Thiên Tỏa
Chương 16
Tôi quay đầu lại, nhắm chặt mắt, đặt trán lên mu bàn tay, rồi dồn toàn bộ cơ thể đè lên mũi kim. Mọi thứ trước mắt tôi đột ngột trở nên tối om và vô cùng hỗn độn. Lúc này đây, tôi chợt nhớ đến ông nội, nhớ hồi nhỏ ông vẫn thường hay chải đầu tết tóc cho tôi, còn tôi ngồi trên chiếc ghế nhỏ, mắt vẫn dán chặt vào bộ phim hoạt hình yêu thích; nhớ những lần ông cốc yêu đầu tôi, nhớ những lần ông cháu cùng đi xem lễ hội hoa đăng ở Trường Xuân,… và cả những vết sẹo lồi lõm ngang dọc trong lòng bàn tay ông. Hồi đó, ông cũng phải chịu nỗi đau đớn cắt da cắt thịt này sao?
Nghĩ đến những ngày ông nội bị mất tích, tôi còn thấy lòng mình quặn đau hơn thế, nỗi đau tinh thần này khiến tôi dần quên đi nỗi đau về thể xác. Ông nội ơi, Lan Lan nhớ ông nội vô cùng.
Như được tiếp thêm sức mạnh, hai chân tôi trụ vững trên sàn, một lần nữa hai tay ấn xuống thật mạnh. Cách… cách… cách…cộp… cộp… cộp… Một tràng những âm thanh kỳ quặc vang lên, búi dây nối kia cuối cùng cũng bị tôi tháo rời. Cùng lúc đó, những sợi lò xo trong lõi khóa giãn ra, những sợi dây nối bốn mươi chín mảnh ghép kia cũng tự động thu về vị trí ban đầu, ổ khóa từ từ được mở ra.
Tôi rút mạnh tay về, chiếc kim móc theo đà rớt xuống đất, rồi quay sang ôm chặt lấy chị Giai Tuệ khóc nức nở. Tôi biết mình khóc không chỉ bởi nỗi đau thể xác, mà còn do từ lúc xuống đây tìm ông nội, tôi đã phải chịu đựng không biết bao nhiêu áp lực đè nặng lên vai, chúng cứ tích tụ cho đến bây giờ, khiến tôi không thể chịu đựng thêm được nữa nên đã òa khóc để giải tỏa nỗi lòng.
Chị Giai Tuệ dường như cũng hiểu cảm giác của tôi, chị ôm chặt tôi vào lòng, an ủi vỗ về đứa em bé bỏng, miệng liên tục dỗ dành.
- Lan Lan nín đi, ngoan nào, em đừng khóc nữa…p>
Lão Ngũ bước tới bên cạnh chúng tôi, cầm bàn tay tôi ngửa lên, cúi đầu nhìn vết thương giữa lòng bàn tay tôi rồi thở dài, nói:
- Khổ thân nhóc con quá, nhưng dù sao cũng chúc mừng mi đã đạt được cấp Địa… - Chưa kịp nói xong chữ “Kiện” thì bỗng nhiên lão reo ầm lên đầy ngạc nhiên, vỗ mạnh vào hai vai chúng tôi đầy hào hứng. - Nhìn kìa, cửa mở rồi!
Chúng tôi vội vàng quay sang nhìn về phía cánh cửa đá, nó đã tách đôi con rắn trên đó không một tiếng động, rồi từ từ kéo sang hai bên. Đường phân chia cánh cửa càng lúc càng rộng mở hơn, phía sau cánh cửa vẫn chỉ là một màu tối đen như mực, thế nhưng chúng tôi có thể cảm nhận thấy luồng khí ấm áp đang thổi tới.
Luồng khí nóng bay tới bắt gặp không khí lạnh trong hầm phát ra tiếng xèo xèo khe khẽ rất kì lạ, vừa giống tiếng đá viên thả vào chiếc chảo gang đang bị nung nóng, vừa giống tiếng của những kẻ điên dại đang gào thét, mỗi lúc một vang xa, khiến cho người ta cảm thấy vô cùng khó chịu.
Hai luồng khí nóng lạnh đột ngột gặp nhau, ngưng tụ thành một màn sương mờ ảo, rồi nhanh chóng hình thành những giọt nước lớn, giống như những viên trân châu trong suốt bay lơ lửng trên không. Cảnh tượng đó chỉ diễn ra trong nháy mắt, sau đó những giọt nước kia vội vã rơi xuống. Mặc dù luồng không khí trên không rất ấm áp, nhưng dưới mặt sàn vẫn lạnh căm căm, giọt nước chưa kịp chạm sàn đã đóng băng ngay lập tức, rồi vỡ tung bắn ra tứ phía. Cứ như thế, những giọt nước lớn nhỏ không ngừng được hình thành ở phía trên, rồi nối tiếp nhau rơi xuống đất, quy trình đó cứ lặp đi lặp lại liên hoàn.
Chứng kiến cảnh tượng vô cùng hiếm có này, tôi trợn tròn mắt nhìn như bị thôi miên, miệng há hốc đầy kinh ngạc, dường như nó đã làm tôi quên sạch mọi đau đớn trong lòng.
Thấy tôi cứ ngẩn mặt ra nhìn, Lão Ngũ quát ầm lên:
- Còn đần mặt ra đứng đấy làm gì, không nhanh chân đi thôi.
Không đợi tôi kịp phản ứng, lão đã cầm tay tôi, tay kia nắm lấy tay chị Giai Tuệ kéo đi. Khuôn mặt vẫn phủ trắng đầy những hạt băng li ti, lão nhanh chóng bước qua cánh cửa đá, tiến thẳng vào bên trong.
Đi qua cánh cửa đá một đoạn, không gian bên trong tứ phía tối đen, không thể nào nhìn thấy bất cứ thứ gì, thế nhưng bù lại nhiệt độ đã dần trở lại bình thường, luồng khí ấm không ngừng thổi tới từ bốn phương tám hướng, giống như bước vào căn phòng được lắp điều hòa vậy, xua tan cái lạnh cóng người, khiến tôi cảm thấy vô cùng dễ chịu. Nhưng chỉ một lúc sau, những giọt băng bám trên mặt, trên người chúng tôi bắt đầu tan chảy, nhỏ xuống làm ướt đẫm quần áo, đem lại cảm giác ẩm ướt rất khó chịu.
Tôi ngoảnh đầu nhìn lại phía sau, những giọt nước ngưng tụ lại giờ đã phủ kín không trung, đọng bên ngoài cánh cửa, giống như những sinh vật chuyển động liên tục và cố gắng bay vào trong này. Thế nhưng, chính tại cánh cửa đá - trung tâm gây ra hiện tượng ngưng tụ, những giọt nước đều bị đóng băng ngay lập tức rồi rào rào rơi xuống, phủ thành một lớp dày trên mặt đất. Chỉ có vài viên lăn được vào, nhưng ngay lập tức bị tan chảy thành nước và biến mất trong nháy mắt.
Quan sát một lúc, chị Giai Tuệ mới chậm rãi thở dài, rồi nói với vẻ tiếc nuối:
- Cánh cửa này cũng thật kỳ lạ, nhiệt độ bên trong và bên ngoài sao lại cách nhau một trời một vực như vậy nhỉ? - Chị quay sang nói với tôi. - Lan Lan, tay em thế nào rồi, để chị băng lại cho, không lại bị nhiễm trùng bây giờ.
Nghe chị nhắc tôi mới chợt nhớ ra, lòng bàn tay giật lên đau nhói. Tôi ngửa bàn tay phải lên xem, miệng vết thương giờ đã khô lại và đóng vẩy.
