Thế Lực Khách Trú Và Vấn Đề Di Dân Vào Nam Kỳ
Chương 6: Kỳ 6: Bàn việc di dân vào Nam kỳ
INghĩ cách nào mà tước bớt được cái thế lực Hoa kiều trong Nam kỳ đi bây giờ? lại tẩy chay nữa chăng? Hay là ra luật hạn chế?
Ở phần trên kia, tác giả đã tự thuật qua loa cái thế lực của Hoa kiều trong Nam kỳ, từ nhân sô tư bản, thương mại, công nghệ, nhân công.v.v… nhất thiết kết lại thành một khối rất tốt rất to, hình như là lăn không chuyển, lại không rời được nữa. Tự những nguời nào nghe tiếng, tưởng cũng đã thấy lạnh mình, mà ai được chân đi đến chốn, mắt trông tận nơi, thì lại càng khiếp lắm nữa, tựa hồ như mình đứng trước một bức tường thành, mà trong có cờ xí xâm nghiêm, quân tướng hùng hổ như mình đứng trước một bức tường thành, còn có chôn địa lôi có quân mai phục màta chưa thể có được. Thế thì các chú đã là một cái vạ cho ta rồi, nhưng ngoài cái vạ các chú ra, ta còn có một cái vạ “anh bẩy” nữa, tưởng chẳng phải không đáng sợ. Người Ấn Độ tức là “anh bẩy” (cái tên người Nam kỳ đặt cho người Ấn Độ như thế, cũng không hiểu vì sao), sang doanh nghiệp bên Nam kỳ cũng đông lắm, phần thì buôn bán như mấy hiệu Bom bay (Bombay) ở đường Catinat, lưng vốn hàng mấy triệu, phần thì làm nghề cho vay, tụ nhau ở một phố đến mấy trục nhà, phần thì bán vải, phần thì đổi bạc.v.v… từ Sài Gòn Chợ Lớn cho đến Lục tỉnh, đâu ta cũng thấy có năm mươi tiệm Chà và, số người phổng chừng cũng non hai vạn chứ không ít, mà sau này tất có nhiều hơn.
Hoa kiều tức là cái vạ cho xứ Nam kỳ ta, mà tức là cho cả nước ta, thật đấy, chưa kể đến cái thực lực của họ bây giờ đã nguy cho ta rồi, mà xem đại thế thì đoán chắc rằng cái thực lực của họ còn to lớn ra nhiều hơn nữa, là vì tiện đường đi lại, dễ sự kinh doanh, mà bước chân họ đi, chưa có gập gai góc gì chăn trở, ngoảnh mặt ra Đại hải, chỉ có nghênh ngang làm ông chủ, mà trên vàng dưới cám, cái kho vô tận hãy còn nhiều, chắc họ ngăn lưng vào mà moi ra cho hết, cho nên nay mai hải cảng Sài Gòn mở rộng hơn bây giờ nhiều. Ôi xứ Nam kỳ ta là cái kho vàng của cha ông ta để lại, không có lẽ con cháu cứ ngồi nhìn cho người ngoài như người Tầu đào lên, bỏ vào đãy vác về mãi, mà ta đành chịu nằm co trong cái phạm vi kinh tế của họ, hình như phải có họ mới có áo mặc che thân, phải có họ mới có thuốc uống khỏi bệnh, thóc gạo nhờ họ mới có chỗ bán, vật liệu nhờ họ mới có chỗ dùng, như thế cũng chẳng là hèn lắm ư? Không phen này phải tìm cách đề kháng mới được.
Chắc có người bỏi vận rằng: sao chỉ có để kháng Hoa kiều trong Nam kỳ ta, chớ cái thế lực của Hoa kiều ngoài Trung, Bắc kỳ này nhỏ lắm đấy ư?
