Thi Quan Kinh Niên
Chương 25: Dời hình hoán thể (hạ)
Edit: Yunchan
Sau khi nói xong chỉ thấy Thi Ngũ gia hơi nghiêng mặt đi, chầm chậm dời mắt sang bên phải, hình như có mùi lúng túng thật, làm Kinh Niên nhìn mà đần mặt ra một lúc, đột nhiên khóe miệng cong lên, lộ ra nụ cười gian: “Ui chao, ngẫm lại thì bây giờ mới ngượng thì hết kịp rồi, nói sao thì…”
Cô không nói tiếp nữa, bối rối trong mắt đã bị vẻ tinh quái lấn át mất từ đời nào, chuẩn với câu “Da mặt đắp da mặt, ngươi mỏng một lớp ta dầy ba phân”. Tuy nói phản ứng của Thi Ngũ gia lọt vào mắt người ngoài chỉ e là không nhìn ra cái gì khác thường, nhưng dù sao Kinh Niên cũng đã gắn bó thân thiết gần mấy trăm mùa Đông, chỉ cần con ngươi nhích ty tý, vào mắt cô đã biến thành kỳ cảnh hiếm có. Đây chẳng phải là ở chung dễ nhìn nhau khó, xấu hổ rành rành sao!
Nhận thức được điều này, Kinh Niên lại thả lỏng hơn, xem ra người mất tự nhiên không riêng gì mình, Ngũ gia không làm gì được càng khó chịu hơn, nói nào ngay người bị lột sạch sẽ, thấy hết trơn là hắn mà.
Nghĩ tới đây, bối rối lúng túng thoắt cái bị quét sạch láng, liếc trộm qua nửa bên mặt hơn cúi xuống của Thi Ngũ gia, dưới quầng sáng xiêng xiêng càng nổi bật lên đường nét nhu hòa, tuy mặt nhuốm máu bẩn, nhưng vết máu tươi lót lên màu da xanh đen hơi bụi, càng toát lên một loại mỹ cảm khác thường, khiến người ta nhìn không chớp mắt, càng khiến người ta muốn thò tay sờ cằm hắn đùa giỡn một trận.
Kinh Niên nhịn cơn kích động kỳ lạ xuống bụng, hết sức kinh ngạc bản thân còn có một mặt tiềm năng làm đăng đồ tử(*), lòng thầm thán phục ông trời có mắt, không sinh cô làm nam nhân.
(*) Đăng đồ tử: đồ háo sắc.
Trong lúc cô mải nghĩ ngợi linh ta linh tinh thì tay cũng chẳng nghỉ ngơi, nhanh nhẹn tháo đai lưng trên eo Ngũ gia xuống, giúp hắn cởi hết sạch quần áo, mồm miệng còn lải nhải liên miên: “Ngũ gia, ngài yên tâm, cái không nên nhìn Kinh Niên quyết không nhìn, phi lễ chớ nhìn, phi lễ chớ nhìn, ngài coi thử đi, ta nhắm chặt hai mắt rồi đây này…”
Vừa nói vừa ngóc mặt lên, để Ngũ gia thấy cặp mắt đang híp tịt thành đường chỉ của mình, có điều khe hở giữa hai hàng mi thì lại lóe ra tia sáng khả nghi.
Cô quơ cái khăn lụa trên tảng đá, nhúng thấm nước rồi tỉ mỉ chà lau từ trên xuống dưới, vừa lau vừa ngâm nga một bài dân ca không ra điệu, thoạt nhìn thì có vẻ thích thú thảnh thơi. Nhưng nếu nhìn kỹ lại, sẽ phát hiện một cái mặt ửng đỏ, ánh mắt thì bay lung tung chẳng biết đặt chỗ nào, vì dùng sức quá đà mà ngón tay cầm khăn chặt tới nỗi các đốt ngón tay phát trắng, bấy nhiêu thôi cũng đoán ra trong đầu cô nương này cũng chẳng đứng đắn được như biểu hiện bên ngoài.
Trong lúc lau người, Kinh Niên đổ nước dư vào cái rãnh bên cạnh giếng mấy lần, nước bèn chảy nghiêng theo rãnh về phía mép đài trời, xuôi theo nửa cái ống gỗ rồi chảy vào đầm nước tròn bên dưới tháp. Sau đó cô thay tăng bào cho Thi Ngũ gia, đồng thời vắt khô khăn búi mái tóc ướt lên. Xử lý xong xuôi, cô lui ra sau hai bước ngắm nghía tác phẩm của mình, chống cằm lia Ngũ gia từ trên xuống dưới, rồi lại soi từ dưới lên trên, ba lần bảy lượt, ngắm đã mới gật đầu hài lòng: “Ừm… Ngũ gia đúng là Ngũ gia, mặc gì cũng đẹp…”
Không mặt cũng đẹp luôn, cơ mà mấy câu này đương nhiên chỉ dám nói bậy trong lòng, chứ không dám bật ra ngoài miệng.
Thi Ngũ gia nghiêng người qua, hai cánh tay đang buông xuống chậm rãi nâng lên một chút, vòng ở giữa eo và bụng, sắc mặt như thường, nhưng tư thế thì nhìn có vẻ hơi thận trọng. Kinh Niên sấn lên trước, cười híp mắt nghẹo đầu ngắm nghía, thấy một lọn tóc tuột ra khỏi khăn lụa, vắt lên trán nhỏ nước tí tách, cô tiện tay vén ra sau tai giúp hắn, rồi than thở với giọng cảm khái: “Chậc… nhớ lại lần đầu gặp mặt, Ngũ gia ngài mặc cà sa gấm, làm người ta liếc qua là biết ngay ngài ở Phật môn địa vị không thấp… lúc đó sợ quá nên không rảnh thưởng thức, cơ mà giờ ngẫm lại, ngài như vầy thật đúng là… mê hoặc ba ngàn chắc lời không lỗ!”
Kiểu khen bất chính này lại làm khóe môi Thi Ngũ gia nhếch lên một độ cong không dễ nhận ra, Kinh Niên cũng thấy nói đùa kiểu này hơi quá trớn, ho nhẹ hai tiếng nói tiếp: “Lâu lắm rồi mới thấy ngài mặc tăng y lại… tuy không hoa lệ bằng trước đây, nhưng vẫn làm lóa mắt Kinh niên, chà… đại khái người trời sinh hướng Phật, thánh khí cũng ăn sâu vào xương tủy luôn rồi… mà cũng tốt, như vậy Ngũ gia mới là Ngũ gia…”
Nói tới câu cuối lại biến thành lẩm bẩm, ý thức được điểm này, Kinh Niên vội vàng phanh lại, hơi tự trách cũng hơi hết cách, dù sao hình thức sống chung lâu rồi đâu thể thay đổi một sớm một chiều được. Nhủ thầm, chỉ cần về sau trò chuyện với Ngũ gia nhiều vào, tuy không được đáp lại câu nào, nhưng ít ra biết người nghe có tâm cũng đủ thỏa mãn, về lâu về dài tự nhiên sẽ thích ứng thôi.
Cô giơ tay lên vuốt phẳng vạt áo giúp Thi Ngũ gia, khi chạm vào đuôi tóc rũ xuống trên vai thì đổi sang vuốt tóc, cười nói: “Như giờ vẫn tốt hơn, trước đây cũng coi như phá giới, vừa để tóc vừa đổi tên, Ngũ gia, ngày như vầy cũng tính là hoàn tục rồi ha!”
Cô nhớ trước đây vừa rời khỏi hoàng thành chưa bao lâu, lúc phát hiện tóc Thi Ngũ gia dài ra đã làm cô sợ tới hết hồn, có điều theo thời gian dần trôi, khi cô ý thức được dương khí độ vào trong cơ thể Ngũ gia không ứ đọng đình trệ như các cương thi khác, mà có thể vận chuyển qua lại giữa kinh mạch, khi đó cô mới sực ngộ ra do huyết chú đưa tới dị trạng. Nhưng Thi Ngũ gia cũng chẳng vì vậy mà biến thành người sống được, hắn không tài nào tự sinh dương khí, mà phải nhờ Kinh Niên cung cấp liên tục mới có thể duy trì được chức năng của cơ thể.
Dị biến mà huyết chú mang tới không chỉ có thế, nhưng trải qua chuyện này, trong lòng Kinh Niên đã có kinh nghiệm, về sau có phát hiện ra cái gì mới cũng không thấy lạ lùng nữa. Nhắc tới cũng tức cười, thời gian dài như vậy, ngoại trừ tìm kiếm tung tích của Thanh Long kính ra, chính là nghiên cứu chú nguyền cấm thuật, tiện thể mò cách dùng Bạch Hổ kính, nghe thì chán phát ốm, nhưng trên thực tế thì khó khăn chồng chất, tới tận hôm nay, cô còn rất nhiều vấn đề chưa thông suốt được.
Theo tính toán lúc trước, là do thân gánh trách nhiệm, lòng mang hổ thẹn, mặc dù gần gũi với Thi Ngũ gia, nhưng suy cho cùng cũng do cô nóng đầu bốc đồng, có điều đi một quãng đường dài như vậy khó tránh khỏi khổ sở hiu quạnh. Nào ngờ tâm trạng bây giờ lại như trời đất đảo lộn, khi biết Ngũ gia theo mình phiêu bạt chân trời là cam tâm tình nguyện, đối với Kinh Niên mà nói còn vui vẻ hơn bất cứ thứ gì, hệ trọng hơn bất cứ thứ gì, về phần mấy thứ vớ vẩn khác, cứ ném hết lên chín tầng mây đi. Tục ngữ nói thật hay, thuyền tới đâu cầu tự nhiên thẳng, bây giờ Kinh Niên hết sức đồng tình với nó.
Nhưng mừng quá độ thì sẽ rơi lệ, càng hạnh phúc thì càng sợ mất đi. Tuy Bạch Hổ kính bị cướp, nhưng Thanh Long kính đã tìm ra tung tích, hai vật cùng vào tay một người, cướp lại cũng tiện tay. Có điều nghĩ tới sự thật phải đối mặt sau khi cướp về, thì lại khiến Kinh Niên đau lòng.
Hy vọng lâu nay trở thành hiện thực, tâm nguyện lâu nay đã được hoàn thành, tất cả đều trọn vẹn, lại bỗng nhiên sinh ra hai loại tâm trạng trái ngược nhau, mâu thuẫn đấu tranh trong lòng. Trong tư tâm, Kinh Niên tình nguyện chọn dắt theo Thi Ngũ gia cao chạy xa bay, gì mà tranh đấu hoàng triều, Hình Ma loạn thế, tất cả cô không muốn quan tâm nữa.
Nhưng mà để Ngũ gia ở lại thế gian trong tình trạng này, không được siêu thoát, Kinh Niên tự vấn lòng, mình chịu đựng được sao. Cô độc, nếm qua một lần thì sẽ không muốn nếm lại lần hai, đặc biệt là sau khi nếm trải cảm giác ấm áp bên nhau hiểu nhau, nếu giờ mất đi chỗ dựa thì nên đi đâu về đâu…
Giữa lúc Kinh Niên đang nghĩ tới thất thần, bỗng cảm thấy mặt mát lạnh, ngước mắt thì thấy Thi Ngũ gia hơi ngả người tới trước, tay đặt bên mặt mình lúc lên lúc xuống, chốc chạm vào chốc tách ra như mất khống chế. Cô vội vàng nắm lấy áp lên mặt mình, để ý thấy trên mi tâm của hắn xuất hiện hai vết hằn nhạt, không biết có phải bộ dạng như đi vào cõi tiên của mình đã làm hắn lo lắng hay không.
Kinh Niên không thốt ra miệng, nhưng trong lòng đã nhận định luôn đó chính là biểu hiện lo lắng, không dằn được cười toe toét, đưa tay lên sờ vào giữa chân mày của hắn, vuốt nhẹ tới đầu mày, như muốn vuốt xuôi nếp nhăn trên đó, vừa vuốt vừa nói: “Ngũ gia Ngũ gia, Kinh Niên thích tự nói tự đáp, thích nghĩ ngợi linh tinh đâu phải ngày một ngày hai, có điều nghĩ vui quá, bỏ quên Thi Ngũ gia là Kinh Niên không tốt, ta muốn nói là ngài có thể gõ đầu ta, cơ mà…”
Cô cười hì hì, giở ra hết cái mặt vô lại: “Ta biết ngài không nỡ, ngài mà như vậy thì Kinh Niên sẽ áy náy cả năm cho coi, dù sao cũng phải để ta biểu đạt tý lòng hối lỗi —-“
Nói rồi nhón chân chu môi, ý đồ bất lương lúc nãy lại rục rịch bò dậy, bây giờ muốn mượn chuyện để làm tới luôn, nói sao cũng muốn chiếm lợi cho triệt để.