Tôi nhẹ nhàng xoa tay lên vết thương, đáp lời chị Giai Tuệ: - Giờ em vẫn chưa băng lại được, dù sao tay cũng đã khoan thành lỗ rồi, đành giữ lại, coi như chiến tích vậy.
Nói rồi, tôi cúi đầu xuống lôi từ trong balô ra một ống kim loại vừa ngắn vừa nhỏ nhưng rỗng lõi, ướm vào lòng bàn tay. Thấy kích thước có vẻ vừa vặn, tôi liền cắn chặt răng, lấy hết can đảm cậy miếng vẩy đóng ra. Miệng vết thương lập tức trào máu, men theo rìa bàn tay, nhỏ tí tách xuống sàn.
Chị Giai Tuệ hết sức ngỡ ngàng, vội vã nắm chặt cổ tay tôi, hốt hoảng hỏi tôi có chuyện gì.
Tôi cố nén đau, giải thích với chị:
- Nếu không làm thế thì một lúc nữa miệng vết thương sẽ liền lại, như vậy không phải mọi cố gắng của em đều trở nên vô nghĩa hay sao.
Lão Ngũ gật gù tán thành cách làm của tôi, lão kéo tay chị Giai Tuệ ra.
- Cứ mặc nó, muốn thành tài cần khổ luyện, chứ tài nghệ không phải tự dưng mà có.
Nghe lão nói vậy, chị Giai Tuệ cũng không ngăn cản tôi nữa, mà chỉ nhìn tôi đầy thương xót.
Tôi nghiến chặt răng, chọc chiếc ống kia vào tận bên trong xương khớp nối. Khi chiếc ống không thể vào sâu hơn được nữa, phần đuôi ống chìm ngang bề mặt lòng bàn tay, tôi gần như nín thở vì cơn đau lại ập đến. Tôi từ từ duỗi các ngón tay ra, vết thương không gây cản trở đến hoạt động của chúng.
Đến giờ tôi mới cảm thấy toàn thân nhức mỏi, cơ thể như bị xé ra thành nhiều mảnh, không còn chút sức lực nào. Tôi cố phều phào nói với Lão Ngũ và chị Giai Tuệ rằng muốn nghỉ ngơi một lúc. Chị Giai Tuệ vội vàng đỡ tôi ngồi xuống, để tôi dựa vào vai chợp mắt một lúc, còn chị thì vừa thổi vừa xoa dịu vết thương cho tôi.
Lão Ngũ ngồi khoanh chân bên cạnh, lão hỏi tôi tình hình lúc nãy, lúc thì nghe thấy tiếng động lạ, lúc thì lại khóc ầm lên, có phải đấy là sự trả giá khi đạt đến cấp Địa Kiện, đau đớn tới mức hoang tưởng chăng?
Tôi cũng đang hoài nghi chính bản thân mình, nên đã kể lại tường tận toàn bộ sự tình cùng như cảm giác của tôi, về những điều thần kỳ khi đạt được cấp Địa Kiện cho hai người nghe, về những vết sẹo chằng chịt trên lòng bàn tay của ông nội, chúng thậm chí còn sâu hơn, đau đớn hơn tôi gấp ngàn lần. Vô tình nhắc tới ông nội, trong lòng tôi buồn tê tái, rồi lại nghĩ đến con nhộng chúa đã chết, nước mắt tôi lại không cầm được, cứ thế tuôn trào.
Chị Giai Tuệ thấy vậy liền vỗ về an ủi tôi, còn Lão Ngũ thì hắng giọng dạy bảo. - Lớn to đầu rồi mà hơi tí nước mắt nước mũi lại giàn giụa. Từ lúc nãy đến giờ mỗi có một tí thôi mà đã khóc đến mấy lần, làm ông nội mi mất mặt quá đi, chẳng giống con gái nhà họ Sở gì cả.
Thấy lão nói đúng, tôi vội lấy tay quệt nước mắt, trong bụng thầm nghĩ nhất định không được để ông nội xấu hổ vì sự mềm yếu của mình. Thế nhưng, những lời nói của lão lại khiến tôi có chút băn khoăn, lão vừa nói tôi không giống con gái nhà họ Sở, vậy lẽ nào trước đây lão đã từng gặp cô gái nhà họ Sở nào rồi?
Tôi đang định hỏi lại thì Giai Tuệ đã lên tiếng bênh vực, đại để là Lan Lan vẫn còn nhỏ, khóc một tí có làm sao, rồi chị quay sang hỏi tôi về lịch sử loại khóa ghép vừa rồi để không khí bớt căng thẳng.
Câu hỏi đánh lạc hướng của chị khiến tôi quên mất những thắc mắc vừa xong, hào hứng quay sang kể cho hai người nghe điển tích về loại khóa ghép. Tôi nhớ ông nội đã từng kể rằng, loại khóa này bắt nguồn từ thế cờ Hoa Dung Đạo. Thế cờ này dựa trên tích truyện Tam quốc diễn nghĩa, đoạn Quan Vân Trường thả Tào Tháo tại Hoa Dung Đạo, đó là một bàn cờ gồm hai mươi quân cờ nhỏ và vuông vắn, tượng trưng cho trận địa tại Hoa Dung Đạo. Phía cuối bàn cờ có một lối thoát với hai cạnh vuông dài, được gọi là đường tháo chạy của Tào Tháo. Trên bàn cờ có bày tổng cộng mười quân cờ, lần lượt đại diện cho Tào Tháo, Trương Phi, Triệu Vân, Mã Siêu, Hoàng Trung và Quan Vũ, còn lại là bốn quân tốt. Luật chơi là, mỗi bước đi phải cách hai ô cờ, dùng số bước đi ít nhất để lùi quân Tào Tháo ra khỏi bàn cờ. Đến cuối thời Tam Quốc, một người chế tạo khóa cao tay đã dựa vào luật chơi của ván cờ này để cải biến rồi chế tạo ra loại khóa ghép này. Chiếc khóa được lắp đặt trên thân con rắn không hề có ô cách, nó thuộc dạng khóa ghép toàn bộ, tức là phải ghép hết những miếng ghép vào đúng vị trí mới có thể mở được, đây vốn được coi là loại rất khó nhằn.
Chị Giai Tuệ gật gù tán thưởng tài nghệ cao siêu của những người thợ làm khóa ngày xưa vì biết tận dung cục diện trận chiến vào trong một chiếc khóa. Ông nội đã từng kể cho tôi biết, khóa ghép được phân thành rất nhiều dạng khác nhau như ghép toàn bộ, ghép đơn, ghép cách… Trong số đó, có một loại mà chỉ cấp Thiên Kiện mới có thể giải được, nhưng ông nhất định không cho tôi biết.
Lão Ngũ ngồi yên lặng nãy giờ, bỗng cất tiếng giục chúng tôi:
- Hai đứa đừng có huyên thuyên nữa. Ở phía bên này có gì đó lạ lắm, hai đứa mau lại đây xem này.
Tôi ngỡ ngàng một lúc rồi đứng dậy lảo đảo đi về phía lão. Chị Giai Tuệ chật vật dìu tôi bước tới.
- Lão Ngũ, có chuyện gì thế? - Chị vừa hỏi vừa đưa tay giữ chắc khẩu súng đang gài ở thắt lưng.
Lão Ngũ thở hắt ra rồi đảo mắt sang tứ phía, sau đó lão lên tiếng với giọng rất nghiêm trọng:
- Hai đứa lại đây mà xem, căn hầm này hình như không có đường biên.
Không có đường biên? Câu nói của lão không đầu không cuối khiến tôi nghe xong hết sức hoang mang, không hiểu lão muốn nói đến cái gì. Tôi nghiêng đầu sang nhìn khắp một lượt, nhưng trong này tối om om, hình như cũng chẳng có gì đặc biệt.