Phải nói thật thế, ta phải biết phân biệt cái thế lực của Hoa kiều trong Nam và ngoài Bắc khác xa nhau mới được. Ngoài Bắc tuy có nhiều chỗ tụ họp đông Hoa kiều, và xem chừng cũng có bề thế lớn, như Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định và ở phố Hội An trong Trung kỳ, tác giả đều trông đến nơi, so với trong kia mười phần, thì ngoài này chỉ có một, lại thêm dân ngoài này, vì đường sinh kế bắt phải ra làm lụng ganh đua, buôn bán công nghệ đều tấn tới mau lắm, cho nên thấy cái cõi đất mà người Tầu để vững chân vào khoảng năm mươi năm trước kia, nay đã thấy họ đẹp đi mất một ít, cứ cái tình thế ấy mà xem, trong đôi ba mươi năm sau này, chắc ta cũng còn thấy cửa hàng cửa hiệu của Hoa kỳ buôn bán ở ngoài này, không như ở Nam kỳ, nếu cứ để tự nhiên như bây giờ, thì cái thế lực của họ càng ăn sâu rễ xuống, mà chẳng biết bao giờ long ra được. Vả chăng tình hình xứ Nam kỳ ngày nay, không khác nào là cuống họng của ta bị mắc kẹt, thế thì phải từ đó gỡ đi, cũng như đánh trận, cốt nhất lấy được chỗ yên tắc, còn những chỗ kia thì rồi phá dễ như chơi, ấy là một lẽ rất rõ ràng vậy.
Nhưng cái phương pháp để kháng họ phải như thế nào?
Nhiều người nghĩ hay là lại gây cái phong trào tẩy chay, hay là ra điều luật hạn chế, nhưng mà hỏng, hai cách này không xong được đâu.
Phải tẩy chay họ thế nào được. Việc năm 1919 kia, chắc chưa ai quên, nếu bây giờ ta lại làm, thì thất bại nữa, chưa nói gì đến cái giây văn hoá ràng buộc ta với họ đã lâu đời, là nói kiểu đạo đức ân nghĩa, đôi bên có cái nghĩa chủng tộc, quan hệ với nhau rất là thân thiết, phút chốc cự tuyệt nhau đến cách thế không, phương chi lối cử động ấy đối với sự nhu dụng của ta, và quyền chính trị của Chính phủ bảo hộ ở đây lại càng không được. Vật sản công nghệ của ta, tuy ngày nay có khá hơn trước nhiều, trong Nam kỳ ta thì chưa nói gì, tức chí ngoài Bắc này, thế mà vẫn chưa đủ xứng với sự cần dùng của mình, phần nhiều còn phải nhờ vả đến họ, ví bằng tẩy chay họ đi sao cho khỏi nạn lúng túng? vả lại cuộc tảy chay năm nào, dầu cho có người bảo là một cơn hờn dỗi của trẻ con, nhưng mà cũng có ảnh hưởng rồi đó, cũng đã đủ cho người Tầu nhớ lại lịch sử rằng, mấy phen trong thời nội thuộc, và sau trận sông Bạch Đằng, sau trận Đông Đô, sau trận ở bến Bộ Đầu, lại có việc tẩy chay năm 1919, nghĩa là dân tộc Việt Nam bao giờ cũng sẵn cái tinh thần để kháng với “Thiên triều” luôn, thế là đủ rồi không nên làm nữa, huống chi cử động như thế là thù vặt, người độ lượng không ưng làm, và lại có lợi hại sê sích nhau xa, cho nên xem 30 vạn người Nhật mới rồi bị Mỹ đuổi về là nhục bao nhiêu, đã toan để chế Mỹ nhiều, không thể rời đi được. Còn như Chính phủ bảo hộ có chức trách bảo hộ cho dân ta, thì phải bảo hộ cho dân ngoại quốc (đây chỉ nói Hoa kiều) vào ở đất ta nữa, vì mỗi người họ gánh vác thuế má nhiều, lợi cho sổ chi thu lắm, lại theo cái nghĩa thông thương tự do ở đời bây giờ tất Chính phủ phải bảo toàn cho họ được yên ổn, nếu ta làm thế, tức là phạm vào quyền trị an của Chính phủ vậy, không nên.
Còn như ai nghĩ cách ra điều luật hạn chế, là có ý lấy việc nước Mỹ thi hành luật khu trục mấy mươi vạn người Nhật ở Californie về hôm 1 Juillet vừa rồi làm tỷ lệ vậy. Nhưng ai ra điều luật hạn chế Hoa kiều ở ta bây giờ? Chính phủ bảo hộ ư? Không, nước Pháp vốn là một nước trọng nhân đạo, không bao giờ làm như thế, vả lại đảng di dân nào ở đây đông, thì đường tài chính của Nhà nước càng lợi, để lấy đấy mà dựng lên sở vô tuyến điện to, có thể không thuộc với bên Pháp, lập ra nhiều đội tầu bay để tuần phòng và xem xét địa thế, lại thêm để giúp các miền bị tàn phá ở bên Pháp, toàn là việc công ích công nghĩa cả, họ thế thì can chi mà hạn chế họ, mà nếu ra luật hạn chế họ, thì có người lại bày khôn cho ta rằng: thế là trái luật thông thường tự do ở vạn quốc, không thể làm bướng được như nước Mỹ đâu.
