Thoát Bắc Giả
Chương 69: Thôn kiều dân
Đây là một thôn xóm nằm ở sâu trong núi non trùng điệp xa xôi.
Theo như Sourin nói, Nhật kiều trong biên giới Triều Tiên bị chia để trị, vị trí cư trú cách xa bến cảng và biên giới, được đặt cái tên mỹ miều là “quản lý tập trung”.
Cũng như chính sách của Đức quốc xã là đánh dấu trước, phân biệt sau, cuối cùng là cô lập, kiểu diệt chủng tộc “nước ấm nấu ếch”* này luôn có thể khiến mọi người từ từ tiếp nhận trại tập trung và phòng khí độc.
(*Nước ấm nấu ếch: là câu chuyện ngụ ngôn của Trung Quốc. Khi bỏ con ếch thẳng vào nước nóng, nó sẽ lập tức nhảy ra. Nhưng nếu bỏ vào nước lạnh rồi chậm rãi đun lên, con ếch sẽ ở yên mà chết từ từ.)
Bố mẹ Tiểu Ji đều là kiều dân thế hệ thứ hai, vì thiếu ăn thiếu mặc nên đã lần lượt qua đời, chỉ còn lại hai bà cháu sống nương tựa vào nhau.
Như những vùng khác ở Triều Tiên, nơi đây cũng có nền kinh tế tập thể, sản xuất nguyên vật liệu, thành quả lao động được phân phối đồng đều. Im Dong Kwon và Sourin nấp trong xe bò mà kiều dân trong thôn dùng để chở củi.
Dù quản lý ở thành phố Rason khép kín nhưng vẫn có thể tiến hành đổi chác với bên ngoài. Trên bán đảo Đông Hải cây cối xum xuê, cứ đến độ thu đông là lại không có chỗ chứa cành khô, thế nên thôn dân xung quanh toàn đến lượm về. Cách nửa tháng Tiểu Ji lại đi một chuyến, đã trở thành thông lệ nên cũng có đầy đủ thủ tục thông quan, lính gác dọc đường cũng không gây khó khăn.
Lo lắng đề phòng lắc lư một đường, cuối cùng hai người nấp dưới đám củi khô đã tới địa điểm an toàn.
Lên đường từ sáng sớm, hiện tại đã là đêm khuya, đứng trên đỉnh núi nhìn xuống thôn xóm dưới chân, thậm chí trong chu vi trăm dặm không có lấy một ngọn đèn. Im Dong Kwon cắn bánh bao không nhân nguội ngắt, trong miệng toàn mạt gỗ, bất giác nhíu mày: “Nơi này ngay đến điện cũng không có, hệ thống theo dõi vận hành thế nào được?”
“Cung cấp điện độc lập, kết nối với mạng lưới quốc gia.” Sourin hoạt động gân cốt ở đằng sau anh ta, hơi nóng thở ra dần ngưng tụ thành sương trắng.
“… Đúng là chịu chi thật.”
Người phụ nữ tiến đến, giơ tay chỉ phương hướng: “Đầu thôn, cuối thôn với đường chính, trên mỗi vị trí cao đều có camera; phòng trang bị ở gần giếng công cộng, tín hiệu tập trung cả về đó; tôi không thấy dây cáp hay sợi quang học thông với bên ngoài, chắc là truyền tin bằng vệ tinh.”
Im Dong Kwon nhướn mày: “Vệ tinh nhân tạo Kwangmyongsong-4?”
Sourin hỏi ngược lại: “Không phải anh cũng nghĩ là phóng vệ tinh thất bại đấy chứ? Đúng là để trấn an đồng minh, cái gì người Mỹ cũng dám nói.”
“Hệ thống tín hiệu vô tuyến rất đặc biệt, tôi không chắc lắm.”
Người phụ nữ nhún vai, tỏ vẻ không thành vấn đề: “Cứ thử đi.”
Anh ta nuốt nước bọt: “Định vị đa điểm, hình ảnh tập trung, điện toán đám mây, cộng với hệ điều hành độc lập… Nếu cấy Argus vào thất bại thì làm sao đây?”
“Anh làm gì tôi không biết,” Sourin nheo mắt nhìn về phương xa, “Tôi chỉ biết mình sẽ không đem theo phế vật bên người.”