Chị Giai Tuệ cũng nhìn quanh ngó dọc một hồi rồi cũng kêu lên đầy ngạc nhiên:
- Đúng thế, đúng là không có đường biên thật, ba mặt đều không thấy tường đâu, không biết nó rộng đến cỡ nào đây.
Những lời cảm khái của chị Giai Tuệ khiến tôi phần nào lờ mờ hiểu ra vấn đề. Nhìn kỹ hơn, tôi mới phát hiện ra căn hầm phía trước mặt lớn hơn tất cả những địa đạo trước đó không biết bao nhiêu lần, tôi chỉ có thể nhìn thấy rõ ba người chúng tôi, còn phần còn lại đều bị bao trùm bởi một màu đen kịt, nên không thể ước lượng được nó sâu rộng cỡ nào.
Độ rộng của căn hầm này khiến tôi không thể nào tưởng tượng nổi, chiếc gương Dạ Minh của Lão Ngũ nếu như chỉnh góc độ hợp lí thì có thể nhìn thấy mọi vật trong vòng bán kính vài chục mét cơ mà, vậy tại sao sau cánh cửa đá kia lại không có đến một bức tường? Tôi vội vàng hỏi Lão Ngũ liệu chúng tôi có phải lại rơi vào một cửa ải khác hay không.
Lão Ngũ nhếch miệng cười nhạt, chậm rãi thốt lên:
- Hay đấy! - Rồi lão chỉnh lại góc độ chiếu sáng của chiếc gương Dạ Minh thêm vài lần nữa, lia ánh sáng lên phía trên đầu ngửa cổ quan sát.
Một quầng sáng xanh tụ lại tạo thành chiếc bóng tròn rất lớn, phá vỡ bóng đên dày đặc đang bao trùm phía trên đầu chúng tôi. Thế nhưng, cho dù tôi có cố sức nheo mắt quan sát thế nào cũng không thể nhìn thấy bóng dáng nóc hầm hay đường biên hai bên.
Cảnh tượng này khiến tôi sởn da gà, trên những đoạn hầm chúng tôi đi qua chỗ rộng nhất cũng không quá mười mét, kể cả dòng kênh với những cột trụ kia cũng chỉ rộng khoảng một trăm ba mươi tám mét, vậy tại sao khi vào tới trong này, không gian bỗng nhiên lại trở nên kì vĩ đến mức mơ hồ như thế?
Cả hai chị em tôi đều sững sờ không nói năng gì, Lão Ngũ chỉnh chiếc gương hướng lên phía trên một lần nữa rồi nói:
- Không chỉ có thế thôi đâu, hai đứa nhìn lên trên này xem, mẹ kiếp! Không thấy nóc đâu cả!
Tôi lập tức ngẩng đầu theo lời lão nói, phía trên đỉnh đầu vẫn là một màu đen u ám, với những luồng khí mù mịt chậm chạp bốc lên, giống như những đám mây dày kéo đến trước lúc trời giông bão, hạn chế tầm nhìn của chúng tôi.
Lão Ngũ nhăn mặt, mồm há hốc, mắt vẫn nhìn thẳng lên phía trên, hai tay không ngừng điều chỉnh góc chiếu sáng của chiếc gương Dạ Minh, để chùm ánh sáng xanh được tỏa rộng hơn. Nhưng cho dù có chiếu tới góc độ nào đi chăng nữa thì chúng tôi cũng không thể nào nhìn thấy dấu vết của đường biên.
Tôi ngẩn ngơ nhìn sang bốn phía xung quanh, nhịp tim đập mỗi lúc một nhanh, cảm thấy như từ bốn phương tám hướng có hàng nghìn đôi mắt đang nhìn tôi chằm chằm.
- Hay đấy! Hay đấy! - Lão Ngũ gật gù, mồm lẩm bẩm, tay không ngừng đưa tay lên quệt mồ hôi đang đầm đìa trên mặt.
- Chết rồi… - Chị Giai Tuệ bỗng hét lên đầy hoảng hốt. - Mọi người có cảm thấy nhiệt độ mỗi lúc một nóng hơn không?
Tôi ngớ người ra, đưa tay lên lau mặt, rồi nhìn sang hai người họ, lập tức bừng tỉnh. Đúng thế, không biết từ lúc nào mặt chúng tôi đều đã ướt đẫm mồ hôi, toàn thân nóng bừng bừng, cũng không biết từ lúc nào, nhiệt độ trong hầm đã tăng lên nhanh chóng.́t bay cát chuyển và lũ hắc ưng
Lão Ngũ đưa tay lên lau những giọt mồ hôi bám trên chòm râu, rồi lão bắt đầu khởi động chân tay, trông bộ dạng giống hệt như tên hề xiếc. Cho dù trông lão rất ngộ nghĩnh nhưng tôi không dám cười thành tiếng mà chỉ cố nghiến chặt răng nhịn cười.
Lão xoay xoay đầu, đưa tay lên tháo chiếc cúc áo trên cùng, để lộ ra những xương sườn nhô hẳn ra ngoài lồng ngực hom hem, rồi chậm rãi giảng giải:
- Cửa ải cuối cùng của Tam Linh môn có lẽ sẽ là Hắc Ưng môn. Chúng ta đã vượt qua được hai cửa Hắc cẩu và Hắc xà, giờ chắc là lúc phải ứng phó với hắc ưng rồi. Hai cửa ải vừa xong đã khó khăn vô cùng, xem ra cửa ải này sẽ càng khôn lường hơn. Bản thân ta cũng không thể tiên liệu được nó sẽ khó khăn đến mức nào.
Nói xong, lão nhíu mày, đưa mắt nhìn ra bốn phía xung quanh, nói với vẻ dè chừng:
- Người ta vẫn thường nói hắc khuyển trên cạn, hắc xà dưới nước, hắc ưng trên không, nếu theo quy luật này thì chỉ lát nữa thôi, những con chim ưng đó từ phía trên kia sẽ sà xuống. Không gian ở đây rộng lớn như vậy, chắc là để chúng có thể thoải mái vẫy vùng.
Nghe đến đoạn những con chim ưng sẽ bay từ trên xuống, tôi vội vàng giơ balô lên che chắn, chỉ sợ chúng bỗng nhiên từ trên sà xuống mổ vào đầu thật.
Chị Giai Tuệ kéo tôi lại gần, ôm chặt lấy vai tôi, rồi hỏi Lão Ngũ:
- Lão Ngũ, chỗ này quá rộng lớn, nhất định phải có định hướng rõ ràng, nếu không rất dễ bị lạc đấy.
Lão Ngũ gật gật đầu, rồi ngồi sụp xuống, dùng chiếc gương Dạ Minh soi xuống phía dưới chân, đưa tay lần sờ từng vị trí một, kế đó lão ngẩng đầu lên nói với chúng tôi:
- Hai đứa hãy men theo đường khe giữa mấy tảng đá lót này mà đi, cố gắng đi đúng đường, nếu chệch sẽ rắc rối to đấy.
Tôi nhìn theo hướng tay lão chỉ, mặt sàn trong hầm đều được lát bằng những phiến đá lớn với bốn cạnh vuông vức ghép lại với nhau, nếu cứ men theo một đường khe tiến về phía trước, chỉ cần không đi chệch hướng thì tôi nghĩ chắc cũng sẽ đến được đầu bên kia.
Sau khi dàn xếp ổn thỏa, Lão Ngũ cầm gương Dạ Minh dẫn đầu đi thẳng về phía trước, chị Giai Tuệ đi sau cùng còn tôi thì ở giữa. Ba người chúng tôi lần lượt nắm gấu áo của người đi trước, dò dẫm từng bước chân theo đúng khe lát trên sàn đá, từ từ tiến vào bóng đen mênh mông phía trước.
