Thế Giới Kì Bí Của Ngài Benedict - Tập 1: Bút Chì, Tẩy Và Người Thắng Cuộc
Chương 2: Kính cận và giỏ đồ
Lúc này, khi chỉ còn một mình trong phòng, Reynie cố gắng tự giải thích những gì vừa diễn ra. Tại sao tên của Rhonda Kazembe không được gọi? Có phải vì bạn ấy đã gian lận không? Hay cuối cùng thì những câu trả lời của bạn ấy lại không chính xác? Và tại sao ngay đầu tiên bạn ấy đã có đáp án cho bài thi? Tất cả đều rất bí ẩn, và điều khiến Reynie tò mò nhất là thái độ của cô bạn khi biết mình bị loại. “May mắn nhé”. Rhonda vừa nói vừa nghịch ngợm làm rối tung mái tóc của Reynie, trước khi với một điệu bộ nhẹ nhàng như bộ váy mây bồng bềnh đang mặc, cô bé đi ra khỏi phòng, không một chút bối rối hay thất vọng.
Dòng suy nghĩ của Reynie bị cắt ngang khi cô Bút Chì thò đầu qua cửa và nói: “Reynard, cuối cùng chúng ta cũng đã loại được những đứa trẻ khác. Cô phải đi an ủi chúng với bánh rán, ôm ấp chúng và một vài thứ linh tinh khác. Em đợi thêm vài phút nữa nhé”. Reynie chỉ kịp gọi với theo trước khi cô Bút Chì lại đi mất lần nữa.
“Thưa cô! Cô... Em xin lỗi nhưng cô chưa cho bọn em biết tên của cô.”
“Được thôi, Reynard” cô Bút Chì nói và bước vào phòng. “Em không phải xin lỗi cô đâu.” Reynie đang đợi cô trả lời. Nhưng không, cô Bút Chì phủi những vụn bánh trên môi và hỏi: “Em có điều gì thắc mắc sao?”
“Vâng ạ. Em có thể gọi cho cô Perumal, gia sư của em, được không ạ? Không ai biết em đang ở đâu cả. Em sợ là cô Perumal sẽ lo lắng.”
“Ngoan lắm, Reynard, nhưng em đừng lo lắng nhé. Chúng ta đã gọi cho cô Perumal rồi.” Cô Bút Chì nói và lại bắt đầu đi ra khỏi phòng.
“Dạ, thưa cô...”
Nghe Reynie gọi, cô Bút Chì đứng lại. “Ừ, giờ thì gì nữa nào, Reynard?”
“Cô đừng giận khi em hỏi cô điều này nhé. Em sẽ không hỏi nếu điều đó là quan trọng, nhưng... vâng, cô không đang nói dối em chứ ạ?”
“Nói dối ư?”
“Em xin lỗi vì đã nghi ngờ cô. Nhưng, sáng nay cô nói với cô Perumal là em có thể gọi cho cô ấy bằng điện thoại của cô, sau đó cô bảo là không có chiếc điện thoại nào cả. Cô thấy đấy, chỉ là bởi vì em không muốn cô Perumal lo lắng thôi ạ.”
Cô Bút Chì có vẻ không hề nao núng. “Đó là câu hỏi cực kỳ hợp lý, Reynard ạ. Hợp lý đến hoàn hảo.” Cô Bút Chì gật đầu đồng tình và có vẻ như lại sẽ đi luôn.
“Cô ơi, nhưng cô chưa trả lời câu hỏi của em!”
Cô Bút Chì gãi gãi đầu, và Reynie bắt đầu nghi ngờ rằng cô có thể hoặc là hơi ngớ ngẩn, hoặc là hơi điếc. Tuy nhiên, sau chốc lát, cô Bút Chì trả lời: “Có vẻ như em đang muốn biết sự thật?”
“Vâng ạ!”
“Sự thật là cô chưa gọi cho cô Perumal, nhưng cô sẽ làm việc đó ngay bây giờ đây. Thực ra, cô đang định đi gọi cho Perumal khi em hỏi. Em hài lòng về câu trả lời rồi chứ?”
Reynie chẳng biết nói gì nữa. Cậu không muốn làm cô Bút Chì khó chịu, nhưng cậu sẽ khó mà tin tưởng cô nữa, điều quan trọng hơn bây giờ là biết chắc rằng cô Perumal đang không lo lắng. “Em có thể tự mình gọi cô Perumal được không? Một phút thôi ạ.”
Cô Bút Chì mỉm cười, nhìn thẳng vào mắt cậu dịu dàng nói. “Em là cậu bé ngoan khi quan tâm đến cô Perumal như vậy. Em sẽ nói gì nếu cô khẳng định lại rằng thực sự thì cô đã gọi cho Perumal. Không, đừng trả lời vội. Em sẽ không tin cô đâu. Còn cái này thì sao nhỉ, cô đã có lời nhắn của cô Perumal dành cho em: “Em có thấy là em không cần đến may mắn không Reynie? Cô rất vui vì hai chiếc tất em đang đi đúng là một đôi”. Đó là những gì cô Perumal nhờ cô nói với em đấy. Em hài lòng chưa nhỉ?”
Trước khi Reynie kịp định thần thì cô đã đi ra khỏi phòng, để mặc cậu bối rối trước cách cư xử kỳ lạ vừa rồi. Lời nhắn của cô Perumal rõ ràng là thật rồi, nhưng tại sao cô Bút Chì lại không cho cậu biết ngay từ đầu?
Trong khi vẫn đang miên man trong dòng suy nghĩ, Reynie nghe thấy tiếng bước chân ngoài đại sảnh, sau đó là tiếng gõ rụt rè lên cánh cửa đang hé mở. Gương mặt của một cậu bé xuất hiện bên khung cửa.
“Xin chào”, cậu bé vừa nói vừa đưa tay sửa lại cặp kính, “Đây có phải là nơi mình sẽ phải đợi không nhỉ?”
“Tớ cũng không biết nữa. Nhưng đây cũng là nơi mình phải ngồi đợi, nên chắc là cậu đúng rồi đấy. Tớ là Reynie Muldoon”.
“Ổ”, cậu bạn nói với vẻ nghi ngờ. “Tên tớ là Sticky Washington. Tớ đang lo không biết đây có phải là nơi mình cần tìm không. Cô Áo Vàng bảo tớ đi xuống đại sảnh và đợi cùng với một người tên là Reynard.”
“Chính là tớ đấy”, Reynie nói. “Mọi người gọi tớ là Reynie cho dễ gọi hơn.” Reynie đưa tay ra, sau một chút do dự, Sticky Washington đến và bắt tay cậu.
Sticky gầy kinh khủng (Chắc đây có thể là lý do mọi người gọi cậu là Sticky - gầy tong teo như một cái que vậy) với làn da nâu sáng, giống màu cốc trà cô Perumal vẫn pha mỗi sáng. Cậu bạn mới có đôi mắt to và đầy vẻ lo lắng, giống như cặp mắt một chú ngựa, và, vì lý do vớ vẩn nào đấy, mà cái đầu của cậu ấy hoàn toàn nhẵn bóng. Cặp kính gọng kim loại khiến cậu trông rất giống một học giả, một học giả hay lo lắng. Cậu bé có vẻ khá nhút nhát, hoặc là đang lo lắng điều gì đó. Nhưng mà, cậu ấy hoàn toàn được quyền căng thẳng chứ, nếu như người bạn mới này cũng đã trải qua những gì mà Reynie đã trải qua ngày hôm nay?
“Bạn cũng đến đây để tham dự vòng thi thứ ba đúng không?” Reynie hỏi.
Sticky gật đầu.
“Tớ đã đợi cả ngày nay rồi. Tớ phải có mặt ở đây từ 9 giờ sáng, và bài thi kết thúc lúc 10 giờ. Từ đó đến giờ tớ cứ ngồi một mình trong một căn phòng trống. Cũng may là tớ có mang theo một quả lê, nếu không thì đến giờ tớ chết đói mất rồi. Tớ đang nghĩ, tất cả các bạn khác đều được phát bánh rán, tại sao bọn mình lại không được nhỉ?”
“Tớ cũng thắc mắc như thế đấy. Và có phải bạn và tớ là hai người duy nhất vượt qua các bài thi không nhỉ?”
“Không hẳn thế. Ở bài thi đầu tiên, có một bạn gái nữa cũng đỗ giống tớ. Nhưng tớ không thấy bạn ấy từ hôm qua đến giờ rồi. Có thể người ta bảo bạn ấy đến vào ca thi khác, họ tổ chức thi cả ngày hôm nay mà. À, mà ở nhóm thi của bạn, có bạn gái nào rất nhỏ không, bằng một nửa bạn thôi?”
Reynie lắc đầu. Cậu chắc đã nhớ nếu có ai nhỏ bé như thế.
