Thi Quan Kinh Niên
Chương 29: Phong ma (thượng)
Edit: Yunchan
Chuyện kể khi nhóm Kinh Niên đi băng qua trấn Thổ Diêu, ven đường chỉ thấy rổ sọt rơi rớt tán loạn, mũ nón ngổn ngang, có lẽ những lữ khách và thương buôn đổ lên kinh đã bỏ chạy tan tác từ lâu, ngay cả thôn làng trong trấn cũng không ngó thấy nửa bóng người.
Ra khỏi trấn Thổ Diêu xuôi về phía Nam là gặp một ngã ba, ở cửa ngõ gió thổi mù mịt, cát bay thốc qua từng cơn. Kinh Niên dừng chân quan sát, rồi quay đầu nói với Lô Hoài Nhâm: “Xem ra Điện Hạ dẫn theo một nhóm rất đông đi ngang qua đường này.”
Nói rồi giơ ngang cánh tay khua khoắng từ trái sang phải.
Lô Hoài Nhâm đảo mắt theo hướng ngón tay cô, thấy trên đường hằn rất nhiều dấu vó ngựa, gió cuốn từng lớp cát bụi phủ lên dấu vết, khiến nó như đang trôi nổi trên mặt đất. Hắn nhìn về phía ánh đỏ mơ hồ phát ra từ hoàng thành, trong lòng lo lắng: “Chúng ta đi nhanh thôi, công tử đó đâu phải người giỏi đánh nhau, coi chừng chưa đánh được ai đã bị người ta đánh!”
Kinh Niên trái lại không quá lo lắng, gần đây biên giới Tây cảnh chiến tranh liên miên, trước đó không lâu bộ binh đã triệu tập thêm hai đoàn mã binh tới biên giới chi viện, binh lực chủ yếu dùng để chinh phạt bên ngoài, phòng thủ trong thành thì tương đối mỏng manh, cho thấy nếu như không nắm chắc thì sao dám tùy tiện dấy binh tạo phản?
Huống hồ phía sau Điện hạ không chỉ có mỗi một Hiền Thừa Tướng, số thế lực núp trong bóng tối sợ rằng tới chính Điện Hạ cũng không ngờ tới.
Kinh Niên lơ đãng nghĩ tới Huyền Ảnh, vài đoạn hồi ức chợt hiện lên, trong lòng quả thực lấy làm lạ. Chưa kể tới hai tên yêu nghiệt Nguyên Thiên Sư và Hình Thiên làm mưa làm gió, chỉ nói tới chuyện Điện Hạ đã làm tới nước tạo phản, tại sao chưa thấy đảng phái ngầm bảo vệ hoàng thất kia ra mặt hộ giá?
Nhưng thấy Lô Hoài Nhâm cứ rướn cổ ngó tới trước, trong lòng biết hắn sốt ruột như vậy không riêng vì Điện Hạ, cô không nghĩ thêm mấy thứ vô bổ nữa, mở miệng nói: “Sớm hay muộn cũng…” Nói tới giữa chừng thì đột nhiên im bặt, ngoảnh mặt nhìn về phía Đông.
Lô Hoài Nhâm nhìn theo ánh mắt cô, còn chưa nhìn ra đầu mối gì thì đã nghe Kinh Niên thì thầm: “Có người tới.”
Lô Hoài Nhâm vểnh thẳng lỗ tai, quả nhiên nghe thấy tiếng vó ngựa dồn dập vọng tới, từ xa tới gần, tiếng động ngày một vang dội. Chưa đầy nửa khắc, từ xa xa đã trông thấy một người giục ngựa chạy tới như điên, dưới bầu trời nhuộm màu đỏ rực, mặc dù cự ly khá xa, nhưng vẫn có thể nhìn rõ được mặt mày, chính là người từng bị thương nặng trước đây, Gia Cát Thủ.
Kinh Niên thấy hắn cưỡi trên lưng ngựa, cơ thể chao đảo dữ dội, cứ như có thể bị hất ngã khỏi ngựa bất cứ lúc nào, nhủ thầm: Bây giờ mới qua vài ngày, tiểu đạo gia còn trúng cả nội lẫn ngoại thương, không dưỡng từ nửa năm tới một năm thì đâu lành nổi? Bây giờ còn dám liều mạng phi nước đại, rõ là gan.
Nghĩ rồi chân tự giác bước lên, Lô Hoài Nhâm và Thi Ngũ gia bám theo phía sau, cùng lên đón.
Lúc này, Gia Cát Thủ cũng nhìn thấy bọn họ, trên mặt lộ vẻ vui mừng, thúc ngựa chạy tới gần, đột nhiên thân thể lệch đi, hai tay tuột khỏi dây cương, mắt thấy sẽ trượt xuống lưng ngựa.
Kinh Niên giẫm mạnh một chân xuống đất, nhảy phốc lên đầu ngựa, duỗi tay chộp tới, kẹp Gia Cát Thủ ở sườn, sau đó xoay nửa vòng, đầu ngón chân điểm lên yên ngựa rồi đáp xuống đất nhẹ tênh, con ngựa kia chạy tới thêm mấy trượng nữa mới chậm rãi dừng vó.
Kinh Niên đặt Gia Cát Thủ xuống đất, ngón tay điểm vào huyệt định tâm trên ngực trái hắn, rồi áp chưởng dùng nội lực giúp hắn điều tức, sau đó dìu hắn ngồi xuống đất, cười nói: “Đạo gia, ngài làm cho Kinh Niên khiếp vía, không chịu dưỡng thương lại đi nghịch ngựa điên à?”
Gia Cát Thủ kéo ống tay áo lau mồ hôi trên trán, liếc xéo cô, thở hồng hộc nói: “Lúc nào rồi mà cô còn có tâm trạng trêu ta.” Sau đó mắt vô tình ngó thấy Thi Ngũ gia đứng ở sau lưng cô, sững lại một lúc, lẩm bẩm nói: “Cướp về rồi sao?”
Hắn cảm thấy Thi Ngũ gia nhìn không thích hợp lắm, nhưng lòng có chuyện phải lo nên không suy nghĩ sâu thêm, chỉ nói với Kinh Niên: “Điện Hạ khốn kiếp dám gọi người của cha ta vào triều tạo phản!!”
