòng ra khỏi cái trận này, nhưng mà đã bó buộc được ta phải sử đến 'Thiên Kiếp Ngự Binh pháp', cái trận này quả thực có lợi hại!" Lập tức tách hai cây trưòng thương ra, né mình tránh hai cây đao, chẳng dè, lang tiển, đinh ba đã vòng ra phía sau lưng, rồi hai cây trước, hai cây sau, hai mũi nhọn đâm vào, lang tiển vung lên, cành lá mù mịt, như nhiều đám mây mù sa xuống, ào ạt tấn công. Đang lúc tay chân Lục Tiệm bối rối, hai cây đinh ba đã lén lút quật tới.
Lúc ấy, người quan chiến chỉ thấy Lục Tiệm thân hình di chuyển phiêu hốt, như quỷ như ma, gã có ý định xuất thủ cực nhanh, khiến đối thủ giữ trận không phản ứng kịp, trận Âm Dương vì lẽ đó sẽ bị phá tan, không ngờ, chưa kịp thi hành, trận đã phân ra rồi hợp lại, quay qua, biến thành hai đội, quay lại, đã thấy hoá ra làm ba, vụt một cái, mặt chính diện tấn công theo chiều ngang, vụt một cái nữa, người đang tẽ ra bỗng dưng họp lại, lang tiển trông vào hỗ trợ của thuẫn bài, song thương phối hợp trợ cho lang tiển, đoản đao che chắn cho trường thương, đinh ba lén lút đánh ngược, mỗi lúc mỗi thứ binh khí đóng vai trò sát thương, năm thứ binh khí lần lượt thay nhau công thủ, hỗ trợ cho nhau, mỗi lúc mỗi sinh ra một thế biến hoá bất ngờ, không những đã tránh né được các đòn phản công sát thủ của Lục Tiệm, mà còn phản công lại bằng những đòn phối hợp lăng lệ.
Bọn tướng sĩ nhìn diễn tiến trận đánh mà bị hoa mắt, trong lòng vừa mong trận đừng bị phá, vừa nể phục thần thông của Lục Tiệm, chỉ e gã sơ ý bị quệt phải, mất đi cái oai phong tuyệt thế. Nhìn song phương giao tranh, trong lòng sinh ra bất định, cuối cùng, không biết nên ủng hộ bên nào!
Thích Kế Quang vốn biết Lục Tiệm công phu đã đến mức tuyệt diệu, lúc ban sơ, y chỉ e sợ cái trận pháp mà y đã khổ công nghiên cứu và sáng chế dễ dàng bị đối phương phá tan, giờ đây xem tình hình, thấy có cơ thủ thắng, bèn từ trên suý đài giải thích, đàm luận cùng Cốc Chẩn về biến hoá của trận pháp, Ông bảo: "Cái trận này dùng năm thứ binh khí, dài ngắn tượng như âm dương, số năm ẩn về ngũ hành, thương là kim. tiển là thuỷ, thuẫn là thổ, đao là mộc và đinh ba là hoả. Nễu triển khai đúng cách thức, thì sẽ như ngũ hành tương sinh, không thể phá được, nếu sai đường lối, sẽ như ngũ hành tương khắc, chẳng chờ đối thủ tấn công mà đã tự mình hại mình rồi. Những biến hoá tương sinh, tương khắc bên trong đó, khó có thể chỉ một vài câu mà giải thích cho hết được. Mà các binh khí lại đi cặp đôi, nếu đụng cường địch, sẽ có thế phân ra làm hai mặt âm dương lưỡng nghi, một cương một nhu, tả hữu hai nhánh, rồi thì ứng biến thành Tam tài, hợp lại bao vây, như vậy sẽ làm cho đối thủ tay chân luống cuống, đến lúc bị mỏi mệt, tam tài sẽ hợp nhất, chuyển qua tấn công."
Cốc Chẩn gật gù, bảo: "Âm Dương, Tam tài, Ngũ hành biến hoá, ai nấy đều rành, nhưng từ xưa đến giờ, học cho thông rồi ứng dụng cho giỏi, đến nay, đếm chẳng được bao nhiêu người!" Nói đến đấy, gã cười xoà, bảo: "Thích tướng quân, xin lỗi tiểu tử ta đây lắm mồm, cái trận pháp rất tuyệt, nhưng cái tên thì lại không hay!"
Thích Kế Quang hơi sựng, hỏi: "Sao lại không hay?" Cốc Chẩn đáp: "Âm Dương là hai từ đã bị lạm dụng nhiều, chẳng hiểu đã do ai bầy đầu ra, trừ phi Thích huynh làm lốc cốc tử, hay làm đạo sĩ vẽ bùa, đã không nhầm lẫn dữ lắm khi đặt cái tên đó!" Thích Kế Quang không nhịn dược cười, bèn hỏi: "Vậy thì nên đổi tên trận như thế nào?"
Cốc Chẩn đáp: "Ta thấy trận đó chia làm hai cánh, mở, đóng bất định, giống như cánh chim lượn, lướt, theo gió mà đổi hướng, đổi cao thấp. Vậy chi bằng tìm tên chim mà đặt cho trận, cứ tìm thứ chim nào có đủ cặp âm dương, thư hùng... tỉ như hoặc Phượng Hoàng, hoặc Uyên Ương. Tướng quân vừa mới bảo đó, nếu đẹp đẽ quá thì sẽ vô dụng, nếu thực dụng thời không cần đẹp mã. Phượng hoàng là vua các loài chim, lông cánh thật hoa lệ, dùng đặt trên cho trận không hợp cái thực dụng, chỉ còn đôi Uyên Ương, loài chim tầm thường, nhưng tình ý với nhau thật là sâu đậm, bền chặt."