Xem thế, hai cái phương pháp để kháng Hoa kiều, mà ta tưởng là hay, thì đều không làm sao được cả, vì đều có cái ý nghĩa “bạo động” hay là ý nghĩa “phạm quyền chính trị” ở trong, thì làm sao mà làm cho được, thế thì bây giờ muốn tước bớt cái thế lực ở Nam kỳ đi chỉ có cách “tiêu cực đề kháng” là diệu hơn cả mà thôi.
Thế nào là tiêu cực đề kháng?
Là thế chống lại họ bằng một cách ngầm, vừa dịu dàng, vừa êm ái, (cần nhất là chớ có bạo động) thế mà họ phải nguỵ, nghĩa là ta cũng lập ra nhiều hiệu buôn bán, mở ra nhiều xưởng công nghệ, chuyên tâm về đường chế tạo cho khéo gây dựng lấy một đảng nhân công cho to, trên đường cạnh tranh, thì ta ứng phó về mặt nào cũng có sức, bấy giờ dù họ có tài giỏi đến đâu, hay là nhờ có quyền bảo hộ nào rất thiêng liêng ta quét họ lần lần cũng phải hết. Lý luận thì như thế, nhưng thực hành thì phải làm thế nào? xứ Nam kỳ ta thiên thời, nguyên liệu không thiếu gì, tư bản không thiếu gì, nói tóm lại nội thứ gì gọi là những tài liệu để xây đắp lên nền kinh tế, thì có đủ hết cả, duy chỉ có thiếu “người” mà thôi. Thiếu người để khẩn những đất hoang, thiếu người đem nguyên liệu của mình ra mà lợi dụng, thiếu người ra buôn bán ganh đua, lại thiếu người làm cả tiện công tiện nghệ nữa. Nhân thế mà Hoa kiều khai thác được, thì bây giờ ta cũng nên nhân thế mà bổ khuyết vào, ngoài Trung Bắc này thừa người, thì nên vào mà gánh vác lấy những việc ấy. cho nên nói rằng “di dân vào Nam kỳ là cốt làm cho cái thế lực Hoa kiều đi, mà tức là một cách tiêu cực để kháng vậy.
Phương chi ngoài Bắc này còn vì cái thế bắt buộc phải đi đâu
II
Cái thế Trung, Bắc kỳ phải di dân, Đất hẹp người đông, ruộng ít mà hay đất mùa, nghề nghiệp không đủ cho dân làm ăn, Chứng tỏ sự di dân vào Nam kỳ là phải.
Trung Bắc kỳ vì cái thế bách phải di dân đi thật.
Trước hết hãy lấy mặt địa thế và nhân khẩu mà nói, đã đủ cái thế bạch ấy ta thế nào:Bắc kỳ
Trung kỳDiện tích tính theo kilomet vuôngTính ra mẫu tâySố người(1) 105.00010 triệu 50 vạn6.850.453 150.00015 triệu4.933.429Lấy số người ấy với số đất ấy, mà so sánh với nhau, thì cũng kể là còn rộng rãi, nghĩa là đất rộng và người thưa lắm, ở Bắc kỳ mỗi Kilomet vuông chỉ có 75 người, Trung kỳ mỗi kilômet vuông chỉ có 32 người mà thôi, không bì với bên Pháp mỗi Kilômet chừng 71 người, mà một nước láng giềng ta là nước Tầu đến 104 người ở trong một diện tích cũng như thế. Kể vậy thì thật rộng rãi thênh thang, vậy chật chội gì đâu đến nỗi, song le gẩy con tính thì nói như vậy đó thôi, chứ cái tình thế thật ra thì lại kế khác.