Hóa ra hôm ấy Huyền Ảnh nói tới phủ Thừa tướng cầu viện không chỉ đơn giản là đưa hắn về dưỡng thương, mà những hiền thần cáo lão hồi hương cũng chẳng phải đơn giản là cáo lão, ngoài mặt thì nói là lật đổ sủng thần, kỳ thật là thế lực bên ngoài do Điện Hạ âm thầm bồi dưỡng, vậy mà người làm con như Gia Cát Thủ chưa từng nghe lão nhân gia mách cho nửa chữ.
Trước đó không lâu, Gia Cát Thủ còn nghĩ nếu một mai rơi vào tình thế bất đắc dĩ, thì sẽ đoạn tuyệt quan hệ để tránh cho người nhà bị liên lụy. Hiền thần cố ý che giấu tâm tư thật sự, qua lại thăm dò, sao hắn không biết đạo lý đó? Có điều, biết thì biết, hiểu thì hiểu, nhưng vẫn khó tránh khỏi bực bội.
Lô Hoài Nhâm là người phiêu bạt giang hồ, hoàn toàn không có khái niệm gì về mấy chuyện tranh giành quyền thế này, khi nghe Gia Cát Thủ tung ra một câu không đầu không đuôi thì cũng chỉ nghe ra Thái tử Điện Hạ kéo binh tạo phản. Nhưng Kinh Niên thì hiểu rõ, tuy cô tự nhủ không đếm xỉa tới thị phi trong cung, nhưng người sống quá lâu nên chuyện bát quái cũng nghe đầy lỗ tai, vả lại trước đó không lâu cô còn ở trong triều một bận, có chuyện xưa nào mà chưa nghe đâu?
Điện Hạ âm thầm chiêu binh mãi mã, chính là vì đối địch với thế lực ủng hộ Si Diên làm Thái tử với Nguyên Thiên Sư dẫn đầu. Dù thuận lợi kế thừa ngôi vị hoàng đế, nhưng vị trí này có thể ngồi ổn sao? Cơ sở ngầm của kẻ địch rải khắp trong cung, nếu như bên cạnh không có một nhóm thân tín, thì bị soán vị chỉ là chuyện sớm muộn.
Chưa kể Hiền Thừa tướng, tính tình ngay thẳng phóng khoáng, chẳng những trọng tình trọng nghĩa, mà lòng còn ôm chí lớn, lo nước thương dân, Hoàng đế già cỗi hồ đồ mặc cho yêu nghiệt làm bậy, Hiền Thừa tướng không ra mặt trái lại còn lui về sống ngoài cung, quả là chuyện hết sức kỳ lạ, ấy không phải để nội ứng ngoại hợp với Điện Hạ thì còn gì?
Đương nhiên, bản thân Kinh Niên chẳng lo lắng gì cái chuyện tạp nham soán ngôi hay không soán ngôi này. Nhớ năm đó chính cô cũng vì bất cẩn để lộ tướng mạo, nên bị bè phái bảo vệ hoàng thất coi là thế lực uy hiếp hoàng quyền, sút một sút ra khỏi cửa cung. Đám người cũ rích cổ hủ đó chỉ biết mỗi quy củ trên hoàng sách, nói gì mà chỉ có đứa con do hoàng hậu sinh ra mới có thể kế thừa vương vị, dù cho là một kẻ ngốc cũng phải khoác hoàng bào, ngồi vào hoàng ỷ tới chết mới thôi.
Thế nên hoàng vị của Điện Hạ đừng hòng ai cướp nổi, cho dù một ngày đẹp trời nào đó hắn làm hoàng đế làm tới phát ngấy muốn nhường ngôi, thì mấy lão già lập dị đó cũng không dễ thả người.
Tất nhiên Kinh Niên sẽ không nói cho người ngoài nghe việc này, cô cũng cố ý muốn nhìn thử xem rốt cuộc tới nước nào mới có thể bức được dòng nước ngầm bên dưới lòng đất đó trào lên mặt đất.
Nghĩ tới đây, Kinh niên khẽ hừ một tiếng, quay đầu thấy Gia Cát Thủ đang trừng trừng hai mắt, trong con ngươi bừng bừng hai ngọn lửa, không khỏi trêu: “Đạo gia, ngài coi ngài dỗi tới nỗi mặt chả còn giọt máu nào kìa, thiếu máu à ~ thở đều nào, giữ sức nào ~”
Giờ phút này Gia Cát Thủ chẳng còn lòng dạ đâu để đấu võ mồm với cô, chỉ níu ống tay áo Kinh Niên, la lên: “Cha ta đi chung với Điện Hạ, mấy ngày trước ông ấy vừa mới đổ bệnh nặng, ta sợ ông ấy không chịu nổi…”
Nói tới đây bỗng thấy chỗ bị thương đau nhói, vội vàng đưa tay ấn lên.
Kinh Niên nhủ bụng thật đúng là chuẩn tướng con trai của cha, không việc gì chỉ chuyên phô trương, song trong thời khắc mấu chốt này cô cũng không muốn khua môi múa mép với hắn nữa, nói thẳng: “Ngài tới hay không cũng chả liên quan gì tới chuyện ông ấy có chịu nổi không, bây giờ ta tới đó phụ tạo phản, ngài về nhà nghỉ cho khỏe đi.”
Lúc Kinh Niên nói câu này cố ý bỏ thêm vào cái giọng ghét bỏ, ý muốn kêu hắn nhìn cho rõ khả năng của bản thân. Gia Cát Thủ cũng tự hiểu lấy, biết hiện giờ tay không thể nâng, vai không thể xách, chường mặt tới chỉ tổ thêm gánh nặng. Chẳng qua, đã dốc hết sức chín trâu hai hổ lê thân tới tận đây, nói cỡ nào cũng muốn thấy lão già nhà mình bình an thì mới cam tâm.
Nhưng với tình trạng sức khỏe của hắn hiện tại, yêu cầu Kinh Niên dẫn hắn vào cung chắc chắn sẽ bị chối phăng. Thế là hắn lặng thinh một hồi, rồi khàn khàn nói: “Nói cũng phải, thân thể bần đạo thế này… sẽ không liên lụy các người.”