Càng tiến lên, tôi càng cảm thấy nóng không thể chịu nổi, luồng gió oi nồng liên tục thổi tới từ khắp tứ phía giống như trong lồng hấp khổng lồ, khiến cho mồm miệng tôi khô rát, còn mắt mũi thì cay xè đau nhức đến mức không thể nào mở ra được. Những giọt mồ hôi trên cơ thể vừa túa ra lập tức bốc hơi mất, từng lớp từng lớp một, cứ như thế cả cơ thể tôi trong nháy mắt đã bị phủ đầy lớp muối trắng. Lão Ngũ vốn đen sạm giờ phủ đầy những hạt muối trắng li ti, nền đen hoa trắng, trông lão giống hệt con ngựa vằn.
Đi được một lúc, chị Giai Tuệ mở balô lấy ra ba chai nước đưa cho chúng tôi. Tôi uống ừng ực một hơi hết nửa chai, nửa chai còn lại thì tưới lên hai cánh tay, lên mặt. Hơi nước nhanh chóng bốc lên, mang đến cảm giác mát mẻ dễ chịu trong giây lát.
Lão Ngũ vừa bước về phía trước vừa lẩm bẩm trong miệng:
- Luồng khí lạnh lúc nãy là dải khí Đống Thổ thổi xuyên qua lòng đất ba tỉnh Đông Bắc đấy. Điều này thì cũng không có gì ngạc nhiên, nhưng thực sự ta chưa nghe thấy mấy thứ nham thạch trong lòng đất hay đại loại thế bao giờ. Thêm nữa, ta cảm thấy sức nóng này tỏa ra từ lòng đất, giống như nhiệt của xăng dầu, hay nham thạch núi lửa gì đó. Mẹ kiếp! Không phải là đám cẩu Thanh đã tìm ra mỏ dầu ở dưới này đấy chứ? Hay đấy, hay đấy!
Chị Giai Tuệ mệt mỏi đưa tay lên lau mồ hôi, rồi nói:
- Lão Ngũ, ý của lão là, phía dưới này có một mỏ dầu? Theo như cháu biết, một vài mỏ dầu thường phun trào theo chu kì nhất định, phải chăng những người thợ tu sửa hồi đó đã dẫn dầu xuống địa cung?
Lão Ngũ gật đầu, nói thêm:
- Năm 1960, đó cũng là lúc đất nước rơi vào tình trạng đói kém đến cực điểm, ta và sư phụ cùng một vài sư thúc khác đói đến phát điên, nên đã quyết định mò tới mỏ dầu Karamay để kiếm chác, đồ ăn cắp được đem về đổi lấy cháo loãng ăn tạm qua ngày. Trong một lăng mộ của tên vua nào đó cũng được thiết kế y như thế này. Mẹ nó chứ! Lăng được xây trên miệng núi lửa ở giữa sa mạc, vào đó là coi như trụi lông trụi tóc. Ha ha, mẹ kiếp! Nếu thoát ra khỏi đây được, không khéo chúng ta lại trở thành những người có công phát hiện ra mỏ dầu lớn cho quốc gia đấy chứ. Hay đấy, hay đấy!
Tôi nghe lão nói một hồi mà chả hiểu gì cả, đành phải hỏi lại:
- Cái gì mà mỏ xăng với chả mỏ dầu thế, cái đấy ở đây ạ?
Lão Ngũ bĩu môi:
- Nói linh tinh gì đấy, ta đang nói đến mỏ dầu Karamay thuộc Tân Cương cơ mà, nơi ấy cách chúng ta rất xa.
Tôi gật gù, bụng nghĩ thầm Lão Ngũ chắc chắn là đã được đi đến rất nhiều nơi.
Chúng tôi lặng lẽ tiến về phía trước khoảng hơn nửa tiếng, nhưng vẫn không hề nhìn thấy bất kỳ một đường biên nào. Bước đi trong khoảng tối mênh mông khiến cả ba đều cảm thấy chút hoang mang, lại còn thêm nhiệt độ trong căn hầm tăng cao tới mức khó có thể chịu đựng nổi, môi của ai nấy đều khô khốc, tróc vảy, trên người gần như đã cởi hết những đồ có thể cởi, thế nhưng cơ thể vẫn đầm đìa mồ hôi như tắm.
Tôi cũng không ngượng ngùng gì nữa, cởi hết áo khoác ngoài ra buộc quanh eo, trên người chỉ còn độc chiếc áo lót. Dù sao cũng đang trong bóng tối, hơn nữa Lão Ngũ cũng đã lớn tuổi như thế rồi, nên tôi cũng chẳng ngại ngần gì.
Chúng tôi lê từng bước nặng nề, cả ba đều gần như ở trần, chậm chạp bước từng bước vào chiếc lồng hấp tối đen như mực, đi mãi không đến bờ bên kia. Trên đường đi, do đã bị mất nhiều máu cộng thêm thời tiết quá nóng khiến tôi không ngừng xin nước uống. Chị Giai Tuệ đưa cho tôi chai nước của chị, và dặn tôi nên tiết kiệm một chút, nếu không chỗ nước trong balô sẽ nhanh chóng bị tôi uống sạch.
Biết là như thế, nhưng cổ họng tôi khô rát như lửa đốt, mồ hôi vừa túa ra đã lập tức bốc hơi bay mất, cả người như một miếng củ cải khô, nhăn nheo và khô ráp. Tôi đưa tay sờ lên người, làn da sần sùi đầy hạt li ti, đó là vết tích của mồ hôi sau khi bốc hơi đọng lại những hạt muối, giống như cơ thể bị bao phủ bởi một lớp vảy khô.
Qua ánh sáng của chiếc gương Dạ Minh, khuôn mặt của Lão Ngũ và chị Giai Tuệ cũng phủ đầy những vệt muối ngang dọc màu trắng, trông hết sức buồn cười. Lúc này, đến một người hài hước hay trêu đùa như Lão Ngũ cũng trở nên ủ rũ, lặng lẽ cầm gương Dạ Minh lê bước về phía trước, không còn luôn miệng nói “ hay đấy, hay đấy” như trước nữa.
Do nhiệt độ tăng cao, cộng thêm không khí khô rát trong hầm, khiến cho vết thương trong lòng bàn tay tôi nhanh chóng liền lại, giờ nó không đau buốt nữa mà chỉ còn hơi tê tê. Tôi thử dùng mũi kim móc chọc vào ống sắt, rồi lấy ngón tay búng lên đó vài cái, cảm giác nó đã khô cứng lại, nên tôi nghĩ có lẽ đã giữ được vết sẹo đó mãi mãi.p>
Vân vê một lúc, trong đầu tôi lại nhớ đến ông nội. Từ khi xuống địa cung, tôi đã vượt qua rất nhiều cửa ải khó khăn, nhưng không hề tìm thấy dấu vết gì của ông để lại, nhất định con đường mà ông nội đi không phải con đường mà chúng tôi đã trải qua. Không biết giờ này ông đang phiêu bạt đến đâu, cảm giác không biết ông đang sống chết ra sao khiến tôi đau đớn vô cùng. Tôi chỉ biết thầm gọi trong câm lặng: Ông ơi, giờ này ông đang ở đâu?