Im Dong Kwon lần nữa nghẹn họng, nhưng cũng chỉ có thể cúi đầu, im lặng nhai hết bánh bao trong miệng.
Chất mấy bó củi lên xe bò xong, Tiểu Ji vừa lau mồ hôi vừa đi đến, thở hồng hộc gọi bọn họ lên xe. Mặc dù cô bé mười mấy tuổi vô cùng căng thẳng, nhưng cũng không quên chức trách của mình: toàn thôn chỉ có mỗi chiếc xe bò này, phải về trả lại trước khi trời sáng, hai người trốn trong đống củi cũng cần sắp xếp, không thể chậm chạp hơn nữa.
Sourin xoay mình leo lên xe, kéo căng sợi dây thừng từ ngoài vào trong, lập tức bó củi xếp chồng lên, rồi cô nấp mình vào bên trong. Im Dong Kwon thở dài bắt chước theo, nhanh chóng ngụy trang.
Cành cây khô được cắt tỉa không đều, dù mặc quần áo dày thì vẫn rất khó chịu. Để không bị cành khô đâm vào mắt, anh ta chỉ có thể ngẩng đầu nhìn bầu trơi đêm vô tận.
Trình độ công nghệ ở Triều Tiên vô cùng lạc hậu, song vì thế nên môi trường tự nhiên được bảo vệ tối đa, đặc biệt là khu vực nông thôn không bị ô nhiễm ánh sáng, bầu trời đầy sao gần ngay trước mắt, như thể chỉ cần với tay là sẽ chạm đến.
Tiểu Ji cưỡi bò rất chuyên nghiệp, chỉ chốc lát sau đã đưa xe chở củi vào trong thôn, bắt đầu phân phát từng bó đến mỗi nhà.
Im Dong Kwon nghe thấy tiếng củi khô rơi xuống đất, sức nặng đè trên người cũng dần nhẹ đi, đoán chừng sắp đến mục đích, cả người cũng xốc lại tinh thần hơn.
Nhìn những ngôi sao trên trời cao, thời gian chưa quá nửa đêm, chỉ cần có chỗ nằm thì có thể ngủ được một giấc ngon lành.
Bất tri bất giác, yêu cầu về sinh hoạt đã bị hạ xuống thấp nhất, ngay tới ngủ cũng trở thành kiểu hưởng thụ.
Đúng lúc Im Dong Kwon cười nhạo mình không có ranh giới cuối cùng thì chợt cảm nhận được một lực đẩy ngang hông, cơ thể không giữ được thăng bằng, đi đôi với tiếng củi khô bị bể, trời đất trước mắt lập tức quay cuồng.
Anh ta không kịp che mặt, chỉ có thể nhắm chặt mắt, mặc cho cành cây làm xước da để lại từng vết máu.
“Chị ơi, đã đến phòng trang bị rồi.” Kèm với tiếng củi khô vang vọng, Tiểu Ji thấp giọng nhắc nhở, “Em đến những chỗ khác trong thôn trước, khi nào trời sắp sáng sẽ quay lại đón anh chị, nhớ canh thời gian nhé.”
Im Dong Kwon vùi mình trong đống củi khô, mặt đầy mù mờ.
Không được ngủ, cả ngày chỉ ăn mỗi hai miếng bánh bao, nguồn nước cũng là từ tuyết đọng ven đường… Vất vả lắm mới đến được mục tiêu, còn chưa nghỉ ngơi, chưa điều tra, chưa chuẩn bị gì cả mà đã ném người ta đến cửa phòng trang bị rồi, chuyện gì thế này?
Xe bò dần dần đi xa, trong tuyết truyền đến tiếng bước chân tập tễnh xa lạ.
Trên mặt đất bên cạnh có thứ gì đó bị kéo ra, cửa sắt rỉ sét va chạm vào trục bánh xe phát ra tiếng ồn rất chói tai, phá rách màn đêm yên ắng.
Cùng lúc đó, mùi mốc meo xộc thẳng vào mũi: nấm mốc quanh năm không thấy mặt trời, vại kim chi lên men mặn chát phủ đầy bụi bặm, mọi tạp vị trộn lẫn vào nhau, tạo ra thứ mùi đặc biệt của hầm trú ẩn.