Dứt lời kề tay lên mép huýt một tiếng dài.
Con ngựa còn đang ung dung đảo quanh tại chỗ, vừa nghe thấy tiếng huýt sáo này thì lập tức nhấc móng hí dài, “cộp cộp cộp” bước chậm tới bên cạnh Gia Cát Thủ.
Lô Hoài Nhâm thấy hắn bám vào yên ngựa đứng dậy, coi bộ rất ráng sức, không khỏi lắm mồm: “Ta thấy ngươi yếu lắm rồi đó, bị ngựa thồ tới thồ lui không sao chứ?”
Gia Cát Thủ lườm hắn, vốn không muốn nói chuyện, nhưng thấy Kinh Niên khoanh tay trước ngực, nhìn mình như cười như không, lòng bỗng dưng đổ vỡ, lật đật dứt mắt nhìn xuống móng ngựa, lí nhí nói: “Được rồi… ta dắt ngựa tới trước cổng thôn mướn xe ngựa quay về…”
Cái dáng chột dạ này ngay cả Lô Hoài Nhâm thần kinh thô cũng sinh nghi. Trong quãng thời gian Kinh Niên và hắn đồng hành, ít nhiều cũng đoán ra được tính khí của tiểu đạo này, chỉ nghe cô cười ha hả, cảm thán: “Ta nói nè đạo gia, ngài nói trái lòng quá đi, định dùng chiêu đối phó này để bơi tới bơi lui à.”
Nghĩ bằng đầu gối cũng biết hắn ngoan ngoãn thế này căn bản là tính bằng mặt không bằng lòng, len lén bám theo sau họ để trà trộn vào cung.
Gia Cát Thủ nghệt người, nhìn bộ mặt ranh ma của cô là biết mình bị bắt thóp, bỗng dưng xấu hổ lúng túng, vốn định dẫn ngựa rồi nói tạm biệt, giờ lại thành ra đi không được mà ở cũng không xong, chỉ còn biết làm cái cọc gỗ thộn ra tại chỗ.
Kinh Niên biết da mặt hắn mỏng, không đùa dai nữa, ngước mắt nhìn mây đỏ trên trời tụ lại càng lúc càng dầy, nhăn mày, rồi dời tầm nhìn về lại Gia Cát Thủ, hà hơi một cái, buồn bực nói: “Dắt ngài đi xem chút đỉnh thì không thành vấn đề, nhưng binh nhiều người loạn, chúng ta cũng chẳng cách nào phân thân quan tâm ngài, hay là ngài cứ đứng chờ ở ngoài cổng thành, ta vào tìm cha ngài rồi một gậy đánh xỉu, sau đó vác ra ngoài cho ngài, hai cha con ngài cứ ở ngoài hóng mát thoải mái!”
Tuy câu này của Kinh Niên nghe không lọt tai, nhưng lại đánh trúng vào tim đen của Gia Cát Thủ, vả lại nói gì mà một gậy đánh xỉu, cũng không thể nào làm người ta bị thương được. Thành ra hắn cũng không so đo kiểu nói chuyện bông lơn của cô, gật đầu nói: “Được, bần đạo nghe lời cô.”
Kinh Niên và Lô Hoài Nhâm liếc mắt nhìn nhau, chỉ thấy Lô Hoài Nhâm gãi gãi ót hết cách, đi tới xách bổng Gia Cát Thủ lên, chưa đợi Gia Cát Thủ kịp phản ứng thì người đã ngồi vững trên ngựa, Lô Hoài Nhâm từ đằng sau vòng tay tới trước kéo dây cương, nhẹ nhàng run lên, hai chân dùng sức kẹp lại, hô một tiếng, con ngựa đã thả vó phi nhanh tới hoàng thành.
Đợi hai người một ngựa lao đi chỉ còn một chấm nhỏ, Kinh Niên và Thi Ngũ gia mới song song vọt lên từ mặt đất, đuổi theo cái chấm nhỏ kia.
Lô Hoài Nhâm và Gia Cát Thủ giục ngựa đi tới, Kinh Niên và Thi Ngũ gia theo sát phía sau, chạy thêm trăm dặm, dọc đường đi xác người xác ngựa chồng chất, giáo tàn đao gãy chổng chơ đầy đất, xem ra còn chưa vào cung đã chém giết rồi.
Khi tới Bắc môn hoàng thành, chỉ thấy cổng thành mở toang, một cái guồng mở thành đổ lệch vào cạnh cửa, trên thi thể binh tướng cắm chi chít mũi tên rực lửa, thảm cỏ trên đất bị cháy rụi nám đen, còn bốc lên khói đặc nghi ngút.
Kinh Niên để ý thấy tử binh ngoài thành đều mặc cùng một loại áo giáp mũ xanh đồng sắc đồng kiểu, giống hệt phục trang của hộ vệ trong cung. Cứ theo lẽ thường mà suy, hai quân giao chiến, luôn dùng trang phục đối lập để phân biệt địch ta. Điện Hạ để quân mình và quân địch mặc cùng một kiểu giáp, chẳng phải là muốn xáo trộn tầm nhìn của quân địch sao. Mà chiêu này cũng là con dao hai lưỡi, dù có thể đảm bảo địch rối ta không rối, nhưng suy cho cũng vẫn khó càng thêm khó. Nếu Điện Hạ không phải cực kỳ nắm chắc thì chính là ôm tâm thế liều mạng lấy loạn khắc loạn.
Kinh Niên quan sát mặt trận xong, quay đầu lại ra hiệu Lô Hoài Nhâm dìu Gia Cát Thủ xuống ngựa, rồi chỉ vào một cây đại thủ ở khúc quanh tường thành nói: “Đạo gia, ngài tới đó nghỉ một lát đi, nhớ phải dắt ngựa theo, tuy nói bây giờ chiến trường đã dời vào bên trong, nhưng khó bảo đảm không xảy ra sai sót, nếu có chuyện thì phải nhanh chóng lên ngựa chạy càng xa càng tốt.”
Gia Cát Thủ trợn tròn hai mắt nhìn cô chòng chọc, miệng giật giật, lại ngoảnh đầu qua Lô Hoài Nhâm, nặn ra hai chữ: “Các ngươi”, sau đó không nói tiếp nổi.