“Có lẽ bạn ấy thi sau chúng mình đấy. Còn ở bài thi thứ hai thì đúng đấy, tớ là người duy nhất đỗ. Điều làm tớ ngạc nhiên là…” Sticky đột nhiên dừng lại, liếc nhìn ra phía cửa. Rồi cậu mở miệng như định nói tiếp, nghĩ thêm một chút, rồi cuối cùng giả vờ như vừa phát hiện ra một thứ gì đó ở trên trần nhà, có vẻ như quyết định là sẽ không tiết lộ nữa. Rõ ràng là cậu ấy có một bí mật. Reynie nghi ngờ về bí mật ấy.
“Bởi vì có một bạn gái đã gian lận trong bài thi phải không?”
Sticky mở to mắt đầy ngạc nhiên. “Làm sao bạn biết được điều này?”
“Điều tương tự cũng xảy ra với tớ. Tớ nghĩ đó có thể là một mánh khóe nào đấy. Nói cho tớ đi, có phải bạn gái đó cũng vô tình đánh rơi chiếc bút chì duy nhất khi đang đi vào tòa nhà không? Ở ngoài quảng trường ấy?”
“Đúng rồi. Tớ đã không thể tin được là có người lại tận dụng cơ hội đó. Bọn mình chỉ được phép mang theo đúng một chiếc bút chì thôi mà.”
“Lúc đó bạn đã làm gì?”
“Tớ đã cố giúp bạn ấy. Một vài bạn cũng nói rằng các bạn ấy rất lấy làm tiếc, nhưng cũng không muốn bị muộn giờ thi, và một bạn nam thậm chí còn cười nhạo nữa. Tớ đã rất thương cô bạn ấy, nên quyết định để bạn ấy túm chân, còn mình thì nhoài người xuống qua cái lưới. Bạn ấy khỏe lắm, như một chú gấu ấy, nên làm việc đó khá dễ dàng, còn tớ thì đủ gầy để chui qua được chiếc lưới. Cảm giác lúc đó đáng sợ lắm, tớ không ngại phải thừa nhận điều đó đâu, dốc ngược người xuống, tay mò mẫm trong bóng tối. Tớ đã nghĩ nếu có thứ gì đó gặm vào ngón tay mình thì sao nhỉ, nhưng may mắn đấy chỉ là tưởng tượng thôi. Tớ thường bị cuống mỗi khi cảm thấy sợ hãi.”
“Kể ra bạn cũng may mắn khi tìm thấy bút chì cho bạn ấy đấy,” Reynie nhận xét, “dưới đấy chắc tối thui nhỉ.”
“Ồ không, không. Tớ đã không tìm thấy chiếc bút chì đó. Nhưng bạn biết chuyện gì đã xảy ra không? Cô bạn kéo mạnh tớ lên và nói rằng “Không sao đâu, tớ có một chiếc dự phòng đây rồi”. Rồi lôi ngay một chiếc bút chì ra khỏi tay áo. Bạn có tin được không? Tại sao bạn ấy lại có thể để tớ nhoài người xuống cái chỗ tối thui đáng sợ đó trong khi bạn ấy có một chiếc bút dự trữ khác, thật không thể tưởng tượng được. Cuối cùng, để trả ơn sự giúp đỡ của mình, bạn ấy đưa cho tớ đáp án của bài thi. Rõ ràng điều đó là không có lợi cho bạn ấy. Tớ thì rất vui vì đã từ chối.”
“Tớ cũng thế,” Reynie đáp. “Tớ nghĩ từ chối cũng là một phần của bài thi. Nếu chúng mình gian lận, chúng mình đã không biết được điều đó, và mình nghĩ là sẽ chẳng ai trong số hai chúng ta đang có mặt ở đây đâu.”
Sticky lôi từ túi áo sơ mi ra một mảnh vải bông nhỏ, lau lại cặp kính. “Nếu đúng như bạn nói, thì tớ hơi sợ một chút đấy, khi mà họ cố thử thách bọn mình theo cách đó”. Rồi đặt lại cặp kính, nháy nháy đôi mắt to và lo lắng của mình, “Nhưng mà tớ sẽ không phàn nàn gì đâu. Họ đã rất tốt bụng khi cho mình đỗ ngay cả khi mình không trả lời được vài câu hỏi đấy. Như thế là rất hào phóng rồi.”
“Đợi một phút,” Reynie nói. “Làm sao bạn có thể trả lời sai câu nào được nhỉ? Bạn vô tình khoanh nhầm đáp án à?”
Sticky đường như hơi bối rối, vừa kéo lê đôi chân vừa trả lời Reynie. “Ổ, tớ nghĩ những câu hỏi đó là dễ với bạn, nhưng với tớ chúng khá là khó đấy. Thời gian làm bài hết khi tớ chưa kịp trả lời ba câu hỏi cuối cùng, do vậy tớ đã phải khoanh bừa một số câu và mong là mình sẽ gặp may. Tất nhiên là không may mắn đến mức đấy rồi. Nhưng như tớ nói đấy, họ đã rất rộng lượng.”
Reynie không thể tin vào những điều mình vừa nghe thấy: “Có nghĩa là cậu biết câu trả lời cho những câu hỏi đó?”
Mỗi câu hỏi của Reynie càng làm cho Sticky nản hơn. Với cặp mắt ầng ậc nước, Sticky trả lời Reynie: “Ồ, ừ, tớ nghĩ trông mình có vẻ khá ngốc nghếch, đúng không nhỉ? Tớ trông giống một người không biết bất cứ câu trả lời nào cả. Tớ hiểu điều đó mà.”
Reynie ngay lập tức ngắt lời. “Không, tớ không có ý đó! Ý của tớ là tớ rất ngạc nhiên khi mà bất cứ ai cũng có thể biết đáp án. Một hoặc hai câu, có thể, nhưng chắc chắn không phải là tất cả.”
Nghe đến đây, Sticky có vẻ tươi tỉnh trở lại, mỉm cười bẽn lẽn, vươn thẳng lưng. “Đúng rồi. Tớ cho rằng tớ biết khá nhiều thứ đấy. Đó là lý do vì sao mọi người gọi tớ là Sticky, bởi vì bất cứ thứ gì tớ đã đọc qua đều dính chặt trong đầu tớ ấy.”
“Hết sức thú vị đấy,” Reynie nói. “Bạn chắc phải đọc nhiều hơn tất cả những người tớ đã từng biết đấy. Nhưng mà nghe này, khi đã phát hiện ra bài thi chỉ là một trò đố, tại sao bạn không trả lời các câu hỏi theo cách đó nhỉ? Sẽ tiết kiệm được thời gian, và mình hoàn toàn có thể đã hoàn thành bài thi.”
“Một câu đố thật sao?”
“Bạn không nhận thấy tất cả các đáp án đều ở ngay trong bài thi sao?”
“Tớ có nhận ra là có rất nhiều thông tin được lặp lại trong bài thi,” Sticky trả lời, “nhưng tớ đã không thực sự để ý đến điều đó. Tớ đã quá tập trung cho việc tìm ra câu trả lời đúng. Cái câu hỏi về “colloidal suspensions” đấy, tớ đã phải mướt mồ hôi với nó đấy. Bạn cũng biết rồi đấy, tớ rất dễ bị cuống mỗi khi căng thẳng mà.” Dừng một lúc, Sticky thở dài và tiếp, “Tớ hay bị căng thẳng lắm.”
Reynie cười. “Ổ, bạn không hề biết đấy là một trò đố, và tớ thì không biết bất cứ câu trả lời nào cả, nhưng cả hai chúng ta đều đang ở đây. Chúng ta có thể là một đội tốt đấy nhỉ.”
“Bạn nghĩ thế thật không?”. Sticky nhăn nhở. “Đúng đấy, tớ nghĩ chúng ta có thể.”
Hai cậu bé vừa đợi, vừa thảo luận về những điều khiến chúng tò mò cả ngày hôm nay. Sticky có vẻ đã thoải mái trở lại, và rất nhanh chúng cảm thấy thoải mái khi ở cạnh nhau, cười đùa, nói dóc như đã quen nhau từ lâu lắm rồi. Sticky không thể thôi cười về bộ quần áo điên rồ của Rhonda Kazembe. Còn Reynie cười đến sái cả quai hàm khi nghe Sticky kể cụ thể hơn khi cậu bạn phải đu người xuống cái cống thoát nước. (“Đôi giày của tớ lúc ấy đã bắt đầu tuột khỏi tay bạn ấy rồi,” Sticky nhớ lại, “và trong một giây tớ đã nghĩ là bạn ấy sắp chỉ túm đôi giày và để kệ tớ rơi xuống dưới cái lưới đấy. Tớ đã hoảng sợ và bắt đầu khua khoắng loạn xạ như một thằng điên - Lúc đó tớ nghĩ đấy là tất cả những gì mình có thể làm để bạn ấy có thể kéo mình lên!”)