Đang trong lúc vô vọng vì không tìm được dấu vết của ông nội, tôi còn thêm một nỗi niềm khác khiến lòng rối như tơ vò, bàn tay tôi giờ đã có một lỗ sẹo, vậy sau này có nên tiếp tục nâng cao kỹ thuật Địa Kiện nữa không? Trở thành một cao thủ cấp Địa Kiện, hay thậm chí là Thiên Kiện. Có lẽ trong thời gian ở dưới địa cung, tôi đã trải nghiệm được không ít những khó khăn, và quan trọng hơn tôi đã đạt được cấp Địa Kiện, trong lòng tôi bỗng nhen nhóm một động lực để khám phá thế giới dưới lòng Cố Cung.
Nghĩ đến những ngày ông nội bị mất tích, tôi còn thấy lòng mình quặn đau hơn thế, nỗi đau tinh thần này khiến tôi dần quên đi nỗi đau về thể xác. Ông nội ơi, Lan Lan nhớ ông nội vô cùng.
Như được tiếp thêm sức mạnh, hai chân tôi trụ vững trên sàn, một lần nữa hai tay ấn xuống thật mạnh. Cách… cách… cách…cộp… cộp… cộp… Một tràng những âm thanh kỳ quặc vang lên, búi dây nối kia cuối cùng cũng bị tôi tháo rời. Cùng lúc đó, những sợi lò xo trong lõi khóa giãn ra, những sợi dây nối bốn mươi chín mảnh ghép kia cũng tự động thu về vị trí ban đầu, ổ khóa từ từ được mở ra.
Tôi rút mạnh tay về, chiếc kim móc theo đà rớt xuống đất, rồi quay sang ôm chặt lấy chị Giai Tuệ khóc nức nở. Tôi biết mình khóc không chỉ bởi nỗi đau thể xác, mà còn do từ lúc xuống đây tìm ông nội, tôi đã phải chịu đựng không biết bao nhiêu áp lực đè nặng lên vai, chúng cứ tích tụ cho đến bây giờ, khiến tôi không thể chịu đựng thêm được nữa nên đã òa khóc để giải tỏa nỗi lòng.
Chị Giai Tuệ dường như cũng hiểu cảm giác của tôi, chị ôm chặt tôi vào lòng, an ủi vỗ về đứa em bé bỏng, miệng liên tục dỗ dành.
- Lan Lan nín đi, ngoan nào, em đừng khóc nữa…p>
Lão Ngũ bước tới bên cạnh chúng tôi, cầm bàn tay tôi ngửa lên, cúi đầu nhìn vết thương giữa lòng bàn tay tôi rồi thở dài, nói:
- Khổ thân nhóc con quá, nhưng dù sao cũng chúc mừng mi đã đạt được cấp Địa… - Chưa kịp nói xong chữ “Kiện” thì bỗng nhiên lão reo ầm lên đầy ngạc nhiên, vỗ mạnh vào hai vai chúng tôi đầy hào hứng. - Nhìn kìa, cửa mở rồi!
Chúng tôi vội vàng quay sang nhìn về phía cánh cửa đá, nó đã tách đôi con rắn trên đó không một tiếng động, rồi từ từ kéo sang hai bên. Đường phân chia cánh cửa càng lúc càng rộng mở hơn, phía sau cánh cửa vẫn chỉ là một màu tối đen như mực, thế nhưng chúng tôi có thể cảm nhận thấy luồng khí ấm áp đang thổi tới.
Luồng khí nóng bay tới bắt gặp không khí lạnh trong hầm phát ra tiếng xèo xèo khe khẽ rất kì lạ, vừa giống tiếng đá viên thả vào chiếc chảo gang đang bị nung nóng, vừa giống tiếng của những kẻ điên dại đang gào thét, mỗi lúc một vang xa, khiến cho người ta cảm thấy vô cùng khó chịu.
Hai luồng khí nóng lạnh đột ngột gặp nhau, ngưng tụ thành một màn sương mờ ảo, rồi nhanh chóng hình thành những giọt nước lớn, giống như những viên trân châu trong suốt bay lơ lửng trên không. Cảnh tượng đó chỉ diễn ra trong nháy mắt, sau đó những giọt nước kia vội vã rơi xuống. Mặc dù luồng không khí trên không rất ấm áp, nhưng dưới mặt sàn vẫn lạnh căm căm, giọt nước chưa kịp chạm sàn đã đóng băng ngay lập tức, rồi vỡ tung bắn ra tứ phía. Cứ như thế, những giọt nước lớn nhỏ không ngừng được hình thành ở phía trên, rồi nối tiếp nhau rơi xuống đất, quy trình đó cứ lặp đi lặp lại liên hoàn.
Chứng kiến cảnh tượng vô cùng hiếm có này, tôi trợn tròn mắt nhìn như bị thôi miên, miệng há hốc đầy kinh ngạc, dường như nó đã làm tôi quên sạch mọi đau đớn trong lòng.
Thấy tôi cứ ngẩn mặt ra nhìn, Lão Ngũ quát ầm lên:
- Còn đần mặt ra đứng đấy làm gì, không nhanh chân đi thôi.
Không đợi tôi kịp phản ứng, lão đã cầm tay tôi, tay kia nắm lấy tay chị Giai Tuệ kéo đi. Khuôn mặt vẫn phủ trắng đầy những hạt băng li ti, lão nhanh chóng bước qua cánh cửa đá, tiến thẳng vào bên trong.
Đi qua cánh cửa đá một đoạn, không gian bên trong tứ phía tối đen, không thể nào nhìn thấy bất cứ thứ gì, thế nhưng bù lại nhiệt độ đã dần trở lại bình thường, luồng khí ấm không ngừng thổi tới từ bốn phương tám hướng, giống như bước vào căn phòng được lắp điều hòa vậy, xua tan cái lạnh cóng người, khiến tôi cảm thấy vô cùng dễ chịu. Nhưng chỉ một lúc sau, những giọt băng bám trên mặt, trên người chúng tôi bắt đầu tan chảy, nhỏ xuống làm ướt đẫm quần áo, đem lại cảm giác ẩm ướt rất khó chịu.
Tôi ngoảnh đầu nhìn lại phía sau, những giọt nước ngưng tụ lại giờ đã phủ kín không trung, đọng bên ngoài cánh cửa, giống như những sinh vật chuyển động liên tục và cố gắng bay vào trong này. Thế nhưng, chính tại cánh cửa đá - trung tâm gây ra hiện tượng ngưng tụ, những giọt nước đều bị đóng băng ngay lập tức rồi rào rào rơi xuống, phủ thành một lớp dày trên mặt đất. Chỉ có vài viên lăn được vào, nhưng ngay lập tức bị tan chảy thành nước và biến mất trong nháy mắt.
Quan sát một lúc, chị Giai Tuệ mới chậm rãi thở dài, rồi nói với vẻ tiếc nuối:
- Cánh cửa này cũng thật kỳ lạ, nhiệt độ bên trong và bên ngoài sao lại cách nhau một trời một vực như vậy nhỉ? - Chị quay sang nói với tôi. - Lan Lan, tay em thế nào rồi, để chị băng lại cho, không lại bị nhiễm trùng bây giờ.
Nghe chị nhắc tôi mới chợt nhớ ra, lòng bàn tay giật lên đau nhói. Tôi ngửa bàn tay phải lên xem, miệng vết thương giờ đã khô lại và đóng vẩy.
Tôi nhẹ nhàng xoa tay lên vết thương, đáp lời chị Giai Tuệ: - Giờ em vẫn chưa băng lại được, dù sao tay cũng đã khoan thành lỗ rồi, đành giữ lại, coi như chiến tích vậy.
Nói rồi, tôi cúi đầu xuống lôi từ trong balô ra một ống kim loại vừa ngắn vừa nhỏ nhưng rỗng lõi, ướm vào lòng bàn tay. Thấy kích thước có vẻ vừa vặn, tôi liền cắn chặt răng, lấy hết can đảm cậy miếng vẩy đóng ra. Miệng vết thương lập tức trào máu, men theo rìa bàn tay, nhỏ tí tách xuống sàn.