Kinh Niên thấy vành mắt hắn đỏ lên, lòng dạ cũng mềm nhũn theo, lên tiếng dỗ ngọt: “Được rồi, đừng lo lắng cho bọn ta.”
Gia Cát Thủ cụp mắt xuống gật đầu, cảm thấy giờ này nói gì cũng là dư thừa, nhưng vẫn giơ tay lên vỗ vỗ vai Kinh Niên, rồi quay qua Lô Hoài Nhâm ôm quyền thi lễ: “Bảo trọng!”
Dứt lời xoay người kéo cương ngựa.
Lô Hoài Nhâm xít lại gần Kinh Niên rù rì: “Tiểu đạo sĩ hôm nay uống lộn thuốc hả?”
Kinh niên vừa quay gót đi vào trong thành vừa quay đầu cười nói móc: “Là thần kinh của đại ca bị rẽ nhánh thì có.”
Lô Hoài Nhâm cười hô hố, sải nhanh mấy bước theo sau cô, vừa vào đại môn bước lên bậc cổng, đột nhiên nghe thấy một tiếng nổ cực lớn, một quả pháo lửa bắn thẳng về phía chân trời như sao sa, tiếng trống giục giã dội tới liên hồi. Không lâu sau, trông thấy trên đài cao phía sau tường cung xa xa dựng lên một đại kỳ đuôi Phượng, trên mép cờ treo một vật hình tròn, lắc lư qua lại theo đà bay phấp phới của lá cờ vải.
Kinh Niên cố nhìn thật kỹ, phát hiện thứ đó chính là một cái đầu người, có điều mái tóc bạc rối tung trước mặt nên không thấy rõ tướng mạo, nhưng đã có thể treo đầu thị chúng, thì nhất định là người có thân phận địa vị. Trong lúc cô còn đang bàng hoàng, chợt nghe sau lưng vang lên một tiếng thét to: “CHA!!”
Tim Kinh Niên giật thót, quay đầu nhìn lại, thấy Gia Cát Thủ đang ngẩng đầu trợn mắt, đôi môi mở hé, sắc mặt trắng bệch, một tay bấu chặt lên ngực, tay còn lại ghì lấy dây cương, siết thật chặc.
Lô Hoài Nhâm nhìn hắn một lát, rồi ngước lên nhìn cái đầu người đang treo bên trên. Ánh mắt đảo qua lại mấy lần, ơ a cả buổi mà không nói được một câu hoàn chỉnh.
Kinh Niên phiêu bạt bên ngoài quanh năm, nghe dân chúng bàn tán đủ chuyện, khi nói tới chuyện nhà thì chưa bao giờ để sót Hiền Thừa tướng, mỗi lần nhắc tới đều khen không dứt lời, hơn nữa với trải nghiệm trong cung, thì bản thân cô cũng rất có thiện cảm với cựu thần này.
Hiện tại thấy Gia Cát Thủ rơi vào tình trạng này, lòng dạ Kinh Niên cũng không dễ chịu gì cho cam, nhiều nhất là thương xót, chưa kể, cảm giác người thân chết ngay trước mặt mình cô cũng từng trải qua, lúc này tuy không thể nói là xúc động lây, nhưng suy cho cùng cũng chịu chút ảnh hưởng.
Người ta nói phụ tử liên tâm, vừa rồi khi ngực Gia Cát Thủ đau đớn, cũng chính là giây phút Hiền Thừa tướng bị chặt đầu. Lúc đó chỉ nghĩ là cơn đau phát tác, chứ không suy nghĩ sâu hơn. Sau đó trên cột cờ treo đầu người, bọn Kinh Niên chưa thấy rõ, mà Gia Cát Thủ chỉ liếc mắt đã nhận ra ngay, tức khắc như bị sét đánh sầm, đầu óc trống rỗng.
Đứng chết điếng tại chỗ hồi lâu, hắn mới lê chân bước từng bước một về hướng cổng thành, mắt mở to trừng trừng, dán chết vào thủ cấp treo cao, nửa giọt lệ cũng không thấy rơi.
Kinh Niên lách người tựa vào trước cửa, ngay khi Gia Cát Thủ đi sượt qua vai mình, cô nhấc mạnh cánh tay lên chém sống tay vào sau gáy hắn. Gia Cát Thủ đột nhiên lảo đảo rồi ngả ập tới trước.
Kinh Niên giang tay chụp tới, vòng ngang qua tấm thân xụi lơ của hắn, nâng cánh tay khiêng lên vai, sải hai bước lớn xuống đài, rồi ngoái đầu lại nhìn về hướng thủ cấp của Hiền Thừa tướng. Cô khẽ thở dài một hơi, ngoảnh qua Thi Ngũ gia và Lô Hoài Nhâm nói “Chờ ta.”, sau đó điểm chân bay về hướng Tây, qua mấy lần lên xuống đã không thấy bóng dáng.
Lô Hoài Nhâm biết Kinh Niên muốn đưa Gia Cát Thủ tới nơi an toàn, ban nãy nếu cô không ra tay thì hắn cũng sẽ cho tiểu đạo gia ngủ tạm một giấc. Tuy cách này chỉ có thể làm chậm lại đau đớn, đợi tới khi Gia Cát Thủ tỉnh lại vẫn phải đối mặt với cái chết của cha, nhưng gấp gáp ở đây chẳng khác nào liều mạng, thêm một phần lo lắng thì cũng giảm đi một phần thắng.
Lô Hoài Nhâm ngẩng đầu nhìn trời, duỗi hai tay qua khỏi đỉnh đầu, hít sâu một hơi, trên mặt hiện lên nụ cười mỉm, lầm bầm: “Có chuyện lớn nào là chưa trải qua đâu, sao còn khẩn trương chứ, đúng là cháu con rùa!”
Chưa đầy nửa chén trà nhỏ trôi qua, Kinh Niên đã về lại cổng thành, không dừng lại nữa mà dẫn theo Thi Ngũ gia và Lô Hoài Nhâm băng qua con đường đá xanh chạy thẳng tới tam quan Phượng vĩ, không vòng qua đường mà leo tường leo ngói, lao băng băng về hướng tiếng trống.