Hai xứ tuy có đất rộng như thế, nhưng thấy trong nhân gian ở vẫn chật hẹp lắm, mỗi kilomet vuông có 300 người ở. Là vì rộng thật đấy nhưng có phải toàn là đất ở được và cày cấy giồng giọt được cả đâu, phần thì rừng núi tứ tung, phần thì đất hoang chưa khẩu, lại còn lựa đất nào để giồng giọt, lựa đất nào để người ở, thành thế trong hai xứ này, ở trên tỉnh thành thì có cái khủng hoảng về nhà cửa, mà ở thôn quê, nhà cửa hình như cũng chen chúc nhau lắm, thấy có hàng chật, vượt ra thành xóm, thấy có xóm chật, vượt ra ngoài đồng, nhà nào ruộng là một sào,, hẹp là vài miếng, ta đi khắp mọi làng, hoạ lắm mới có nhà ở được đất rộng và có vườn rược, chẳng bì ở trong Nam kỳ, nhà ở hàng mẫu là sự thường thấy lắm. Ngoài này ta đã thấy có nhiều làng, người ta phải mua ruộng tư rất đắt tiền để lấy chỗ ở, mà làng nào chỉ có ruộng quan điền, thì thấy dân cư, nay vượt một tí, mai vượt một tí, hụt mất một khẩu phần, thế là hơn trục chỗ ở, thì kém mất miếng ăn, chả bõ gì cả. Còn như mỗi người trong mỗi nhà ở cũng đã thấy chen chúc nhau lắm, già trẻ lớn nhỏ, thường mỗi nhà đều 15 người trở xuống, năm bẩy người trở lên, đã đông người mà nhà cửa lại ụp sụp bẩn thỉu, rất trái phép vệ sinh, cho nên thường sinh ra nhiều bệnh nguy hiểm như là bệnh dịch, bệnh tả.v.v… Phương chi nhờ được khí hậu ấm áp dễ chịu, vả lại ít lâu nay có nhà thương, và phương pháp hộ sản mới, cho nên sự sinh dục thấy mỗi ngày một tăng, cứ lấy sổ thống kê dân số mấy năm nay mà so sánh, thì năm nào nhân số cũng tăng lên đến 30% như thế sinh sản ngày một mạnh, mà đất cát chỉ có hạn thôi, e rồi có cái vạ “nhân mãn” (TQ) nếu không tìm cách mà đi bớt đi thì lo một ngày kia không chỗ nào mà dung tích đủ người, cũng không đất nào mà dưỡng đủ dân nữa.
Lấy cân thăng bằng mà cân số đất như thế và số người như thế, đã chẳng tương được với nhau rồi, huống chi cái nghề sinh hoạt lại càng không tương được, với số người như thế nữa. Không nói thì chắc ai cũng hiểu cái nghề cốt tử của dân mình là nghề canh nông, mà nghề canh nông trong Nam kỳ còn khá, chứ ở hai xứ mạn ngoài này nào có ra gì. Bắc kỳ rộng đến 10 triệu 50 vạn mẫu tây, nhưng mà trong đó có dễ gần một nửa là rừng rú và đất bỏ hoang chưa khẩu, ta xem ở trên mạn ngược như tỉnh Bắc Kạn rộng tới 45 vạn mẫu mà rừng núi choán hết là 40 vạn mẫu, tỉnh Hà Giang thì 11 vạn mẫu đất hầu hết là rừng, Lào Kay rộng đến 58 vạn mẫu, mà mất 50 vạn mẫu là cỏ mọc và rừng núi, mấy tỉnh như Thái Nguyên, Tuyên Quang, Bắc Giang, Cao Bằng v.v… là những tỉnh ở mạn trên, đều như thế hết cả. Còn như mấy tỉnh ở dưới này, có tiếng trù phú như Hải Dương, trong 6 vạn mẫu đất, cũng mất 3 vạn là đất núi chẳng giồng giọt được gì, Vĩnh Yên cũng đại khái như vậy, duy chỉ còn mấy tỉnh như Thái Bình, Nam Định, Hà Đông, Hà Nam, Bắc Ninh.v.v… còn gọi là có ruộng mà thôi. Trung kỳ thì phải cái địa thế chạy dài, đất trên 15 triệu mẫu thì cũng rộng thật, nhưng mà phải dãy núi Hoàng Sơn chắn ở sau lưng, bề Đại dương án ở trước mặt, còn dư chỗ đất cày cấy được cũng chẳng bao nhiêu, mà đất lại xấu lắm, những tỉnh có tiếng là dễ cày cấy ở Trung kỳ như là Bình Định, Phú yên, Quảng Nam, Thanh, Nghệ, thế mà giá dem so với mấy tỉnh là có tiếng dễ cày cấy tầm thường ở ngoài Bắc cũng còn kém xa, còn như Khánh Hoà với Bình thuận v.v… thì cũng y như những nơi trên mạn ngược ở ngoài này, nghĩa là rừng núi chiếm mất số nhiều mà ruộng nương chỉ còn lại là số ít mà thôi.