Sau đó, Reynie còn kể với Sticky về thái độ lấp lửng của cô Bút Chì khi nhắc đến cú điện thoại gọi cho cô Perumal.
Thay vì phá lên cười như Reynie nghĩ, Sticky lại bắt đầu căng thẳng, đưa tay lên lau kính, mặc dù cậu mới chỉ làm việc này ít phút trước đó.
“À, ừ”, cậu bé nói. “Tớ cũng đã tìm cách gọi cho bố mẹ. Điều tương tự cũng xảy ra. Nhưng cuối cùng thì cũng ổn rồi. Cô Bút Chì đã gọi bố mẹ tớ, và tớ không phải lo lắng gì nữa.”
Reynie gật đầu cho phải phép. Cậu có thể cảm nhận rõ ràng là Sticky đang cố gắng giấu điều gì đó. Có thể cậu đã không nghĩ đến việc gọi điện cho bố mẹ, và bây giờ thì đang cảm thấy hối lỗi?
Dù thế, Reynie quyết định là sẽ không làm cho Sticky căng thẳng thêm nữa - Sticky có vẻ như không được thoải mái như lúc trước.
Reynie chuyển chủ đề “Vậy nhà bạn ở đâu?” Nhưng điều này lại làm Sticky chà sát cặp kính mạnh hơn. Có lẽ đơn giản là cậu bé không thích những câu hỏi mang tính cá nhân. “Ờ”, Sticky hắng giọng,
Ngay khi đó cánh cửa mở toang, một bé gái chạy nhanh vào trong phòng, trên tay bê một cái thùng. Cô bé có vẻ vô cùng nhanh nhẹn. Vừa xuất hiện đột ngột ở cửa với mái tóc vàng hoe bay bay phía sau trông giống như chú ngựa, chớp mắt cô bé đã đứng ngay cạnh hai cậu bé. Sticky ngay lập tức trở lại trạng thái căng thẳng.
“Có vấn đề gì thế”, cậu gào lên.
“Có vấn đề gì với bạn thế?” cô bé trả lời khá bình tĩnh.
“À, ừ, thế bạn đang chạy trốn cái gì đấy?”
“Chạy trốn? Tớ không chạy trốn cái gì cả. Tớ chỉ đang chạy đến phòng này thôi. Cô Áo Vàng bảo tớ xuống đây và đợi cùng hai bạn. Và thế là tớ ở đây. Tên tớ là Kate Wetherall.”
“Tớ là Reynie Muldoon, đây là Sticky Washington”, cậu nói, bắt tay cô bạn gái và ngay lập tức cảm thấy hối tiếc về điều đó - cái siết tay của cô bạn gái quá mạnh, nó khiến Reynie cảm thấy như tay mình đang bị kẹt trong ngăn kéo vậy. (Sticky nhìn thấy sự nhăn nhó đau đớn của Reynie, nên ngay lập tức đút tay vào túi quần.) Vừa xoa bóp những khớp ngón tay, Reynie tiếp tục, “Tớ nghĩ tớ muốn hỏi tại sao khi nãy bạn lại chạy như thế, bạn có thể đi chậm rãi mà.”
“Tại sao lại không nhỉ? Chạy vẫn nhanh hơn mà. Và kết quả là bây giờ tớ đã ở đây, thay vì lê bước chậm rãi trên hành lang vắng tanh, điều đó tốt hơn nhiều chứ, phải không? Các bạn có vẻ là những người bạn đồng hành tốt đấy. Vậy tại sao mọi người lại gọi bạn là Sticky thế?” Cô bé hỏi, chạm vào tay Sticky. “Bạn không có vẻ gì là dính cả.”
“Đó là một câu chuyện dài”, Sticky trả lời, cố gắng giữ bình tĩnh.
“Vậy bây giờ chúng ta sẽ nói về nó nhé,” Kate tiếp tục.
Sticky kể cho cô bạn mới về cái tên của mình, trước khi Kate tiết lộ rằng cô bé cũng luôn luôn ước ao có một biệt danh. “Tớ đã rất cố gắng để mọi người gọi tớ là Máy Thời Tiết Kate Vĩ Đại, nhưng không ai làm thế cả. Và tớ cũng nghĩ là các bạn cũng sẽ không gọi tớ như thế mà, phải không?”
“Biệt danh đó có vẻ khá rắc rối đấy nhỉ”, Reynie trả lời dịu dàng. “Tốn một chút thời gian để gọi hết cái tên đấy.”
“Tớ cũng biết thế”, Kate thừa nhận, “nhưng nó sẽ không còn là vấn đề khi bạn nói nhanh.”
“Để bọn tớ suy nghĩ thêm về điều đó nhé.”
Kate gật đầu đồng ý, vẻ hài lòng. Đôi mắt sáng long lanh của cô bạn mới có màu xanh nhạt, đôi má ửng hồng và làn da mịn màng. Kate khá cao so với cái tuổi mười hai của mình, với đôi vai rộng. (Cô bé đã giới thiệu tên ngay từ đầu, vì với bọn trẻ, tuổi của chúng cũng quan trọng chẳng kém gì cái tên vậy. Đổi lại, Kate cũng biết hai cậu bạn mới của mình đều mười một tuổi.) Nhưng điều làm Reynie tò mò nhất là cái giỏ Kate mang theo. Đó là một cái giỏ kim loại còn khá mới, sơn màu đỏ của xe cứu hỏa. Vừa trò chuyện với hai người bạn mới quen, Kate vừa tháo dây lưng, luồn nó qua quai của chiếc giỏ, rồi buộc lại dây lưng, đeo cái giỏ lủng lẳng bên hông. Cái cách Kate thực hiện tất cả những công đoạn này khiến người ta phải nghĩ cô bé chắc đã làm việc đó cả nghìn lần rồi. Reynie bị mê hoặc, cho nên cuối cùng cũng đã hỏi Kate cái giỏ dùng để làm gì.
Kate nhìn Reynie, vẻ giễu cợt. “Cậu là loại người nào mà chẳng biết một cái giỏ dùng để làm gì? Để đựng đồ đạc chứ sao nữa. Ngớ ngẩn thế.”
“Tớ biết điều đó chứ”, Reynie nói, “nhưng sao cậu lại mang nó đến đây? Vì hầu như chẳng ai mang theo một cái giỏ nếu không có một mục đích cụ thể nào đó.”
“Đúng thế,” Kate chống chế. “Tớ biết thế, nhưng cũng chẳng hiểu sao nữa. Tớ chẳng biết phải làm gì nếu không có một chiếc giỏ bên cạnh, chẳng biết để mấy thứ tớ mang theo ở đâu.”
“Cậu mang theo những thứ gì kia?” Sticky hỏi. Cậu bạn, cũng như Reynie, đang tìm cách liếc nhìn vào mấy thứ đựng trong giỏ của Kate.
“Để tớ cho các cậu xem nhé,” Kate nói và bắt đầu nhặt từng thứ một ra khỏi giỏ. Một con dao đa năng Thụy Sỹ, một chiếc đèn pin, một chiếc bút đèn, một lọ keo siêu dính, cô bé cẩn thận kiểm tra lại lọ keo để chắc chắn rằng nó đã được nắp đủ chặt. Tiếp đó là một túi bi đầy, một cái súng chun, một cuộn cước câu trong suốt, một chiếc bút chì, một cục tẩy, một cái kính vạn hoa, một thỏi nam châm hình móng ngựa. Cố một lúc mới giật được cục nam châm ra khỏi cái giỏ bằng kim loại, Kate giơ cái vật hình móng ngựa đó lên đầy tự hào. “Tớ từng có hàng tá những cục như thế này, nhưng cục này là khỏe nhất đấy.” Cuối cùng, cô bạn khoe ra một sợi dây ni lông mảnh, cuộn tròn quanh đáy và vành giỏ.
“Khá nhiều thứ đấy”, Sticky nhận xét.
“Và cái nào cũng cần thiết cả,” Kate miệng nói, tay nhét những thứ vừa lôi ra vào lại trong giỏ. “Ví dụ sáng nay này, một cậu trông điên điên đã đánh rơi cái bút chì của cậu ấy xuống cống thoát nước ở ngoài quảng trường...”
Reynie và Sticky quay sang nhìn nhau.
“...và nếu không có cái giỏ này của tớ thì cậu ấy đã khốn đốn rồi đấy, như đang ở trên một nhánh sông mà không có mái chèo vậy.” Nét suy tư chợt thoáng qua khuôn mặt Kate. “Hừm, một mái chèo trong hoàn cảnh đó là quá tuyệt rồi. Nhưng mà, cũng không hẳn, vì theo tớ thì cái mái chèo có vẻ dài quá, khó mà điều khiển nó ở cái chỗ chật chội như thế. Dù thế, đôi khi, cái giỏ của tớ cũng có ích lắm đấy.”
“Cậu có giúp Rhonda lấy lại cái bút chì không?” Reynie hỏi.