Chuyện kể khi nhóm Kinh Niên đi băng qua trấn Thổ Diêu, ven đường chỉ thấy rổ sọt rơi rớt tán loạn, mũ nón ngổn ngang, có lẽ những lữ khách và thương buôn đổ lên kinh đã bỏ chạy tan tác từ lâu, ngay cả thôn làng trong trấn cũng không ngó thấy nửa bóng người.
Ra khỏi trấn Thổ Diêu xuôi về phía Nam là gặp một ngã ba, ở cửa ngõ gió thổi mù mịt, cát bay thốc qua từng cơn. Kinh Niên dừng chân quan sát, rồi quay đầu nói với Lô Hoài Nhâm: “Xem ra Điện Hạ dẫn theo một nhóm rất đông đi ngang qua đường này.”
Nói rồi giơ ngang cánh tay khua khoắng từ trái sang phải.
Lô Hoài Nhâm đảo mắt theo hướng ngón tay cô, thấy trên đường hằn rất nhiều dấu vó ngựa, gió cuốn từng lớp cát bụi phủ lên dấu vết, khiến nó như đang trôi nổi trên mặt đất. Hắn nhìn về phía ánh đỏ mơ hồ phát ra từ hoàng thành, trong lòng lo lắng: “Chúng ta đi nhanh thôi, công tử đó đâu phải người giỏi đánh nhau, coi chừng chưa đánh được ai đã bị người ta đánh!”
Kinh Niên trái lại không quá lo lắng, gần đây biên giới Tây cảnh chiến tranh liên miên, trước đó không lâu bộ binh đã triệu tập thêm hai đoàn mã binh tới biên giới chi viện, binh lực chủ yếu dùng để chinh phạt bên ngoài, phòng thủ trong thành thì tương đối mỏng manh, cho thấy nếu như không nắm chắc thì sao dám tùy tiện dấy binh tạo phản?
Huống hồ phía sau Điện hạ không chỉ có mỗi một Hiền Thừa Tướng, số thế lực núp trong bóng tối sợ rằng tới chính Điện Hạ cũng không ngờ tới.
Kinh Niên lơ đãng nghĩ tới Huyền Ảnh, vài đoạn hồi ức chợt hiện lên, trong lòng quả thực lấy làm lạ. Chưa kể tới hai tên yêu nghiệt Nguyên Thiên Sư và Hình Thiên làm mưa làm gió, chỉ nói tới chuyện Điện Hạ đã làm tới nước tạo phản, tại sao chưa thấy đảng phái ngầm bảo vệ hoàng thất kia ra mặt hộ giá?
Nhưng thấy Lô Hoài Nhâm cứ rướn cổ ngó tới trước, trong lòng biết hắn sốt ruột như vậy không riêng vì Điện Hạ, cô không nghĩ thêm mấy thứ vô bổ nữa, mở miệng nói: “Sớm hay muộn cũng…” Nói tới giữa chừng thì đột nhiên im bặt, ngoảnh mặt nhìn về phía Đông.
Lô Hoài Nhâm nhìn theo ánh mắt cô, còn chưa nhìn ra đầu mối gì thì đã nghe Kinh Niên thì thầm: “Có người tới.”
Lô Hoài Nhâm vểnh thẳng lỗ tai, quả nhiên nghe thấy tiếng vó ngựa dồn dập vọng tới, từ xa tới gần, tiếng động ngày một vang dội. Chưa đầy nửa khắc, từ xa xa đã trông thấy một người giục ngựa chạy tới như điên, dưới bầu trời nhuộm màu đỏ rực, mặc dù cự ly khá xa, nhưng vẫn có thể nhìn rõ được mặt mày, chính là người từng bị thương nặng trước đây, Gia Cát Thủ.
Kinh Niên thấy hắn cưỡi trên lưng ngựa, cơ thể chao đảo dữ dội, cứ như có thể bị hất ngã khỏi ngựa bất cứ lúc nào, nhủ thầm: Bây giờ mới qua vài ngày, tiểu đạo gia còn trúng cả nội lẫn ngoại thương, không dưỡng từ nửa năm tới một năm thì đâu lành nổi? Bây giờ còn dám liều mạng phi nước đại, rõ là gan.
Nghĩ rồi chân tự giác bước lên, Lô Hoài Nhâm và Thi Ngũ gia bám theo phía sau, cùng lên đón.
Lúc này, Gia Cát Thủ cũng nhìn thấy bọn họ, trên mặt lộ vẻ vui mừng, thúc ngựa chạy tới gần, đột nhiên thân thể lệch đi, hai tay tuột khỏi dây cương, mắt thấy sẽ trượt xuống lưng ngựa.
Kinh Niên giẫm mạnh một chân xuống đất, nhảy phốc lên đầu ngựa, duỗi tay chộp tới, kẹp Gia Cát Thủ ở sườn, sau đó xoay nửa vòng, đầu ngón chân điểm lên yên ngựa rồi đáp xuống đất nhẹ tênh, con ngựa kia chạy tới thêm mấy trượng nữa mới chậm rãi dừng vó.
Kinh Niên đặt Gia Cát Thủ xuống đất, ngón tay điểm vào huyệt định tâm trên ngực trái hắn, rồi áp chưởng dùng nội lực giúp hắn điều tức, sau đó dìu hắn ngồi xuống đất, cười nói: “Đạo gia, ngài làm cho Kinh Niên khiếp vía, không chịu dưỡng thương lại đi nghịch ngựa điên à?”
Gia Cát Thủ kéo ống tay áo lau mồ hôi trên trán, liếc xéo cô, thở hồng hộc nói: “Lúc nào rồi mà cô còn có tâm trạng trêu ta.” Sau đó mắt vô tình ngó thấy Thi Ngũ gia đứng ở sau lưng cô, sững lại một lúc, lẩm bẩm nói: “Cướp về rồi sao?”
Hắn cảm thấy Thi Ngũ gia nhìn không thích hợp lắm, nhưng lòng có chuyện phải lo nên không suy nghĩ sâu thêm, chỉ nói với Kinh Niên: “Điện Hạ khốn kiếp dám gọi người của cha ta vào triều tạo phản!!”
