Thanh Vân Đài
Chương 151
“Tư dinh của Khúc Bất Duy được che giấu rất kỹ, nhìn từ bên ngoài chỉ là một căn nhà bình thường, mà vị trí cũng rất xảo trá – nằm trên con đường tấp nập nhất Giang Lưu. Nếu không nhờ Tề đại nhân điều tra trước, có khi ta và sư phụ phải mất hơn nửa tháng mới tìm ra.”
Trên đường đến châu nha, Thanh Duy ngồi trong xe ngựa kể lại mọi chuyện trên đường đi với Tạ Dung Dữ.
“Nhìn từ ngoài vào căn nhà đó có tổng cộng hai viện, nhưng thực ra còn tận dụng cả góc chết ở đầu phố để xây thêm vài gian bí mật, những gian nhà bí mật này dẫn xuống lòng đất, ở giữa có lối đi dài, trái phải có ba kho, chính giữa có bốn kho chứa đầy bạc trắng! Ta và sư phụ nhẩm tính, nếu danh sách Tiển Khâm Đài được bán với giá một trăm nghìn lượng một người, như vậy Khúc Bất Duy đã bán được khoảng năm suất. Ngoài ra có hai kho chứa đồ quý hiếm ông ta sưu tầm được, riêng tranh vẽ đã lên đến hơn hai trăm bức. Thầy trò ta đúng xui xẻo, trong nhà ông ta đã tăng cường phòng thủ, cứ sau hai nén nhang là lại tuần đêm một lần, thầy trò ta phải tìm từng bức một, một đêm chạy lui chạy tới hai lần, kiểm gần hết hơn hai trăm bức, đến tối thứ ba mới tìm được Tứ cảnh đồ.”
“Chàng có biết vì sao mất nhiều thời gian đến thế không?” Thanh Duy hỏi.
Tạ Dung Dữ cười đáp, “Vì sao?”
“Khúc Bất Duy đặt bức danh phẩm quý hiếm Tứ cảnh đồ chung chỗ với đống tranh vô danh, cuộn tròn nhét đại trong bình sứ, ta với sư phụ suýt đã bị lừa bởi chiêu hỏa mù này của ông ta rồi.”
Tạ Dung Dữ nhìn Thanh Duy, nàng kể việc lấy trộm Tứ cảnh đồ nghe chừng khá đơn giản, nhưng chắc chắn đấy là chuyện cực nguy hiểm, chỉ cần nhìn cách tăng cường phòng vệ ở tư dinh là hiểu. Hơn nữa thuộc hạ của Khúc Bất Duy đều xuất thân từ vệ quân, với tầng tầng canh gác như vậy mà có thể thần không biết quỷ không hay lấy đi Tứ cảnh đồ, có lẽ chỉ có Nhạc Ngư Thất và Ôn Tiểu Dã mới có khả năng này.
Tạ Dung Dữ dịu dàng hỏi: “Có mệt không?”
Thanh Duy ngẩng đầu nhìn y, gật đầu đáp: “Trên đường về ta còn không ngủ tử tế, toàn tranh thủ gấp rút lên đường.”
Ánh mắt Tạ Dung Dữ tựa mặt nước phẳng lặng, một lúc sau y mỉm cười, giơ tay vén tóc mái trước trán nàng, “Tiểu Dã cô nương vội vã trở về làm gì thế?”
Thanh Duy không khỏi sửng sốt:”Không phải chàng bảo ta đi sớm về sớm à?” Nàng nhìn y chằm chằm, vẻ mặt dần giãn ra, “Vậy chàng nói đi, chàng bảo ta về sớm làm gì?”
Vốn chỉ là một câu bông đùa mà thôi, nhưng khi nàng hỏi ngược như vậy lại khơi nên tình ý sâu xa. Tạ Dung Dữ nhìn Thanh Duy chăm chú, đang định mở miệng thì bất chợt bên ngoài đưa đến tiếng ghìm cương ngựa, Đức Vinh bẩm, “Thưa công tử, thiếu phu nhân, đã đến nha môn rồi ạ.”
Ngay sau đó, âm thanh niềm nở của Triêu Thiên cũng truyền tới, “Nhạc tiền bối, ngài cứ vào trong trước đi, để tiểu nhân buộc ngựa cho ngài.”