Vì trên bán đảo Triều Tiên mùa đông rất dài, nên nếu hễ thiếu rau tươi thì các gia đình đều đào hầm trú ẩn, chuyên dùng để dự trữ kim chi.
Có điều Im Dong Kwon lại chẳng ngờ, phòng trang bị trong thôn kiều dân cũng có cơ sở thế này.
Một giây sau, anh ta cảm thấy đầu như bị đá một phát, tiếp theo là mông rồi cuối cùng là mắt cá nhân – bó củi dùng để ngụy trang lăn thẳng xuống dưới, tuy tốc độ chậm nhưng cách miệng hầm càng lúc càng gần.
Tiếng kêu cứu còn chưa kịp ra khỏi cổ họng thì anh ta đã rơi tự do xuống dưới, nhanh chóng lăn vào dưới sàn trong phòng trang bị.
Cành khô bị cơ thể đè gãy, mạt gỗ đâm vào da thịt; xương đập xuống bậc thang, khớp xương tứ chi lại mơ hồ nhói đau; vất vả lắm mới dừng lại, chẳng ngờ bị một bó củi khác sau lưng đập trúng, suýt nữa đã tắt thở.
Đỉnh đầu truyền đến tiếng khóa cửa sắt, tiếng bước chân tập tễnh kia lại dần xa, không còn nghe thấy bất cứ động tĩnh nào thêm.
“Giết người,” Im Dong Kwon khàn giọng kêu cứu, “Đè chết người rồi…”
Cởi sợi dây buộc ra, Sourin phủi bụi đất trên người rồi nhảy bật dậy, không khách khí đá vào anh ta: “Động tác nhanh nhẹn lên, thời gian rất eo hẹp.”
Gò má cô cũng đã bị nhánh cây làm xước, có mấy vết máu đậm nhạt khác nhau, tăng thêm mấy phần mỹ cảm ngỗ ngược. Trong bóng tối, chỉ có đôi mắt đen láy kia là lóe lên tia sáng hưng phấn.
Im Dong Kwon đã từng đến Châu Phi để xem cuộc di cư lớn, xem săn bắn thú ăn thịt, cũng từng nhìn thấy thứ ánh sáng tương tự như vậy trong mắt họ.
Trong hầm trú ẩn nhỏ hẹp, mấy chum tương to lớn được chất chồng lên nhau, vòng qua bàn ghế cũ nát ở góc tường có một cầu thang thông lên mặt đất. Sau lưng hai người là con đường trượt thẳng nối từ sân trước đến, thuận tiện cho việc vận chuyển nguyên liệu, bình thường cũng dùng để thu thập củi khô – chính là lăn thẳng từ trên xuống, tuy đã buộc chặt nhưng ít nhiều gì vẫn bị thiệt hại.
Cảm thấy trên mặt cay rát đau nhói, Im Dong Kwon hít một hơi lạnh, hai tay chống lên đầu gối miễn cưỡng đứng dậy: “Vừa nãy là ai thế? Dám dùng chân đá người… Nếu ở đây không có bố trí phòng ngự, vậy sao không để chúng ta đi cửa chính.”
Sourin cúi người nhặt củi khô về thành bó, chẳng buồn ngẩng đầu mà chỉ thấp giọng khiển trách: “Anh không cần biết anh ta là ai, chỉ cần có được trợ giúp hữu hiệu là được rồi. Kiều dân có tổ chức kháng chiến bí mật, dù có đoán được thân phận của nhau thì cũng không bao giờ chủ động xác nhận. Nếu không, bất cứ ai gặp chuyện thì đều ảnh hưởng đến toàn cục – đây cũng là một biện pháp đề phòng cách ly.”
Dù hiểu được đạo lý này, lúc tham gia tập huấn Cơ quan Tình báo cũng có nói sơ qua, song Im Dong Kwon chưa bao giờ đi sâu vào sân địch, càng không biết phải chu toàn với kẻ địch thế nào. Trong công việc của anh ta, gián điệp chỉ đơn giản là uống rượu, ăn cơm, lên giường, ra vào những nơi đắt đỏ, nghe ngóng được vài thông tin, rồi cứ định kỳ viết thành tài liệu đưa lên cấp trên, không có bất cứ nội dung kỹ thuật nào.