"Tên thật hay!", Thích Kế Quang vỗ tay khen, "từ giờ trở đi trận pháp đó sẽ mang tên 'Uyên Ương trận'!"
Trong lúc họ đang đàm luận, Lục Tiệm đã nhìn ra cái ưu cũng như khuyết điểm của trận, cái hư và cái thực của nó, bèn chuyển sang phản công, thi triển Đại Kim Cương thần lực, quyền cước tung ra, có kèm theo kình lực ồ ạt, quân sĩ thủ trận bị quét trúng, đều bước chân loạng choạng, cử động mất trầm ổn, chợt nghe gã quát lên một tiếng, một cây trường thương đã bị Lục Tiệm quét mạnh trúng, bay tuốt ra ngoài, Thích Kế Quang trợn ngược hàng lông mày, lớn tiếng hô: "Lý Đồng Tiên, đội của ngươi hãy tiến vào tiếp viện từ mé đông đi!"
Một hán tử cao lớn cất tiếng nhận lệnh, thống lĩnh tiểu đội của hắn kết Uyên Ương trận, tiến sát vào Lục Tiệm. Hai tiểu trận Uyên Ương tả hữu qua lại, kết hợp thành một Uyên Ương đại trận, biến hoá vô hình, quay vòng, hư thực bất định, làm uy lực trận pháp gia tăng gấp bội.
Trận pháp trở thành cương mãnh, Lục Tiệm cũng cường mãnh theo, thần lực như sấm sét không ngớt tung ra, ẩn hiện Kim Cương pháp, quyền chưởng đều lồng theo "Thiên Kiếp Ngự binh pháp", đấu không bao lâu, tả thủ giáng ngang ra một quyền, đánh gục hai cây Lang Xiển xuống, dính chặt theo đôi thương tùm hụm một mớ vào nhau. Thích Kế Quang thấy tình hình như vậy, tự y đái lĩnh một đội khác tham chiến, sau một lúc, thành ra tình thế ba đội Uyên Ương hai trước một sau, kết thành Tam tài, rồi chuyển qua một hợp, một phân, lại quay về Lưỡng Nghi.
Lục Tiệm càng đấu cành kinh hãi, chung quanh hắn binh khí vù vù qua lại, phiêu hốt, bất định, số binh khí dài ngắn kết theo ngũ hành, tương sinh tương ứng, xem ra so với môn "Thiên Kiếp Ngự Binh pháp" của gã cũng có điểm tuyệt diệu tương đồng, Chỗ khác nhau, là "Thiên Kiếp Ngự Binh pháp" do gốc gác từ "Bổ Thiên Kiếp thủ", thích hợp để đối phó cùng lúc mười loại vũ khí khác nhau, chống món vũ khí nào cũng có bài bản thích hợp, nhưng khi nhìn cách vận dụng kết hợp của năm thứ binh khí trong trận Uyên Ương, cái biến hoá kỳ diệu của chúng dựa vào hỗ trợ tương ứng giữa dài và ngắn, sự tương sinh của ngũ hành, đã tổng hợp vào thành một thể duy nhất, cho thấy uy lực không lường trước được của chúng.
Lục Tiệm không dè cái diệu dụng của trận pháp, nhất thời bị giam giữ trong trận, bó tay bó chân, xuất thủ khó khăn, hắn bực tức, buông một tràng cười dài, cùng lúc vận "Đại Kim Cương thần lực" và "Thiên Kiếp Ngự binh pháp", đồng thời chuyển, xoay mình, đoạt một cây Lang Tiển, quét nó ra, đánh lui mấy quân sĩ kề cận, quơ cây tre lên, đã hút dính hai cây Lang Tiển khác nữa, rộng đường múa may, các đao thủ, bài thủ rạp cả người xuống định lăn vào phía dưới hạ bàn, chờ cho họ vào sát, gã bỗng như một mũi tên lìà dây cung, nhảy vọt lên hai trượng, hai đội đao thủ thấy tình thế bất lợi, chưa kịp lui ra, đã nghe tiếng đập vào gỗ vang lên liên miên, bao nhiêu mộc thuẫn, mộc đao đều đã bị tan vụn ra.
Lục Tiệm thân mình còn đằng không, sáu cây lang tiển cùng trường thương đã thi nhau hoặc đâm. hoặc quét tấn công tới, cây lang tiển trong tay Lục Tiệm vụt quơ xuống, các trường thương đồng loạt như vụn sắt bị hút vào đá nam châm, dính tất cả vào cây lang tiển của gã, chỉ có mình gã Vương Như Long nhờ sức khoẻ hơn người, đã rút được cây Lang Tiển của hắn về, quơ lên ào ào như một cơn lốc xoáy, nhưng không đủ để bức bách Lục Tiệm chạm đất
Thích Kế Quang thấy thế, đang định gọi thêm tiếp viện, Lục Tiệm đã đánh đầu ngọn Lang Tiển trong tay mình vào đầu cây tiển của Vương Như Long, mượn sức phản chấn, tung mình nhảy vọt ra bên ngoài trận, giơ tay lên, la lớn: "Đại ca, đủ rồi!". Thích Kế Quang nghe y kêu, bèn cho ngừng trận, giải tán chư quân, rồi kêu lên: "Cái trận này thiệt đã không thể cầm chân được đệ!"