“Tất nhiên là có chứ. Tớ chỉ... nhưng mà, đợi đã, sao cậu biết tên cô bạn ấy?”
“Cậu kể tiếp đi, bọn tớ sẽ giải thích chuyện đó sau.” Reynie giục.
Và thế là Kate kể lại cho hai cậu bạn mới làm cách nào cô bé có thể cạy miệng cống lên với cái tuốc nơ vít trong con dao Thụy Sỹ của mình; rồi buộc một đầu cuộn dây mang theo vào một chiếc ghế đá ở gần đấy, trước khi tự mình bám theo dây tụt xuống lòng cống, soi chiếc đèn pin vào chỗ này, chỗ kia để tìm chiếc bút chì đang nằm trong bóng tối.
“Chiếc bút lăn vào tận một kẽ nứt ở dưới đó,” Kate giải thích, “cái kẽ đó phải sâu chừng hai mươi bảy centimet ấy. Lúc đó, tớ nghĩ ra cách nhỏ một giọt keo vào đầu sợi dây cầu - chính chỗ này mà tớ cũng cần đến một cái bút đèn nữa đấy. Các cậu nghĩ mà xem nhé, khi cả hai tay của ta đang bận cho việc khác rồi, như là nhỏ keo vào đầu sợi dây câu chẳng hạn, ta có thể điều khiển cái đèn nhỏ ấy bằng miệng. Tớ đã phải xoay sở để đưa sợi dây xuống vết nứt, cho đến khi nó chạm chiếc bút chì, đợi một lúc cho keo khô rồi kéo sợi dây cùng cái bút chì ra khỏi đó. Tớ đã chẳng thể làm được tất cả những việc đó nếu không có cái giỏ của tớ, nhỉ.”
“Cậu không sợ à?” Stick hỏi. Cậu đã sợ hãi lắm và chẳng muốn mình là người duy nhất ở dưới cái cống ấy.
“Sợ gì kia? Sợ ướt á? Ở dưới đó cực kỳ khô ráo nhé, mấy ngày nay chẳng hề có giọt mưa nào mà.”
Có gì đó trong câu chuyện của Kate khiến Reynie chú ý. “Sao cậu biết cái vết nứt ấy sâu hai mươi bảy centimet? Tớ có thấy cái thước nào trong giỏ của cậu đâu.” Cậu thắc mắc.
“Ổ, tớ có khả năng đoán chính xác khoảng cách, cân nặng, và những thứ tương tự như thế,” Kate nhún vai, rồi đảo mắt một lượt khắp căn phòng. “Ví dụ luôn này. Chỉ cần nhìn qua căn phòng này, tớ cũng có thể biết nó dài bảy mét hai và rộng bốn mét tám.”
Sticky, vốn nãy giờ đang “nóng mặt” vì Kate chẳng hề sợ hãi khi chui xuống cái cống tối om đó, nghi ngờ. “Cậu chắc không?”
“Tất nhiên là có rồi.”
“Thế thì đo nhé,” Reynie nói và kiếm được một cái thước trên bàn cô Bút Chì. Căn phòng đài đúng bảy mét hai và rộng bốn mét tám.
Quá ấn tượng, Reynie huýt sáo, còn Sticky lẩm bẩm, “Không tồi.”
“Được rồi, quay lại với câu chuyện của cậu đi,” Reynie giục. “Rhonda có đề nghị giúp cậu gian lận không?”
Kate cụp mắt, nghi ngại. “Cậu biết khá nhiều đấy nhỉ. Các cậu đang điều tra tớ à? Nếu thế, tớ đoán, chắc hẳn cậu cũng biết tớ đã gọi cậu ấy là đồ điên.”
“Bọn tớ không điều tra ai cả, mà đấy là những gì tớ đang hình dung lại thôi,” Reynie nói. “Và tớ đoán là cậu đã giải được câu đố đó? Trừ khi, tất nhiên, là cậu biết trước đáp án.”
Kate khịt khịt mũi. “Làm gì có ai trả lời được cái đống câu hỏi đấy chứ?”
“Sticky,” Reynie trả lời.
Đến lượt Kate bị ấn tượng. “Không tồi”. Sticky thì cúi mặt thẹn thùng. “Thế còn cái gì mà “câu đố” ấy nhỉ?” Kate hỏi.
Một lần nữa Reynie và Sticky quay sang nhìn nhau.
“Nhưng nếu cậu chẳng hề biết đấy là một câu đố, thì bằng cách nào cậu qua được vòng thi đó nhỉ?” Sticky hỏi.
“Tớ không đỗ. Chẳng bạn nào trong ca thi của tớ đỗ cả. Thật ra thì, tớ đoán lí do duy nhất để tớ được đứng ở đây là bởi vì tớ đã giúp cô Áo Vàng thoát khỏi cái tình huống khó khăn ấy.”
Dĩ nhiên là Reynie và Sticky muốn biết chuyện gì đã xảy ra, trong khi Kate có vẻ hạnh phúc được thỏa mãn hai cậu bạn của mình.
“Lúc ca thi kết thúc, cô Áo Vàng dẫn bọn tớ xuống đại sảnh, phát bánh rán cho cả lũ bọn tớ, rồi thông báo với các bố mẹ là, dù cô rất tiếc, nhưng mọi người phải ra về, cảm ơn vì đã tham dự, vân vân. Vài vị phụ huynh có vẻ bực tức. Một người thậm chí còn la ó rằng đó là trò lừa đảo, trong khi một người khác yêu cầu được biết mấy bài thi đó rốt cục là để làm gì. Cô Áo Vàng bắt đầu liếc nhìn về phía lối ra. Cô ấy có vẻ căng thẳng, nhưng có vài người đang chặn giữa nên cô ấy chẳng thể làm gì được.”
“Tớ thấy tội nghiệp cho cô ấy, các cậu biết đấy, tớ đoán cô ấy cũng chỉ đang thực hiện nhiệm vụ của mình thôi mà, dù nhiệm vụ đó là gì đi chăng nữa. Và ít nhất cô ấy cũng đã mang đến cho ngày hôm nay của tớ một hoạt động thú vị. Lúc đó, khi người lớn thì la ó, lũ trẻ thì đang mải miết với mấy cái bánh rán, tớ lôi cái tuốc nơ vít ra, tháo rời cái núm cửa. Xong xuôi, tớ chỉ tay vào góc và la lớn, “Có một người đứng sau tất cả chuyện này, ông ta đang ở kia kìa!” Ngay lập tức, tất cả mọi người nhìn theo hướng tớ chỉ, người nọ chen lấn người kia để nhìn rõ hơn - trừ cô Áo Vàng, tất nhiên rồi, vì cô ấy đang bận lợi dụng lúc đó để đi vội vàng ra cửa. Ngay khi cô ấy vừa đi khỏi, tớ tắt đèn, đóng cửa và cùng chạy xuống dưới. Rõ là bọn tớ đang được lợi thế, vì trong phòng lúc đó tối om, mọi người mò mẫm tìm cái nắm cửa mà mãi chẳng thấy. Cuối cùng, có ai đó bật đèn lên, và tớ cá là mọi người đã chạy như bay ra khỏi phòng, chắc giống những con ong bắp cày đang giận dữ lắm đấy. Nhưng mà, lúc đó thì tớ và cô Áo Vàng đã yên vị trốn trong một căn phòng nhỏ rồi.”
“Nghe thấy tiếng bước chân cuối cùng rời khỏi, cô Áo Vàng quay sang tớ, mỉm cười và bảo, ‘Cô nghĩ em nên tham gia vào vòng thi tiếp theo.’ Và thế là tớ ở đây.”
“Tuyệt vời,” Reynie nhận xét.
Còn Sticky thì gào lên, “Thật không thể tin được, cậu đúng là một nữ anh hùng!”
Kate bối rối, “Ối, thực ra cũng không lớn lao lắm đâu mà. Thật ra, bất cứ ai cũng đã có thể làm thế. Chuyện của tớ hết rồi đấy, giờ đến lượt các cậu. Sao các cậu biết Rhonda Kazembe? Và cái gì mà bài thi với cả một câu đố ấy nhỉ?”
Trước khi kịp có câu trả lời, cô Bút Chì ngó đầu vào và nói “Đến giờ cho vòng thi thứ ba rồi. Có mặt ngay tại phòng 7-B các em nhé.” Rồi cô lại mất hút.
“Phòng 7-B là ở chỗ quái nào nhỉ?” Sticky cáu tiết. “Cô ấy chẳng bao giờ chỉ cho chúng ta biết cái này, cái kia ở đâu. Tớ đã phải mất cả nửa buổi tối để tìm ra được tòa nhà Thầy Tu này đấy.”
“Tớ nghĩ cũng dễ tìm thôi,” Reynie nói, nhưng trong đầu lại đang mãi nghĩ đến những gì Sticky vừa nói - “nửa buổi tối”. Sticky làm gì ở trên phố vào buổi tối, lại chỉ có một mình nhỉ? Bố mẹ cậu ấy đâu rồi?