Cũng vì nguyên nhân đó, nên mật mã, chương trình và số liệu mới có giá trị tin tưởng.
So với lòng người khó dò, chí ít kết luận do máy thống kê còn khách quan chân thật hơn.
Và dường như giai cấp thống trị Triều Tiên cũng có chung cảm giác trước lần này.
Tuy hệ thống cứng ngắc và thiết bị lỗi thời, nhưng cả một hệ thống video này có thể thu thập hình ảnh phân lớp và chụp liên tục một số vị trí chính; gói nén tín hiệu vô tuyến được truyền ngay đến bộ xử lý trung tâm để phân tích tích hợp, không chỉ có thể tăng cường sự khác biệt thông qua so sánh, mà còn có thể giảm tổng số lượng vận toán.
Dù lúc giải mã có gặp chút chướng ngại, Im Dong Kwon vẫn thành công cấy Argus vào hệ thống theo dõi trong thôn kiều dân.
Toàn quá trình vừa căng thẳng lại hưng phấn, anh ta lần theo dấu vết đường truyền dữ liệu, kết nối với trung tâm thông tin mặt đất, mã hóa mặt nạ của hệ thống dự phòng rồi để lại tín hiệu uy hiếp, đảm bảo tất cả thần không biết quỷ không hay.
Cứ như vậy, chỉ cần có cơ hội lẻn vào mạng lưới Kwangmyong thì có thể lấy được tất cả tài liệu nội bộ, đi vòng qua máy chủ DNS và đăng tải chúng lên mạng lưới quốc tế.
Sau khi hoàn thành một loạt thao tsc này, Im Dong Kwon như trút được gánh nặng, cảm giác sau lưng thấm ướt mồ hôi lạnh, bất tri bất giác run lên.
Một tháng tiếp theo, bọn họ bôn ba trên đường núi gập gềnh, ngồi đủ phương tiện khó lòng tưởng nổi: máy cày, xe trượt tuyết, xe đạp… Từ mũi cực bắc của bán đảo Triều Tiên lại trăn trở đến bờ sông Đại Đồng, cuối cùng cũng tới trung tâm cai trị của Đảng Lao động – Bình Nhưỡng.
Theo như Sourin nói, Nhật kiều trong biên giới Triều Tiên bị chia để trị, vị trí cư trú cách xa bến cảng và biên giới, được đặt cái tên mỹ miều là “quản lý tập trung”.
Cũng như chính sách của Đức quốc xã là đánh dấu trước, phân biệt sau, cuối cùng là cô lập, kiểu diệt chủng tộc “nước ấm nấu ếch”* này luôn có thể khiến mọi người từ từ tiếp nhận trại tập trung và phòng khí độc.
(*Nước ấm nấu ếch: là câu chuyện ngụ ngôn của Trung Quốc. Khi bỏ con ếch thẳng vào nước nóng, nó sẽ lập tức nhảy ra. Nhưng nếu bỏ vào nước lạnh rồi chậm rãi đun lên, con ếch sẽ ở yên mà chết từ từ.)
Bố mẹ Tiểu Ji đều là kiều dân thế hệ thứ hai, vì thiếu ăn thiếu mặc nên đã lần lượt qua đời, chỉ còn lại hai bà cháu sống nương tựa vào nhau.
Như những vùng khác ở Triều Tiên, nơi đây cũng có nền kinh tế tập thể, sản xuất nguyên vật liệu, thành quả lao động được phân phối đồng đều. Im Dong Kwon và Sourin nấp trong xe bò mà kiều dân trong thôn dùng để chở củi.
Dù quản lý ở thành phố Rason khép kín nhưng vẫn có thể tiến hành đổi chác với bên ngoài. Trên bán đảo Đông Hải cây cối xum xuê, cứ đến độ thu đông là lại không có chỗ chứa cành khô, thế nên thôn dân xung quanh toàn đến lượm về. Cách nửa tháng Tiểu Ji lại đi một chuyến, đã trở thành thông lệ nên cũng có đầy đủ thủ tục thông quan, lính gác dọc đường cũng không gây khó khăn.
Lo lắng đề phòng lắc lư một đường, cuối cùng hai người nấp dưới đám củi khô đã tới địa điểm an toàn.