Chị Giai Tuệ hết sức ngỡ ngàng, vội vã nắm chặt cổ tay tôi, hốt hoảng hỏi tôi có chuyện gì.
Tôi cố nén đau, giải thích với chị:
- Nếu không làm thế thì một lúc nữa miệng vết thương sẽ liền lại, như vậy không phải mọi cố gắng của em đều trở nên vô nghĩa hay sao.
Lão Ngũ gật gù tán thành cách làm của tôi, lão kéo tay chị Giai Tuệ ra.
- Cứ mặc nó, muốn thành tài cần khổ luyện, chứ tài nghệ không phải tự dưng mà có.
Nghe lão nói vậy, chị Giai Tuệ cũng không ngăn cản tôi nữa, mà chỉ nhìn tôi đầy thương xót.
Tôi nghiến chặt răng, chọc chiếc ống kia vào tận bên trong xương khớp nối. Khi chiếc ống không thể vào sâu hơn được nữa, phần đuôi ống chìm ngang bề mặt lòng bàn tay, tôi gần như nín thở vì cơn đau lại ập đến. Tôi từ từ duỗi các ngón tay ra, vết thương không gây cản trở đến hoạt động của chúng.
Đến giờ tôi mới cảm thấy toàn thân nhức mỏi, cơ thể như bị xé ra thành nhiều mảnh, không còn chút sức lực nào. Tôi cố phều phào nói với Lão Ngũ và chị Giai Tuệ rằng muốn nghỉ ngơi một lúc. Chị Giai Tuệ vội vàng đỡ tôi ngồi xuống, để tôi dựa vào vai chợp mắt một lúc, còn chị thì vừa thổi vừa xoa dịu vết thương cho tôi.
Lão Ngũ ngồi khoanh chân bên cạnh, lão hỏi tôi tình hình lúc nãy, lúc thì nghe thấy tiếng động lạ, lúc thì lại khóc ầm lên, có phải đấy là sự trả giá khi đạt đến cấp Địa Kiện, đau đớn tới mức hoang tưởng chăng?
Tôi cũng đang hoài nghi chính bản thân mình, nên đã kể lại tường tận toàn bộ sự tình cùng như cảm giác của tôi, về những điều thần kỳ khi đạt được cấp Địa Kiện cho hai người nghe, về những vết sẹo chằng chịt trên lòng bàn tay của ông nội, chúng thậm chí còn sâu hơn, đau đớn hơn tôi gấp ngàn lần. Vô tình nhắc tới ông nội, trong lòng tôi buồn tê tái, rồi lại nghĩ đến con nhộng chúa đã chết, nước mắt tôi lại không cầm được, cứ thế tuôn trào.
Chị Giai Tuệ thấy vậy liền vỗ về an ủi tôi, còn Lão Ngũ thì hắng giọng dạy bảo. - Lớn to đầu rồi mà hơi tí nước mắt nước mũi lại giàn giụa. Từ lúc nãy đến giờ mỗi có một tí thôi mà đã khóc đến mấy lần, làm ông nội mi mất mặt quá đi, chẳng giống con gái nhà họ Sở gì cả.
Thấy lão nói đúng, tôi vội lấy tay quệt nước mắt, trong bụng thầm nghĩ nhất định không được để ông nội xấu hổ vì sự mềm yếu của mình. Thế nhưng, những lời nói của lão lại khiến tôi có chút băn khoăn, lão vừa nói tôi không giống con gái nhà họ Sở, vậy lẽ nào trước đây lão đã từng gặp cô gái nhà họ Sở nào rồi?
Tôi đang định hỏi lại thì Giai Tuệ đã lên tiếng bênh vực, đại để là Lan Lan vẫn còn nhỏ, khóc một tí có làm sao, rồi chị quay sang hỏi tôi về lịch sử loại khóa ghép vừa rồi để không khí bớt căng thẳng.
Câu hỏi đánh lạc hướng của chị khiến tôi quên mất những thắc mắc vừa xong, hào hứng quay sang kể cho hai người nghe điển tích về loại khóa ghép. Tôi nhớ ông nội đã từng kể rằng, loại khóa này bắt nguồn từ thế cờ Hoa Dung Đạo. Thế cờ này dựa trên tích truyện Tam quốc diễn nghĩa, đoạn Quan Vân Trường thả Tào Tháo tại Hoa Dung Đạo, đó là một bàn cờ gồm hai mươi quân cờ nhỏ và vuông vắn, tượng trưng cho trận địa tại Hoa Dung Đạo. Phía cuối bàn cờ có một lối thoát với hai cạnh vuông dài, được gọi là đường tháo chạy của Tào Tháo. Trên bàn cờ có bày tổng cộng mười quân cờ, lần lượt đại diện cho Tào Tháo, Trương Phi, Triệu Vân, Mã Siêu, Hoàng Trung và Quan Vũ, còn lại là bốn quân tốt. Luật chơi là, mỗi bước đi phải cách hai ô cờ, dùng số bước đi ít nhất để lùi quân Tào Tháo ra khỏi bàn cờ. Đến cuối thời Tam Quốc, một người chế tạo khóa cao tay đã dựa vào luật chơi của ván cờ này để cải biến rồi chế tạo ra loại khóa ghép này. Chiếc khóa được lắp đặt trên thân con rắn không hề có ô cách, nó thuộc dạng khóa ghép toàn bộ, tức là phải ghép hết những miếng ghép vào đúng vị trí mới có thể mở được, đây vốn được coi là loại rất khó nhằn.
Chị Giai Tuệ gật gù tán thưởng tài nghệ cao siêu của những người thợ làm khóa ngày xưa vì biết tận dung cục diện trận chiến vào trong một chiếc khóa. Ông nội đã từng kể cho tôi biết, khóa ghép được phân thành rất nhiều dạng khác nhau như ghép toàn bộ, ghép đơn, ghép cách… Trong số đó, có một loại mà chỉ cấp Thiên Kiện mới có thể giải được, nhưng ông nhất định không cho tôi biết.
Lão Ngũ ngồi yên lặng nãy giờ, bỗng cất tiếng giục chúng tôi:
- Hai đứa đừng có huyên thuyên nữa. Ở phía bên này có gì đó lạ lắm, hai đứa mau lại đây xem này.
Tôi ngỡ ngàng một lúc rồi đứng dậy lảo đảo đi về phía lão. Chị Giai Tuệ chật vật dìu tôi bước tới.
- Lão Ngũ, có chuyện gì thế? - Chị vừa hỏi vừa đưa tay giữ chắc khẩu súng đang gài ở thắt lưng.
Lão Ngũ thở hắt ra rồi đảo mắt sang tứ phía, sau đó lão lên tiếng với giọng rất nghiêm trọng:
- Hai đứa lại đây mà xem, căn hầm này hình như không có đường biên.
Không có đường biên? Câu nói của lão không đầu không cuối khiến tôi nghe xong hết sức hoang mang, không hiểu lão muốn nói đến cái gì. Tôi nghiêng đầu sang nhìn khắp một lượt, nhưng trong này tối om om, hình như cũng chẳng có gì đặc biệt.
Chị Giai Tuệ cũng nhìn quanh ngó dọc một hồi rồi cũng kêu lên đầy ngạc nhiên:
- Đúng thế, đúng là không có đường biên thật, ba mặt đều không thấy tường đâu, không biết nó rộng đến cỡ nào đây.