Ruộng đất đã hiếm hoi, mà nghề canh nông lại chật vật khó khăn, xem nông dân làm ruộng cày bừa gieo cấy, công phu khó nhọc biết bao nhiêu, thóc gạo mỗi năm chỉ đủ cho dân ăn, may năm nào xuất cảng được lấy vài mươi vạn tấn đã là nhiều lắm, vì ruộng bị nhiều cái hại, như những cái nạn chuột gặm sâu ăn, trời hanh gió nồm, các nhà làm ruộng lo sợ ngày đêm, có khi vụ gặt đến nơi, mà chưa chắc đã được ăn hay hỏng, những cái hại ấy, tuy lâu nay có tìm nhiều phương pháp để trừ, nhưng lại chưa làm đến nơi, cho nên cũng chẳng thấy có công hiệu gì. Mà những cái hại ấy đã thấm gì bằng cái hại đại hạn và nước lũ. Đại hạn còn khá, vì cái phạm vi thường hẹp, đến như nước lũ vỡ đê thì có hại vô cùng, tràn ngập có khi lan ra hàng mấy tỉnh.
Nông dân là một hạng chiếm đa số nhất trong xứ, ruộng đã không có đủ mà làm, cái đời của họ sống được lại trông mong ở thóc gạo, thế mà cái nông mỗi làm ruộng bấp bênh như thế kia huống chi là nghề nghiệp. Ngoài nghề làm ruộng ra dân Trung, Bắc hai kỳ còn có nhiều nghề nghiệp thật, như những nghề tầm tang, canh cửi.v.v… cùng là những đồ công nghệ chế tạo, ngày mõi khá mỗi nhiều, phần to thì cung cấp trong nước, phần nhỏ thì đem ra ngoài bán, kể đến thực trạng thật chưa ra gì, là bởi tiếc rằng công nghệ thế đấy, nhưng mà mình chưa biết dùng lãi ít ỏi, lại ra phết mỗi năm xuất cảng những đồ chế tạo gì bao nhiêu là tiền, nhưng nào có phải chính mình xuất cảng được đâu mà hòng có lợi, chẳng qua mình cũng chỉ được tiếng có đồ đem bán đấy thôi, kỳ thực có miếng ngon nào, người ăn mất cả tuy vậy, cũng đủ nuôi một đảng người lớn lắm. Song bao giờ nông dân cũng là một đảng to lớn, cho nên có công nghệ thật, nhưng mà nghề gì thì nghề, cái bước tới lui vẫn phải trông ở mùa màng cấy hái của dân gian làm hạn, mùa màng khá thì nghề nghiệp khá, mùa màng hỏng thì nghề nghiệp nguy. Ta thấy năm nào ruộng tốt gạo hơn, thì buôn bán nghề nghiệp nhất thiết đều có bề khởi sắc, không may năm nào mất mùa thì chẳng cứ việc gì, đều thấy đình trệ lại hết, thì mới biết ở trong nước ta bây giờ trăm việc đều chịu ảnh hưởng ở nghề làm ruộng cả vậy.