Lên đường từ sáng sớm, hiện tại đã là đêm khuya, đứng trên đỉnh núi nhìn xuống thôn xóm dưới chân, thậm chí trong chu vi trăm dặm không có lấy một ngọn đèn. Im Dong Kwon cắn bánh bao không nhân nguội ngắt, trong miệng toàn mạt gỗ, bất giác nhíu mày: “Nơi này ngay đến điện cũng không có, hệ thống theo dõi vận hành thế nào được?”
“Cung cấp điện độc lập, kết nối với mạng lưới quốc gia.” Sourin hoạt động gân cốt ở đằng sau anh ta, hơi nóng thở ra dần ngưng tụ thành sương trắng.
“… Đúng là chịu chi thật.”
Người phụ nữ tiến đến, giơ tay chỉ phương hướng: “Đầu thôn, cuối thôn với đường chính, trên mỗi vị trí cao đều có camera; phòng trang bị ở gần giếng công cộng, tín hiệu tập trung cả về đó; tôi không thấy dây cáp hay sợi quang học thông với bên ngoài, chắc là truyền tin bằng vệ tinh.”
Im Dong Kwon nhướn mày: “Vệ tinh nhân tạo Kwangmyongsong-4?”
Sourin hỏi ngược lại: “Không phải anh cũng nghĩ là phóng vệ tinh thất bại đấy chứ? Đúng là để trấn an đồng minh, cái gì người Mỹ cũng dám nói.”
“Hệ thống tín hiệu vô tuyến rất đặc biệt, tôi không chắc lắm.”
Người phụ nữ nhún vai, tỏ vẻ không thành vấn đề: “Cứ thử đi.”
Anh ta nuốt nước bọt: “Định vị đa điểm, hình ảnh tập trung, điện toán đám mây, cộng với hệ điều hành độc lập… Nếu cấy Argus vào thất bại thì làm sao đây?”
“Anh làm gì tôi không biết,” Sourin nheo mắt nhìn về phương xa, “Tôi chỉ biết mình sẽ không đem theo phế vật bên người.”
Im Dong Kwon lần nữa nghẹn họng, nhưng cũng chỉ có thể cúi đầu, im lặng nhai hết bánh bao trong miệng.
Chất mấy bó củi lên xe bò xong, Tiểu Ji vừa lau mồ hôi vừa đi đến, thở hồng hộc gọi bọn họ lên xe. Mặc dù cô bé mười mấy tuổi vô cùng căng thẳng, nhưng cũng không quên chức trách của mình: toàn thôn chỉ có mỗi chiếc xe bò này, phải về trả lại trước khi trời sáng, hai người trốn trong đống củi cũng cần sắp xếp, không thể chậm chạp hơn nữa.
Sourin xoay mình leo lên xe, kéo căng sợi dây thừng từ ngoài vào trong, lập tức bó củi xếp chồng lên, rồi cô nấp mình vào bên trong. Im Dong Kwon thở dài bắt chước theo, nhanh chóng ngụy trang.
Cành cây khô được cắt tỉa không đều, dù mặc quần áo dày thì vẫn rất khó chịu. Để không bị cành khô đâm vào mắt, anh ta chỉ có thể ngẩng đầu nhìn bầu trơi đêm vô tận.
Trình độ công nghệ ở Triều Tiên vô cùng lạc hậu, song vì thế nên môi trường tự nhiên được bảo vệ tối đa, đặc biệt là khu vực nông thôn không bị ô nhiễm ánh sáng, bầu trời đầy sao gần ngay trước mắt, như thể chỉ cần với tay là sẽ chạm đến.
Tiểu Ji cưỡi bò rất chuyên nghiệp, chỉ chốc lát sau đã đưa xe chở củi vào trong thôn, bắt đầu phân phát từng bó đến mỗi nhà.
Im Dong Kwon nghe thấy tiếng củi khô rơi xuống đất, sức nặng đè trên người cũng dần nhẹ đi, đoán chừng sắp đến mục đích, cả người cũng xốc lại tinh thần hơn.
Nhìn những ngôi sao trên trời cao, thời gian chưa quá nửa đêm, chỉ cần có chỗ nằm thì có thể ngủ được một giấc ngon lành.