Những lời cảm khái của chị Giai Tuệ khiến tôi phần nào lờ mờ hiểu ra vấn đề. Nhìn kỹ hơn, tôi mới phát hiện ra căn hầm phía trước mặt lớn hơn tất cả những địa đạo trước đó không biết bao nhiêu lần, tôi chỉ có thể nhìn thấy rõ ba người chúng tôi, còn phần còn lại đều bị bao trùm bởi một màu đen kịt, nên không thể ước lượng được nó sâu rộng cỡ nào.
Độ rộng của căn hầm này khiến tôi không thể nào tưởng tượng nổi, chiếc gương Dạ Minh của Lão Ngũ nếu như chỉnh góc độ hợp lí thì có thể nhìn thấy mọi vật trong vòng bán kính vài chục mét cơ mà, vậy tại sao sau cánh cửa đá kia lại không có đến một bức tường? Tôi vội vàng hỏi Lão Ngũ liệu chúng tôi có phải lại rơi vào một cửa ải khác hay không.
Lão Ngũ nhếch miệng cười nhạt, chậm rãi thốt lên:
- Hay đấy! - Rồi lão chỉnh lại góc độ chiếu sáng của chiếc gương Dạ Minh thêm vài lần nữa, lia ánh sáng lên phía trên đầu ngửa cổ quan sát.
Một quầng sáng xanh tụ lại tạo thành chiếc bóng tròn rất lớn, phá vỡ bóng đên dày đặc đang bao trùm phía trên đầu chúng tôi. Thế nhưng, cho dù tôi có cố sức nheo mắt quan sát thế nào cũng không thể nhìn thấy bóng dáng nóc hầm hay đường biên hai bên.
Cảnh tượng này khiến tôi sởn da gà, trên những đoạn hầm chúng tôi đi qua chỗ rộng nhất cũng không quá mười mét, kể cả dòng kênh với những cột trụ kia cũng chỉ rộng khoảng một trăm ba mươi tám mét, vậy tại sao khi vào tới trong này, không gian bỗng nhiên lại trở nên kì vĩ đến mức mơ hồ như thế?
Cả hai chị em tôi đều sững sờ không nói năng gì, Lão Ngũ chỉnh chiếc gương hướng lên phía trên một lần nữa rồi nói:
- Không chỉ có thế thôi đâu, hai đứa nhìn lên trên này xem, mẹ kiếp! Không thấy nóc đâu cả!
Tôi lập tức ngẩng đầu theo lời lão nói, phía trên đỉnh đầu vẫn là một màu đen u ám, với những luồng khí mù mịt chậm chạp bốc lên, giống như những đám mây dày kéo đến trước lúc trời giông bão, hạn chế tầm nhìn của chúng tôi.
Lão Ngũ nhăn mặt, mồm há hốc, mắt vẫn nhìn thẳng lên phía trên, hai tay không ngừng điều chỉnh góc chiếu sáng của chiếc gương Dạ Minh, để chùm ánh sáng xanh được tỏa rộng hơn. Nhưng cho dù có chiếu tới góc độ nào đi chăng nữa thì chúng tôi cũng không thể nào nhìn thấy dấu vết của đường biên.
Tôi ngẩn ngơ nhìn sang bốn phía xung quanh, nhịp tim đập mỗi lúc một nhanh, cảm thấy như từ bốn phương tám hướng có hàng nghìn đôi mắt đang nhìn tôi chằm chằm.
- Hay đấy! Hay đấy! - Lão Ngũ gật gù, mồm lẩm bẩm, tay không ngừng đưa tay lên quệt mồ hôi đang đầm đìa trên mặt.
- Chết rồi… - Chị Giai Tuệ bỗng hét lên đầy hoảng hốt. - Mọi người có cảm thấy nhiệt độ mỗi lúc một nóng hơn không?
Tôi ngớ người ra, đưa tay lên lau mặt, rồi nhìn sang hai người họ, lập tức bừng tỉnh. Đúng thế, không biết từ lúc nào mặt chúng tôi đều đã ướt đẫm mồ hôi, toàn thân nóng bừng bừng, cũng không biết từ lúc nào, nhiệt độ trong hầm đã tăng lên nhanh chóng.́t bay cát chuyển và lũ hắc ưng
Lão Ngũ đưa tay lên lau những giọt mồ hôi bám trên chòm râu, rồi lão bắt đầu khởi động chân tay, trông bộ dạng giống hệt như tên hề xiếc. Cho dù trông lão rất ngộ nghĩnh nhưng tôi không dám cười thành tiếng mà chỉ cố nghiến chặt răng nhịn cười.
Lão xoay xoay đầu, đưa tay lên tháo chiếc cúc áo trên cùng, để lộ ra những xương sườn nhô hẳn ra ngoài lồng ngực hom hem, rồi chậm rãi giảng giải:
- Cửa ải cuối cùng của Tam Linh môn có lẽ sẽ là Hắc Ưng môn. Chúng ta đã vượt qua được hai cửa Hắc cẩu và Hắc xà, giờ chắc là lúc phải ứng phó với hắc ưng rồi. Hai cửa ải vừa xong đã khó khăn vô cùng, xem ra cửa ải này sẽ càng khôn lường hơn. Bản thân ta cũng không thể tiên liệu được nó sẽ khó khăn đến mức nào.
Nói xong, lão nhíu mày, đưa mắt nhìn ra bốn phía xung quanh, nói với vẻ dè chừng:
- Người ta vẫn thường nói hắc khuyển trên cạn, hắc xà dưới nước, hắc ưng trên không, nếu theo quy luật này thì chỉ lát nữa thôi, những con chim ưng đó từ phía trên kia sẽ sà xuống. Không gian ở đây rộng lớn như vậy, chắc là để chúng có thể thoải mái vẫy vùng.
Nghe đến đoạn những con chim ưng sẽ bay từ trên xuống, tôi vội vàng giơ balô lên che chắn, chỉ sợ chúng bỗng nhiên từ trên sà xuống mổ vào đầu thật.
Chị Giai Tuệ kéo tôi lại gần, ôm chặt lấy vai tôi, rồi hỏi Lão Ngũ:
- Lão Ngũ, chỗ này quá rộng lớn, nhất định phải có định hướng rõ ràng, nếu không rất dễ bị lạc đấy.
Lão Ngũ gật gật đầu, rồi ngồi sụp xuống, dùng chiếc gương Dạ Minh soi xuống phía dưới chân, đưa tay lần sờ từng vị trí một, kế đó lão ngẩng đầu lên nói với chúng tôi:
- Hai đứa hãy men theo đường khe giữa mấy tảng đá lót này mà đi, cố gắng đi đúng đường, nếu chệch sẽ rắc rối to đấy.
Tôi nhìn theo hướng tay lão chỉ, mặt sàn trong hầm đều được lát bằng những phiến đá lớn với bốn cạnh vuông vức ghép lại với nhau, nếu cứ men theo một đường khe tiến về phía trước, chỉ cần không đi chệch hướng thì tôi nghĩ chắc cũng sẽ đến được đầu bên kia.
Sau khi dàn xếp ổn thỏa, Lão Ngũ cầm gương Dạ Minh dẫn đầu đi thẳng về phía trước, chị Giai Tuệ đi sau cùng còn tôi thì ở giữa. Ba người chúng tôi lần lượt nắm gấu áo của người đi trước, dò dẫm từng bước chân theo đúng khe lát trên sàn đá, từ từ tiến vào bóng đen mênh mông phía trước.