Tề Văn Bách bước ra tiếp đón, thấy Nhạc Ngư Thất và Tạ Dung Dữ đến thật thì mừng rơn, “Không ngờ chuyến này Nhạc tiểu tướng quân lại thuận lợi tới vậy, mới nửa tháng đã về. Tề mỗ còn lo nếu đi đường chậm trễ, không biết phải đối phó với động thái khác thường phía Khúc hầu thế nào, nhưng nay xem ra Tề mỗ lo thừa rồi.”
Vào phòng tiếp khách, ba người nhà họ Doãn cũng có mặt, Vệ Quyết cũng dẫn Huyền Ưng vệ từ doanh trại chạy đến.
Giữa phòng đặt một chiếc bàn dài, Thanh Duy nhanh chóng mở hộp, lấy từng bức Tứ cảnh đồ ở bên trong ra, nói, “Tuy bộ tranh này lấy ở tư dinh của Khúc Bất Duy, nhưng để chắc chắn đây là hàng thật, xin mời Doãn Nhị thiếu gia và Doãn Tứ cô nương hãy kiểm tra.”
Nàng mở tranh nền ra, sau đó chồng từng bức tranh phủ lên.
Bức tranh nền “Lăng Xuyên tấp nập cảnh chiều hôm” cực kì tinh tế, khung cảnh huyên náo được phác họa trên giấy rõ ràng, và khi chồng tranh phủ lên, khung cảnh lập tức thay đổi, mây chiều biến thành suối rừng, lầu các hóa thành tháp cổ, hoàng hôn vắt ngang chân trời nay trở thành chuông xưa trên đỉnh núi, cảnh xa xăm lại có chiều sâu, như nghe tiếng chuông vang vọng trong núi.
Tuy mọi người ở đây đều đã nghe đến sự thần kì của Tứ cảnh đồ, tác phẩm của bậc thầy đúng là có khác, nghe là một chuyện, tận mắt nhìn thấy lại khác.
Hèn gì Khúc Bất Duy chịu dùng danh sách lên Tiển Khâm Đài để đổi một bức tranh thế này.
Doãn Uyển cẩn thận xem kỹ những bức tranh phủ còn lại, nói chắc nịch: “Chư vị đại nhân, đây chắc chắn là bức Tứ cảnh đồ của Đông Trai tiên sinh.”
Tề Văn Bách nói: “Vậy mau đem bức tranh phụ thân cô để lại chồng lên xem đi.”
Doãn Uyển lập tức lấy ra tranh nền phủ lên Tứ cảnh đồ.
Đập vào mắt là cánh rừng trúc xanh mướt, bên dưới là một vòng rào quây tròn, ngoài hàng rào là những tảng đá với hình thù kỳ lạ.
Chương Lộc Chi vừa nhìn thấy tranh liền mở miệng, “Đây không phải là bằng chứng Thẩm Lan để lại sao? Vì sao lại chỉ là một bức họa thế này?”
Hồi trước Sầm Tuyết Minh bảo vệ Thẩm Lan là vì muốn y để lại bằng chứng tố cáo Khúc Bất Duy, Chương Lộc Chi còn tưởng khi chồng tranh nền và tranh phủ lại với nhau, dù không phải một bức thư thì chí ít cũng phải có vài dòng chữ rõ ràng, ai dè lại chỉ là một bức tranh bình thường.
Nhưng ngẫm kỹ thì cũng không trách được, Thẩm Lan vẽ bức tranh này mà không có tranh đối chiếu so sánh, chỉ hạ bút dựa vào trí nhớ để giấu đáp án trong tranh.
Xem ra còn phải phân tích kỹ.
Mọi người xúm quanh bàn nhìn tranh, một thoáng trầm ngâm.
Tạ Dung Dữ nhìn Doãn Uyển, thấy nàng ta ấp úng mấy lần bèn hỏi: “Doãn Tứ cô nương có nhận xét gì không?”
Doãn Uyển chần chừ, thấp giọng nói: “Nhưng tôi… tôi không biết mình có nói đúng không nữa.”
Tạ Dung Dữ nói: “Trong số mọi người ở đây chỉ có cô nương am hiểu hội họa nhất, mỗi nghề có chuyên môn riêng, cô nương cứ nói chớ ngại.”