Bất tri bất giác, yêu cầu về sinh hoạt đã bị hạ xuống thấp nhất, ngay tới ngủ cũng trở thành kiểu hưởng thụ.
Đúng lúc Im Dong Kwon cười nhạo mình không có ranh giới cuối cùng thì chợt cảm nhận được một lực đẩy ngang hông, cơ thể không giữ được thăng bằng, đi đôi với tiếng củi khô bị bể, trời đất trước mắt lập tức quay cuồng.
Anh ta không kịp che mặt, chỉ có thể nhắm chặt mắt, mặc cho cành cây làm xước da để lại từng vết máu.
“Chị ơi, đã đến phòng trang bị rồi.” Kèm với tiếng củi khô vang vọng, Tiểu Ji thấp giọng nhắc nhở, “Em đến những chỗ khác trong thôn trước, khi nào trời sắp sáng sẽ quay lại đón anh chị, nhớ canh thời gian nhé.”
Im Dong Kwon vùi mình trong đống củi khô, mặt đầy mù mờ.
Không được ngủ, cả ngày chỉ ăn mỗi hai miếng bánh bao, nguồn nước cũng là từ tuyết đọng ven đường… Vất vả lắm mới đến được mục tiêu, còn chưa nghỉ ngơi, chưa điều tra, chưa chuẩn bị gì cả mà đã ném người ta đến cửa phòng trang bị rồi, chuyện gì thế này?
Xe bò dần dần đi xa, trong tuyết truyền đến tiếng bước chân tập tễnh xa lạ.
Trên mặt đất bên cạnh có thứ gì đó bị kéo ra, cửa sắt rỉ sét va chạm vào trục bánh xe phát ra tiếng ồn rất chói tai, phá rách màn đêm yên ắng.
Cùng lúc đó, mùi mốc meo xộc thẳng vào mũi: nấm mốc quanh năm không thấy mặt trời, vại kim chi lên men mặn chát phủ đầy bụi bặm, mọi tạp vị trộn lẫn vào nhau, tạo ra thứ mùi đặc biệt của hầm trú ẩn.
Vì trên bán đảo Triều Tiên mùa đông rất dài, nên nếu hễ thiếu rau tươi thì các gia đình đều đào hầm trú ẩn, chuyên dùng để dự trữ kim chi.
Có điều Im Dong Kwon lại chẳng ngờ, phòng trang bị trong thôn kiều dân cũng có cơ sở thế này.
Một giây sau, anh ta cảm thấy đầu như bị đá một phát, tiếp theo là mông rồi cuối cùng là mắt cá nhân – bó củi dùng để ngụy trang lăn thẳng xuống dưới, tuy tốc độ chậm nhưng cách miệng hầm càng lúc càng gần.
Tiếng kêu cứu còn chưa kịp ra khỏi cổ họng thì anh ta đã rơi tự do xuống dưới, nhanh chóng lăn vào dưới sàn trong phòng trang bị.
Cành khô bị cơ thể đè gãy, mạt gỗ đâm vào da thịt; xương đập xuống bậc thang, khớp xương tứ chi lại mơ hồ nhói đau; vất vả lắm mới dừng lại, chẳng ngờ bị một bó củi khác sau lưng đập trúng, suýt nữa đã tắt thở.
Đỉnh đầu truyền đến tiếng khóa cửa sắt, tiếng bước chân tập tễnh kia lại dần xa, không còn nghe thấy bất cứ động tĩnh nào thêm.
“Giết người,” Im Dong Kwon khàn giọng kêu cứu, “Đè chết người rồi…”
Cởi sợi dây buộc ra, Sourin phủi bụi đất trên người rồi nhảy bật dậy, không khách khí đá vào anh ta: “Động tác nhanh nhẹn lên, thời gian rất eo hẹp.”
Gò má cô cũng đã bị nhánh cây làm xước, có mấy vết máu đậm nhạt khác nhau, tăng thêm mấy phần mỹ cảm ngỗ ngược. Trong bóng tối, chỉ có đôi mắt đen láy kia là lóe lên tia sáng hưng phấn.
Im Dong Kwon đã từng đến Châu Phi để xem cuộc di cư lớn, xem săn bắn thú ăn thịt, cũng từng nhìn thấy thứ ánh sáng tương tự như vậy trong mắt họ.