Đậu hủ thượng hạng sắp sửa vào miệng, Kinh Niên lại bất ngờ dừng động tác lại, thở dài một hơi, gót chân đặt lại chỗ cũ, giơ tay lên bóp bóp cổ mình, than phiền: “Ta thừa nhận đầu ta nhỏ, nhưng đây không phải vấn đề chính…”
Giọng vừa lắng thì chợt nghe bên dưới vọng lên tiếng leng keng, tiếng lừng khừng leng keng này là phát ra từ xiềng xích kéo lê trên thềm đá. Tiếng vang này ngày một lớn, sau đó đột nhiên ngừng lại.
Chỉ mới im lặng chốc lát, Kinh Niên đã không dằn được tính tình, mở miệng: “Ấy… sao không lên? Muốn ta mời làm khách sao?”
Chợt nghe tiếng đáp lại: “Không tự ý quấy rầy, chính là đạo đãi khách, ta có thể chờ, cô nương mời tiếp tục.”
Kinh Niên xoay người, nhìn về hướng miệng động lơ lửng trên đài trời, lập tức lấy tay vỗ vỗ trán, thở dài liên tục: “Ôi, ôi, ta đã bảo là săn sóc hơn người mà, quả nhiên chả sai, Hoàn Tình cô nương, nếu cô không tới, thì Kinh Niên không biết sẽ làm chuyện bậy bạ gì nữa.”
Giọng du dương trầm bổng lại vang lên: “Hoàn Tình tự biết mình tới không phải lúc, vốn tưởng rằng thời gian đã đủ, nào ngờ… là ta suy nghĩ không chu đáo, mong cô nương lượng thứ.”
Nghe cô nói vậy, Kinh Niên vội vàng xin tha: “Ta múa mép trêu mà cô còn nghiêm túc vậy nữa, nước dùng xong, y phục cũng mặc xong hết rồi, còn có thời gian cho ta động tay động chân đây. Hoàn Tình cô nương, cô canh giờ đủ nhiều đủ dư rồi, mau lên đây đi mà.”
Nói rồi đi về hướng lối vào, đi chưa đầy hai bước thì lại nghe tiếng kim loại va vào nhau leng keng, sau đó thấy Hoàn Tình chậm rãi leo lên bậc, vượt qua tường rào rồi bước tới bên này.
Kinh Niên cười nói: “Còn đang tính đi thỉnh cô nương đây.”
Hoàn Tình vẫn cười, nhìn về Thi Ngũ gia sau lưng cô, hơi gật đầu, Kinh Niên thấy thế thì hỏi luôn: “Lần trước lúc tạm biệt, cô có nói ngày sau gặp khó khăn thì cứ tới tìm cô, quả nhiên là nói với Ngũ gia. Lúc đó, cô đã biết Ngũ gia có ý thức của mình, cũng biết sau này sẽ xảy ra chuyện gì rồi, đúng không?”
Hoàn Tình gật đầu, nụ cười hơi thu lại: “Coi như là vậy, tuy không cụ thể, nhưng biết cô sẽ đối mặt với thiên kiếp.” Ngừng một hồi, bước tới gần một bước, thấp giọng hỏi: “Trách ta không nói rõ sao?”
Kinh Niên nhún vai không để ý lắm: “Nói hay không cũng như nhau, suy cho cùng ta vẫn sống sót khỏe mạnh.”
Hoàn Tình lắc đầu nói: “Không chỉ vì thế, chuyện Thi Ngũ gia, không trách ta giấu diếm sao?”
Kinh Niên ngoái đầu nhìn ra sau, lùi lại hai bước tới bên cạnh Thi Ngũ gia, nắm một cánh tay hắn lên, thấy hắn chậm rãi nghiêng đầu, nhìn mình mỉm cười, cô lại ngoảnh qua Hoàn Tình: “Chuyện riêng tư, người ngoài khó nói được, huống hồ cô có lý do không thể nói của mình, than phiền trách móc thì đúng là vô lý, trái lại còn phải cảm tạ cô nương chỉ điểm, chỉ tại Kinh Niên ngu đần, không nghe thấu mà thôi.”
Hoàn Tình nghe mà thở dài buồn bã, đứng yên một lát, môi giật giật nhưng không phát ra tiếng, Kinh Niên thấy cô muốn nói lại thôi, bèn nói toạc ra: “Có gì cô cứ nói đi.”
Lúc nãy ở trong phòng, Kinh Niên đã phát hiện ánh mắt của cô khác thường, cứ như đang cố hết sức truyền đạt tin tức gì đó, nhưng chỉ ngại do Lô Hoài Nhâm ở đó nên khó mà mở lời, có thể thấy chuyện này liên quan tới chuyện bí mật cá nhân, nên mới chọn thời điểm không có người ngoài để nói.
Hoàn Tình lưỡng lự một chút rồi cất giọng hỏi: “Tiếp theo, cô định làm sao? Cách xa trần thế, hay là chen chân vào họa loạn?”
Kinh Niên đáp thờ ơ: “Đã trót hứa với Điện Hạ giúp ngài ấy tranh vị, nói được thì phải làm được.”
Hoàn Tình cười khẽ, trong nụ cười mang theo vẻ không tán đồng: “Lời hứa, là áp dụng cho người để tâm, Kinh Niên, Hoàn Tình hiểu con người của cô, đối với hoàng thất Phượng triều mà nói, cô chưa bao giờ tồn tại ngay cả khi cô vẫn nhớ, vốn nên là người thiên cổ, thì không nên nhúng tay vào phân tranh hậu thế.”
Kinh Niên cười ha ha: “Nói thật hay, một nhát nhỏ máu, moi trúng đáy lòng của ta rồi!” Dừng một chút, rồi giương mắt nhìn chăm chú Hoàn Tình: “Hoàn Tình cô nương, cô nói cô hiểu ta, vậy thì lựa chọn của ta, dù không nói rõ cô cũng lần ra hết chín phần, cô hỏi ra lời, là nghĩ sự lựa chọn này của ta không ổn đúng không.”
Hoàn Tình nói: “Hình Ma Hình Thiên không phải chỉ dùng cách tầm thường là có thể đối phó được, Kinh Niên, nếu có lần nữa, thì ta không thể bảo đảm tính mạng của cô đâu.”
Kinh Niên sửng sốt, lập tức ngẫm lại ngụ ý trong câu này, nghe ra khác một trời một vực với suy nghĩ trong đầu mình, vốn là chuyện không liên quan tới người khác, Kinh Niên thà lãng phí thời gian của mình đi tìm đáp án chứ không muốn hỏi ai, nhưng Hoàn Tình luôn khiến cô cảm thấy vô cùng thân thiết, đối với người này, có rất nhiều lời cô không cần suy nghĩ đã thốt ra ngay, hệt như bây giờ, cô cũng không nghĩ ngợi nhiều mà hỏi trực tiếp luôn: “Không phải không chết được sao? Dù nói là Linh Xà hộ thể, nhưng Hình Thiên gì đó rất ác, đánh một chưởng quả là đánh ngay vào chỗ hiểm…”
Cô lấy tay ấn ngực, nói tiếp: “Tuy có băng vải quấn, nhưng ta khẳng định vết thương đã khép lại hoàn toàn rồi, nhắc mới nhớ đáng lẽ hai tay ta phải bị tróc xương mới đúng, linh khí của rắn nhỏ ngoan đâu tới mức vừa hộ tâm vừa thúc máu thịt sinh trưởng chứ, theo lý thuyết thì lần này ta chết chắc, kết quả không chết mà trái lại công lực còn tăng nhiều, lẽ nào đây không phải do huyết chú sao?”
Lấy cấm thuật hàng phục Thi Ngũ gia, giai đoạn phát triển của cô cũng đóng băng theo, đến giờ vẫn giữ nguyên dáng dấp trước đây. Vì nào giờ chưa từng gặp địch thủ, đừng nói bị thương, tới va chạm xô xát cũng không có nốt, thành ra cô không biết sinh mạng của mình có điểm kết thúc hay không.
Hoàn Tình hiểu nghi ngờ của cô từ đâu mà ra, người thế tục không biết hậu quả của sử dụng cấm thuật, nhưng trên thế gian Hoàn Tình là người xuất thế, nên tự nhiên hiểu rõ đôi chút về vấn đề này. Có điều ngôn ngữ của cô bị giới hạn, chỉ có thể nói ra chân tướng có liên quan mật thiết tới người trong cuộc mà thôi:
“Bất lão và bất tử khác nhau một trời một vực, Kinh Niên, cô thuộc về vế trước, lần này có thể thoát được một kiếp là vì có người lấy mệnh luân hồi tam thế để đổi cho cô, không phải là khỏi hẳn, mà là phục sinh, cô hiểu chưa?”
Kinh Niên nghe mà thầm kinh hãi, hoang mang không giảm mà còn tăng thêm: “Theo ý cô là, ta đúng là đã chết một lần, sau đó có người lấy mạng cho ta, ta nhờ mạng của người ta nên mới sống lại… Ôi chao! Là ai thương ta như vậy, thương tới nỗi đền mạng cũng cam nguyện?”
Câu cuối cùng biến thành thổn thức khó tin, ngoại trừ Thi Ngũ gia ra, giao tình sâu tới nỗi lấy mạng đổi mạng, Kinh Niên tự nhận mình chưa từng gặp người nào khác.
Hoàn Tình thấy ánh mắt hồ nghi của Kinh Niên thì biết lời của mình không cách nào khiến người ta tin tưởng, nhưng cô vẫn nói: “Kinh Niên, tin hay không là ở cô, Hoàn Tình chỉ nói sự thật, công lực của cô tăng lên, cũng là vì có thêm tu vi tam thế.”
Kinh Niên cúi đầu trầm tư, lẩm nhẩm thật thấp: “Nói vậy linh lực tương hỗ gì đó, căn bản không có quan hệ sao…”
Cô nói rất nhỏ, Hoàn Tình nghe thấy thì lập tức cải chính: “Quan hệ không ít, nếu không phải Linh Xà bảo vệ tâm mạch của cô, thì dù ta có độ mệnh, cô muốn sống lại còn phải chờ thêm nửa năm nữa. Thân thể của cô có thể phục hồi kịp lúc, không thể không kể tới công lao của nó.”
Kinh Niên tự thoại bị người ngoài nghe được, cười khan gãi gãi mang tai, nói: “Ta biết ta biết, đáng tiếc rắn nhỏ ngoan đang chạy đi đánh cờ với Chu Công(*), bằng không… ta nhất định phải ôm ôm bóp bóp nó để tỏ hết lòng cảm kính của ta.”
(*) Ngủ.
Cô hồ ngôn loạn ngữ thuần túy là đang nói đùa, Hoàn Tình lại cau nhẹ chân mày, mặc dù không tán thành với cái miệng tía lia của cô nhưng cũng không trách cứ, chỉ coi như không nghe thấy, kéo trọng tâm câu chuyện về chủ đề chính: “Kinh Niên, cấm thuật là do trời sử dụng, người phàm dùng cuối cùng sẽ rơi vào cảnh ngộ tam giới bất dung, sau khi hồn phi phách tán, sẽ không còn cơ hội vãng sinh.”
Thấy Kinh Niên hình như có vấn đề muốn hỏi, Hoàn Tình bèn dùng ánh mắt ngăn cô lại, tiếp tục nói: “Lúc mới gặp cô, ta từng lấy Diêm Vương bia tương đối, chính là thi pháp gia cố tâm hồn của cô, ngay khi cô chết đồng thời thu nạp hồn phách vào trong cơ thể, nhưng đây chỉ là kế sách tạm hoãn, khi phương pháp này đạt tới giới hạn, nếu không có mạng độ, ba ngày sau vẫn không cải được số mệnh hình tiêu hồn diệt.”