Doãn Uyển mím môi, đoạn nói: “Tứ cảnh đồ là tác phẩm đạt đến đỉnh cao của Đông Trai tiên sinh, mực đậm mực nhạt đều có hàm ý, nhờ đó mới có câu giấu bút giữa sáng, giấu mối trong bóng. Nếu cha để lại bức tranh này hòng tiết lộ manh mối, tôi… tôi cho rằng, không nên xem nó như tranh vẽ, mà chỉ nên nhìn vào chỗ sáng.”
Nàng ta nói xong, thấy mọi người có vẻ không hiểu, do dự một lúc rồi trải một tờ giấy trắng ra bàn. Doãn Trì hiểu ý, lập tức lấy bút chấm mực, đưa bút cho nàng.
Doãn Uyển nhận bút, gương mặt lập tức trở nên bình tĩnh, không còn là tiểu cô nương run rẩy sợ hãi nữa, tay trái cầm tay áo, cổ tay phải nâng lên, bút múa trên giấy, chẳng mấy chốc đã vẽ lại những cây tre hiên ngang, “Nếu phụ thân dùng tranh để giấu manh mối, như vậy nơi duy nhất ông ấy có thể sử dụng là ánh sáng trong tranh. Phía sau bên trái là rừng tre, bên phải là bốn cây tre xanh, hàng rào ở phía sau, bên trái là nơi mực nhạt nhất và trông đơn giản nhất, tôi cho rằng, muốn giấu thứ gì đó trong tranh thì chỉ có thể chọn chỗ này. Tôi đã vẽ riêng ra cây tre và hàng rào, mời chư vị xem, nó giống gì?”
Bốn khóm tre đưa ngang, kết hợp với hàng rào bên dưới, chẳng phải là chữ “Khúc” (曲) đấy sao?
Ắt hẳn Thẩm Lan muốn ám chỉ kẻ cầm đầu chuyện giao dịch danh sách Tiển Khâm Đài chính là Khúc Bất Duy.
Vệ Quyết lại bảo: “Nhưng Sầm Tuyết Minh vắt óc tìm kế để Thẩm Lan vẽ tranh phủ, không lí nào chỉ để lại một chữ ‘Khúc’ như có như không này được, hơn nữa chữ Khúc này cũng không thể làm bằng chứng rõ ràng, để tự vệ, chắc chắn hắn ta có để lại manh mối khác.”
Chương Lộc Chi nói: “Có khi nào nằm ở mấy con vịt kia không?”
Mọi người nghe thế thì sững ra, đồng loạt quay sang nhìn hắn, Tề Văn Bách hỏi: “Vịt? Vịt ở đâu?”
Chương Lộc Chi chỉ vào đống đá có hình thù kỳ quái bên dưới rừng tre, nói: “Thế đó không phải là vịt à? Ba con đứng, một con nằm.”
Mọi người nheo mắt nhìn, quả nhiên là mấy con vịt đi lạc rừng tre.
Chỉ vì có mặt ở đây đều là văn nhân nhã sĩ, kể cả Thanh Duy và Nhạc Ngư Thất, vì ảnh hưởng bởi Ôn Thiên nên cũng biết thưởng thức nhã thú, do đó theo quán tính đều cho rằng những vết mực mơ hồ dưới rừng tre là đá tảng, còn người ít học như Chương Lộc Chi lại có thể nhìn ra ngay thực tế.
Tề Văn Bách nói: “Đúng rồi! ‘Vịt lạc rừng tre’, Sầm Tuyết Minh được Khúc Bất Duy giao việc buôn bán danh sách lên đài, rất có thể mấy con vịt này ám chỉ chính Sầm Tuyết Minh.”
Kỳ Minh cũng nói: “Sầm Tuyết Minh vừa giao bức tranh này cho Doãn Tứ cô nương thì mất tích, vậy có khi nào đám vịt này chỉ nơi Sầm Tuyết Minh đang ở không?”
Tạ Dung Dữ lập tức ra lệnh: “Tề Châu doãn, Tống Trưởng lại, lập tức kiểm tra những vụ án trước và sau khi Sầm Tuyết Minh mất tích, đưa tất cả những manh mối có liên quan đến ‘vịt’ và cùng loại với ‘vịt’ cho ta.”