“Tốt nhất là các cậu kể nhanh lên, cô Áo Vàng chẳng có tí kiên nhẫn nào đâu,” Kate nói.
Reynie đồng tình; “Đúng đấy, bọn tớ sẽ kể trên đường đến phòng 7-B nhé.”
Và rồi ba người bạn mới cùng nhau đi tìm phòng 7-B.
Dòng suy nghĩ của Reynie bị cắt ngang khi cô Bút Chì thò đầu qua cửa và nói: “Reynard, cuối cùng chúng ta cũng đã loại được những đứa trẻ khác. Cô phải đi an ủi chúng với bánh rán, ôm ấp chúng và một vài thứ linh tinh khác. Em đợi thêm vài phút nữa nhé”. Reynie chỉ kịp gọi với theo trước khi cô Bút Chì lại đi mất lần nữa.
“Thưa cô! Cô... Em xin lỗi nhưng cô chưa cho bọn em biết tên của cô.”
“Được thôi, Reynard” cô Bút Chì nói và bước vào phòng. “Em không phải xin lỗi cô đâu.” Reynie đang đợi cô trả lời. Nhưng không, cô Bút Chì phủi những vụn bánh trên môi và hỏi: “Em có điều gì thắc mắc sao?”
“Vâng ạ. Em có thể gọi cho cô Perumal, gia sư của em, được không ạ? Không ai biết em đang ở đâu cả. Em sợ là cô Perumal sẽ lo lắng.”
“Ngoan lắm, Reynard, nhưng em đừng lo lắng nhé. Chúng ta đã gọi cho cô Perumal rồi.” Cô Bút Chì nói và lại bắt đầu đi ra khỏi phòng.
“Dạ, thưa cô...”
Nghe Reynie gọi, cô Bút Chì đứng lại. “Ừ, giờ thì gì nữa nào, Reynard?”
“Cô đừng giận khi em hỏi cô điều này nhé. Em sẽ không hỏi nếu điều đó là quan trọng, nhưng... vâng, cô không đang nói dối em chứ ạ?”
“Nói dối ư?”
“Em xin lỗi vì đã nghi ngờ cô. Nhưng, sáng nay cô nói với cô Perumal là em có thể gọi cho cô ấy bằng điện thoại của cô, sau đó cô bảo là không có chiếc điện thoại nào cả. Cô thấy đấy, chỉ là bởi vì em không muốn cô Perumal lo lắng thôi ạ.”
Cô Bút Chì có vẻ không hề nao núng. “Đó là câu hỏi cực kỳ hợp lý, Reynard ạ. Hợp lý đến hoàn hảo.” Cô Bút Chì gật đầu đồng tình và có vẻ như lại sẽ đi luôn.
“Cô ơi, nhưng cô chưa trả lời câu hỏi của em!”
Cô Bút Chì gãi gãi đầu, và Reynie bắt đầu nghi ngờ rằng cô có thể hoặc là hơi ngớ ngẩn, hoặc là hơi điếc. Tuy nhiên, sau chốc lát, cô Bút Chì trả lời: “Có vẻ như em đang muốn biết sự thật?”
“Vâng ạ!”
“Sự thật là cô chưa gọi cho cô Perumal, nhưng cô sẽ làm việc đó ngay bây giờ đây. Thực ra, cô đang định đi gọi cho Perumal khi em hỏi. Em hài lòng về câu trả lời rồi chứ?”
Reynie chẳng biết nói gì nữa. Cậu không muốn làm cô Bút Chì khó chịu, nhưng cậu sẽ khó mà tin tưởng cô nữa, điều quan trọng hơn bây giờ là biết chắc rằng cô Perumal đang không lo lắng. “Em có thể tự mình gọi cô Perumal được không? Một phút thôi ạ.”
Cô Bút Chì mỉm cười, nhìn thẳng vào mắt cậu dịu dàng nói. “Em là cậu bé ngoan khi quan tâm đến cô Perumal như vậy. Em sẽ nói gì nếu cô khẳng định lại rằng thực sự thì cô đã gọi cho Perumal. Không, đừng trả lời vội. Em sẽ không tin cô đâu. Còn cái này thì sao nhỉ, cô đã có lời nhắn của cô Perumal dành cho em: “Em có thấy là em không cần đến may mắn không Reynie? Cô rất vui vì hai chiếc tất em đang đi đúng là một đôi”. Đó là những gì cô Perumal nhờ cô nói với em đấy. Em hài lòng chưa nhỉ?”
Trước khi Reynie kịp định thần thì cô đã đi ra khỏi phòng, để mặc cậu bối rối trước cách cư xử kỳ lạ vừa rồi. Lời nhắn của cô Perumal rõ ràng là thật rồi, nhưng tại sao cô Bút Chì lại không cho cậu biết ngay từ đầu?
Trong khi vẫn đang miên man trong dòng suy nghĩ, Reynie nghe thấy tiếng bước chân ngoài đại sảnh, sau đó là tiếng gõ rụt rè lên cánh cửa đang hé mở. Gương mặt của một cậu bé xuất hiện bên khung cửa.
“Xin chào”, cậu bé vừa nói vừa đưa tay sửa lại cặp kính, “Đây có phải là nơi mình sẽ phải đợi không nhỉ?”
“Tớ cũng không biết nữa. Nhưng đây cũng là nơi mình phải ngồi đợi, nên chắc là cậu đúng rồi đấy. Tớ là Reynie Muldoon”.
“Ổ”, cậu bạn nói với vẻ nghi ngờ. “Tên tớ là Sticky Washington. Tớ đang lo không biết đây có phải là nơi mình cần tìm không. Cô Áo Vàng bảo tớ đi xuống đại sảnh và đợi cùng với một người tên là Reynard.”
“Chính là tớ đấy”, Reynie nói. “Mọi người gọi tớ là Reynie cho dễ gọi hơn.” Reynie đưa tay ra, sau một chút do dự, Sticky Washington đến và bắt tay cậu.
Sticky gầy kinh khủng (Chắc đây có thể là lý do mọi người gọi cậu là Sticky - gầy tong teo như một cái que vậy) với làn da nâu sáng, giống màu cốc trà cô Perumal vẫn pha mỗi sáng. Cậu bạn mới có đôi mắt to và đầy vẻ lo lắng, giống như cặp mắt một chú ngựa, và, vì lý do vớ vẩn nào đấy, mà cái đầu của cậu ấy hoàn toàn nhẵn bóng. Cặp kính gọng kim loại khiến cậu trông rất giống một học giả, một học giả hay lo lắng. Cậu bé có vẻ khá nhút nhát, hoặc là đang lo lắng điều gì đó. Nhưng mà, cậu ấy hoàn toàn được quyền căng thẳng chứ, nếu như người bạn mới này cũng đã trải qua những gì mà Reynie đã trải qua ngày hôm nay?
“Bạn cũng đến đây để tham dự vòng thi thứ ba đúng không?” Reynie hỏi.
Sticky gật đầu.
“Tớ đã đợi cả ngày nay rồi. Tớ phải có mặt ở đây từ 9 giờ sáng, và bài thi kết thúc lúc 10 giờ. Từ đó đến giờ tớ cứ ngồi một mình trong một căn phòng trống. Cũng may là tớ có mang theo một quả lê, nếu không thì đến giờ tớ chết đói mất rồi. Tớ đang nghĩ, tất cả các bạn khác đều được phát bánh rán, tại sao bọn mình lại không được nhỉ?”
“Tớ cũng thắc mắc như thế đấy. Và có phải bạn và tớ là hai người duy nhất vượt qua các bài thi không nhỉ?”
“Không hẳn thế. Ở bài thi đầu tiên, có một bạn gái nữa cũng đỗ giống tớ. Nhưng tớ không thấy bạn ấy từ hôm qua đến giờ rồi. Có thể người ta bảo bạn ấy đến vào ca thi khác, họ tổ chức thi cả ngày hôm nay mà. À, mà ở nhóm thi của bạn, có bạn gái nào rất nhỏ không, bằng một nửa bạn thôi?”
Reynie lắc đầu. Cậu chắc đã nhớ nếu có ai nhỏ bé như thế.
“Có lẽ bạn ấy thi sau chúng mình đấy. Còn ở bài thi thứ hai thì đúng đấy, tớ là người duy nhất đỗ. Điều làm tớ ngạc nhiên là…” Sticky đột nhiên dừng lại, liếc nhìn ra phía cửa. Rồi cậu mở miệng như định nói tiếp, nghĩ thêm một chút, rồi cuối cùng giả vờ như vừa phát hiện ra một thứ gì đó ở trên trần nhà, có vẻ như quyết định là sẽ không tiết lộ nữa. Rõ ràng là cậu ấy có một bí mật. Reynie nghi ngờ về bí mật ấy.