Lục Tiệm lắc đầu, đáp: "Trận đó dĩ nhiên vô cùng lợi hại, chỉ có hai nhược điểm, nếu sửa chữa được, đến đệ đây cũng chưa chắc tháo chạy thoát ra khỏi trận được". Thích Kế Quang hỏi: "Nhược điiểm ở đâu?" Lục Tiệm bảo: "Thứ nhất, quân sĩ sử lang tiển chưa đủ khoẻ, ngoài Như huynh ra, mấy người sử tiển vì tiến thoái không linh hoạt, đã không phát huy được hết uy lực của Lang tiển. Thứ hai là thiếu cung tên, súng điểu. Nếu trong trận đó mà có thêm cung nỏ, súng điểu, đệ chẳng thể nào đằng không thật lâu mà tránh khỏi bị làm mục tiêu cho tên, cho đạn.Chỉ cần bổ sung thêm tên đạn, các tiển và trường thương sẽ khó đối phó hơn nhiều"
Thích Kế Quang trầm ngâm, rồi nói: "Chuyện khí lực là do trời sanh, chẳng thể miễn cưỡng dược!" Lục Tiệm vui vẻ bảo ông:"Đại ca, việc tập luyện khí lực đó cứ giao cho đệ lo đi". Thích Kế Quang nhìn gã, tủm tỉm cười, rồi day qua ba quân, ông cất tiếng sang sảng hỏi: "Từ hôm nay trở đi, cái vị Lục huynh này sẽ đảm nhiệm chức giáo đầu, bọn ngươi có chịu phục hay không?" Bọn quân lính thảy đều khâm phục võ nghệ của Lục Tiệm, nghe ông hỏi, đều mừng rỡ, nhất loạt trả lời: "Phục rồi! Phục rồi"
Ngay hôm đó, Lục Tiệm và Cốc Chẩn đứng ra nhậm chức. Lục Tiệm thấy ba mươi hai biến tướng không phải ai cũng có thể tập luyện được, mà còn dễ bị hiểm hoạ rước kiếp lực vào thân, huống hồ phần lớn sĩ tốt tầm thường đều rất dễ bị sai lạc khi luyện tập. Gã suy nghĩ thật lâu, cuối cùng, đem ba mươi hai biến đó gộp lại thành sáu thức,là: kị thức, câu khai thức, giá thượng thức, áp hạ thức, trung bình thức, nhiêu bộ thối thức. Sáu bộ thức đó tư thế giản dị, tâm pháp dễ hiểu, nhắm vào tập luyện tăng thể lực, lại có chiêu thức tiến thoái, Gã tối ưu hoá các chiêu thức, rồi tuyển chọn những quân sĩ sẵn có thể lực, đem truyền dạy họ. Lang tiển vốn dĩ là môn hộ của trận pháp Uyên Ương, các quân sĩ đó, sau khi tăng thể lực rồi, đem đi cho sử dụng Lang tiển, từ chỗ hai người một cụm trở thành tự mỗi người một cụm, chuyện tiến thoái của toàn trận đã tăng uy lực gấp bội. Gã còn đem "Thiên Kiếp Ngự binh pháp" ra chế biến thành chiêu thức cho ma đao thuẫn, đinh ba, trường thương... làm cho giản dị đi, những vẫn giữ că bản, phối hợp cùng các chiêu thức của Lang tiển, nâng cao tính tương sinh ngũ hành, lưỡng nghi tương ứng, làm cho trận thế không còn nhược điểm nữa. Lục Tiệm xuất thân nghèo khó, dễ thân cận cùng quân sĩ, hợp tính hợp tình. Gã vào ở luôn trong doanh trại, cùng ẩm cùng thực với ba quân, cùng chung giường chiếu. Bọn quân lính thấy vị giáo đầu này cùng chia bùi sẻ ngọt với họ, trong lòng càng quý mến, thán phục y hơn, đều ra sức nỗ lực chuyên cần tập luyện. Do gã giốc lòng tập luyện quân sĩ, gã càng lúc càng xa cách Cốc Chẩn. Cho tới một hôm, Lục Tiệm ngẫu nhiên nhớ tới Cốc Chẩn, đi tìm y, thấy phòng ốc vắng lặng, hỏi thăm thì được vệ binh thông báo là Cốc Chẩn mấy lúc sau này ít về qua nhà. Lục Tiệm trong lòng thắc mắc, nhưng việc quân bận rộn, gã cũng đành gác lo âu sang một bên.
Chiều tối hôm đó, Lục Tiệm đang cùng Thích Kế Quang thao luyện trận pháp, chợt nghe có tiếng trâu rống, ngựa hí, đưa mắt nhìn, thì thấy trước doanh trại nguyên một đại đội trâu và ngựa đang rầm rập tiến đến. Còn đang thắc mắc, đã thấy một kị sĩ bạch bào từ trong đám đó tiến ra, miệng cười hì hì, đich thị Cốc Chẩn. Gã đưa tay vẫy chào hai người, rồi hươ roi ra lệnh mã phu tháo dỡ hàng hoá xuống. Thích Kế Quang lại gần xem xét, thấy đó là khôi giáp, binh khí, vô số lương thảo, đều được đóng gói cẩn thận, chất đầy doanh trại, có nhiều thùng gỗ to, mở ra xem thì thấy bên trong toàn là súng điểu cùng đạn dược mới tinh.
Thích Kế Quang, Lục Tiệm nhìn đến hoa mắt, cứ ngỡ đang nằm mơ, đang định đi tìm Cốc Chẩn tra hỏi, lại đã nghe tiếng ngựa hí vang, tiếng trâu bò nghé ngọ, nhìn ra thì thấy vô số trâu bò đang kéo xe đến, trong đó có nhiều cỗ súng thần cơ to lớn, nòng súng sơn đen dễ khiến người ta trông thấy mà rùng mình. Đàng sau đó là mấy trăm cỗ chiến mã, vóc mình cao lớn, yên cương đều được thắng đầy đủ!