Hóa ra hôm ấy Huyền Ảnh nói tới phủ Thừa tướng cầu viện không chỉ đơn giản là đưa hắn về dưỡng thương, mà những hiền thần cáo lão hồi hương cũng chẳng phải đơn giản là cáo lão, ngoài mặt thì nói là lật đổ sủng thần, kỳ thật là thế lực bên ngoài do Điện Hạ âm thầm bồi dưỡng, vậy mà người làm con như Gia Cát Thủ chưa từng nghe lão nhân gia mách cho nửa chữ.
Trước đó không lâu, Gia Cát Thủ còn nghĩ nếu một mai rơi vào tình thế bất đắc dĩ, thì sẽ đoạn tuyệt quan hệ để tránh cho người nhà bị liên lụy. Hiền thần cố ý che giấu tâm tư thật sự, qua lại thăm dò, sao hắn không biết đạo lý đó? Có điều, biết thì biết, hiểu thì hiểu, nhưng vẫn khó tránh khỏi bực bội.
Lô Hoài Nhâm là người phiêu bạt giang hồ, hoàn toàn không có khái niệm gì về mấy chuyện tranh giành quyền thế này, khi nghe Gia Cát Thủ tung ra một câu không đầu không đuôi thì cũng chỉ nghe ra Thái tử Điện Hạ kéo binh tạo phản. Nhưng Kinh Niên thì hiểu rõ, tuy cô tự nhủ không đếm xỉa tới thị phi trong cung, nhưng người sống quá lâu nên chuyện bát quái cũng nghe đầy lỗ tai, vả lại trước đó không lâu cô còn ở trong triều một bận, có chuyện xưa nào mà chưa nghe đâu?
Điện Hạ âm thầm chiêu binh mãi mã, chính là vì đối địch với thế lực ủng hộ Si Diên làm Thái tử với Nguyên Thiên Sư dẫn đầu. Dù thuận lợi kế thừa ngôi vị hoàng đế, nhưng vị trí này có thể ngồi ổn sao? Cơ sở ngầm của kẻ địch rải khắp trong cung, nếu như bên cạnh không có một nhóm thân tín, thì bị soán vị chỉ là chuyện sớm muộn.
Chưa kể Hiền Thừa tướng, tính tình ngay thẳng phóng khoáng, chẳng những trọng tình trọng nghĩa, mà lòng còn ôm chí lớn, lo nước thương dân, Hoàng đế già cỗi hồ đồ mặc cho yêu nghiệt làm bậy, Hiền Thừa tướng không ra mặt trái lại còn lui về sống ngoài cung, quả là chuyện hết sức kỳ lạ, ấy không phải để nội ứng ngoại hợp với Điện Hạ thì còn gì?
Đương nhiên, bản thân Kinh Niên chẳng lo lắng gì cái chuyện tạp nham soán ngôi hay không soán ngôi này. Nhớ năm đó chính cô cũng vì bất cẩn để lộ tướng mạo, nên bị bè phái bảo vệ hoàng thất coi là thế lực uy hiếp hoàng quyền, sút một sút ra khỏi cửa cung. Đám người cũ rích cổ hủ đó chỉ biết mỗi quy củ trên hoàng sách, nói gì mà chỉ có đứa con do hoàng hậu sinh ra mới có thể kế thừa vương vị, dù cho là một kẻ ngốc cũng phải khoác hoàng bào, ngồi vào hoàng ỷ tới chết mới thôi.
Thế nên hoàng vị của Điện Hạ đừng hòng ai cướp nổi, cho dù một ngày đẹp trời nào đó hắn làm hoàng đế làm tới phát ngấy muốn nhường ngôi, thì mấy lão già lập dị đó cũng không dễ thả người.
Tất nhiên Kinh Niên sẽ không nói cho người ngoài nghe việc này, cô cũng cố ý muốn nhìn thử xem rốt cuộc tới nước nào mới có thể bức được dòng nước ngầm bên dưới lòng đất đó trào lên mặt đất.
Nghĩ tới đây, Kinh niên khẽ hừ một tiếng, quay đầu thấy Gia Cát Thủ đang trừng trừng hai mắt, trong con ngươi bừng bừng hai ngọn lửa, không khỏi trêu: “Đạo gia, ngài coi ngài dỗi tới nỗi mặt chả còn giọt máu nào kìa, thiếu máu à ~ thở đều nào, giữ sức nào ~”
Giờ phút này Gia Cát Thủ chẳng còn lòng dạ đâu để đấu võ mồm với cô, chỉ níu ống tay áo Kinh Niên, la lên: “Cha ta đi chung với Điện Hạ, mấy ngày trước ông ấy vừa mới đổ bệnh nặng, ta sợ ông ấy không chịu nổi…”
Nói tới đây bỗng thấy chỗ bị thương đau nhói, vội vàng đưa tay ấn lên.
Kinh Niên nhủ bụng thật đúng là chuẩn tướng con trai của cha, không việc gì chỉ chuyên phô trương, song trong thời khắc mấu chốt này cô cũng không muốn khua môi múa mép với hắn nữa, nói thẳng: “Ngài tới hay không cũng chả liên quan gì tới chuyện ông ấy có chịu nổi không, bây giờ ta tới đó phụ tạo phản, ngài về nhà nghỉ cho khỏe đi.”
Lúc Kinh Niên nói câu này cố ý bỏ thêm vào cái giọng ghét bỏ, ý muốn kêu hắn nhìn cho rõ khả năng của bản thân. Gia Cát Thủ cũng tự hiểu lấy, biết hiện giờ tay không thể nâng, vai không thể xách, chường mặt tới chỉ tổ thêm gánh nặng. Chẳng qua, đã dốc hết sức chín trâu hai hổ lê thân tới tận đây, nói cỡ nào cũng muốn thấy lão già nhà mình bình an thì mới cam tâm.
Nhưng với tình trạng sức khỏe của hắn hiện tại, yêu cầu Kinh Niên dẫn hắn vào cung chắc chắn sẽ bị chối phăng. Thế là hắn lặng thinh một hồi, rồi khàn khàn nói: “Nói cũng phải, thân thể bần đạo thế này… sẽ không liên lụy các người.”
Dứt lời kề tay lên mép huýt một tiếng dài.