Nghe Hoàn Tình nói vậy, Kinh Niên chợt cảm thấy sáng tỏ thông suốt, đã nói là bia đá nhỏ kia bất thường rồi mà, cảm giác như bị một đôi mắt vô hình hút lấy tâm hồn hóa ra là nguyên nhân này. Nghe Hoàn Tình nói rất rõ ràng rành mạch, hợp lý hợp tình, với lại cô một thân chính khí nghiêm nghị, ánh mắt tuyệt đối không có nửa điểm giả tạo lừa đảo, trong đó tuy còn chỗ khó giải, nhưng vẫn khiến người ta phải tin tưởng.
Kinh Niên đang muốn mở miệng, chợt thấy trên vai tì xuống, quay đầu thì thấy Thi Ngũ gia đang đặt tay lên, nhiệt độ lòng bàn tay lan từ đầu vai tới buồng tim. Kinh Niên biết hắn đang lo lắng cho mình, trao qua một nụ cười xoa dịu, đưa tay lên vỗ vỗ trên mu bàn tay hắn, rồi ngoảnh đầu qua Hoàn Tình: “Chuyện sau này ta khoan đề cập tới, cô nương, nói thật Kinh Niên rất hiếu kỳ lai lịch của cô, còn nữa, đại nhân cho ta mạng rốt cuộc là ai thế? Là người ta biết sao?”
Hoàn Tình không đáp mà từ từ nhắm mắt lại, Kinh Niên cười hỏi: “À… xem ra đây là chuyện không thể nói?”
Hoàn Tình nói nhỏ: “Xin lỗi.” Trong giọng chứa đựng áy náy.
Kinh Niên lại không để bụng, vươn vai duỗi người, thoải mái nói: “Ôi chao —- ta đi xuống trước đây, chân sắp đứng tới tê luôn rồi!”
Thấy thần sắc Hoàn Tình có hơi chần chừ, cô bèn trấn an: “Đừng lo đừng lo, cái mạng này là bảo bối của Kinh Niên mà! Có chuyện gì thì ngồi xuống hẵn nói tiếp, vừa khéo ta còn mấy chuyện lơ tơ mơ đây.”
Lúc này bàn tay vốn đặt trên bờ vai chợt run lên một cái, Kinh Niên nghiêng đầu, thấy ánh mắt Thi Ngũ gia lóe lên, bất giác hơi kinh ngạc, thấp giọng hỏi: “Ngũ gia để tâm sao?”
Suy nghĩ một chút, đột nhiên gõ bộp vào lòng bàn tay, bừng tỉnh đại ngộ: “Phải ha, suy cho cùng vẫn là hậu bối của ngài mà, vậy thì phải tra cho rõ đầu đuôi ngọn ngành mới được.”
Kinh Niên đã sớm nhìn trộm được thân thủ của Lô Hoài Nhâm bắt nguồn từ Thiếu Lâm, hắn từng nói Trần Mộc là đệ tử Thiếu Lâm, ấy cho nên ngay từ đầu, cô cho rằng võ nghệ của hắn là giác ngộ từ hành đầu. Nhưng mà khi đánh nhau trong cung, Lô Hoài Nhâm và Trần Mộc đã phối hợp sử dụng “Phục Ma song la trận”, nó chính là tuyệt học bí truyền của Thiếu Lâm Thiên Tôn tự, đâu phải cứ muốn giác ngộ là giác ngộ được. Kèm theo đó thủ pháp của hắn rất thành thạo, hai bên hợp tác chặt chẽ, ngay lập tức cô đã chắc chắn người này từng bái sư Thiên Tôn tự, thế không tính hậu bối của Ngũ gia thì là gì?
Đương nhiên, chuyện Trần Mộc biến thân thành Hình Thiên đã làm cô rất bất ngờ, nhìn cách Lô Hoài Nhâm đối xử với Trần Mộc rõ ràng cũng không phải coi trọng hành đầu đơn thuần, khúc chiết bên trong phải coi hắn có chịu khai thật hay không đã.
Kinh Niên kéo Hoàn Tình cùng xuống đài trời, Thi Ngũ gia theo sát phía sau. Sau khi quay lại thiền phòng, thì thấy Lô Hoài Nhâm đang quay lưng về phía cửa, đứng ngốc ra sau bàn tròn, ngay cả tiếng đẩy cửa cũng không nghe thấy, chẳng biết đang suy nghĩ điều gì.
Kinh Niên còn chưa vượt qua bậc cửa đã chào thành tiếng: “Lô đại ca!”
Tiếng kêu này đặc biệt vang dội, dù là kẻ đi vào cõi tiên cũng bị gọi hồn về. Lô Hoài Nhâm giật bắn cả người, tựa hồ là bị kinh ngạc, hối hả quay người lại, thấy là Kinh Niên thì lập tức cười rạng rỡ: “Muội tới rồi, tiểu muội.”
Hoàn Tình bước vào phòng trước, Kinh Niên nắm tay Thi Ngũ gia dắt vào theo, kéo ghế tới để Ngũ gia ngồi xuống, còn mình thì đứng sau lưng hắn, hai tay đặt lên vai chốc chốc bóp hai ba cái. Lô Hoài Nhâm thấy Kinh Niên nhìn mình với cái vẻ như cười như không, ánh mắt hệt như là muốn xuyên thấu người ta, ngó tới nỗi ớn lạnh toàn thân, hắn không dám nhìn thẳng mà phải nghiêng mặt qua bên, cười khổ nói: “Tiểu muội tốt, ta biết muội có chuyện muốn hỏi, nói thẳng đi, đừng dùng cái mắt buôn thịt nhìn heo đó nhòm ta, làm ta rợn hết cả người!”
Hắn đã nói trắng ra thì Kinh Niên cũng lười lòng vòng, vào ngay điểm chính: “Lô đại ca, Kinh Niên muốn biết thân phận thật của Trần Mộc, hắn là hành đầu của huynh, sao lại biến thân thành cái tên Hình Thiên đồ bỏ gì đó?”
Lô Hoài Nhâm xoa xoa mi tâm, dợm hai bước ngồi vào bàn, thở dài một hơi: “Hầy, muội à, nếu ta nói chuyện Hình Thiên hay không Hình Thiên gì đó ta hoàn toàn không biết, muội có tin không?”
Kinh Niên đáp ngay: “Tin!”
Vì ánh mắt hắn rất chân thành, nhất định không phải ăn nói bừa bãi.
Lô Hoài Nhâm thấy cô đáp cái rụp mà chẳng thèm so đo gì, một chữ “Tin”, đáng dể đánh đổi với bí mật chôn dấu nhiều năm trong lòng. Lô Hoài Nhâm chống khuỷu tay lên bàn, cụp mắt tư lự một lát, khi nhìn lại Kinh Niên lần nữa thì hỏi với giọng trưng cầu ý kiến: “Hình Thiên thì ta không biết, nhưng nhân huynh lại là bạn tri kỷ của ta… mấy thứ lộn xộn trong này không phải nói dăm ba câu là nói hết được, muội tử, muội muốn nghe à?”
Kinh Niên gật đầu: “Muốn nghe tận tường.”
Chỉ nghe hắn thở dài hơi nữa, thấp giọng kể: “Hơn mười năm trước, Thiếu Lâm Thiên Tôn tự thu nhận đệ tử tục gia, kẻ sĩ có chí khắp nơi nghe tin lập tức hành động, Trần Mộc xuất thân từ thế gia võ học tất nhiên muốn bắt lấy cơ hội này. Do đó hắn từ biệt người thân, một mình xuôi Nam, dọc đường vô tình gặp Lô Hoài Nhâm có cùng chí hướng. Hai người xấp xỉ tuổi nhau, mới gặp đã thân, bèn kết làm hảo hữu, sánh vai đồng hành.”
“Trần Mộc thuở nhỏ học quyền cước công phu, mà Lô Hoài Nhâm chẳng những có võ công vượt trội, đao kiếm song tu, còn tinh thông vô số kỳ môn thuật, thứ nào cũng biết, học vấn đa dạng. Trần Mộc không võ không vui, cứ quấn lấy hảo hữu hỏi lung tung đủ thứ, hận không thể thu hết một thân tuyệt học của người kia đắp hết lên người mình.”
Nghe tới đó, Kinh Niên kề vào tai Thi Ngũ gia rù rì: “Mê võ kìa, y chang ngài, Ngũ gia.”
Khóe miệng Thi Ngũ gia hơi giãn ra, mơ hồ nghe thấy tiếng “A” trầm trầm.
Lô Hoài Nhâm nói tiếp: “Trần Mộc là con trai độc nhất, từ nhỏ được phụ mẫu nâng niu trong lòng bàn tay, lần đầu đi xa nhà, mấy chuyện đối nhân xử thế chả hiểu tý gì. Chỉ biết làm bằng hữu thì không nên giấu diếm gì, nhưng lại không biết đòi hỏi người khác cũng là hành vi ngang ngược vô lý. Chẳng qua Lô Hoài Nhâm không ngại, từ trước tới nay luôn hỏi gì đáp đó, có cầu tất ứng, không những thỏa mãn cơn tò mò vô biên vô tận của Trần Mộc, còn không keo kiệt truyền thụ bản lĩnh của mình.”
Kinh Niên nhủ bụng: Kiểu bằng hữu này đúng là hiếm có. Tuy trên quan điểm tự thuật rất là khó hiểu, nhưng cô cũng không muốn chen ngang lúc này, chỉ lẳng lặng nghe hắn kể tiếp: “Mỗi lần Lô Hoài Nhâm dạy một chiêu, Trần Mộc liền chuyên tâm nghiên cứu. Ban ngày đi đường thì nghiền ngẫm tâm pháp yếu quyết, ban đêm đi ngủ thì tự tu tập. Nhờ có Lô Hoài Nhâm bên cạnh chỉ điểm, sau khi nắm được thấu đáo thì truyền thụ chiêu tiếp theo, cứ thế cứ thế, khiến Trần Mộc được lợi không nhỏ. Nhưng mà, Thiên Tôn tự thi luyện nhập môn, chỉ có mình Trần Mộc qua cửa, còn Lô Hoài Nhâm thì bị chặn bên ngoài.”
Kinh Niên hơi cau mày, thấy lời hắn kể khác quá xa tình hình hiện tại. Nếu không vào tự được, thì sao luyện được tuyệt học Thiếu Lâm tới trình độ này chứ?
Lô Hoài Nhâm nhìn cô một cái, cười cười, nói tiếp: “Trần Mộc khó có được chí hữu như vậy, dù thời gian hai người ở chung không lâu lắm, nhưng Lô Hoài Nhâm dốc lòng dạy dỗ, quan tâm chu đáo khiến Trần Mộc hết sức không nỡ. Vả lại tuy hắn vào được cửa tự, nhưng trời sinh mê võ, Lô Hoài Nhâm học nghệ uyên bác, mà hắn mới chỉ học được sợi lông trên chín trâu, đâu chịu thả người lúc này.”
“Chẳng là cổng lớn Thiên Tôn tự không chịu hé ra một tấc, cầu xin cấp mấy cũng không có kết quả, mắt thấy Lô Hoài Nhâm sắp phải rời khỏi, cuối cùng Trần Mộc lại đưa ra yêu cầu vô lý, mong Lô Hoài Nhâm ở tạm lữ điếm ngoài tự để tiếp tục truyền nghề. Kiểu ép uổng này tất nhiên Lô Hoài Nhâm cự tuyệt ngay lập tức. Nào ngờ Trần Mộc đề nghị dùng võ đổi võ, lấy võ học không truyền ra ngoài và kinh thư tâm pháp của Thiếu Lâm làm lợi thế trao đổi, cuối cùng giữ lại được Lô Hoài Nhâm đang quyết lòng muốn đi.”
“Yêu cầu của Thiên Tôn tự với đệ tử tục gia khá rộng rãi, không vào ở trong miếu tự, do đó Trần Mộc mời người dựng nhà gỗ trong rừng trúc lân cận, cùng ăn cùng ở với Lô Hoài Nhâm. Ban ngày vào tự tu hành, ban đêm về luận bàn cùng tiến với hảo hữu, cuộc sống đơn giản nhưng không chán.”
Kinh Niên tự dưng buồn cười, từ bao giờ mà vào Phật môn lại thành dạo hội chùa vậy nè, nói vô là vô nói ra là ra, trước đây có tự tiện như thế đâu. Nhớ lại lúc cô vào trong tự tu tập, luật nghiêm tới nỗi người ta phải sứt đầu mẻ trán, đừng nói là không cho phép ra khỏi cửa tự một mình, mà ngay cả trong tự cũng không được phép muốn đi đâu thì đi.