Cốc Chẩn kiểm nhận xong hàng hoá, rời mình ngựa, miệng tủm tỉm cười, bước đến bảo: "Còn năm mươi khoái hạm đang thả neo nơi bờ biển, đã không thể đem đến đây được!". Thích Kế Quang nhăn mặt, hỏi: "Cốc lão đệ, mấy cái này.... toàn do đệ đã mua cả, phải không?" Cốc Chẩn đáp: "Đúng thế! Coi được không?" Thích Kế Quang bảo: "Được thì được đấy, nhưng giá tiền toàn thể cao đến mức kinh khiếp, ta chỉ đã đưa đệ có hai trăm lượng, nếu buôn bán sanh ý thiệt cao, tính ra cũng phải quay vòng vốn cả trăm năm mới kiếm đủ tiền mua chúng!". Cốc Chẩn vui vẻ, hỏi lại: "Thích tướng quân, ông còn nhớ cái điều kiện thứ nhất không?" Thích Kế Quang đáp: "Nhớ chứ! Đệ buộc ta không được tra hỏi lai lịch tiền bạc từ đâu ra! Nhưng đây lại thiệt nhiều đồ quân giới, lương hảo, nhiều khủng khiếp, nếu ta không rõ lai lịch, thiệt Thích mỗ ta không dám...". Cốc Chẩn lại cười, nói: "Điều kiện thỏa thuận thứ hai, những gì ta mua về, ông đều phải nhận lãnh hết. Thích tướng quân đã đồng ý cả hai điều kiện, tướng quân lấy thành tín trị quân, sao lại muốn nuốt lời đã hứa chịu cùng ta?"
Thích Kế Quang sớm đã dự liệu sẽ đến cái ngày này, sẽ bị dưới tay Cốc Chẩn, đã chuẩn bị tinh thần để bước vô tròng của gã, nhất thời ông đành bất đắc dĩ, bấm bụng chịu thua. Vả lại, các món quân giới lương thảo đó, đưa đến đúng lúc ông đang cần gấp, dư để trang bị cho nguyên cả một quân đoàn vô địch, trong lòng Thích Kế Quang vui mừng hớn hở, ông quẳng ráo mấy cái mối lo âu nghi ngờ đó lên chín tầng mây!
Ngày hôm sau, Cốc Chẩn cho cất một gian lều tranh bên ngoài doanh trại, rồi gã thường xuyên có mặt ở đấy. Từ ngày dựng lên gian lều, khách khứa không ngừng lai vãng, phần lớn là phú thương, quần áo diêm dúa se sua nhất đời, đỗ trước lều nườm nượp toàn là xe cộ hoa lệ, buộc kề cận trên đường tinh là ngựa quý, đang không ngừng tranh nhau tiếng hí, các thứ xa hoa hào nhoáng, lụa là gấm vóc quý giá, liên tục vào ra gian lều, đôi lúc, khách khứa có chạm mặt nhìn nhau, đều lộ vẻ thập phần thần bí.
Từ Thích Kế Quang trở xuống, quan quân trong trại không ai không hiếu kỳ, có kẻ thừa lúc khách của y chưa ra về, đã đến trước lều nhòm ngó, chỉ thấy khách ngồi một bên, dáng điệu hết sức cung kính, Cốc Chẩn ngồi một bên, tay tả gõ bàn toán, tay hữu ghi ghi chép chép vào sổ sách, nói cười liền miệng, thấy khách vừa vào cửa là ngẩng đầu mở miệng chào hỏi, là tay nâng chén rượu mời khách, chiêu đãi thực lòng, chủ khách cùng vui vẻ thoải mái.
Lục Tiệm cũng lấy làm lạ, có dọ hỏi y, Cốc Chẩn đều tìm cách nói lảng sang chuyện khác, cười nói chuyện đâu đâu. Lục Tiệm biết gã quen hành sự như vậy, nếu gã chẳng chiụ thố lộ, gã tất có nguyên do, nên Lục Tiệm cũng không gặng hỏi lắm, chỉ hết lòng giúp Thích Kế Quang huấn luyện binh sĩ. Và từ ngày Cốc Chẩn trở về, bất cứ quân giới, vật tư gì Thích Kế Quang cần, gã đều lo cung ứng đầy đủ, từ đó, quân binh của họ Thích được trang bị khí giới, tàu xe vào hàng cực phẩm, đứng đầu toàn Giang Hạ, nếu không muốn nói đứng nhất thiên hạ!
Ngày tháng trôi qua, thấm thoắt đã đến tháng tám, quân lính đều được nghỉ phép về quê, doanh trại trống vắng. Ba người rảnh rỗi, Cốc Chẩn bèn mời Thích, Lục hai người ngồi thuyền dạo chơi trên sông, uống rượu, nói chuyện. Lúc ấy, trăng lên cao vằng vặc, tiếng sóng bủa vào bờ rì rầm, rừng cây thưa thớt lá, Ba người uống đến đỏ mặt đỏ mày, nói chuyện lan man từ nghiệp vụ của mình, lan sang chuyện binh pháp! Cốc Chẩn thuyết rằng: "Động binh động mã, trước hết phải lo cho chu toàn chuyện lương thảo, chẳng phải bàn thêm gì nữa, cái cốt yếu của dụng binh, chủ yếu chính là quân lương. Thời Hán Sở giao tranh, Hán Cao Tổ đánh trăm trận thua cả trăm, nhưng rốt cục chẳng khi nao bị tuyệt lương, toàn nhờ ngài đã có hậu cứ Quan Trung vững chắc, Tiêu Hà (làm thừa tướng cho Hán Cao Tổ) lo việc chuyển vận lương thảo, nguồn lương hướng không bao giờ bị cắt đứt, hôm nay dẫu có thua trận, nhưng lương thực vẫn còn, ngày mai vẫn có thể ra quân trở lại. Việc chuyển vận lương thảo của Hạng Vũ vốn do Bành Việt, Anh Bố (hai đại tướng của bên Sở, sau về đầu về hàng nhà Hán), đảm nhiệm, khi Hạng Vũ mất Bành Việt, Anh Vũ rồi, đường vận lương không còn bảo đảm, tuy Hạng Vũ đã từng chiến thắng trăm trận trước đó, đến khi thua một trận chót duy nhất, y đã không vực trở lại được nữa!"