“Vâng.”
“Vệ Quyết, ngươi hãy dẫn Huyền Ưng Ti đi tra xét xung quanh, tìm ra tất cả những thành trấn, làng xóm, bao gồm núi hồ có nuôi vịt.”
“Rõ.”
“Còn Doãn Tứ cô nương, cô hãy đem bức tranh này về kiểm tra thật kỹ, nếu có manh mối mới lập tức báo ngay cho châu phủ.”
“Điện hạ yên tâm, dân nữ biết rồi ạ.”
Đúng lúc này, Doãn Trì nói: “Điện hạ, Nguyệt Chương cũng muốn giúp một tay.” Hắn nhìn bụi tre Doãn Uyển vẽ, nở nụ cười xa xôi, “Không ngờ Uyển Uyển lại tài ba đến vậy, chỉ vài nét bút đã đủ để tại hạ lĩnh giáo. Tuy… kỹ thuật của tại hạ không bằng Uyển Uyển, nhưng thời gian nghiên cứu hội họa không hề kém thua Uyển Uyển, tại hạ sẵn lòng cùng muội ấy kiểm tra bức tranh mà thầy giáo để lại, cùng phân tài bàn bạc, hi vọng có thể giúp được điện hạ.”
Hắn quả là người mê vẽ, điều tra manh mối vẫn không quên gọt giũa kỹ năng.
Trong cái nhìn của hắn về bức vẽ của Doãn Uyển có hâm mộ, có thán phục, nhiều hơn hết là mừng rỡ, và tuyệt nhiên không hề có ghen tị.
Có nhẽ khi người ta thực sự yêu thích điều gì đó, và khi biết núi cao có núi cao hơn, người giỏi có người giỏi hơn, thì sẽ nảy sinh niềm vui “chí ít ta không cô đơn”.
Tạ Dung Dữ nhìn Doãn Trì, gật đầu nói: “Doãn Nhị thiếu gia đồng ý giúp thì còn gì tốt bằng.”
Vệ Quyết là người dứt khoát, vừa họp xong, hắn nhanh chóng quay về doanh trại điều động Huyền Ưng vệ. Tề Văn Bách muốn tiễn Tạ Dung Dữ một đoạn, nhưng Nhạc Ngư Thất ở đằng sau đã gọi lại: “Này cậu kia, Tiểu Chiêu vương đúng không, cậu ở lại.”
Tạ Dung Dữ dừng bước, xoay người lại vái, “Vâng.”
Nhạc Ngư Thất khoát tay với những người khác, “Được rồi, các ngươi đi đi.”
Tề Văn Bách cảm thấy Nhạc Ngư Thất quá bất lịch sự với Tiểu Chiêu vương, ông dè dặt nhìn Tạ Dung Dữ, thấy y vẫn điềm nhiên như không, thế là đành dẫn mọi người cáo lui.
Trong phòng, ngoài Nhạc Ngư Thất và Tạ Dung Dữ thì chỉ còn lại mỗi mình Thanh Duy.
Nhạc Ngư Thất liếc nàng, “Con còn đứng đây làm gì, sợ ta ăn hắn hả?”
Than Duy cụp mắt không đáp.
Nàng biết sư phụ nói muốn đánh gãy chân chó của nàng, đưa ai đó đi gặp Diêm vương chỉ là nói đùa chứ không phải thật, nhưng nàng vẫn không muốn đi, nàng sợ sư phụ làm khó y.
Tạ Dung Dữ nhìn Thanh Duy, ôn tồn khuyên nhủ: “Đi trước đi, ta cũng có chuyện muốn nói với Nhạc tiền bối.”
Thanh Duy nhìn y, lưỡng lự một hồi rồi gật đầu.
Nhìn bóng dáng Thanh Duy dần khuất, Nhạc Ngư Thất bỏ đi vẻ mặt hằm hằm sát khí, chắp tay bước ra cửa, nói: “Đi theo ta.”