Xem ra qua mấy trăm năm tẩy lễ, bảng hiệu Thiên Tôn tự cũng bị tẩy tuột màu luôn rồi. Nhớ khi xưa, cô có thể vào tự cũng nhờ có Thánh hoàng tiến cử, dù sao cũng có thân phận đặc thù, vậy mà danh bài trong tự viện chẳng ghi lại tên của cô gì hết, ngay cả nửa môn đồ cũng không được tính. Bây giờ thì hay rồi, ai muốn vào thì vào, học sơ sơ cũng thành đệ tử tục gia, từ khi nào Thiên Tôn tự lại biến thành học đường thế này hở?
Đang tự nhạo trong lòng, đột nhiên liếc thấy hai bàn tay đang đặt trên đùi của Thi Ngũ gia chậm rãi siết lại, lòng Kinh Niên khẽ động, một tay vuốt nhẹ lưng hắn, nhỏ nhẹ an ủi: “Mới thay cũ, đời này đổi qua đời khác, Ngũ gia, ngài đâu thể cưỡng cầu được gì?”
Ngón trỏ và ngón giữa của Thi Ngũ gia nảy nhẹ lên, gõ vào mặt bàn phát ra hai tiếng vang thấp. Lô Hoài Nhâm ngó qua không hiểu tại sao, thấy sắc mặt Kinh Niên như thường mới tiếp tục kể: “Cứ thế qua ba năm, Trần Mộc nhớ người thân, bèn xin nghỉ một tháng, dắt Lô Hoài Nhâm quay về Bắc cảnh thăm người thân. Vậy mà, dinh thự tường gạch ngói lưu ly đã biến thành một một vùng đổ nát, lẫn trong đá vụn là hơn mười thi thể đã thối rữa tới độ hoàn toàn biến dạng…”
Nói đến đây giọng chợt nghẹn ngào, chữ nghẹn trong cổ họng, cách nào cũng không nói tiếp nổi.
Kinh Niên thấy hắn xúc động tới mức này thì càng nghi hoặc hơn, rõ ràng đang nói tới người nhà Trần Mộc, nhưng nhìn phản ứng của hắn, trái lại giống như người chết là người thân nhất của mình, làm bằng hữu mà làm tới mức này cũng quá đủ rồi.
Lô Hoài Nhâm chẳng biết suy nghĩ của cô, một mạch đắm chìm trong hồi ức của mình, hai mắt toát ra vẻ sợ sệt và thất thố, cứ như cảnh tượng thê thảm đó không phải ký ức trong đầu, mà đang xảy ra sờ sờ ngay trước mắt, làm Kinh Niên nhìn mà lòng cũng thắt lại.
Chỉ thấy nét mặt hắn bất chợt từ sầu não biến thành ngẩn ngơ, giọng điệu lúc nào cũng tục tằng thô kệch giờ đây như rơi vào hố băng: “Thây phơi nhiều ngày, không ai đoái hoài, thi thể không được chôn cất, da thịt thối rữa lộ cả xương. Thậm chí Trần Mộc còn không phân biệt được đâu là cha mẹ, chỉ có thể dời từng từng thi thể tới bãi tha ma, đào từng cái hố, đào tới nỗi mười ngón tay máu me nhầy nhụa cũng không biết, tận tới lúc chôn cất hết di thể của người thân, Trần Mộc mới quay lại trấn.”
“Vết đao trên thi thể cho thấy tai họa này do người ta cố ý gây ra, hắn muốn biết là ai tàn nhẫn như vậy, ngay cả đứa bé ba tuổi cũng không tha! Nhưng mà mọi người lại né tránh hắn như rắn rết, không ai chịu tới gần, hắn lang thang khắp ngõ phố, người bốc mùi tanh tưởi, vớ lấy người nào cũng hỏi, là ai giết? Là ai giết?!”
Lô Hoài Nhâm vỗ bàn bật dậy, hai câu cuối cùng gào lên khản giọng.
Kinh Niên thấy hắn kích động như thế, không khỏi lên tiếng xoa dịu: “Lô đại ca, huynh kể mệt rồi, nghỉ ngơi chút đi nhé.”
Hoàn Tình lật một chén trà lên, rót nước trà vào rồi đẩy qua.
Lô Hoài Nhâm cứ như không nghe thấy cũng không nhìn thấy, vẫn miệt mài nói tiếp: “Nhưng không ai trả lời hắn, chỉ trốn rồi trốn, chạy rồi chạy. Trời mưa, Trần Mộc chỉ thấy nước mưa rất lạnh, đập vào người đau không chịu nổi, hắn cảm thấy có một cơn thịnh nộ bốc lên hừng hực, thậm chí muốn chạy lồng lên bắt được ai thì xé nát người đó. Ngay lúc không khống chế được cảm xúc, thì gáy tê rần, mất đi tri giác.”
Kinh Niên nói nhỏ: “Sau đó…” Bàn tay đặt trên vai Thi Ngũ gia bất giác nắm chặt.
Lô Hoài Nhâm dừng một chút rồi ngồi lại ghế, hai mắt nhìn đăm đăm mặt bàn chẳng chớp lấy một lần: “Tới khi hắn tỉnh lại thì đang ở trong dã điếm cách ngoài thành mười dặm. Lô Hoài Nhâm ngồi ở đầu giường canh chừng, thấy hắn mở mắt cũng không nói mấy câu an ủi dư thừa, chỉ kể lại tình hình mà bản thân thăm dò được.”
“Hóa ra sau khi thu xếp cho Trần Mộc xong, Lô Hoài Nhâm một mình trở về trấn tìm hiểu, do hắn là người vùng ngoài tới, rất nhiều người không biết hắn có quan hệ với Trần Mộc, nên đều vui vẻ tiết lộ. Hơn nữa trong sạp trà lộ thiên ba hoa bép xép đủ chuyện, rất nhanh đã tìm ra ác đồ gây nên huyết án diệt môn chính là bọn tặc trộm mới nổi ở phương Bắc, đặc biệt nhắm vào những thế gia võ học tiền to thế bự. Ngay giữa ban ngày ban mặt giết người cướp của, không kiêng nể gì, không giết sạch hết người trong nhà thì quyết không dừng tay, sau khi hành hung thì đập phá trạch viện, trắng trợn táo bạo dán giấy niêm phong, nếu có người cả gan nhặt xác sẽ trở thành mục tiêu tiếp theo.”
“Trước khi tắm máu Trần trạch, ở Bắc cảnh đã có ba phủ đệ gặp nạn, mà Trần Mộc ở sâu trong rừng Nam cảnh, không nghe được phong thanh gì, nếu như nhanh hơn… thì chí ít cha mẹ… có thể đã bớt chịu cảnh khổ gió thổi nắng phơi…”
Kinh Niên thấy hai tay hắn siết chặt thành quyền, toàn thân run bần bật không ngớt, không dằn lòng được bèn chen vào một câu: “Lũ ác ôn đó không ai xử lý sao? Cứ để mặc cho bọn chúng lộng hành khắp nơi sao?”
Lô Hoài Nhâm dộng mạnh quyền lên bàn, khiến khay đĩa chén va vào nhau loảng xoảng, cái chén bên tay hắn bị xô ngã, nước trà đổ lật khỏi chén, bắn tung tóe đầy bàn.
Hoàn Tình thản nhiển thả chén trà vào trong khay, duỗi tay dùng ống tay áo lau nước trà. Kinh Niên thu hết mọi thứ vào mắt, mà Lô Hoài Nhâm thì quên cả bản thân mình, trừng mắt phẫn nộ, chỉ nhìn thấy quá khứ chứ không thấy được cái trước mắt.
Rồi hắn đột nhiên nghiêng đầu nhổ toẹt nước bọt, căm hận nói: “Ai có thể xử? Ai dám xử? Hủy liên tiếp ba đại phủ chiêu bài ở Bắc cảnh, bất cứ ai tới cửa trả thù, thấy chuyện bất bình tới đòi lẽ phải, đều bị làm thịt rồi lột hết quần áo treo ở đầu thành thị chúng, đừng nói dân chúng bình thường sợ chết khiếp, mà ngay cả quan phủ còn không giả bộ chết nhát sao! Mạng người khác nào quý bằng mạng của mình, chết hay không chết chỉ trách mình xấu số!”
Hắn hít vào một hơi thật sâu, nghẹn hồi lâu mới chậm rãi thở hắt ra, lúc mở miệng lần nữa ngữ điệu sục sôi đã bình tĩnh lại khá nhiều, nhưng Kinh Niên lại cảm thấy đó là một loại phẫn nộ bị dồn nén tới cực hạn.
Chỉ nghe hắn buồn bực nói: “Huyết hải thâm thù không đội trời chung, nếu biết kẻ thù là ai, có lý nào lại ngồi chờ chết. Trần Mộc nóng lòng báo thù, đã quên mất bản thân đang ở Phật môn, không thể khai sát giới bừa bãi. Dưới cơn nóng giận đã xông lên sơn trại của bọn đạo phỉ, Lô Hoài Nhâm đề nghị hãy âm thầm quan sát sau đó mới đánh lén bắt tên tặc vương. Nhưng Trần Mộc tự cho là quang minh lỗi lạc lại nằng nặc chọn cách tấn công chính diện, hắn tự cho là mình nền móng vững chắc, bản lĩnh vượt trội, nhưng không ngờ núi cao còn có núi cao hơn.”
“Trong ổ tặc ngọa hổ tàng long, tên nào tên nấy đều là cao thủ hạng nhất, lấy nhiều địch ít, còn ở ngay địa bàn của mình, phải nói là chiếm hết thiên thời địa lợi, hỏi sao Lô Hoài Nhâm và Trần Mộc giành được lợi thế?”
“Bị đánh tới nỗi thương tích đầy mình, thoát khỏi vòng vây trong gang tấc, trốn vào một sơn động. Mặc dù Lô Hoài Nhâm bị thương nặng, nhưng chỉ bị thương ngoài da, tính mạng không nguy hiểm. Nhưng Trần Mộc thì bị chưởng lực đánh tới nội phủ, tự biết mạng không còn lâu, nhưng trong lòng vẫn không cam, sợ chết không nhắm mắt.”
“Lúc này hắn nhớ tới Lô Hoài Nhâm biết đạo Ngự thi, nên thỉnh cầu hắn biến thi thể của mình thành hành đầu, đợi thời cơ báo thù huyết hận, quyết ý dù hóa thành cương thi cũng muốn đích thân chính tay đâm chết kẻ thù. Lô Hoài Nhâm lập tức nhận lời, hắn liền mỉm cười mà chết…”
“Khi hắn lấy lại ý thức lần nữa, vừa mở mắt ra, ý nghĩ còn đần độn, đã thấy một người nằm thẳng dưới đất, tướng mạo đó, y phục đó, chính là bản thân! Mà Trần Mộc sống lại không biết sao đã chạy vào trong thân thể Lô Hoài Nhâm!”
Mặc dù Kinh Niên đã sớm đoán ra vài phần, lúc này nghe hắn tự nói ra thì vẫn cúi đầu kêu khẽ một tiếng.
Lô Hoài Nhâm đặt hai bàn tay lên bàn, thấp giọng nói: “Gặp phải biến cố này, hắn nhất thời luống cuống tay chân, đi tới thăm dò cơ thể của mình, hơi thở đã tắt hẳn, bên cạnh mở ra một quyển sách cũ, hắn tiện tay nhặt lên xem thử, lại kinh dị phát hiện, bên trong ghi lại cấm thuật phong hồn đã thất truyền. Lúc này mới lý giải được không phải ai sau khi chết cũng có thể hóa thành cương thi, mà vì muốn hoàn thành gửi gắm của hắn mà Lô Hoài Nhâm không tiếc mạo hiểm dùng cấm thuật này để cầm tù hồn phách vốn phải tan đi.”