Thích Kế Quang xua tay lia lịa, cãi: "Cốc lão đệ câu đó nói sai rồi! Việc binh dựa vào NGHĨA, cái cốt yếu của hành quân, là ở hai chữ ĐẠO NGHĨA.Thánh nhân đã từng nói: 'Người quân tử nhằm vào nghĩa, kẻ tiểu nhân hám vào lợi.' Lương tiền tuy quan trọng, nhưng thứ đó nhắm vào mặt lợi! Trong mắt tướng sĩ chỉ thấy lợi, nên còn lợi thì còn đánh nhau hăng, hết lợi thì tan rã hàng ngũ. Hạng Vũ dụng binh như thần, nhưng tính tình bạo ngược, sai giết sạch hàng binh, đem chôn sống hai mươi vạn quân Tần, đánh mất nhân tâm, đến lúc thua không vực lên được, đã phải đâm cổ tự vẫn! Cao Tổ định ra ba chương ước pháp, được lòng người, dẫu thua trận liên tiếp, nhưng cuối cùng đã đoạt được thiên hạ. Chỉ có lấy nhân nghĩa làm gốc, mới có thể chuyển từ yếu sang mạnh, trước thua, sau thắng. Các danh tướng đời xưa, Thích mỗ phục nhất Nhạc Vũ Mục (Nhạc Phi), Quân sĩ của Nhạc gia:
'Ngạ tử bất lỗ lược,
Đống tử bất sách ốc'
(Nghĩa: Đói khát không đi cướp bóc lương thực của dân, Rét mướt không đi chiếm dụng nhà cửa của dân)
cái đó, mới thật đạo nghĩa kinh hồn!"
Cốc Chẩn hỏi: "Nói như Thích tướng quân đây, nếu tuyệt lương, chắc để quân lính bụng rỗng, cầm đao gỗ, thương trúc đi đánh trận?"
Thích Kế Quang đáp: "Cổ nhân lúc đầu đi đánh trận, dùng gậy tầm vông còn được, huống hồ đao gỗ, trúc thương?"
Cốc Chẩn cười ầm, day sang hỏi Lục Tiệm: "Ý ngươi ra sao?". Lục Tiệm đáp: "Ta thấy Thích đại ca nói đúng, chỉ khi nào ra trận vì bá tánh, mới có được hùng tâm tráng chí, không chút bận tâm!". Thích Kế Quang vỗ tay, khen:"Nói rất hay, chỉ cần không chút vướng mắc trong lòng!"
Đang lúc truyện trò, chợt từ phía đầu nguồn, trên bờ sông có thấp thoáng ánh đèn, ẩn ẩn hiện hiện tiến đến, lúc đến thật gần, có một giọng nam tử ngàn ngạt hỏi: "Có Cốc thiếu gia ở trên thuyền đấy không?"
Cốc Chẩn lớn tiếng hỏi lại: "Ai tìm ta đấy?". Lửa đèn nơi đó vụt bừng lên, đồng loạt hơn mười cây đuốc cháy sáng, cảnh tượng bên bờ sông hiện rõ như ban ngày. Ba người dõi mắt trông về chỗ bờ sông nơi ấy, thấy hai hàng người Hồ đang quỳ mọp, họ mình trần, mắt xanh, tóc vàng, tay chân đeo đầy những vòng vàng lớn, trên dây lưng có đính một viên hồng ngọc bảo thạch, dưới áng sáng đuốc, thấy nó lập loè, lóng lánh.
Trên vai tám người là một cái cáng gỗ lớn, có cái ngai, trên ngai ngồi vắt vẻo một nàng Hồ nữ, tóc đen nhánh như mực, thịt da đầy đặn, mặt che một tấm sa mỏng, cho thấy đôi nhãn châu màu xanh, đầy nét kiều mị câu hồn đoạt phách. Đứng tản ra quanh đấy còn có hơn mười tuỳ tùng, nam có, nữ có, toàn là người Hồ.
Thích Kế Quang và Lục Tiệm chưa từng thấy người Hồ, đều cảm thấy kỳ lạ. Cốc Chẩn hình như từng dự liệu trước, cười cười, hỏi: "Các vị tìm ta, chẳng hay có chuyện gì gấp gáp?". Nàng Hồ nữ trên cáng ngó gã, mắt nhìn không chớp, một lúc lâu. Cốc Chẩn hì hì, hỏi "Mỹ nhân nhân, sao nàng lại nhìn ta chăm chú đến thế? Nàng đang định ve vãn tình nhân là ta đây sao? Rồi đem ta về lấy làm chồng?"
Nàng Hồ nữ cười khanh khách, đưa tay che miệng một hồi lâu, rồi ỏn ẻn: "Đông Tài thần quả thật như lời đồn đại, một gã thiếu niên ngông cuồng, nhưng cũng là một gã mặt mày anh tuấn, làm người ta mê đến chết luôn đây này!"