Con ngựa còn đang ung dung đảo quanh tại chỗ, vừa nghe thấy tiếng huýt sáo này thì lập tức nhấc móng hí dài, “cộp cộp cộp” bước chậm tới bên cạnh Gia Cát Thủ.
Lô Hoài Nhâm thấy hắn bám vào yên ngựa đứng dậy, coi bộ rất ráng sức, không khỏi lắm mồm: “Ta thấy ngươi yếu lắm rồi đó, bị ngựa thồ tới thồ lui không sao chứ?”
Gia Cát Thủ lườm hắn, vốn không muốn nói chuyện, nhưng thấy Kinh Niên khoanh tay trước ngực, nhìn mình như cười như không, lòng bỗng dưng đổ vỡ, lật đật dứt mắt nhìn xuống móng ngựa, lí nhí nói: “Được rồi… ta dắt ngựa tới trước cổng thôn mướn xe ngựa quay về…”
Cái dáng chột dạ này ngay cả Lô Hoài Nhâm thần kinh thô cũng sinh nghi. Trong quãng thời gian Kinh Niên và hắn đồng hành, ít nhiều cũng đoán ra được tính khí của tiểu đạo này, chỉ nghe cô cười ha hả, cảm thán: “Ta nói nè đạo gia, ngài nói trái lòng quá đi, định dùng chiêu đối phó này để bơi tới bơi lui à.”
Nghĩ bằng đầu gối cũng biết hắn ngoan ngoãn thế này căn bản là tính bằng mặt không bằng lòng, len lén bám theo sau họ để trà trộn vào cung.
Gia Cát Thủ nghệt người, nhìn bộ mặt ranh ma của cô là biết mình bị bắt thóp, bỗng dưng xấu hổ lúng túng, vốn định dẫn ngựa rồi nói tạm biệt, giờ lại thành ra đi không được mà ở cũng không xong, chỉ còn biết làm cái cọc gỗ thộn ra tại chỗ.
Kinh Niên biết da mặt hắn mỏng, không đùa dai nữa, ngước mắt nhìn mây đỏ trên trời tụ lại càng lúc càng dầy, nhăn mày, rồi dời tầm nhìn về lại Gia Cát Thủ, hà hơi một cái, buồn bực nói: “Dắt ngài đi xem chút đỉnh thì không thành vấn đề, nhưng binh nhiều người loạn, chúng ta cũng chẳng cách nào phân thân quan tâm ngài, hay là ngài cứ đứng chờ ở ngoài cổng thành, ta vào tìm cha ngài rồi một gậy đánh xỉu, sau đó vác ra ngoài cho ngài, hai cha con ngài cứ ở ngoài hóng mát thoải mái!”
Tuy câu này của Kinh Niên nghe không lọt tai, nhưng lại đánh trúng vào tim đen của Gia Cát Thủ, vả lại nói gì mà một gậy đánh xỉu, cũng không thể nào làm người ta bị thương được. Thành ra hắn cũng không so đo kiểu nói chuyện bông lơn của cô, gật đầu nói: “Được, bần đạo nghe lời cô.”
Kinh Niên và Lô Hoài Nhâm liếc mắt nhìn nhau, chỉ thấy Lô Hoài Nhâm gãi gãi ót hết cách, đi tới xách bổng Gia Cát Thủ lên, chưa đợi Gia Cát Thủ kịp phản ứng thì người đã ngồi vững trên ngựa, Lô Hoài Nhâm từ đằng sau vòng tay tới trước kéo dây cương, nhẹ nhàng run lên, hai chân dùng sức kẹp lại, hô một tiếng, con ngựa đã thả vó phi nhanh tới hoàng thành.
Đợi hai người một ngựa lao đi chỉ còn một chấm nhỏ, Kinh Niên và Thi Ngũ gia mới song song vọt lên từ mặt đất, đuổi theo cái chấm nhỏ kia.
Lô Hoài Nhâm và Gia Cát Thủ giục ngựa đi tới, Kinh Niên và Thi Ngũ gia theo sát phía sau, chạy thêm trăm dặm, dọc đường đi xác người xác ngựa chồng chất, giáo tàn đao gãy chổng chơ đầy đất, xem ra còn chưa vào cung đã chém giết rồi.
Khi tới Bắc môn hoàng thành, chỉ thấy cổng thành mở toang, một cái guồng mở thành đổ lệch vào cạnh cửa, trên thi thể binh tướng cắm chi chít mũi tên rực lửa, thảm cỏ trên đất bị cháy rụi nám đen, còn bốc lên khói đặc nghi ngút.
Kinh Niên để ý thấy tử binh ngoài thành đều mặc cùng một loại áo giáp mũ xanh đồng sắc đồng kiểu, giống hệt phục trang của hộ vệ trong cung. Cứ theo lẽ thường mà suy, hai quân giao chiến, luôn dùng trang phục đối lập để phân biệt địch ta. Điện Hạ để quân mình và quân địch mặc cùng một kiểu giáp, chẳng phải là muốn xáo trộn tầm nhìn của quân địch sao. Mà chiêu này cũng là con dao hai lưỡi, dù có thể đảm bảo địch rối ta không rối, nhưng suy cho cũng vẫn khó càng thêm khó. Nếu Điện Hạ không phải cực kỳ nắm chắc thì chính là ôm tâm thế liều mạng lấy loạn khắc loạn.
Kinh Niên quan sát mặt trận xong, quay đầu lại ra hiệu Lô Hoài Nhâm dìu Gia Cát Thủ xuống ngựa, rồi chỉ vào một cây đại thủ ở khúc quanh tường thành nói: “Đạo gia, ngài tới đó nghỉ một lát đi, nhớ phải dắt ngựa theo, tuy nói bây giờ chiến trường đã dời vào bên trong, nhưng khó bảo đảm không xảy ra sai sót, nếu có chuyện thì phải nhanh chóng lên ngựa chạy càng xa càng tốt.”
Gia Cát Thủ trợn tròn hai mắt nhìn cô chòng chọc, miệng giật giật, lại ngoảnh đầu qua Lô Hoài Nhâm, nặn ra hai chữ: “Các ngươi”, sau đó không nói tiếp nổi.