Có ruộng mà cày cấy, có nghề mà làm ăn, những hạng dân có sản nghiệp căn bản như thế còn khá, còn những hạng dân khốn cùng quần bách, ruộng không có mà cấy, nghề không có mà làm, toàn là hạng vô sản nghiệp cả, số này có khi chiếm một phần nửa số dân. Ta chẳng có sổ thống kê nào cả, nên khi không biết chắc rằng số người vô nghệ hoặc thất nghiệp như thế là bao nhiêu, song cứ lấy cái hiện trạng sinh hoạt mà xem cũng đủ biết, trên tỉnh thành thì thấy những người lòng bòng đói rách, ăn mày, ăn xin nhan nhản, mà ở nhà quê thì bao nhiêu người trông chẳng có cái khí sắc ấm no, rõ tội nghiệp quá. Hạng dân vô sản nghiệp này, đều là người làm, tay thợ cả đó, nếu cứ để cho họ chìm đắm trong vòng khổ sở đó, thì ra một hạng người rất nguy. Các nước Âu Mỹ, thương nông nghiệp phát đạt là thế, công nghệ mở mang là thế, bọn người chỉ sống nhờ tay mềm chân cứng rất nhiều, thế mà vẫn không khỏi bọn dân vô sản. Vả chăng lấy thường tình con người ta, hễ đã đến cấp cơ hàn thiết dân, thì quên hết bản tính, mới đâm ra làm xằng, lúc bấy giờ, thì thôi lừa đảo trộm cướp, tội ác mấy cũng làm, ăn xin ăn mày sỉ nhục mấy cũng chịu, cái mục đích duy nhất, là chỉ kiếm cớ cơm áo mà thôi có kẻ chịu khó đi làm mướn làm thuê, nay cấy mạn Bác, mai gặt xứ Đoài, hay đi vác gạo kéo xe, cũng là làm trong các công xưởng nọ, nhà máy kia, toàn là một mất khổ công, bồ hôi nước mắt suốt ngày, lại ngọn roi cái đá phục luôn đằng sau lưng, mà nào có kiếm được nhiều tiền gì cho bõ, bất quá ngày được một vài hào, ngoài này chỉ thế mà thôi, vì thừa nhân công, cho nên người ta bắt bí được, chưa chắc đủ nuôi được thân mình nào lại còn lo xống áo vợ con, còn nào là thuế thân Nhà nước, tốn kém đủ trăm cấp, mà kiếm ra chỉ được có thế thôi, than ôi, cái thân bọn “lao động” ở mình cực nhục hết sức!...
Mới xét đại khái như thế, đất không đủ chỗ ở, ruộng ít không đủ cày cấy, nghề nghiệp không đủ làm ăn, thế mà người lại đông, thế mà ba cái thế rất nặng, buộc dân Trung, Bắc kỳ phải di dân đi vậy.
Di dân đi đâu?
Ở trong cái địa vị người nước ta bây giờ, giới hạn chỉ có từ trên biên giới Lao Kay, dưới mũi biển Cà Mâu, trong giáp Diến điện, Xiêm la, ngoài sát bờ bể Trung Quốc, loanh quanh có đấy mà thôi, còn đi đâu được nữa, vả lại cũng chẳng cần đi đâu làm gì, vì ngay trong đất nước mình, còn chán chỗ làm được vậy, vậy thì dân ngoài này, có muốn đi đi, chỉ có vào Nam kỳ là tiện hơn cả.
Di dân vào Nam kỳ, làm cách nào cho dễ dàng, cùng vào đọ làm nghề nghiệp gì, lát nữa tôi sẽ nói, nhưng đây tất có người hỏi rằng: “ở Bắc kỳ thì mạn trung châu, đất hẹp dân đông thật, nhưng mà ở trên mạn ngược, còn bao nhiêu là đất hoang chưa vỡ, lâm sản bỏ hoài, đang cần dùng nhân công để lên khai thác, trong Trung kỳ cũng thế, mà miền Mọi còn bỏ hoang, buôn bán không có, công nghệ không có, cũng đang cần nhân công vào đó mở mang, phương chi bây giờ đang cần khai thác xứ Lào, dân Trung Bắc kỳ sang bên ấy cũng tiện lợi am chứ, cần gì phải vào Nam kỳ ?”
Vâng sự lý xét như thế là phải lắm rồi, tôi cũng đã từng nghĩ đến, song nếu suy xét lại, thì mới biết mình nghĩ thế là nhầm, mà điều nghĩ ấy, tất phải đến hàng bao nhiêu năm sau này họa chăng mới thành sự thực, chớ không phải có thể nói được làm được ngay từ bây giờ.