Cốc Chẩn ngoác miệng ra cười, "Nàng mà mê chết rồi, ta cũng không buông tha!" Hồ nữ cười hi hi, bước xuống khỏi cái ngai, trên hai tay nàng bưng một cái hộp cẩn bảo thạch, thênh thênh bước đến ven bờ sông, nói: "Ta vâng mệnh chủ nhân, mời túc hạ ngày mười lăm tháng này ghé qua gặp ngài ở lũng Linh Thuý, tỉnh GiangTây"
Cốc Chẩn đứng lên, chống sào cho thuyền cập vào, lên đến bờ, hắn nhận cái hộp, liếc sơ qua, rồi bất ngờ, cúi thụp người xuống ngang tầm đầu gối Hồ nữ, nghe soạt một tiếng, ném cái hộp bay vù ra giữa sông. Hồ nữ ánh mắt hoảng hốt, lui lại một bước, cùng lúc đó, nghe tiếng suỳ suỳ từ giữa dòng sông, có mấy tia nho nhỏ bắn ra, phút chốc, dưới ánh sáng mấy ngọn đuốc, nước sông chỗ đó đổi màu đen kịt như mực.
Thích Kế Quang cùng Lục Tiệm vụt xanh xám mày mặt, Lục Tiệm quát: "Quân gian tặc giỏi nhỉ, cái hộp đó có ngầm gài ám khí". Lục Tiệm đứng vụt người lên, Cốc Chẩn kịp thời đưa tay cản gã lại, cười cười, bảo: "Tiểu kỹ điêu trùng ấy là thứ hạng bét, vậy mà bà nương này cũng đòi giở giói ra!"
Nàng Hồ nữ gượng cười, nói: "Chủ nhân ta nghe đồn ngươi giỏi tài mở khoá, nên muốn nhân dịp này thử tài, xem ngươi sẽ mở hộp đó ra sao, nếu ngươi mở hộp khéo léo, sẽ không làm phát động cơ quan bắn nước độc, đâu có ngờ ngươi lại làm vậy. Đáng tiếc, cái thiệp mời bên trong cũng bị mất luôn theo cái hộp!"
"Đừng lo!", Cốc Chẩn bảo, "Thiệp mời nếu bị huỷ hoại, sẽ chẳng phải là bổn sự của chủ nhân của nàng". Cái hộp đó, sau khi độc bên trong tan hết vào dòng sông, đã hiện hình dưới đáy nước. Cốc Chẩn vừa định tìm cách vớt nó lên, Lục Tiệm đã đi trước gã một bước, tay y vừa dang ra, đã thấy cái hộp nằm gọn trong lòng bàn tay rồi, hộp toàn bằng vàng, trên mặt hộp có chạm khắc hình thú, hình chim, hình người, nét chạm trổ cực kỳ tinh xảo.
Vận dụng kiếp lực, Lục Tiệm đã thấy được bên trong hộp, gã day qua Cốc Chẩn bảo: "Cơ quan trong hộp đã hết hiệu quả rồi, sẽ chẳng còn gì khác lạ nưã đâu". Cốc Chẩn cười hì hì, nói: "Cái đó đương nhiên, bà nương thực tình rất muốn giết ta, đâu ngờ bị mất cả vốn, cho ta dịp phát tài. Gã bèn lập tức mở hộp, thấy bên trong có một lá bạch kim giát mỏng tựa cánh ve sầu, trên có mấy dòng chữ màu đỏ như máu. Lục Tiệm chăm chú quan sát, gã vụt hít vào một khẩu chân khí thật to, mấy dòng chữ đỏ tựa máu đó đều đã toàn dùng hồng ngọc khảm nên, nhìn chu vi bên trong hộp, mỗi bề có khảm một viên ngọc phỉ thuý lớn, trên viên ngọc chạm trổ hoa văn tỉ mỉ tinh diệu, viên ngọc trong suốt, nét chạm nhìn xuyên thấu qua, thật không biết đã làm cách nào mà chạm khắc tinh xảo được như vậy!
Cái hộp hoàng kim đó, giá trị cỡ ngọc liên thành, Cốc Chẩn liếc sơ qua, cười bảo: "Ngoài kim ngân, còn thì tinh là đá quý, đã lâu ta chưa có dịp xem qua, bà nương này bị nhiễm tục khí nặng đến thế cơ à?" Nói xong, gã đậy nắp hộp lại, day sang bảo Hồ nữ: "Nàng thưa với chủ nhân là Cốc mỗ sẽ đến đấy đúng kỳ hạn, còn chưa gặp mặt, quyết không dời bước ra đi!"
Nàng Hồ nữ vui vẻ đáp: "Vậy thiếp thân xin cáo từ". Cốc Chẩn bảo: "Xin cứ tự nhiên!" Hồ nữ lại lên ngồi trên cái ngai, tám người Hồ khiêng cáng đồng loạt đứng lên, rồi cả đoàn đi xa dần, lửa đuốc tắt ngúm, vầng sáng đèn mỗi lúc một thu nhỏ lại, rồi lẩn khuất vào màn đêm.
Cốc Chẩn tuy không nói gì, nhưng Lục Tiệm cũng đã đoán được phần nào, nhìn đoàn người Hồ đi xa dần, gã không nhịn được nữa, cất tiếng hỏi: "Cốc Chẩn, đó có phải là sứ giả của Tây Tài thần không?". Cốc Chẩn tủm tỉm bảo: "Bà nương bị ta quấy rối ngay trong hang ổ, đã bắt đầu thấy bực bội rồi đó!"