Kinh Niên thấy vành mắt hắn đỏ lên, lòng dạ cũng mềm nhũn theo, lên tiếng dỗ ngọt: “Được rồi, đừng lo lắng cho bọn ta.”
Gia Cát Thủ cụp mắt xuống gật đầu, cảm thấy giờ này nói gì cũng là dư thừa, nhưng vẫn giơ tay lên vỗ vỗ vai Kinh Niên, rồi quay qua Lô Hoài Nhâm ôm quyền thi lễ: “Bảo trọng!”
Dứt lời xoay người kéo cương ngựa.
Lô Hoài Nhâm xít lại gần Kinh Niên rù rì: “Tiểu đạo sĩ hôm nay uống lộn thuốc hả?”
Kinh niên vừa quay gót đi vào trong thành vừa quay đầu cười nói móc: “Là thần kinh của đại ca bị rẽ nhánh thì có.”
Lô Hoài Nhâm cười hô hố, sải nhanh mấy bước theo sau cô, vừa vào đại môn bước lên bậc cổng, đột nhiên nghe thấy một tiếng nổ cực lớn, một quả pháo lửa bắn thẳng về phía chân trời như sao sa, tiếng trống giục giã dội tới liên hồi. Không lâu sau, trông thấy trên đài cao phía sau tường cung xa xa dựng lên một đại kỳ đuôi Phượng, trên mép cờ treo một vật hình tròn, lắc lư qua lại theo đà bay phấp phới của lá cờ vải.
Kinh Niên cố nhìn thật kỹ, phát hiện thứ đó chính là một cái đầu người, có điều mái tóc bạc rối tung trước mặt nên không thấy rõ tướng mạo, nhưng đã có thể treo đầu thị chúng, thì nhất định là người có thân phận địa vị. Trong lúc cô còn đang bàng hoàng, chợt nghe sau lưng vang lên một tiếng thét to: “CHA!!”
Tim Kinh Niên giật thót, quay đầu nhìn lại, thấy Gia Cát Thủ đang ngẩng đầu trợn mắt, đôi môi mở hé, sắc mặt trắng bệch, một tay bấu chặt lên ngực, tay còn lại ghì lấy dây cương, siết thật chặc.
Lô Hoài Nhâm nhìn hắn một lát, rồi ngước lên nhìn cái đầu người đang treo bên trên. Ánh mắt đảo qua lại mấy lần, ơ a cả buổi mà không nói được một câu hoàn chỉnh.
Kinh Niên phiêu bạt bên ngoài quanh năm, nghe dân chúng bàn tán đủ chuyện, khi nói tới chuyện nhà thì chưa bao giờ để sót Hiền Thừa tướng, mỗi lần nhắc tới đều khen không dứt lời, hơn nữa với trải nghiệm trong cung, thì bản thân cô cũng rất có thiện cảm với cựu thần này.
Hiện tại thấy Gia Cát Thủ rơi vào tình trạng này, lòng dạ Kinh Niên cũng không dễ chịu gì cho cam, nhiều nhất là thương xót, chưa kể, cảm giác người thân chết ngay trước mặt mình cô cũng từng trải qua, lúc này tuy không thể nói là xúc động lây, nhưng suy cho cùng cũng chịu chút ảnh hưởng.
Người ta nói phụ tử liên tâm, vừa rồi khi ngực Gia Cát Thủ đau đớn, cũng chính là giây phút Hiền Thừa tướng bị chặt đầu. Lúc đó chỉ nghĩ là cơn đau phát tác, chứ không suy nghĩ sâu hơn. Sau đó trên cột cờ treo đầu người, bọn Kinh Niên chưa thấy rõ, mà Gia Cát Thủ chỉ liếc mắt đã nhận ra ngay, tức khắc như bị sét đánh sầm, đầu óc trống rỗng.
Đứng chết điếng tại chỗ hồi lâu, hắn mới lê chân bước từng bước một về hướng cổng thành, mắt mở to trừng trừng, dán chết vào thủ cấp treo cao, nửa giọt lệ cũng không thấy rơi.
Kinh Niên lách người tựa vào trước cửa, ngay khi Gia Cát Thủ đi sượt qua vai mình, cô nhấc mạnh cánh tay lên chém sống tay vào sau gáy hắn. Gia Cát Thủ đột nhiên lảo đảo rồi ngả ập tới trước.
Kinh Niên giang tay chụp tới, vòng ngang qua tấm thân xụi lơ của hắn, nâng cánh tay khiêng lên vai, sải hai bước lớn xuống đài, rồi ngoái đầu lại nhìn về hướng thủ cấp của Hiền Thừa tướng. Cô khẽ thở dài một hơi, ngoảnh qua Thi Ngũ gia và Lô Hoài Nhâm nói “Chờ ta.”, sau đó điểm chân bay về hướng Tây, qua mấy lần lên xuống đã không thấy bóng dáng.
Lô Hoài Nhâm biết Kinh Niên muốn đưa Gia Cát Thủ tới nơi an toàn, ban nãy nếu cô không ra tay thì hắn cũng sẽ cho tiểu đạo gia ngủ tạm một giấc. Tuy cách này chỉ có thể làm chậm lại đau đớn, đợi tới khi Gia Cát Thủ tỉnh lại vẫn phải đối mặt với cái chết của cha, nhưng gấp gáp ở đây chẳng khác nào liều mạng, thêm một phần lo lắng thì cũng giảm đi một phần thắng.
Lô Hoài Nhâm ngẩng đầu nhìn trời, duỗi hai tay qua khỏi đỉnh đầu, hít sâu một hơi, trên mặt hiện lên nụ cười mỉm, lầm bầm: “Có chuyện lớn nào là chưa trải qua đâu, sao còn khẩn trương chứ, đúng là cháu con rùa!”
Chưa đầy nửa chén trà nhỏ trôi qua, Kinh Niên đã về lại cổng thành, không dừng lại nữa mà dẫn theo Thi Ngũ gia và Lô Hoài Nhâm băng qua con đường đá xanh chạy thẳng tới tam quan Phượng vĩ, không vòng qua đường mà leo tường leo ngói, lao băng băng về hướng tiếng trống.
Tác giả :
Thác Ẩn