Càng tiến lên, tôi càng cảm thấy nóng không thể chịu nổi, luồng gió oi nồng liên tục thổi tới từ khắp tứ phía giống như trong lồng hấp khổng lồ, khiến cho mồm miệng tôi khô rát, còn mắt mũi thì cay xè đau nhức đến mức không thể nào mở ra được. Những giọt mồ hôi trên cơ thể vừa túa ra lập tức bốc hơi mất, từng lớp từng lớp một, cứ như thế cả cơ thể tôi trong nháy mắt đã bị phủ đầy lớp muối trắng. Lão Ngũ vốn đen sạm giờ phủ đầy những hạt muối trắng li ti, nền đen hoa trắng, trông lão giống hệt con ngựa vằn.
Đi được một lúc, chị Giai Tuệ mở balô lấy ra ba chai nước đưa cho chúng tôi. Tôi uống ừng ực một hơi hết nửa chai, nửa chai còn lại thì tưới lên hai cánh tay, lên mặt. Hơi nước nhanh chóng bốc lên, mang đến cảm giác mát mẻ dễ chịu trong giây lát.
Lão Ngũ vừa bước về phía trước vừa lẩm bẩm trong miệng:
- Luồng khí lạnh lúc nãy là dải khí Đống Thổ thổi xuyên qua lòng đất ba tỉnh Đông Bắc đấy. Điều này thì cũng không có gì ngạc nhiên, nhưng thực sự ta chưa nghe thấy mấy thứ nham thạch trong lòng đất hay đại loại thế bao giờ. Thêm nữa, ta cảm thấy sức nóng này tỏa ra từ lòng đất, giống như nhiệt của xăng dầu, hay nham thạch núi lửa gì đó. Mẹ kiếp! Không phải là đám cẩu Thanh đã tìm ra mỏ dầu ở dưới này đấy chứ? Hay đấy, hay đấy!
Chị Giai Tuệ mệt mỏi đưa tay lên lau mồ hôi, rồi nói:
- Lão Ngũ, ý của lão là, phía dưới này có một mỏ dầu? Theo như cháu biết, một vài mỏ dầu thường phun trào theo chu kì nhất định, phải chăng những người thợ tu sửa hồi đó đã dẫn dầu xuống địa cung?
Lão Ngũ gật đầu, nói thêm:
- Năm 1960, đó cũng là lúc đất nước rơi vào tình trạng đói kém đến cực điểm, ta và sư phụ cùng một vài sư thúc khác đói đến phát điên, nên đã quyết định mò tới mỏ dầu Karamay để kiếm chác, đồ ăn cắp được đem về đổi lấy cháo loãng ăn tạm qua ngày. Trong một lăng mộ của tên vua nào đó cũng được thiết kế y như thế này. Mẹ nó chứ! Lăng được xây trên miệng núi lửa ở giữa sa mạc, vào đó là coi như trụi lông trụi tóc. Ha ha, mẹ kiếp! Nếu thoát ra khỏi đây được, không khéo chúng ta lại trở thành những người có công phát hiện ra mỏ dầu lớn cho quốc gia đấy chứ. Hay đấy, hay đấy!
Tôi nghe lão nói một hồi mà chả hiểu gì cả, đành phải hỏi lại:
- Cái gì mà mỏ xăng với chả mỏ dầu thế, cái đấy ở đây ạ?
Lão Ngũ bĩu môi:
- Nói linh tinh gì đấy, ta đang nói đến mỏ dầu Karamay thuộc Tân Cương cơ mà, nơi ấy cách chúng ta rất xa.
Tôi gật gù, bụng nghĩ thầm Lão Ngũ chắc chắn là đã được đi đến rất nhiều nơi.
Chúng tôi lặng lẽ tiến về phía trước khoảng hơn nửa tiếng, nhưng vẫn không hề nhìn thấy bất kỳ một đường biên nào. Bước đi trong khoảng tối mênh mông khiến cả ba đều cảm thấy chút hoang mang, lại còn thêm nhiệt độ trong căn hầm tăng cao tới mức khó có thể chịu đựng nổi, môi của ai nấy đều khô khốc, tróc vảy, trên người gần như đã cởi hết những đồ có thể cởi, thế nhưng cơ thể vẫn đầm đìa mồ hôi như tắm.
Tôi cũng không ngượng ngùng gì nữa, cởi hết áo khoác ngoài ra buộc quanh eo, trên người chỉ còn độc chiếc áo lót. Dù sao cũng đang trong bóng tối, hơn nữa Lão Ngũ cũng đã lớn tuổi như thế rồi, nên tôi cũng chẳng ngại ngần gì.
Chúng tôi lê từng bước nặng nề, cả ba đều gần như ở trần, chậm chạp bước từng bước vào chiếc lồng hấp tối đen như mực, đi mãi không đến bờ bên kia. Trên đường đi, do đã bị mất nhiều máu cộng thêm thời tiết quá nóng khiến tôi không ngừng xin nước uống. Chị Giai Tuệ đưa cho tôi chai nước của chị, và dặn tôi nên tiết kiệm một chút, nếu không chỗ nước trong balô sẽ nhanh chóng bị tôi uống sạch.
Biết là như thế, nhưng cổ họng tôi khô rát như lửa đốt, mồ hôi vừa túa ra đã lập tức bốc hơi bay mất, cả người như một miếng củ cải khô, nhăn nheo và khô ráp. Tôi đưa tay sờ lên người, làn da sần sùi đầy hạt li ti, đó là vết tích của mồ hôi sau khi bốc hơi đọng lại những hạt muối, giống như cơ thể bị bao phủ bởi một lớp vảy khô.
Qua ánh sáng của chiếc gương Dạ Minh, khuôn mặt của Lão Ngũ và chị Giai Tuệ cũng phủ đầy những vệt muối ngang dọc màu trắng, trông hết sức buồn cười. Lúc này, đến một người hài hước hay trêu đùa như Lão Ngũ cũng trở nên ủ rũ, lặng lẽ cầm gương Dạ Minh lê bước về phía trước, không còn luôn miệng nói “ hay đấy, hay đấy” như trước nữa.
Do nhiệt độ tăng cao, cộng thêm không khí khô rát trong hầm, khiến cho vết thương trong lòng bàn tay tôi nhanh chóng liền lại, giờ nó không đau buốt nữa mà chỉ còn hơi tê tê. Tôi thử dùng mũi kim móc chọc vào ống sắt, rồi lấy ngón tay búng lên đó vài cái, cảm giác nó đã khô cứng lại, nên tôi nghĩ có lẽ đã giữ được vết sẹo đó mãi mãi.p>
Vân vê một lúc, trong đầu tôi lại nhớ đến ông nội. Từ khi xuống địa cung, tôi đã vượt qua rất nhiều cửa ải khó khăn, nhưng không hề tìm thấy dấu vết gì của ông để lại, nhất định con đường mà ông nội đi không phải con đường mà chúng tôi đã trải qua. Không biết giờ này ông đang phiêu bạt đến đâu, cảm giác không biết ông đang sống chết ra sao khiến tôi đau đớn vô cùng. Tôi chỉ biết thầm gọi trong câm lặng: Ông ơi, giờ này ông đang ở đâu?
Đang trong lúc vô vọng vì không tìm được dấu vết của ông nội, tôi còn thêm một nỗi niềm khác khiến lòng rối như tơ vò, bàn tay tôi giờ đã có một lỗ sẹo, vậy sau này có nên tiếp tục nâng cao kỹ thuật Địa Kiện nữa không? Trở thành một cao thủ cấp Địa Kiện, hay thậm chí là Thiên Kiện. Có lẽ trong thời gian ở dưới địa cung, tôi đã trải nghiệm được không ít những khó khăn, và quan trọng hơn tôi đã đạt được cấp Địa Kiện, trong lòng tôi bỗng nhen nhóm một động lực để khám phá thế giới dưới lòng Cố Cung.
Tác giả :
Tang Thượng