Lục Tiệm thắc mắc: "Ngươi quấy phá cách nào vậy?" Cốc Chẩn đáp: "Cái đó cũng đã không phải đơn giản! Bà nương đó vô quậy nơi Trung thổ của mình, thì ta cũng quậy phá lại vùng Tây Vực cuả mụ. Hai tháng trước đây, quá nửa gia súc ở đất Ba Tư của mụ đã lăn đùng ra chết, hơn mười thuyền buôn bán hương liệu của mụ đã bị chìm ở Tây Trúc. Bà nương mình bị thất thoát khá bộn, nên đã phải tìm cách gặp ta, để thương lượng"
Lục Tiệm vừa hoảng, vừa mừng, buột miệng kêu lên: " Hèn chi! Mấy lúc sau này, ta thấy ngươi toàn tiếp đón phú thương, thì ra chuyện đó!" Cốc Chẩn khẽ gật đầu. Lục Tiệm lại hỏi: "Ngươi đã thừa sức đối phó mụ trên thương trường, sao còn phải đi gặp mụ làm gì?"
Cốc Chẩn lắc đầu, bảo: "Mụ ta tuy mất mát khá bộn tiền của, nhưng mụ còn nắm trong tay nhiều lương thực, vừa rồi, cái thiệp mời đó, nếu ta không khứng gặp mụ, mụ ta sẽ đem lương thực đốt trọn đi, cái ả nữ nhân đó, nói là làm, không giỡn chơi đâu!" Gã nói đến đấy, liếc mắt sang Thích Kế Quang, đùa đùa, bảo: "Thích tướng quân, chừng nào thì ông cất quân đi Giang Tây vậy?"
"Lão đệ nói vậy là ý tứ ra sao?" Thích Kế Quang chau mày hỏi lại, "Không có thánh chỉ từ triều đình ra lệnh, quân đội của ta chẳng thể nào tự ý rời bỏ căn cứ, hành quân sang khu vực khác bên ngoài" Cốc Chẩn vui vẻ bảo: "Cái đó dễ! Ta đã xin được từ kinh đô về một đạo thánh chỉ, chắc chỉ nay mai là đến đây thôi!". Thích Kế Quang ngẩn người ra một lúc, rồi hỏi lại: "Cốc lão đệ nói giỡn chơi ta đấy ư?". Cốc Chẩn chỉ cười cười, không đáp.
Giữa trưa ngày hôm sau, đang lúc Thích Kế Quang huấn luyện binh sĩ, nghe báo Hồ Tôn Hiến đã cử người đem thánh chỉ đến từ Hàng Châu. Thích Kế Quang về đại trướng tiếp chỉ, đại ý thánh chỉ bảo: "Vì oa khấu từ vùng Mân phía bắc đã tràn xuống Giang Tây, quậy phá kịch liệt, làm gián đoạn giao thông thuỷ, bộ, nay ra lệnh cho Thích Kế Quang nội nhật phải thống lĩnh dân quân Nghĩa Ô đi cứu viện Giang Tây, dẹp loạn, trừ khấu. Đồng thời lệnh cho Hồ Tôn Hiến phải hoả tốc xuất quân đi gíup sức quân đội của họ Thích, không được chậm trễ!"
Thích Kế Quang kinh hãi trong dạ, lập tức cho kiểm tra sứ giả, kiểm tra thánh chỉ, thấy đúng thực là ngự ấn, không có gì là trá nguỵ cả.
Ông suy nghĩ hồi lâu, rồi cho triệu Lục Tiệm, Cốc Chẩn đến gặp. Hai người vào trướng xong, Thích Kế Quang đưa thánh chỉ cho hai người xem qua. Lục Tiệm cũng bị kinh hãi, chỉ có Cốc Chẩn cứ tủm tỉm cười. Thích Kế Quang đi tới đi lui chục bước trong trướng, vụt "soạt" một tiếng, rút kiếm, trỏ vào Cốc Chẩn, hỏi: "Rút cục, ngươi là yêu nhân phương nào?"
Cốc Chẩn cười, đáp: "Ta họ Cốc, tên Chẩn, Thích tướng quân không nhận ra ta sao?". Lời chưa dứt, trước mắt đã hoa lên một đạo kiếm quang, mũi kiểm trỏ ngay vào yết hầu, toát hơi lạnh ngắt, rồi nghe Thích Kế Quang trầm giọng bảo: "Ta chỉ đem lòng thành thực chơi với bạn bè, không cho kẻ gian trà trộn vào hàng ngũ!"
Cốc Chẩn nhìn lưỡi kiếm, vẫn giữ nét cười cợt, tròng mắt chẳng hề lay động. Thích Kế Quang thấy gã hết sức bình ổn như thế, có chút nghi ngại, lại thấy Lục Tiệm đưa tay ra đè lưỡi gươm xuống, bảo: "Đại ca, đệ đem tính mạng mình ra đảm bảo, Cốc Chẩn tuyệt chẳng phải là hạng gian manh xảo trá!"
Thích Kế Quang lạnh lùng đáp: "Hắn không phải hạng gian tà, làm sao mà từ một kẻ chân trắng bạch đinh, đã có thể làm cho triều đình hạ chiếu chỉ điều động binh mã?"
Lục Tiệm cũng không sao giải thích được, đưa mắt hỏi Cốc Chẩn. Cốc Chẩn cầm tấm thánh chỉ lên, than rằng: "Thích tướng quân quả là người chân chỉ hạt bột, chẳng ưa trò trào lộng, cái thánh chỉ này, đích thực ta đã phải mất bao nhiêu là công sức, tốn mất ba vạn lượng bạc trắng, đút lót cho thái giám kề cận hoàng đế"
"Thật vậy sao?",Thích Kế Quang sa sầm nét mặt, "ngươi đang mưu toan phản loạn gì, nếu không thành thật khai báo ra, hôm nay, trong trướng này, máu sẽ loang đầy ba thước!"