Ai lại chẳng biết ở mạn ngược Bắc kỳ còn có nhiều hoang điền chưa vỡ, lâm sản chưa dùng thì nên đem dân lên mà mở mang, thế mà ta thấy nhiều người thí nghiệm rồi, hoặc bị thất bại, hay là cũng chẳng có hiệu quả gì lớn, vì có nhiều sự ngăn trở lắm. Thứ nhất là tại khí hậu độc, nói thế thì chắc có người cho là hủ hay là tin nhảm, là vì người ta đã có cách vệ sinh, biết đường phòng bệnh, thì khí hậu nào ở lại chẳng được, thế mà đối với những ông sang trọng nhiều tiền, thỉnh thoảng lên những mạn trên ấy để nghỉ mát, ở tất nhà cao, uống tất nước lọc, thì mới như thế được, chứ đối với dân lao động lên đó, cuốc đất chặt cây xuyên rừng phá núi, xin hỏi đã có ai hay là có cách gì bảo lĩnh cái sinh mệnh cho họ chưa. Thôi thì tụ họp tàm nham, ăn uống kham khổ, ta từng thấy nhiều người đi mạn ngược về, mà thịt bủng ra thì cả đó cho nên bây giờ có ai lên đó khẩn điền mà mộ được phu, thật là một việc khó, vì nghe hai tiếng “mạn ngược” thì họ đã khiếp cả rồi. Thứ hai là khác tính tình phong hóa, nói thế này chắc lại có người cho là hủ nữa, vì người các nước sang ta, khác tính tình phong hóa đến đâu, sao họ cũng ở được, song cái tình thế ở ta lại khác. Dân trên ấy toàn là Mường, Thổ, Mán, Mèo, tính tình phong hóa đã khác ta, mà lâu nay lại ở một chế độ cai trị khác, cho nên tuy là cùng một dân ở chung miếng đất với nhau, mà cảm tình nhạt nhẽo lắm, thành ra ta đã từng có nhiều người lên buôn bán với họ mà chẳng làm ăn thua gì, vả chăng tính họ lại hung tận lắm, có khi Nhà nước lấy được thuế của họ cũng khó lòng, phương chi nay bảo lên chiếm những khu vực của họ đều ở mà làm ăn, sao cho khỏi nỗi nguy hiểm trở ngăn được. Thứ ba tại đường giao thông chắc trở đi lên mạn ngược lôi thôi quá, vì chưa mở mang được hết đi lại khó khăn, phần nhiều là rừng rậm núi cao, suối sâu, thác lớn, thành ra xưa nay việc buôn bán, mạn dưới với mạn trên không bao giờ khá được, là vì cách vận tải giao thông phiền phức đắt tiền nói chi đến sự di dân.
Cái tình thế trong Trung kỳ đại khái cũng vậy. Dân mọi ở phía trong Phú Yên, Bình Thuận, Khánh Hòa, Kontum, chiếm một khu vực rộng rãi, thiếu chi là nguồn lợi bỏ không, chưa ai nhúng tay đến, nhưng miền ấy là cấm địa, Nhà nước cấm không cho người Annam nào được vào, thế thì bảo trong ấy có nhiều mối lợi đấy, đâu ở ngoài đồng bằng này làm sao vào được mà nói ra.
Nói tóm lại, cái chính sách cai trị của Nhà nước rất khéo rất hay, nghĩa là cái chính sách “phân ra mà trị” thế thì dù bây giờ mạn ngược ở Bắc kỳ, miền mọi ở Trung kỳ có món lợi “bở” đến thế nào, ta cũng nhịn thêm mà thôi, phương chi còn nhiều điều ngăn trở không thể để sau này ta tìm cách giải quyết vấn đề này cho bõ xứng đáng, chứ bây giờ thì không thể nói được, tình thế đã khiến như vậy rồi. Ngay xứ mình còn bỏ bễ ra, chưa khai khẩn được hết, thì nói chi sang Lào, vả lại sang Lào thì khác gì sang Nouvelle Caledonie, xa xôi khổ sở chết đi, chứ vẻ vang gì mà nghĩ.
Như thế thì đủ chứng tỏ chắc chắn rằng: sự di dân vào Nam kỳ là phải hơn cả vừa là hợp trường sở, vừa có chỗ trông mong, tuy cũng chẳng có một vài khó khăn, như ta cũng tìm cách giải quyết với nhau được, vậy thì anh em ngoài Trung, Bắc ta ai là người có tài nghề, ai là người mạnh chân khoẻ tay, ai là người nghèo nàn đói khó, thì nên vào Nam kỳ mà làm ăn, anh em trong Nam kỳ ta cũng mong mỏi lắm đó.
Tác giả :
Đài Trinh Nhất