“Bởi vì có một bạn gái đã gian lận trong bài thi phải không?”
Sticky mở to mắt đầy ngạc nhiên. “Làm sao bạn biết được điều này?”
“Điều tương tự cũng xảy ra với tớ. Tớ nghĩ đó có thể là một mánh khóe nào đấy. Nói cho tớ đi, có phải bạn gái đó cũng vô tình đánh rơi chiếc bút chì duy nhất khi đang đi vào tòa nhà không? Ở ngoài quảng trường ấy?”
“Đúng rồi. Tớ đã không thể tin được là có người lại tận dụng cơ hội đó. Bọn mình chỉ được phép mang theo đúng một chiếc bút chì thôi mà.”
“Lúc đó bạn đã làm gì?”
“Tớ đã cố giúp bạn ấy. Một vài bạn cũng nói rằng các bạn ấy rất lấy làm tiếc, nhưng cũng không muốn bị muộn giờ thi, và một bạn nam thậm chí còn cười nhạo nữa. Tớ đã rất thương cô bạn ấy, nên quyết định để bạn ấy túm chân, còn mình thì nhoài người xuống qua cái lưới. Bạn ấy khỏe lắm, như một chú gấu ấy, nên làm việc đó khá dễ dàng, còn tớ thì đủ gầy để chui qua được chiếc lưới. Cảm giác lúc đó đáng sợ lắm, tớ không ngại phải thừa nhận điều đó đâu, dốc ngược người xuống, tay mò mẫm trong bóng tối. Tớ đã nghĩ nếu có thứ gì đó gặm vào ngón tay mình thì sao nhỉ, nhưng may mắn đấy chỉ là tưởng tượng thôi. Tớ thường bị cuống mỗi khi cảm thấy sợ hãi.”
“Kể ra bạn cũng may mắn khi tìm thấy bút chì cho bạn ấy đấy,” Reynie nhận xét, “dưới đấy chắc tối thui nhỉ.”
“Ồ không, không. Tớ đã không tìm thấy chiếc bút chì đó. Nhưng bạn biết chuyện gì đã xảy ra không? Cô bạn kéo mạnh tớ lên và nói rằng “Không sao đâu, tớ có một chiếc dự phòng đây rồi”. Rồi lôi ngay một chiếc bút chì ra khỏi tay áo. Bạn có tin được không? Tại sao bạn ấy lại có thể để tớ nhoài người xuống cái chỗ tối thui đáng sợ đó trong khi bạn ấy có một chiếc bút dự trữ khác, thật không thể tưởng tượng được. Cuối cùng, để trả ơn sự giúp đỡ của mình, bạn ấy đưa cho tớ đáp án của bài thi. Rõ ràng điều đó là không có lợi cho bạn ấy. Tớ thì rất vui vì đã từ chối.”
“Tớ cũng thế,” Reynie đáp. “Tớ nghĩ từ chối cũng là một phần của bài thi. Nếu chúng mình gian lận, chúng mình đã không biết được điều đó, và mình nghĩ là sẽ chẳng ai trong số hai chúng ta đang có mặt ở đây đâu.”
Sticky lôi từ túi áo sơ mi ra một mảnh vải bông nhỏ, lau lại cặp kính. “Nếu đúng như bạn nói, thì tớ hơi sợ một chút đấy, khi mà họ cố thử thách bọn mình theo cách đó”. Rồi đặt lại cặp kính, nháy nháy đôi mắt to và lo lắng của mình, “Nhưng mà tớ sẽ không phàn nàn gì đâu. Họ đã rất tốt bụng khi cho mình đỗ ngay cả khi mình không trả lời được vài câu hỏi đấy. Như thế là rất hào phóng rồi.”
“Đợi một phút,” Reynie nói. “Làm sao bạn có thể trả lời sai câu nào được nhỉ? Bạn vô tình khoanh nhầm đáp án à?”
Sticky đường như hơi bối rối, vừa kéo lê đôi chân vừa trả lời Reynie. “Ổ, tớ nghĩ những câu hỏi đó là dễ với bạn, nhưng với tớ chúng khá là khó đấy. Thời gian làm bài hết khi tớ chưa kịp trả lời ba câu hỏi cuối cùng, do vậy tớ đã phải khoanh bừa một số câu và mong là mình sẽ gặp may. Tất nhiên là không may mắn đến mức đấy rồi. Nhưng như tớ nói đấy, họ đã rất rộng lượng.”
Reynie không thể tin vào những điều mình vừa nghe thấy: “Có nghĩa là cậu biết câu trả lời cho những câu hỏi đó?”
Mỗi câu hỏi của Reynie càng làm cho Sticky nản hơn. Với cặp mắt ầng ậc nước, Sticky trả lời Reynie: “Ồ, ừ, tớ nghĩ trông mình có vẻ khá ngốc nghếch, đúng không nhỉ? Tớ trông giống một người không biết bất cứ câu trả lời nào cả. Tớ hiểu điều đó mà.”
Reynie ngay lập tức ngắt lời. “Không, tớ không có ý đó! Ý của tớ là tớ rất ngạc nhiên khi mà bất cứ ai cũng có thể biết đáp án. Một hoặc hai câu, có thể, nhưng chắc chắn không phải là tất cả.”
Nghe đến đây, Sticky có vẻ tươi tỉnh trở lại, mỉm cười bẽn lẽn, vươn thẳng lưng. “Đúng rồi. Tớ cho rằng tớ biết khá nhiều thứ đấy. Đó là lý do vì sao mọi người gọi tớ là Sticky, bởi vì bất cứ thứ gì tớ đã đọc qua đều dính chặt trong đầu tớ ấy.”
“Hết sức thú vị đấy,” Reynie nói. “Bạn chắc phải đọc nhiều hơn tất cả những người tớ đã từng biết đấy. Nhưng mà nghe này, khi đã phát hiện ra bài thi chỉ là một trò đố, tại sao bạn không trả lời các câu hỏi theo cách đó nhỉ? Sẽ tiết kiệm được thời gian, và mình hoàn toàn có thể đã hoàn thành bài thi.”
“Một câu đố thật sao?”
“Bạn không nhận thấy tất cả các đáp án đều ở ngay trong bài thi sao?”
“Tớ có nhận ra là có rất nhiều thông tin được lặp lại trong bài thi,” Sticky trả lời, “nhưng tớ đã không thực sự để ý đến điều đó. Tớ đã quá tập trung cho việc tìm ra câu trả lời đúng. Cái câu hỏi về “colloidal suspensions” đấy, tớ đã phải mướt mồ hôi với nó đấy. Bạn cũng biết rồi đấy, tớ rất dễ bị cuống mỗi khi căng thẳng mà.” Dừng một lúc, Sticky thở dài và tiếp, “Tớ hay bị căng thẳng lắm.”
Reynie cười. “Ổ, bạn không hề biết đấy là một trò đố, và tớ thì không biết bất cứ câu trả lời nào cả, nhưng cả hai chúng ta đều đang ở đây. Chúng ta có thể là một đội tốt đấy nhỉ.”
“Bạn nghĩ thế thật không?”. Sticky nhăn nhở. “Đúng đấy, tớ nghĩ chúng ta có thể.”
Hai cậu bé vừa đợi, vừa thảo luận về những điều khiến chúng tò mò cả ngày hôm nay. Sticky có vẻ đã thoải mái trở lại, và rất nhanh chúng cảm thấy thoải mái khi ở cạnh nhau, cười đùa, nói dóc như đã quen nhau từ lâu lắm rồi. Sticky không thể thôi cười về bộ quần áo điên rồ của Rhonda Kazembe. Còn Reynie cười đến sái cả quai hàm khi nghe Sticky kể cụ thể hơn khi cậu bạn phải đu người xuống cái cống thoát nước. (“Đôi giày của tớ lúc ấy đã bắt đầu tuột khỏi tay bạn ấy rồi,” Sticky nhớ lại, “và trong một giây tớ đã nghĩ là bạn ấy sắp chỉ túm đôi giày và để kệ tớ rơi xuống dưới cái lưới đấy. Tớ đã hoảng sợ và bắt đầu khua khoắng loạn xạ như một thằng điên - Lúc đó tớ nghĩ đấy là tất cả những gì mình có thể làm để bạn ấy có thể kéo mình lên!”)
Sau đó, Reynie còn kể với Sticky về thái độ lấp lửng của cô Bút Chì khi nhắc đến cú điện thoại gọi cho cô Perumal.
Thay vì phá lên cười như Reynie nghĩ, Sticky lại bắt đầu căng thẳng, đưa tay lên lau kính, mặc dù cậu mới chỉ làm việc này ít phút trước đó.
“À, ừ”, cậu bé nói. “Tớ cũng đã tìm cách gọi cho bố mẹ. Điều tương tự cũng xảy ra. Nhưng cuối cùng thì cũng ổn rồi. Cô Bút Chì đã gọi bố mẹ tớ, và tớ không phải lo lắng gì nữa.”