“Trong sách có ghi lại cách sử dụng Phong hồn thuật, cũng cảnh báo rằng một khi người dùng thuật này thất bại, ắt sẽ bị trời phạt. Nguyên hồn của kẻ thi thuật sẽ nhập vào xác chết của người chịu thuật, biến thành thi, đồng thời cơ thể sống của người thi thuật sẽ hút vong hồn của người chết, tức là trao đổi sinh tử với người bị thi cấm thuật…”
Sau khi nói xong chỉ thấy Thi Ngũ gia hơi nghiêng mặt đi, chầm chậm dời mắt sang bên phải, hình như có mùi lúng túng thật, làm Kinh Niên nhìn mà đần mặt ra một lúc, đột nhiên khóe miệng cong lên, lộ ra nụ cười gian: “Ui chao, ngẫm lại thì bây giờ mới ngượng thì hết kịp rồi, nói sao thì…”
Cô không nói tiếp nữa, bối rối trong mắt đã bị vẻ tinh quái lấn át mất từ đời nào, chuẩn với câu “Da mặt đắp da mặt, ngươi mỏng một lớp ta dầy ba phân”. Tuy nói phản ứng của Thi Ngũ gia lọt vào mắt người ngoài chỉ e là không nhìn ra cái gì khác thường, nhưng dù sao Kinh Niên cũng đã gắn bó thân thiết gần mấy trăm mùa Đông, chỉ cần con ngươi nhích ty tý, vào mắt cô đã biến thành kỳ cảnh hiếm có. Đây chẳng phải là ở chung dễ nhìn nhau khó, xấu hổ rành rành sao!
Nhận thức được điều này, Kinh Niên lại thả lỏng hơn, xem ra người mất tự nhiên không riêng gì mình, Ngũ gia không làm gì được càng khó chịu hơn, nói nào ngay người bị lột sạch sẽ, thấy hết trơn là hắn mà.
Nghĩ tới đây, bối rối lúng túng thoắt cái bị quét sạch láng, liếc trộm qua nửa bên mặt hơn cúi xuống của Thi Ngũ gia, dưới quầng sáng xiêng xiêng càng nổi bật lên đường nét nhu hòa, tuy mặt nhuốm máu bẩn, nhưng vết máu tươi lót lên màu da xanh đen hơi bụi, càng toát lên một loại mỹ cảm khác thường, khiến người ta nhìn không chớp mắt, càng khiến người ta muốn thò tay sờ cằm hắn đùa giỡn một trận.
Kinh Niên nhịn cơn kích động kỳ lạ xuống bụng, hết sức kinh ngạc bản thân còn có một mặt tiềm năng làm đăng đồ tử(*), lòng thầm thán phục ông trời có mắt, không sinh cô làm nam nhân.
(*) Đăng đồ tử: đồ háo sắc.
Trong lúc cô mải nghĩ ngợi linh ta linh tinh thì tay cũng chẳng nghỉ ngơi, nhanh nhẹn tháo đai lưng trên eo Ngũ gia xuống, giúp hắn cởi hết sạch quần áo, mồm miệng còn lải nhải liên miên: “Ngũ gia, ngài yên tâm, cái không nên nhìn Kinh Niên quyết không nhìn, phi lễ chớ nhìn, phi lễ chớ nhìn, ngài coi thử đi, ta nhắm chặt hai mắt rồi đây này…”
Vừa nói vừa ngóc mặt lên, để Ngũ gia thấy cặp mắt đang híp tịt thành đường chỉ của mình, có điều khe hở giữa hai hàng mi thì lại lóe ra tia sáng khả nghi.
Cô quơ cái khăn lụa trên tảng đá, nhúng thấm nước rồi tỉ mỉ chà lau từ trên xuống dưới, vừa lau vừa ngâm nga một bài dân ca không ra điệu, thoạt nhìn thì có vẻ thích thú thảnh thơi. Nhưng nếu nhìn kỹ lại, sẽ phát hiện một cái mặt ửng đỏ, ánh mắt thì bay lung tung chẳng biết đặt chỗ nào, vì dùng sức quá đà mà ngón tay cầm khăn chặt tới nỗi các đốt ngón tay phát trắng, bấy nhiêu thôi cũng đoán ra trong đầu cô nương này cũng chẳng đứng đắn được như biểu hiện bên ngoài.
Trong lúc lau người, Kinh Niên đổ nước dư vào cái rãnh bên cạnh giếng mấy lần, nước bèn chảy nghiêng theo rãnh về phía mép đài trời, xuôi theo nửa cái ống gỗ rồi chảy vào đầm nước tròn bên dưới tháp. Sau đó cô thay tăng bào cho Thi Ngũ gia, đồng thời vắt khô khăn búi mái tóc ướt lên. Xử lý xong xuôi, cô lui ra sau hai bước ngắm nghía tác phẩm của mình, chống cằm lia Ngũ gia từ trên xuống dưới, rồi lại soi từ dưới lên trên, ba lần bảy lượt, ngắm đã mới gật đầu hài lòng: “Ừm… Ngũ gia đúng là Ngũ gia, mặc gì cũng đẹp…”
Không mặt cũng đẹp luôn, cơ mà mấy câu này đương nhiên chỉ dám nói bậy trong lòng, chứ không dám bật ra ngoài miệng.
Thi Ngũ gia nghiêng người qua, hai cánh tay đang buông xuống chậm rãi nâng lên một chút, vòng ở giữa eo và bụng, sắc mặt như thường, nhưng tư thế thì nhìn có vẻ hơi thận trọng. Kinh Niên sấn lên trước, cười híp mắt nghẹo đầu ngắm nghía, thấy một lọn tóc tuột ra khỏi khăn lụa, vắt lên trán nhỏ nước tí tách, cô tiện tay vén ra sau tai giúp hắn, rồi than thở với giọng cảm khái: “Chậc… nhớ lại lần đầu gặp mặt, Ngũ gia ngài mặc cà sa gấm, làm người ta liếc qua là biết ngay ngài ở Phật môn địa vị không thấp… lúc đó sợ quá nên không rảnh thưởng thức, cơ mà giờ ngẫm lại, ngài như vầy thật đúng là… mê hoặc ba ngàn chắc lời không lỗ!”
Kiểu khen bất chính này lại làm khóe môi Thi Ngũ gia nhếch lên một độ cong không dễ nhận ra, Kinh Niên cũng thấy nói đùa kiểu này hơi quá trớn, ho nhẹ hai tiếng nói tiếp: “Lâu lắm rồi mới thấy ngài mặc tăng y lại… tuy không hoa lệ bằng trước đây, nhưng vẫn làm lóa mắt Kinh niên, chà… đại khái người trời sinh hướng Phật, thánh khí cũng ăn sâu vào xương tủy luôn rồi… mà cũng tốt, như vậy Ngũ gia mới là Ngũ gia…”
Nói tới câu cuối lại biến thành lẩm bẩm, ý thức được điểm này, Kinh Niên vội vàng phanh lại, hơi tự trách cũng hơi hết cách, dù sao hình thức sống chung lâu rồi đâu thể thay đổi một sớm một chiều được. Nhủ thầm, chỉ cần về sau trò chuyện với Ngũ gia nhiều vào, tuy không được đáp lại câu nào, nhưng ít ra biết người nghe có tâm cũng đủ thỏa mãn, về lâu về dài tự nhiên sẽ thích ứng thôi.
Cô giơ tay lên vuốt phẳng vạt áo giúp Thi Ngũ gia, khi chạm vào đuôi tóc rũ xuống trên vai thì đổi sang vuốt tóc, cười nói: “Như giờ vẫn tốt hơn, trước đây cũng coi như phá giới, vừa để tóc vừa đổi tên, Ngũ gia, ngày như vầy cũng tính là hoàn tục rồi ha!”
Cô nhớ trước đây vừa rời khỏi hoàng thành chưa bao lâu, lúc phát hiện tóc Thi Ngũ gia dài ra đã làm cô sợ tới hết hồn, có điều theo thời gian dần trôi, khi cô ý thức được dương khí độ vào trong cơ thể Ngũ gia không ứ đọng đình trệ như các cương thi khác, mà có thể vận chuyển qua lại giữa kinh mạch, khi đó cô mới sực ngộ ra do huyết chú đưa tới dị trạng. Nhưng Thi Ngũ gia cũng chẳng vì vậy mà biến thành người sống được, hắn không tài nào tự sinh dương khí, mà phải nhờ Kinh Niên cung cấp liên tục mới có thể duy trì được chức năng của cơ thể.
Dị biến mà huyết chú mang tới không chỉ có thế, nhưng trải qua chuyện này, trong lòng Kinh Niên đã có kinh nghiệm, về sau có phát hiện ra cái gì mới cũng không thấy lạ lùng nữa. Nhắc tới cũng tức cười, thời gian dài như vậy, ngoại trừ tìm kiếm tung tích của Thanh Long kính ra, chính là nghiên cứu chú nguyền cấm thuật, tiện thể mò cách dùng Bạch Hổ kính, nghe thì chán phát ốm, nhưng trên thực tế thì khó khăn chồng chất, tới tận hôm nay, cô còn rất nhiều vấn đề chưa thông suốt được.
Theo tính toán lúc trước, là do thân gánh trách nhiệm, lòng mang hổ thẹn, mặc dù gần gũi với Thi Ngũ gia, nhưng suy cho cùng cũng do cô nóng đầu bốc đồng, có điều đi một quãng đường dài như vậy khó tránh khỏi khổ sở hiu quạnh. Nào ngờ tâm trạng bây giờ lại như trời đất đảo lộn, khi biết Ngũ gia theo mình phiêu bạt chân trời là cam tâm tình nguyện, đối với Kinh Niên mà nói còn vui vẻ hơn bất cứ thứ gì, hệ trọng hơn bất cứ thứ gì, về phần mấy thứ vớ vẩn khác, cứ ném hết lên chín tầng mây đi. Tục ngữ nói thật hay, thuyền tới đâu cầu tự nhiên thẳng, bây giờ Kinh Niên hết sức đồng tình với nó.
Nhưng mừng quá độ thì sẽ rơi lệ, càng hạnh phúc thì càng sợ mất đi. Tuy Bạch Hổ kính bị cướp, nhưng Thanh Long kính đã tìm ra tung tích, hai vật cùng vào tay một người, cướp lại cũng tiện tay. Có điều nghĩ tới sự thật phải đối mặt sau khi cướp về, thì lại khiến Kinh Niên đau lòng.
Hy vọng lâu nay trở thành hiện thực, tâm nguyện lâu nay đã được hoàn thành, tất cả đều trọn vẹn, lại bỗng nhiên sinh ra hai loại tâm trạng trái ngược nhau, mâu thuẫn đấu tranh trong lòng. Trong tư tâm, Kinh Niên tình nguyện chọn dắt theo Thi Ngũ gia cao chạy xa bay, gì mà tranh đấu hoàng triều, Hình Ma loạn thế, tất cả cô không muốn quan tâm nữa.
Nhưng mà để Ngũ gia ở lại thế gian trong tình trạng này, không được siêu thoát, Kinh Niên tự vấn lòng, mình chịu đựng được sao. Cô độc, nếm qua một lần thì sẽ không muốn nếm lại lần hai, đặc biệt là sau khi nếm trải cảm giác ấm áp bên nhau hiểu nhau, nếu giờ mất đi chỗ dựa thì nên đi đâu về đâu…
Giữa lúc Kinh Niên đang nghĩ tới thất thần, bỗng cảm thấy mặt mát lạnh, ngước mắt thì thấy Thi Ngũ gia hơi ngả người tới trước, tay đặt bên mặt mình lúc lên lúc xuống, chốc chạm vào chốc tách ra như mất khống chế. Cô vội vàng nắm lấy áp lên mặt mình, để ý thấy trên mi tâm của hắn xuất hiện hai vết hằn nhạt, không biết có phải bộ dạng như đi vào cõi tiên của mình đã làm hắn lo lắng hay không.
Kinh Niên không thốt ra miệng, nhưng trong lòng đã nhận định luôn đó chính là biểu hiện lo lắng, không dằn được cười toe toét, đưa tay lên sờ vào giữa chân mày của hắn, vuốt nhẹ tới đầu mày, như muốn vuốt xuôi nếp nhăn trên đó, vừa vuốt vừa nói: “Ngũ gia Ngũ gia, Kinh Niên thích tự nói tự đáp, thích nghĩ ngợi linh tinh đâu phải ngày một ngày hai, có điều nghĩ vui quá, bỏ quên Thi Ngũ gia là Kinh Niên không tốt, ta muốn nói là ngài có thể gõ đầu ta, cơ mà…”
Cô cười hì hì, giở ra hết cái mặt vô lại: “Ta biết ngài không nỡ, ngài mà như vậy thì Kinh Niên sẽ áy náy cả năm cho coi, dù sao cũng phải để ta biểu đạt tý lòng hối lỗi —-“
Nói rồi nhón chân chu môi, ý đồ bất lương lúc nãy lại rục rịch bò dậy, bây giờ muốn mượn chuyện để làm tới luôn, nói sao cũng muốn chiếm lợi cho triệt để.