Trong hầm trú ẩn nhỏ hẹp, mấy chum tương to lớn được chất chồng lên nhau, vòng qua bàn ghế cũ nát ở góc tường có một cầu thang thông lên mặt đất. Sau lưng hai người là con đường trượt thẳng nối từ sân trước đến, thuận tiện cho việc vận chuyển nguyên liệu, bình thường cũng dùng để thu thập củi khô – chính là lăn thẳng từ trên xuống, tuy đã buộc chặt nhưng ít nhiều gì vẫn bị thiệt hại.
Cảm thấy trên mặt cay rát đau nhói, Im Dong Kwon hít một hơi lạnh, hai tay chống lên đầu gối miễn cưỡng đứng dậy: “Vừa nãy là ai thế? Dám dùng chân đá người… Nếu ở đây không có bố trí phòng ngự, vậy sao không để chúng ta đi cửa chính.”
Sourin cúi người nhặt củi khô về thành bó, chẳng buồn ngẩng đầu mà chỉ thấp giọng khiển trách: “Anh không cần biết anh ta là ai, chỉ cần có được trợ giúp hữu hiệu là được rồi. Kiều dân có tổ chức kháng chiến bí mật, dù có đoán được thân phận của nhau thì cũng không bao giờ chủ động xác nhận. Nếu không, bất cứ ai gặp chuyện thì đều ảnh hưởng đến toàn cục – đây cũng là một biện pháp đề phòng cách ly.”
Dù hiểu được đạo lý này, lúc tham gia tập huấn Cơ quan Tình báo cũng có nói sơ qua, song Im Dong Kwon chưa bao giờ đi sâu vào sân địch, càng không biết phải chu toàn với kẻ địch thế nào. Trong công việc của anh ta, gián điệp chỉ đơn giản là uống rượu, ăn cơm, lên giường, ra vào những nơi đắt đỏ, nghe ngóng được vài thông tin, rồi cứ định kỳ viết thành tài liệu đưa lên cấp trên, không có bất cứ nội dung kỹ thuật nào.
Cũng vì nguyên nhân đó, nên mật mã, chương trình và số liệu mới có giá trị tin tưởng.
So với lòng người khó dò, chí ít kết luận do máy thống kê còn khách quan chân thật hơn.
Và dường như giai cấp thống trị Triều Tiên cũng có chung cảm giác trước lần này.
Tuy hệ thống cứng ngắc và thiết bị lỗi thời, nhưng cả một hệ thống video này có thể thu thập hình ảnh phân lớp và chụp liên tục một số vị trí chính; gói nén tín hiệu vô tuyến được truyền ngay đến bộ xử lý trung tâm để phân tích tích hợp, không chỉ có thể tăng cường sự khác biệt thông qua so sánh, mà còn có thể giảm tổng số lượng vận toán.
Dù lúc giải mã có gặp chút chướng ngại, Im Dong Kwon vẫn thành công cấy Argus vào hệ thống theo dõi trong thôn kiều dân.
Toàn quá trình vừa căng thẳng lại hưng phấn, anh ta lần theo dấu vết đường truyền dữ liệu, kết nối với trung tâm thông tin mặt đất, mã hóa mặt nạ của hệ thống dự phòng rồi để lại tín hiệu uy hiếp, đảm bảo tất cả thần không biết quỷ không hay.
Cứ như vậy, chỉ cần có cơ hội lẻn vào mạng lưới Kwangmyong thì có thể lấy được tất cả tài liệu nội bộ, đi vòng qua máy chủ DNS và đăng tải chúng lên mạng lưới quốc tế.
Sau khi hoàn thành một loạt thao tsc này, Im Dong Kwon như trút được gánh nặng, cảm giác sau lưng thấm ướt mồ hôi lạnh, bất tri bất giác run lên.
Một tháng tiếp theo, bọn họ bôn ba trên đường núi gập gềnh, ngồi đủ phương tiện khó lòng tưởng nổi: máy cày, xe trượt tuyết, xe đạp… Từ mũi cực bắc của bán đảo Triều Tiên lại trăn trở đến bờ sông Đại Đồng, cuối cùng cũng tới trung tâm cai trị của Đảng Lao động – Bình Nhưỡng.
Tác giả :
Sable Tắc Bố Nhĩ