Reynie gật đầu cho phải phép. Cậu có thể cảm nhận rõ ràng là Sticky đang cố gắng giấu điều gì đó. Có thể cậu đã không nghĩ đến việc gọi điện cho bố mẹ, và bây giờ thì đang cảm thấy hối lỗi?
Dù thế, Reynie quyết định là sẽ không làm cho Sticky căng thẳng thêm nữa - Sticky có vẻ như không được thoải mái như lúc trước.
Reynie chuyển chủ đề “Vậy nhà bạn ở đâu?” Nhưng điều này lại làm Sticky chà sát cặp kính mạnh hơn. Có lẽ đơn giản là cậu bé không thích những câu hỏi mang tính cá nhân. “Ờ”, Sticky hắng giọng,
Ngay khi đó cánh cửa mở toang, một bé gái chạy nhanh vào trong phòng, trên tay bê một cái thùng. Cô bé có vẻ vô cùng nhanh nhẹn. Vừa xuất hiện đột ngột ở cửa với mái tóc vàng hoe bay bay phía sau trông giống như chú ngựa, chớp mắt cô bé đã đứng ngay cạnh hai cậu bé. Sticky ngay lập tức trở lại trạng thái căng thẳng.
“Có vấn đề gì thế”, cậu gào lên.
“Có vấn đề gì với bạn thế?” cô bé trả lời khá bình tĩnh.
“À, ừ, thế bạn đang chạy trốn cái gì đấy?”
“Chạy trốn? Tớ không chạy trốn cái gì cả. Tớ chỉ đang chạy đến phòng này thôi. Cô Áo Vàng bảo tớ xuống đây và đợi cùng hai bạn. Và thế là tớ ở đây. Tên tớ là Kate Wetherall.”
“Tớ là Reynie Muldoon, đây là Sticky Washington”, cậu nói, bắt tay cô bạn gái và ngay lập tức cảm thấy hối tiếc về điều đó - cái siết tay của cô bạn gái quá mạnh, nó khiến Reynie cảm thấy như tay mình đang bị kẹt trong ngăn kéo vậy. (Sticky nhìn thấy sự nhăn nhó đau đớn của Reynie, nên ngay lập tức đút tay vào túi quần.) Vừa xoa bóp những khớp ngón tay, Reynie tiếp tục, “Tớ nghĩ tớ muốn hỏi tại sao khi nãy bạn lại chạy như thế, bạn có thể đi chậm rãi mà.”
“Tại sao lại không nhỉ? Chạy vẫn nhanh hơn mà. Và kết quả là bây giờ tớ đã ở đây, thay vì lê bước chậm rãi trên hành lang vắng tanh, điều đó tốt hơn nhiều chứ, phải không? Các bạn có vẻ là những người bạn đồng hành tốt đấy. Vậy tại sao mọi người lại gọi bạn là Sticky thế?” Cô bé hỏi, chạm vào tay Sticky. “Bạn không có vẻ gì là dính cả.”
“Đó là một câu chuyện dài”, Sticky trả lời, cố gắng giữ bình tĩnh.
“Vậy bây giờ chúng ta sẽ nói về nó nhé,” Kate tiếp tục.
Sticky kể cho cô bạn mới về cái tên của mình, trước khi Kate tiết lộ rằng cô bé cũng luôn luôn ước ao có một biệt danh. “Tớ đã rất cố gắng để mọi người gọi tớ là Máy Thời Tiết Kate Vĩ Đại, nhưng không ai làm thế cả. Và tớ cũng nghĩ là các bạn cũng sẽ không gọi tớ như thế mà, phải không?”
“Biệt danh đó có vẻ khá rắc rối đấy nhỉ”, Reynie trả lời dịu dàng. “Tốn một chút thời gian để gọi hết cái tên đấy.”
“Tớ cũng biết thế”, Kate thừa nhận, “nhưng nó sẽ không còn là vấn đề khi bạn nói nhanh.”
“Để bọn tớ suy nghĩ thêm về điều đó nhé.”
Kate gật đầu đồng ý, vẻ hài lòng. Đôi mắt sáng long lanh của cô bạn mới có màu xanh nhạt, đôi má ửng hồng và làn da mịn màng. Kate khá cao so với cái tuổi mười hai của mình, với đôi vai rộng. (Cô bé đã giới thiệu tên ngay từ đầu, vì với bọn trẻ, tuổi của chúng cũng quan trọng chẳng kém gì cái tên vậy. Đổi lại, Kate cũng biết hai cậu bạn mới của mình đều mười một tuổi.) Nhưng điều làm Reynie tò mò nhất là cái giỏ Kate mang theo. Đó là một cái giỏ kim loại còn khá mới, sơn màu đỏ của xe cứu hỏa. Vừa trò chuyện với hai người bạn mới quen, Kate vừa tháo dây lưng, luồn nó qua quai của chiếc giỏ, rồi buộc lại dây lưng, đeo cái giỏ lủng lẳng bên hông. Cái cách Kate thực hiện tất cả những công đoạn này khiến người ta phải nghĩ cô bé chắc đã làm việc đó cả nghìn lần rồi. Reynie bị mê hoặc, cho nên cuối cùng cũng đã hỏi Kate cái giỏ dùng để làm gì.
Kate nhìn Reynie, vẻ giễu cợt. “Cậu là loại người nào mà chẳng biết một cái giỏ dùng để làm gì? Để đựng đồ đạc chứ sao nữa. Ngớ ngẩn thế.”
“Tớ biết điều đó chứ”, Reynie nói, “nhưng sao cậu lại mang nó đến đây? Vì hầu như chẳng ai mang theo một cái giỏ nếu không có một mục đích cụ thể nào đó.”
“Đúng thế,” Kate chống chế. “Tớ biết thế, nhưng cũng chẳng hiểu sao nữa. Tớ chẳng biết phải làm gì nếu không có một chiếc giỏ bên cạnh, chẳng biết để mấy thứ tớ mang theo ở đâu.”
“Cậu mang theo những thứ gì kia?” Sticky hỏi. Cậu bạn, cũng như Reynie, đang tìm cách liếc nhìn vào mấy thứ đựng trong giỏ của Kate.
“Để tớ cho các cậu xem nhé,” Kate nói và bắt đầu nhặt từng thứ một ra khỏi giỏ. Một con dao đa năng Thụy Sỹ, một chiếc đèn pin, một chiếc bút đèn, một lọ keo siêu dính, cô bé cẩn thận kiểm tra lại lọ keo để chắc chắn rằng nó đã được nắp đủ chặt. Tiếp đó là một túi bi đầy, một cái súng chun, một cuộn cước câu trong suốt, một chiếc bút chì, một cục tẩy, một cái kính vạn hoa, một thỏi nam châm hình móng ngựa. Cố một lúc mới giật được cục nam châm ra khỏi cái giỏ bằng kim loại, Kate giơ cái vật hình móng ngựa đó lên đầy tự hào. “Tớ từng có hàng tá những cục như thế này, nhưng cục này là khỏe nhất đấy.” Cuối cùng, cô bạn khoe ra một sợi dây ni lông mảnh, cuộn tròn quanh đáy và vành giỏ.
“Khá nhiều thứ đấy”, Sticky nhận xét.
“Và cái nào cũng cần thiết cả,” Kate miệng nói, tay nhét những thứ vừa lôi ra vào lại trong giỏ. “Ví dụ sáng nay này, một cậu trông điên điên đã đánh rơi cái bút chì của cậu ấy xuống cống thoát nước ở ngoài quảng trường...”
Reynie và Sticky quay sang nhìn nhau.
“...và nếu không có cái giỏ này của tớ thì cậu ấy đã khốn đốn rồi đấy, như đang ở trên một nhánh sông mà không có mái chèo vậy.” Nét suy tư chợt thoáng qua khuôn mặt Kate. “Hừm, một mái chèo trong hoàn cảnh đó là quá tuyệt rồi. Nhưng mà, cũng không hẳn, vì theo tớ thì cái mái chèo có vẻ dài quá, khó mà điều khiển nó ở cái chỗ chật chội như thế. Dù thế, đôi khi, cái giỏ của tớ cũng có ích lắm đấy.”
“Cậu có giúp Rhonda lấy lại cái bút chì không?” Reynie hỏi.
“Tất nhiên là có chứ. Tớ chỉ... nhưng mà, đợi đã, sao cậu biết tên cô bạn ấy?”
“Cậu kể tiếp đi, bọn tớ sẽ giải thích chuyện đó sau.” Reynie giục.
Và thế là Kate kể lại cho hai cậu bạn mới làm cách nào cô bé có thể cạy miệng cống lên với cái tuốc nơ vít trong con dao Thụy Sỹ của mình; rồi buộc một đầu cuộn dây mang theo vào một chiếc ghế đá ở gần đấy, trước khi tự mình bám theo dây tụt xuống lòng cống, soi chiếc đèn pin vào chỗ này, chỗ kia để tìm chiếc bút chì đang nằm trong bóng tối.