Bỗng dưng huynh đệ xào xáo, Lục Tiệm mặt mày nhăn nhó, khuyên: "Cốc Chẩn, ngươi toan tính gì, hãy đem trình bày tất cả cho Thích đại ca nghe đi". Cốc Chẩn lườm hắn, rồi nói: "Ta sở dĩ đút lót để mua cái thánh chỉ này, chỉ vì đang định làm một chuyện thật trọng đại. Ta cần cái thánh chỉ này, vì nó là một phần của ba cái mấu chốt, không có đủ cả ba, không thể nào hoàn thành được đại sự đó"
Lục Tiệm hỏi: "Ngươi nói ba mấu chốt là sao?" Cốc Chẩn trỏ tay vào đạo thánh chỉ, giải thích: "Cái thứ nhất, là phải giầu có vào hàng địch quốc, cái thứ nhì, ta cần tuyệt thế thần thông, cái thứ ba, là cần quân đội đã được huấn luyện cho thật kỹ. Giàu có là ta, thần thông đã có Lục Tiệm, chỉ còn tinh binh, nếu thiếu tân binh và thuộc hạ của Thích đại tướng quân, là không xong!"
Thích Kế Quang nửa tin nửa ngờ, hỏi: "Ba cái mấu chốt hết sức khó khăn đó, cuối cùng dùng vào việc đại sự gì?" Cốc Chẩn đáp: "Lục Tiệm, cái này phải để ngươi giải thích, ta mà nói, Thích tướng quân chưa chắc đã chịu tin lời ta"
Lục Tiệm gật đầu, đem đầu đuôi chuyện cứu tế Giang Nam kể lại. Thích Kế Quang nghe như nghe kể chuyện hoang đường, ông quá sức ngạc nhiên! Nếu ông không hết lòng tin cậy Lục Tiệm, không nhìn cái trịnh trọng trong cung cách Lục Tiệm thuật chuyện, thì chưa chắc đã tin! Ông lập tức hiểu ngay những cái đó là sự thật, bèn đút trường kiếm vào vỏ, khoanh tay, trầm tư. Cốc Chẩn lại bảo: "Cái 'địch quốc chi phú' nhằm đối phó 'Tây Tài thần;, cái 'tuyệt thế thần thông' để đối phó cao thủ của đối phương, còn tinh binh, chính để chống bọn oa khấu các tỉnh An Huy, Giang Châu, Quảng Đông và Mân Việt. Ba cái đó, thiếu một, là không xong!"
Thích Kế Quang bảo: "Nếu sự thực là thế, đúng là chuyện khó thể tưởng được, nhưng vì nó có liên quan đến an nguy đất nước, ta đây nguyện vì nghĩa liều thân!". Ánh mắt ông vụt sáng, ông day sang nhìn Cốc Chẩn, bảo: "Ngươi vì cái an nguy đất nước mà đã bất chấp chuyện gian trá, có điều cách làm vậy, thiệt chẳng phải đạo chút nào!"
Cốc Chẩn cười mà rằng: "Ta bình sanh hành sự, chỉ cần được việc, bất cần để ý đến nguyên tắc kẻ khác. Người ta nói 'Nuôi lang sói là có dã tâm, nuôi hổ báo là gây nạn về sau', ta thì bảo 'Ta theo lòng trời mà nuôi hổ nuôi sài lang, dùng lợi mà nhử, chúng hết lòng hết sức làm việc cho ta', mấy cái đứa cận thần, thái giám của hoàng đế đó, có chuyện ác nào mà chúng không làm! Nhưng bọn chúng may mắn còn có ta, dù chúng có ra tay vì tham bạc tiền, cũng đã góp phần vào hảo sự, cũng có tích được đôi chút âm đức, một công mà ba chuyện, lợi cho họ, mà cũng lợi cho ta. Ha ha, nói về chuyện hám lợi, Thích huynh là chính nhân, hành sự luôn luôn đặt đạo nghĩa lên hàng đầu, còn bọn thương nhân ta, làm gì cũng đặt chữ lợi lên trên, cái tánh đó, ta không sửa đổi được!"
Thích Kế Quang tưởng được dịp giáo huấn gã, đem đạo đức ra thuyết, ai dè Cốc Chẩn giỏi tài nguỵ biện, nói qua nói lại ba điều bốn chuyện, đã làm ông khó đối đáp, nhất thời không có cách gì khác, đành dẹp bỏ ý định lên lớp gã, mặt mày bí xị!
Cốc Chẩn lại bảo: "Cái bí mật đó, để tránh cho đối phương đánh hơi được kế sách của ta, ba người mình nên đi tẽ ra. Để ta với Lục Tiệm đi trước, Thích tướng quân thống suất quân đội đi sau, ta sẽ đưa cho Thích tướng quân một bản địa đồ hành quân, trước ngày mười lăm, phải có mặt tại chỗ, ngày nghỉ đêm đi, không được đánh động!".
Gã nói xong, lấy từ trong tay áo ra một tấm địa đồ, đưa cho Thích Kế Quang. Thích Kế Quang mở ra, thoáng nhìn đã nhận ra bản đố tỉnh Giang Tây, trên đó các tuyến hành quân đã được tô màu đỏ. Ông sẽ chau mày, suy nghĩ một vài giây, rồi bảo: "Hai vị cứ yên tâm. ta sẽ chỉnh đốn binh mã, rồi sẽ theo sau hai vị đúng kỳ hạn"
Cốc Chẩn cười ha hả, đưa cả hai bàn tay ra. Thích Kế Quang cũng cất tiếng cười, đưa hai bàn tay vỗ vào hai lòng bàn tay gã!
Tác giả :
Phượng Ca