Đậu hủ thượng hạng sắp sửa vào miệng, Kinh Niên lại bất ngờ dừng động tác lại, thở dài một hơi, gót chân đặt lại chỗ cũ, giơ tay lên bóp bóp cổ mình, than phiền: “Ta thừa nhận đầu ta nhỏ, nhưng đây không phải vấn đề chính…”
Giọng vừa lắng thì chợt nghe bên dưới vọng lên tiếng leng keng, tiếng lừng khừng leng keng này là phát ra từ xiềng xích kéo lê trên thềm đá. Tiếng vang này ngày một lớn, sau đó đột nhiên ngừng lại.
Chỉ mới im lặng chốc lát, Kinh Niên đã không dằn được tính tình, mở miệng: “Ấy… sao không lên? Muốn ta mời làm khách sao?”
Chợt nghe tiếng đáp lại: “Không tự ý quấy rầy, chính là đạo đãi khách, ta có thể chờ, cô nương mời tiếp tục.”
Kinh Niên xoay người, nhìn về hướng miệng động lơ lửng trên đài trời, lập tức lấy tay vỗ vỗ trán, thở dài liên tục: “Ôi, ôi, ta đã bảo là săn sóc hơn người mà, quả nhiên chả sai, Hoàn Tình cô nương, nếu cô không tới, thì Kinh Niên không biết sẽ làm chuyện bậy bạ gì nữa.”
Giọng du dương trầm bổng lại vang lên: “Hoàn Tình tự biết mình tới không phải lúc, vốn tưởng rằng thời gian đã đủ, nào ngờ… là ta suy nghĩ không chu đáo, mong cô nương lượng thứ.”
Nghe cô nói vậy, Kinh Niên vội vàng xin tha: “Ta múa mép trêu mà cô còn nghiêm túc vậy nữa, nước dùng xong, y phục cũng mặc xong hết rồi, còn có thời gian cho ta động tay động chân đây. Hoàn Tình cô nương, cô canh giờ đủ nhiều đủ dư rồi, mau lên đây đi mà.”
Nói rồi đi về hướng lối vào, đi chưa đầy hai bước thì lại nghe tiếng kim loại va vào nhau leng keng, sau đó thấy Hoàn Tình chậm rãi leo lên bậc, vượt qua tường rào rồi bước tới bên này.
Kinh Niên cười nói: “Còn đang tính đi thỉnh cô nương đây.”
Hoàn Tình vẫn cười, nhìn về Thi Ngũ gia sau lưng cô, hơi gật đầu, Kinh Niên thấy thế thì hỏi luôn: “Lần trước lúc tạm biệt, cô có nói ngày sau gặp khó khăn thì cứ tới tìm cô, quả nhiên là nói với Ngũ gia. Lúc đó, cô đã biết Ngũ gia có ý thức của mình, cũng biết sau này sẽ xảy ra chuyện gì rồi, đúng không?”
Hoàn Tình gật đầu, nụ cười hơi thu lại: “Coi như là vậy, tuy không cụ thể, nhưng biết cô sẽ đối mặt với thiên kiếp.” Ngừng một hồi, bước tới gần một bước, thấp giọng hỏi: “Trách ta không nói rõ sao?”
Kinh Niên nhún vai không để ý lắm: “Nói hay không cũng như nhau, suy cho cùng ta vẫn sống sót khỏe mạnh.”
Hoàn Tình lắc đầu nói: “Không chỉ vì thế, chuyện Thi Ngũ gia, không trách ta giấu diếm sao?”
Kinh Niên ngoái đầu nhìn ra sau, lùi lại hai bước tới bên cạnh Thi Ngũ gia, nắm một cánh tay hắn lên, thấy hắn chậm rãi nghiêng đầu, nhìn mình mỉm cười, cô lại ngoảnh qua Hoàn Tình: “Chuyện riêng tư, người ngoài khó nói được, huống hồ cô có lý do không thể nói của mình, than phiền trách móc thì đúng là vô lý, trái lại còn phải cảm tạ cô nương chỉ điểm, chỉ tại Kinh Niên ngu đần, không nghe thấu mà thôi.”
Hoàn Tình nghe mà thở dài buồn bã, đứng yên một lát, môi giật giật nhưng không phát ra tiếng, Kinh Niên thấy cô muốn nói lại thôi, bèn nói toạc ra: “Có gì cô cứ nói đi.”
Lúc nãy ở trong phòng, Kinh Niên đã phát hiện ánh mắt của cô khác thường, cứ như đang cố hết sức truyền đạt tin tức gì đó, nhưng chỉ ngại do Lô Hoài Nhâm ở đó nên khó mà mở lời, có thể thấy chuyện này liên quan tới chuyện bí mật cá nhân, nên mới chọn thời điểm không có người ngoài để nói.
Hoàn Tình lưỡng lự một chút rồi cất giọng hỏi: “Tiếp theo, cô định làm sao? Cách xa trần thế, hay là chen chân vào họa loạn?”
Kinh Niên đáp thờ ơ: “Đã trót hứa với Điện Hạ giúp ngài ấy tranh vị, nói được thì phải làm được.”
Hoàn Tình cười khẽ, trong nụ cười mang theo vẻ không tán đồng: “Lời hứa, là áp dụng cho người để tâm, Kinh Niên, Hoàn Tình hiểu con người của cô, đối với hoàng thất Phượng triều mà nói, cô chưa bao giờ tồn tại ngay cả khi cô vẫn nhớ, vốn nên là người thiên cổ, thì không nên nhúng tay vào phân tranh hậu thế.”
Kinh Niên cười ha ha: “Nói thật hay, một nhát nhỏ máu, moi trúng đáy lòng của ta rồi!” Dừng một chút, rồi giương mắt nhìn chăm chú Hoàn Tình: “Hoàn Tình cô nương, cô nói cô hiểu ta, vậy thì lựa chọn của ta, dù không nói rõ cô cũng lần ra hết chín phần, cô hỏi ra lời, là nghĩ sự lựa chọn này của ta không ổn đúng không.”
Hoàn Tình nói: “Hình Ma Hình Thiên không phải chỉ dùng cách tầm thường là có thể đối phó được, Kinh Niên, nếu có lần nữa, thì ta không thể bảo đảm tính mạng của cô đâu.”
Kinh Niên sửng sốt, lập tức ngẫm lại ngụ ý trong câu này, nghe ra khác một trời một vực với suy nghĩ trong đầu mình, vốn là chuyện không liên quan tới người khác, Kinh Niên thà lãng phí thời gian của mình đi tìm đáp án chứ không muốn hỏi ai, nhưng Hoàn Tình luôn khiến cô cảm thấy vô cùng thân thiết, đối với người này, có rất nhiều lời cô không cần suy nghĩ đã thốt ra ngay, hệt như bây giờ, cô cũng không nghĩ ngợi nhiều mà hỏi trực tiếp luôn: “Không phải không chết được sao? Dù nói là Linh Xà hộ thể, nhưng Hình Thiên gì đó rất ác, đánh một chưởng quả là đánh ngay vào chỗ hiểm…”
Cô lấy tay ấn ngực, nói tiếp: “Tuy có băng vải quấn, nhưng ta khẳng định vết thương đã khép lại hoàn toàn rồi, nhắc mới nhớ đáng lẽ hai tay ta phải bị tróc xương mới đúng, linh khí của rắn nhỏ ngoan đâu tới mức vừa hộ tâm vừa thúc máu thịt sinh trưởng chứ, theo lý thuyết thì lần này ta chết chắc, kết quả không chết mà trái lại công lực còn tăng nhiều, lẽ nào đây không phải do huyết chú sao?”
Lấy cấm thuật hàng phục Thi Ngũ gia, giai đoạn phát triển của cô cũng đóng băng theo, đến giờ vẫn giữ nguyên dáng dấp trước đây. Vì nào giờ chưa từng gặp địch thủ, đừng nói bị thương, tới va chạm xô xát cũng không có nốt, thành ra cô không biết sinh mạng của mình có điểm kết thúc hay không.
Hoàn Tình hiểu nghi ngờ của cô từ đâu mà ra, người thế tục không biết hậu quả của sử dụng cấm thuật, nhưng trên thế gian Hoàn Tình là người xuất thế, nên tự nhiên hiểu rõ đôi chút về vấn đề này. Có điều ngôn ngữ của cô bị giới hạn, chỉ có thể nói ra chân tướng có liên quan mật thiết tới người trong cuộc mà thôi:
“Bất lão và bất tử khác nhau một trời một vực, Kinh Niên, cô thuộc về vế trước, lần này có thể thoát được một kiếp là vì có người lấy mệnh luân hồi tam thế để đổi cho cô, không phải là khỏi hẳn, mà là phục sinh, cô hiểu chưa?”
Kinh Niên nghe mà thầm kinh hãi, hoang mang không giảm mà còn tăng thêm: “Theo ý cô là, ta đúng là đã chết một lần, sau đó có người lấy mạng cho ta, ta nhờ mạng của người ta nên mới sống lại… Ôi chao! Là ai thương ta như vậy, thương tới nỗi đền mạng cũng cam nguyện?”
Câu cuối cùng biến thành thổn thức khó tin, ngoại trừ Thi Ngũ gia ra, giao tình sâu tới nỗi lấy mạng đổi mạng, Kinh Niên tự nhận mình chưa từng gặp người nào khác.
Hoàn Tình thấy ánh mắt hồ nghi của Kinh Niên thì biết lời của mình không cách nào khiến người ta tin tưởng, nhưng cô vẫn nói: “Kinh Niên, tin hay không là ở cô, Hoàn Tình chỉ nói sự thật, công lực của cô tăng lên, cũng là vì có thêm tu vi tam thế.”
Kinh Niên cúi đầu trầm tư, lẩm nhẩm thật thấp: “Nói vậy linh lực tương hỗ gì đó, căn bản không có quan hệ sao…”
Cô nói rất nhỏ, Hoàn Tình nghe thấy thì lập tức cải chính: “Quan hệ không ít, nếu không phải Linh Xà bảo vệ tâm mạch của cô, thì dù ta có độ mệnh, cô muốn sống lại còn phải chờ thêm nửa năm nữa. Thân thể của cô có thể phục hồi kịp lúc, không thể không kể tới công lao của nó.”
Kinh Niên tự thoại bị người ngoài nghe được, cười khan gãi gãi mang tai, nói: “Ta biết ta biết, đáng tiếc rắn nhỏ ngoan đang chạy đi đánh cờ với Chu Công(*), bằng không… ta nhất định phải ôm ôm bóp bóp nó để tỏ hết lòng cảm kính của ta.”
(*) Ngủ.
Cô hồ ngôn loạn ngữ thuần túy là đang nói đùa, Hoàn Tình lại cau nhẹ chân mày, mặc dù không tán thành với cái miệng tía lia của cô nhưng cũng không trách cứ, chỉ coi như không nghe thấy, kéo trọng tâm câu chuyện về chủ đề chính: “Kinh Niên, cấm thuật là do trời sử dụng, người phàm dùng cuối cùng sẽ rơi vào cảnh ngộ tam giới bất dung, sau khi hồn phi phách tán, sẽ không còn cơ hội vãng sinh.”
Thấy Kinh Niên hình như có vấn đề muốn hỏi, Hoàn Tình bèn dùng ánh mắt ngăn cô lại, tiếp tục nói: “Lúc mới gặp cô, ta từng lấy Diêm Vương bia tương đối, chính là thi pháp gia cố tâm hồn của cô, ngay khi cô chết đồng thời thu nạp hồn phách vào trong cơ thể, nhưng đây chỉ là kế sách tạm hoãn, khi phương pháp này đạt tới giới hạn, nếu không có mạng độ, ba ngày sau vẫn không cải được số mệnh hình tiêu hồn diệt.”