“Chiếc bút lăn vào tận một kẽ nứt ở dưới đó,” Kate giải thích, “cái kẽ đó phải sâu chừng hai mươi bảy centimet ấy. Lúc đó, tớ nghĩ ra cách nhỏ một giọt keo vào đầu sợi dây cầu - chính chỗ này mà tớ cũng cần đến một cái bút đèn nữa đấy. Các cậu nghĩ mà xem nhé, khi cả hai tay của ta đang bận cho việc khác rồi, như là nhỏ keo vào đầu sợi dây câu chẳng hạn, ta có thể điều khiển cái đèn nhỏ ấy bằng miệng. Tớ đã phải xoay sở để đưa sợi dây xuống vết nứt, cho đến khi nó chạm chiếc bút chì, đợi một lúc cho keo khô rồi kéo sợi dây cùng cái bút chì ra khỏi đó. Tớ đã chẳng thể làm được tất cả những việc đó nếu không có cái giỏ của tớ, nhỉ.”
“Cậu không sợ à?” Stick hỏi. Cậu đã sợ hãi lắm và chẳng muốn mình là người duy nhất ở dưới cái cống ấy.
“Sợ gì kia? Sợ ướt á? Ở dưới đó cực kỳ khô ráo nhé, mấy ngày nay chẳng hề có giọt mưa nào mà.”
Có gì đó trong câu chuyện của Kate khiến Reynie chú ý. “Sao cậu biết cái vết nứt ấy sâu hai mươi bảy centimet? Tớ có thấy cái thước nào trong giỏ của cậu đâu.” Cậu thắc mắc.
“Ổ, tớ có khả năng đoán chính xác khoảng cách, cân nặng, và những thứ tương tự như thế,” Kate nhún vai, rồi đảo mắt một lượt khắp căn phòng. “Ví dụ luôn này. Chỉ cần nhìn qua căn phòng này, tớ cũng có thể biết nó dài bảy mét hai và rộng bốn mét tám.”
Sticky, vốn nãy giờ đang “nóng mặt” vì Kate chẳng hề sợ hãi khi chui xuống cái cống tối om đó, nghi ngờ. “Cậu chắc không?”
“Tất nhiên là có rồi.”
“Thế thì đo nhé,” Reynie nói và kiếm được một cái thước trên bàn cô Bút Chì. Căn phòng đài đúng bảy mét hai và rộng bốn mét tám.
Quá ấn tượng, Reynie huýt sáo, còn Sticky lẩm bẩm, “Không tồi.”
“Được rồi, quay lại với câu chuyện của cậu đi,” Reynie giục. “Rhonda có đề nghị giúp cậu gian lận không?”
Kate cụp mắt, nghi ngại. “Cậu biết khá nhiều đấy nhỉ. Các cậu đang điều tra tớ à? Nếu thế, tớ đoán, chắc hẳn cậu cũng biết tớ đã gọi cậu ấy là đồ điên.”
“Bọn tớ không điều tra ai cả, mà đấy là những gì tớ đang hình dung lại thôi,” Reynie nói. “Và tớ đoán là cậu đã giải được câu đố đó? Trừ khi, tất nhiên, là cậu biết trước đáp án.”
Kate khịt khịt mũi. “Làm gì có ai trả lời được cái đống câu hỏi đấy chứ?”
“Sticky,” Reynie trả lời.
Đến lượt Kate bị ấn tượng. “Không tồi”. Sticky thì cúi mặt thẹn thùng. “Thế còn cái gì mà “câu đố” ấy nhỉ?” Kate hỏi.
Một lần nữa Reynie và Sticky quay sang nhìn nhau.
“Nhưng nếu cậu chẳng hề biết đấy là một câu đố, thì bằng cách nào cậu qua được vòng thi đó nhỉ?” Sticky hỏi.
“Tớ không đỗ. Chẳng bạn nào trong ca thi của tớ đỗ cả. Thật ra thì, tớ đoán lí do duy nhất để tớ được đứng ở đây là bởi vì tớ đã giúp cô Áo Vàng thoát khỏi cái tình huống khó khăn ấy.”
Dĩ nhiên là Reynie và Sticky muốn biết chuyện gì đã xảy ra, trong khi Kate có vẻ hạnh phúc được thỏa mãn hai cậu bạn của mình.
“Lúc ca thi kết thúc, cô Áo Vàng dẫn bọn tớ xuống đại sảnh, phát bánh rán cho cả lũ bọn tớ, rồi thông báo với các bố mẹ là, dù cô rất tiếc, nhưng mọi người phải ra về, cảm ơn vì đã tham dự, vân vân. Vài vị phụ huynh có vẻ bực tức. Một người thậm chí còn la ó rằng đó là trò lừa đảo, trong khi một người khác yêu cầu được biết mấy bài thi đó rốt cục là để làm gì. Cô Áo Vàng bắt đầu liếc nhìn về phía lối ra. Cô ấy có vẻ căng thẳng, nhưng có vài người đang chặn giữa nên cô ấy chẳng thể làm gì được.”
“Tớ thấy tội nghiệp cho cô ấy, các cậu biết đấy, tớ đoán cô ấy cũng chỉ đang thực hiện nhiệm vụ của mình thôi mà, dù nhiệm vụ đó là gì đi chăng nữa. Và ít nhất cô ấy cũng đã mang đến cho ngày hôm nay của tớ một hoạt động thú vị. Lúc đó, khi người lớn thì la ó, lũ trẻ thì đang mải miết với mấy cái bánh rán, tớ lôi cái tuốc nơ vít ra, tháo rời cái núm cửa. Xong xuôi, tớ chỉ tay vào góc và la lớn, “Có một người đứng sau tất cả chuyện này, ông ta đang ở kia kìa!” Ngay lập tức, tất cả mọi người nhìn theo hướng tớ chỉ, người nọ chen lấn người kia để nhìn rõ hơn - trừ cô Áo Vàng, tất nhiên rồi, vì cô ấy đang bận lợi dụng lúc đó để đi vội vàng ra cửa. Ngay khi cô ấy vừa đi khỏi, tớ tắt đèn, đóng cửa và cùng chạy xuống dưới. Rõ là bọn tớ đang được lợi thế, vì trong phòng lúc đó tối om, mọi người mò mẫm tìm cái nắm cửa mà mãi chẳng thấy. Cuối cùng, có ai đó bật đèn lên, và tớ cá là mọi người đã chạy như bay ra khỏi phòng, chắc giống những con ong bắp cày đang giận dữ lắm đấy. Nhưng mà, lúc đó thì tớ và cô Áo Vàng đã yên vị trốn trong một căn phòng nhỏ rồi.”
“Nghe thấy tiếng bước chân cuối cùng rời khỏi, cô Áo Vàng quay sang tớ, mỉm cười và bảo, ‘Cô nghĩ em nên tham gia vào vòng thi tiếp theo.’ Và thế là tớ ở đây.”
“Tuyệt vời,” Reynie nhận xét.
Còn Sticky thì gào lên, “Thật không thể tin được, cậu đúng là một nữ anh hùng!”
Kate bối rối, “Ối, thực ra cũng không lớn lao lắm đâu mà. Thật ra, bất cứ ai cũng đã có thể làm thế. Chuyện của tớ hết rồi đấy, giờ đến lượt các cậu. Sao các cậu biết Rhonda Kazembe? Và cái gì mà bài thi với cả một câu đố ấy nhỉ?”
Trước khi kịp có câu trả lời, cô Bút Chì ngó đầu vào và nói “Đến giờ cho vòng thi thứ ba rồi. Có mặt ngay tại phòng 7-B các em nhé.” Rồi cô lại mất hút.
“Phòng 7-B là ở chỗ quái nào nhỉ?” Sticky cáu tiết. “Cô ấy chẳng bao giờ chỉ cho chúng ta biết cái này, cái kia ở đâu. Tớ đã phải mất cả nửa buổi tối để tìm ra được tòa nhà Thầy Tu này đấy.”
“Tớ nghĩ cũng dễ tìm thôi,” Reynie nói, nhưng trong đầu lại đang mãi nghĩ đến những gì Sticky vừa nói - “nửa buổi tối”. Sticky làm gì ở trên phố vào buổi tối, lại chỉ có một mình nhỉ? Bố mẹ cậu ấy đâu rồi?
“Tốt nhất là các cậu kể nhanh lên, cô Áo Vàng chẳng có tí kiên nhẫn nào đâu,” Kate nói.
Reynie đồng tình; “Đúng đấy, bọn tớ sẽ kể trên đường đến phòng 7-B nhé.”
Và rồi ba người bạn mới cùng nhau đi tìm phòng 7-B.
Tác giả :
Trenton Lee Steward