Nghe Hoàn Tình nói vậy, Kinh Niên chợt cảm thấy sáng tỏ thông suốt, đã nói là bia đá nhỏ kia bất thường rồi mà, cảm giác như bị một đôi mắt vô hình hút lấy tâm hồn hóa ra là nguyên nhân này. Nghe Hoàn Tình nói rất rõ ràng rành mạch, hợp lý hợp tình, với lại cô một thân chính khí nghiêm nghị, ánh mắt tuyệt đối không có nửa điểm giả tạo lừa đảo, trong đó tuy còn chỗ khó giải, nhưng vẫn khiến người ta phải tin tưởng.
Kinh Niên đang muốn mở miệng, chợt thấy trên vai tì xuống, quay đầu thì thấy Thi Ngũ gia đang đặt tay lên, nhiệt độ lòng bàn tay lan từ đầu vai tới buồng tim. Kinh Niên biết hắn đang lo lắng cho mình, trao qua một nụ cười xoa dịu, đưa tay lên vỗ vỗ trên mu bàn tay hắn, rồi ngoảnh đầu qua Hoàn Tình: “Chuyện sau này ta khoan đề cập tới, cô nương, nói thật Kinh Niên rất hiếu kỳ lai lịch của cô, còn nữa, đại nhân cho ta mạng rốt cuộc là ai thế? Là người ta biết sao?”
Hoàn Tình không đáp mà từ từ nhắm mắt lại, Kinh Niên cười hỏi: “À… xem ra đây là chuyện không thể nói?”
Hoàn Tình nói nhỏ: “Xin lỗi.” Trong giọng chứa đựng áy náy.
Kinh Niên lại không để bụng, vươn vai duỗi người, thoải mái nói: “Ôi chao —- ta đi xuống trước đây, chân sắp đứng tới tê luôn rồi!”
Thấy thần sắc Hoàn Tình có hơi chần chừ, cô bèn trấn an: “Đừng lo đừng lo, cái mạng này là bảo bối của Kinh Niên mà! Có chuyện gì thì ngồi xuống hẵn nói tiếp, vừa khéo ta còn mấy chuyện lơ tơ mơ đây.”
Lúc này bàn tay vốn đặt trên bờ vai chợt run lên một cái, Kinh Niên nghiêng đầu, thấy ánh mắt Thi Ngũ gia lóe lên, bất giác hơi kinh ngạc, thấp giọng hỏi: “Ngũ gia để tâm sao?”
Suy nghĩ một chút, đột nhiên gõ bộp vào lòng bàn tay, bừng tỉnh đại ngộ: “Phải ha, suy cho cùng vẫn là hậu bối của ngài mà, vậy thì phải tra cho rõ đầu đuôi ngọn ngành mới được.”
Kinh Niên đã sớm nhìn trộm được thân thủ của Lô Hoài Nhâm bắt nguồn từ Thiếu Lâm, hắn từng nói Trần Mộc là đệ tử Thiếu Lâm, ấy cho nên ngay từ đầu, cô cho rằng võ nghệ của hắn là giác ngộ từ hành đầu. Nhưng mà khi đánh nhau trong cung, Lô Hoài Nhâm và Trần Mộc đã phối hợp sử dụng “Phục Ma song la trận”, nó chính là tuyệt học bí truyền của Thiếu Lâm Thiên Tôn tự, đâu phải cứ muốn giác ngộ là giác ngộ được. Kèm theo đó thủ pháp của hắn rất thành thạo, hai bên hợp tác chặt chẽ, ngay lập tức cô đã chắc chắn người này từng bái sư Thiên Tôn tự, thế không tính hậu bối của Ngũ gia thì là gì?
Đương nhiên, chuyện Trần Mộc biến thân thành Hình Thiên đã làm cô rất bất ngờ, nhìn cách Lô Hoài Nhâm đối xử với Trần Mộc rõ ràng cũng không phải coi trọng hành đầu đơn thuần, khúc chiết bên trong phải coi hắn có chịu khai thật hay không đã.
Kinh Niên kéo Hoàn Tình cùng xuống đài trời, Thi Ngũ gia theo sát phía sau. Sau khi quay lại thiền phòng, thì thấy Lô Hoài Nhâm đang quay lưng về phía cửa, đứng ngốc ra sau bàn tròn, ngay cả tiếng đẩy cửa cũng không nghe thấy, chẳng biết đang suy nghĩ điều gì.
Kinh Niên còn chưa vượt qua bậc cửa đã chào thành tiếng: “Lô đại ca!”
Tiếng kêu này đặc biệt vang dội, dù là kẻ đi vào cõi tiên cũng bị gọi hồn về. Lô Hoài Nhâm giật bắn cả người, tựa hồ là bị kinh ngạc, hối hả quay người lại, thấy là Kinh Niên thì lập tức cười rạng rỡ: “Muội tới rồi, tiểu muội.”
Hoàn Tình bước vào phòng trước, Kinh Niên nắm tay Thi Ngũ gia dắt vào theo, kéo ghế tới để Ngũ gia ngồi xuống, còn mình thì đứng sau lưng hắn, hai tay đặt lên vai chốc chốc bóp hai ba cái. Lô Hoài Nhâm thấy Kinh Niên nhìn mình với cái vẻ như cười như không, ánh mắt hệt như là muốn xuyên thấu người ta, ngó tới nỗi ớn lạnh toàn thân, hắn không dám nhìn thẳng mà phải nghiêng mặt qua bên, cười khổ nói: “Tiểu muội tốt, ta biết muội có chuyện muốn hỏi, nói thẳng đi, đừng dùng cái mắt buôn thịt nhìn heo đó nhòm ta, làm ta rợn hết cả người!”
Hắn đã nói trắng ra thì Kinh Niên cũng lười lòng vòng, vào ngay điểm chính: “Lô đại ca, Kinh Niên muốn biết thân phận thật của Trần Mộc, hắn là hành đầu của huynh, sao lại biến thân thành cái tên Hình Thiên đồ bỏ gì đó?”
Lô Hoài Nhâm xoa xoa mi tâm, dợm hai bước ngồi vào bàn, thở dài một hơi: “Hầy, muội à, nếu ta nói chuyện Hình Thiên hay không Hình Thiên gì đó ta hoàn toàn không biết, muội có tin không?”
Kinh Niên đáp ngay: “Tin!”
Vì ánh mắt hắn rất chân thành, nhất định không phải ăn nói bừa bãi.
Lô Hoài Nhâm thấy cô đáp cái rụp mà chẳng thèm so đo gì, một chữ “Tin”, đáng dể đánh đổi với bí mật chôn dấu nhiều năm trong lòng. Lô Hoài Nhâm chống khuỷu tay lên bàn, cụp mắt tư lự một lát, khi nhìn lại Kinh Niên lần nữa thì hỏi với giọng trưng cầu ý kiến: “Hình Thiên thì ta không biết, nhưng nhân huynh lại là bạn tri kỷ của ta… mấy thứ lộn xộn trong này không phải nói dăm ba câu là nói hết được, muội tử, muội muốn nghe à?”
Kinh Niên gật đầu: “Muốn nghe tận tường.”
Chỉ nghe hắn thở dài hơi nữa, thấp giọng kể: “Hơn mười năm trước, Thiếu Lâm Thiên Tôn tự thu nhận đệ tử tục gia, kẻ sĩ có chí khắp nơi nghe tin lập tức hành động, Trần Mộc xuất thân từ thế gia võ học tất nhiên muốn bắt lấy cơ hội này. Do đó hắn từ biệt người thân, một mình xuôi Nam, dọc đường vô tình gặp Lô Hoài Nhâm có cùng chí hướng. Hai người xấp xỉ tuổi nhau, mới gặp đã thân, bèn kết làm hảo hữu, sánh vai đồng hành.”
“Trần Mộc thuở nhỏ học quyền cước công phu, mà Lô Hoài Nhâm chẳng những có võ công vượt trội, đao kiếm song tu, còn tinh thông vô số kỳ môn thuật, thứ nào cũng biết, học vấn đa dạng. Trần Mộc không võ không vui, cứ quấn lấy hảo hữu hỏi lung tung đủ thứ, hận không thể thu hết một thân tuyệt học của người kia đắp hết lên người mình.”
Nghe tới đó, Kinh Niên kề vào tai Thi Ngũ gia rù rì: “Mê võ kìa, y chang ngài, Ngũ gia.”
Khóe miệng Thi Ngũ gia hơi giãn ra, mơ hồ nghe thấy tiếng “A” trầm trầm.
Lô Hoài Nhâm nói tiếp: “Trần Mộc là con trai độc nhất, từ nhỏ được phụ mẫu nâng niu trong lòng bàn tay, lần đầu đi xa nhà, mấy chuyện đối nhân xử thế chả hiểu tý gì. Chỉ biết làm bằng hữu thì không nên giấu diếm gì, nhưng lại không biết đòi hỏi người khác cũng là hành vi ngang ngược vô lý. Chẳng qua Lô Hoài Nhâm không ngại, từ trước tới nay luôn hỏi gì đáp đó, có cầu tất ứng, không những thỏa mãn cơn tò mò vô biên vô tận của Trần Mộc, còn không keo kiệt truyền thụ bản lĩnh của mình.”
Kinh Niên nhủ bụng: Kiểu bằng hữu này đúng là hiếm có. Tuy trên quan điểm tự thuật rất là khó hiểu, nhưng cô cũng không muốn chen ngang lúc này, chỉ lẳng lặng nghe hắn kể tiếp: “Mỗi lần Lô Hoài Nhâm dạy một chiêu, Trần Mộc liền chuyên tâm nghiên cứu. Ban ngày đi đường thì nghiền ngẫm tâm pháp yếu quyết, ban đêm đi ngủ thì tự tu tập. Nhờ có Lô Hoài Nhâm bên cạnh chỉ điểm, sau khi nắm được thấu đáo thì truyền thụ chiêu tiếp theo, cứ thế cứ thế, khiến Trần Mộc được lợi không nhỏ. Nhưng mà, Thiên Tôn tự thi luyện nhập môn, chỉ có mình Trần Mộc qua cửa, còn Lô Hoài Nhâm thì bị chặn bên ngoài.”
Kinh Niên hơi cau mày, thấy lời hắn kể khác quá xa tình hình hiện tại. Nếu không vào tự được, thì sao luyện được tuyệt học Thiếu Lâm tới trình độ này chứ?
Lô Hoài Nhâm nhìn cô một cái, cười cười, nói tiếp: “Trần Mộc khó có được chí hữu như vậy, dù thời gian hai người ở chung không lâu lắm, nhưng Lô Hoài Nhâm dốc lòng dạy dỗ, quan tâm chu đáo khiến Trần Mộc hết sức không nỡ. Vả lại tuy hắn vào được cửa tự, nhưng trời sinh mê võ, Lô Hoài Nhâm học nghệ uyên bác, mà hắn mới chỉ học được sợi lông trên chín trâu, đâu chịu thả người lúc này.”
“Chẳng là cổng lớn Thiên Tôn tự không chịu hé ra một tấc, cầu xin cấp mấy cũng không có kết quả, mắt thấy Lô Hoài Nhâm sắp phải rời khỏi, cuối cùng Trần Mộc lại đưa ra yêu cầu vô lý, mong Lô Hoài Nhâm ở tạm lữ điếm ngoài tự để tiếp tục truyền nghề. Kiểu ép uổng này tất nhiên Lô Hoài Nhâm cự tuyệt ngay lập tức. Nào ngờ Trần Mộc đề nghị dùng võ đổi võ, lấy võ học không truyền ra ngoài và kinh thư tâm pháp của Thiếu Lâm làm lợi thế trao đổi, cuối cùng giữ lại được Lô Hoài Nhâm đang quyết lòng muốn đi.”
“Yêu cầu của Thiên Tôn tự với đệ tử tục gia khá rộng rãi, không vào ở trong miếu tự, do đó Trần Mộc mời người dựng nhà gỗ trong rừng trúc lân cận, cùng ăn cùng ở với Lô Hoài Nhâm. Ban ngày vào tự tu hành, ban đêm về luận bàn cùng tiến với hảo hữu, cuộc sống đơn giản nhưng không chán.”
Kinh Niên tự dưng buồn cười, từ bao giờ mà vào Phật môn lại thành dạo hội chùa vậy nè, nói vô là vô nói ra là ra, trước đây có tự tiện như thế đâu. Nhớ lại lúc cô vào trong tự tu tập, luật nghiêm tới nỗi người ta phải sứt đầu mẻ trán, đừng nói là không cho phép ra khỏi cửa tự một mình, mà ngay cả trong tự cũng không được phép muốn đi đâu thì đi.
Xem ra qua mấy trăm năm tẩy lễ, bảng hiệu Thiên Tôn tự cũng bị tẩy tuột màu luôn rồi. Nhớ khi xưa, cô có thể vào tự cũng nhờ có Thánh hoàng tiến cử, dù sao cũng có thân phận đặc thù, vậy mà danh bài trong tự viện chẳng ghi lại tên của cô gì hết, ngay cả nửa môn đồ cũng không được tính. Bây giờ thì hay rồi, ai muốn vào thì vào, học sơ sơ cũng thành đệ tử tục gia, từ khi nào Thiên Tôn tự lại biến thành học đường thế này hở?
Đang tự nhạo trong lòng, đột nhiên liếc thấy hai bàn tay đang đặt trên đùi của Thi Ngũ gia chậm rãi siết lại, lòng Kinh Niên khẽ động, một tay vuốt nhẹ lưng hắn, nhỏ nhẹ an ủi: “Mới thay cũ, đời này đổi qua đời khác, Ngũ gia, ngài đâu thể cưỡng cầu được gì?”
Ngón trỏ và ngón giữa của Thi Ngũ gia nảy nhẹ lên, gõ vào mặt bàn phát ra hai tiếng vang thấp. Lô Hoài Nhâm ngó qua không hiểu tại sao, thấy sắc mặt Kinh Niên như thường mới tiếp tục kể: “Cứ thế qua ba năm, Trần Mộc nhớ người thân, bèn xin nghỉ một tháng, dắt Lô Hoài Nhâm quay về Bắc cảnh thăm người thân. Vậy mà, dinh thự tường gạch ngói lưu ly đã biến thành một một vùng đổ nát, lẫn trong đá vụn là hơn mười thi thể đã thối rữa tới độ hoàn toàn biến dạng…”
Nói đến đây giọng chợt nghẹn ngào, chữ nghẹn trong cổ họng, cách nào cũng không nói tiếp nổi.
Kinh Niên thấy hắn xúc động tới mức này thì càng nghi hoặc hơn, rõ ràng đang nói tới người nhà Trần Mộc, nhưng nhìn phản ứng của hắn, trái lại giống như người chết là người thân nhất của mình, làm bằng hữu mà làm tới mức này cũng quá đủ rồi.
Lô Hoài Nhâm chẳng biết suy nghĩ của cô, một mạch đắm chìm trong hồi ức của mình, hai mắt toát ra vẻ sợ sệt và thất thố, cứ như cảnh tượng thê thảm đó không phải ký ức trong đầu, mà đang xảy ra sờ sờ ngay trước mắt, làm Kinh Niên nhìn mà lòng cũng thắt lại.
Chỉ thấy nét mặt hắn bất chợt từ sầu não biến thành ngẩn ngơ, giọng điệu lúc nào cũng tục tằng thô kệch giờ đây như rơi vào hố băng: “Thây phơi nhiều ngày, không ai đoái hoài, thi thể không được chôn cất, da thịt thối rữa lộ cả xương. Thậm chí Trần Mộc còn không phân biệt được đâu là cha mẹ, chỉ có thể dời từng từng thi thể tới bãi tha ma, đào từng cái hố, đào tới nỗi mười ngón tay máu me nhầy nhụa cũng không biết, tận tới lúc chôn cất hết di thể của người thân, Trần Mộc mới quay lại trấn.”
“Vết đao trên thi thể cho thấy tai họa này do người ta cố ý gây ra, hắn muốn biết là ai tàn nhẫn như vậy, ngay cả đứa bé ba tuổi cũng không tha! Nhưng mà mọi người lại né tránh hắn như rắn rết, không ai chịu tới gần, hắn lang thang khắp ngõ phố, người bốc mùi tanh tưởi, vớ lấy người nào cũng hỏi, là ai giết? Là ai giết?!”
Lô Hoài Nhâm vỗ bàn bật dậy, hai câu cuối cùng gào lên khản giọng.
Kinh Niên thấy hắn kích động như thế, không khỏi lên tiếng xoa dịu: “Lô đại ca, huynh kể mệt rồi, nghỉ ngơi chút đi nhé.”
Hoàn Tình lật một chén trà lên, rót nước trà vào rồi đẩy qua.
Lô Hoài Nhâm cứ như không nghe thấy cũng không nhìn thấy, vẫn miệt mài nói tiếp: “Nhưng không ai trả lời hắn, chỉ trốn rồi trốn, chạy rồi chạy. Trời mưa, Trần Mộc chỉ thấy nước mưa rất lạnh, đập vào người đau không chịu nổi, hắn cảm thấy có một cơn thịnh nộ bốc lên hừng hực, thậm chí muốn chạy lồng lên bắt được ai thì xé nát người đó. Ngay lúc không khống chế được cảm xúc, thì gáy tê rần, mất đi tri giác.”
Kinh Niên nói nhỏ: “Sau đó…” Bàn tay đặt trên vai Thi Ngũ gia bất giác nắm chặt.
Lô Hoài Nhâm dừng một chút rồi ngồi lại ghế, hai mắt nhìn đăm đăm mặt bàn chẳng chớp lấy một lần: “Tới khi hắn tỉnh lại thì đang ở trong dã điếm cách ngoài thành mười dặm. Lô Hoài Nhâm ngồi ở đầu giường canh chừng, thấy hắn mở mắt cũng không nói mấy câu an ủi dư thừa, chỉ kể lại tình hình mà bản thân thăm dò được.”
“Hóa ra sau khi thu xếp cho Trần Mộc xong, Lô Hoài Nhâm một mình trở về trấn tìm hiểu, do hắn là người vùng ngoài tới, rất nhiều người không biết hắn có quan hệ với Trần Mộc, nên đều vui vẻ tiết lộ. Hơn nữa trong sạp trà lộ thiên ba hoa bép xép đủ chuyện, rất nhanh đã tìm ra ác đồ gây nên huyết án diệt môn chính là bọn tặc trộm mới nổi ở phương Bắc, đặc biệt nhắm vào những thế gia võ học tiền to thế bự. Ngay giữa ban ngày ban mặt giết người cướp của, không kiêng nể gì, không giết sạch hết người trong nhà thì quyết không dừng tay, sau khi hành hung thì đập phá trạch viện, trắng trợn táo bạo dán giấy niêm phong, nếu có người cả gan nhặt xác sẽ trở thành mục tiêu tiếp theo.”
“Trước khi tắm máu Trần trạch, ở Bắc cảnh đã có ba phủ đệ gặp nạn, mà Trần Mộc ở sâu trong rừng Nam cảnh, không nghe được phong thanh gì, nếu như nhanh hơn… thì chí ít cha mẹ… có thể đã bớt chịu cảnh khổ gió thổi nắng phơi…”
Kinh Niên thấy hai tay hắn siết chặt thành quyền, toàn thân run bần bật không ngớt, không dằn lòng được bèn chen vào một câu: “Lũ ác ôn đó không ai xử lý sao? Cứ để mặc cho bọn chúng lộng hành khắp nơi sao?”
Lô Hoài Nhâm dộng mạnh quyền lên bàn, khiến khay đĩa chén va vào nhau loảng xoảng, cái chén bên tay hắn bị xô ngã, nước trà đổ lật khỏi chén, bắn tung tóe đầy bàn.
Hoàn Tình thản nhiển thả chén trà vào trong khay, duỗi tay dùng ống tay áo lau nước trà. Kinh Niên thu hết mọi thứ vào mắt, mà Lô Hoài Nhâm thì quên cả bản thân mình, trừng mắt phẫn nộ, chỉ nhìn thấy quá khứ chứ không thấy được cái trước mắt.
Rồi hắn đột nhiên nghiêng đầu nhổ toẹt nước bọt, căm hận nói: “Ai có thể xử? Ai dám xử? Hủy liên tiếp ba đại phủ chiêu bài ở Bắc cảnh, bất cứ ai tới cửa trả thù, thấy chuyện bất bình tới đòi lẽ phải, đều bị làm thịt rồi lột hết quần áo treo ở đầu thành thị chúng, đừng nói dân chúng bình thường sợ chết khiếp, mà ngay cả quan phủ còn không giả bộ chết nhát sao! Mạng người khác nào quý bằng mạng của mình, chết hay không chết chỉ trách mình xấu số!”
Hắn hít vào một hơi thật sâu, nghẹn hồi lâu mới chậm rãi thở hắt ra, lúc mở miệng lần nữa ngữ điệu sục sôi đã bình tĩnh lại khá nhiều, nhưng Kinh Niên lại cảm thấy đó là một loại phẫn nộ bị dồn nén tới cực hạn.
Chỉ nghe hắn buồn bực nói: “Huyết hải thâm thù không đội trời chung, nếu biết kẻ thù là ai, có lý nào lại ngồi chờ chết. Trần Mộc nóng lòng báo thù, đã quên mất bản thân đang ở Phật môn, không thể khai sát giới bừa bãi. Dưới cơn nóng giận đã xông lên sơn trại của bọn đạo phỉ, Lô Hoài Nhâm đề nghị hãy âm thầm quan sát sau đó mới đánh lén bắt tên tặc vương. Nhưng Trần Mộc tự cho là quang minh lỗi lạc lại nằng nặc chọn cách tấn công chính diện, hắn tự cho là mình nền móng vững chắc, bản lĩnh vượt trội, nhưng không ngờ núi cao còn có núi cao hơn.”
“Trong ổ tặc ngọa hổ tàng long, tên nào tên nấy đều là cao thủ hạng nhất, lấy nhiều địch ít, còn ở ngay địa bàn của mình, phải nói là chiếm hết thiên thời địa lợi, hỏi sao Lô Hoài Nhâm và Trần Mộc giành được lợi thế?”
“Bị đánh tới nỗi thương tích đầy mình, thoát khỏi vòng vây trong gang tấc, trốn vào một sơn động. Mặc dù Lô Hoài Nhâm bị thương nặng, nhưng chỉ bị thương ngoài da, tính mạng không nguy hiểm. Nhưng Trần Mộc thì bị chưởng lực đánh tới nội phủ, tự biết mạng không còn lâu, nhưng trong lòng vẫn không cam, sợ chết không nhắm mắt.”
“Lúc này hắn nhớ tới Lô Hoài Nhâm biết đạo Ngự thi, nên thỉnh cầu hắn biến thi thể của mình thành hành đầu, đợi thời cơ báo thù huyết hận, quyết ý dù hóa thành cương thi cũng muốn đích thân chính tay đâm chết kẻ thù. Lô Hoài Nhâm lập tức nhận lời, hắn liền mỉm cười mà chết…”
“Khi hắn lấy lại ý thức lần nữa, vừa mở mắt ra, ý nghĩ còn đần độn, đã thấy một người nằm thẳng dưới đất, tướng mạo đó, y phục đó, chính là bản thân! Mà Trần Mộc sống lại không biết sao đã chạy vào trong thân thể Lô Hoài Nhâm!”
Mặc dù Kinh Niên đã sớm đoán ra vài phần, lúc này nghe hắn tự nói ra thì vẫn cúi đầu kêu khẽ một tiếng.
Lô Hoài Nhâm đặt hai bàn tay lên bàn, thấp giọng nói: “Gặp phải biến cố này, hắn nhất thời luống cuống tay chân, đi tới thăm dò cơ thể của mình, hơi thở đã tắt hẳn, bên cạnh mở ra một quyển sách cũ, hắn tiện tay nhặt lên xem thử, lại kinh dị phát hiện, bên trong ghi lại cấm thuật phong hồn đã thất truyền. Lúc này mới lý giải được không phải ai sau khi chết cũng có thể hóa thành cương thi, mà vì muốn hoàn thành gửi gắm của hắn mà Lô Hoài Nhâm không tiếc mạo hiểm dùng cấm thuật này để cầm tù hồn phách vốn phải tan đi.”
“Trong sách có ghi lại cách sử dụng Phong hồn thuật, cũng cảnh báo rằng một khi người dùng thuật này thất bại, ắt sẽ bị trời phạt. Nguyên hồn của kẻ thi thuật sẽ nhập vào xác chết của người chịu thuật, biến thành thi, đồng thời cơ thể sống của người thi thuật sẽ hút vong hồn của người chết, tức là trao đổi sinh tử với người bị thi cấm thuật…”
Tác giả :
Thác Ẩn