Hoàng hôn vừa buông, ráng chiều nhuộm mây trời, Nhạc Ngư Thất quay về chỗ ở, vào phòng lấy một bầu rượu rồi ngồi xuống ghế tre giữa sân, ngước mắt nhìn Tạ Dung Dữ, “Nói đi, ngươi làm cách nào mà dụ được con a đầu hoang dã nhà ta vào tròng hả?”
Trên đường đến châu nha, Thanh Duy ngồi trong xe ngựa kể lại mọi chuyện trên đường đi với Tạ Dung Dữ.
“Nhìn từ ngoài vào căn nhà đó có tổng cộng hai viện, nhưng thực ra còn tận dụng cả góc chết ở đầu phố để xây thêm vài gian bí mật, những gian nhà bí mật này dẫn xuống lòng đất, ở giữa có lối đi dài, trái phải có ba kho, chính giữa có bốn kho chứa đầy bạc trắng! Ta và sư phụ nhẩm tính, nếu danh sách Tiển Khâm Đài được bán với giá một trăm nghìn lượng một người, như vậy Khúc Bất Duy đã bán được khoảng năm suất. Ngoài ra có hai kho chứa đồ quý hiếm ông ta sưu tầm được, riêng tranh vẽ đã lên đến hơn hai trăm bức. Thầy trò ta đúng xui xẻo, trong nhà ông ta đã tăng cường phòng thủ, cứ sau hai nén nhang là lại tuần đêm một lần, thầy trò ta phải tìm từng bức một, một đêm chạy lui chạy tới hai lần, kiểm gần hết hơn hai trăm bức, đến tối thứ ba mới tìm được Tứ cảnh đồ.”
“Chàng có biết vì sao mất nhiều thời gian đến thế không?” Thanh Duy hỏi.
Tạ Dung Dữ cười đáp, “Vì sao?”
“Khúc Bất Duy đặt bức danh phẩm quý hiếm Tứ cảnh đồ chung chỗ với đống tranh vô danh, cuộn tròn nhét đại trong bình sứ, ta với sư phụ suýt đã bị lừa bởi chiêu hỏa mù này của ông ta rồi.”
Tạ Dung Dữ nhìn Thanh Duy, nàng kể việc lấy trộm Tứ cảnh đồ nghe chừng khá đơn giản, nhưng chắc chắn đấy là chuyện cực nguy hiểm, chỉ cần nhìn cách tăng cường phòng vệ ở tư dinh là hiểu. Hơn nữa thuộc hạ của Khúc Bất Duy đều xuất thân từ vệ quân, với tầng tầng canh gác như vậy mà có thể thần không biết quỷ không hay lấy đi Tứ cảnh đồ, có lẽ chỉ có Nhạc Ngư Thất và Ôn Tiểu Dã mới có khả năng này.
Tạ Dung Dữ dịu dàng hỏi: “Có mệt không?”
Thanh Duy ngẩng đầu nhìn y, gật đầu đáp: “Trên đường về ta còn không ngủ tử tế, toàn tranh thủ gấp rút lên đường.”
Ánh mắt Tạ Dung Dữ tựa mặt nước phẳng lặng, một lúc sau y mỉm cười, giơ tay vén tóc mái trước trán nàng, “Tiểu Dã cô nương vội vã trở về làm gì thế?”
Thanh Duy không khỏi sửng sốt:”Không phải chàng bảo ta đi sớm về sớm à?” Nàng nhìn y chằm chằm, vẻ mặt dần giãn ra, “Vậy chàng nói đi, chàng bảo ta về sớm làm gì?”
Vốn chỉ là một câu bông đùa mà thôi, nhưng khi nàng hỏi ngược như vậy lại khơi nên tình ý sâu xa. Tạ Dung Dữ nhìn Thanh Duy chăm chú, đang định mở miệng thì bất chợt bên ngoài đưa đến tiếng ghìm cương ngựa, Đức Vinh bẩm, “Thưa công tử, thiếu phu nhân, đã đến nha môn rồi ạ.”
Ngay sau đó, âm thanh niềm nở của Triêu Thiên cũng truyền tới, “Nhạc tiền bối, ngài cứ vào trong trước đi, để tiểu nhân buộc ngựa cho ngài.”
Tề Văn Bách bước ra tiếp đón, thấy Nhạc Ngư Thất và Tạ Dung Dữ đến thật thì mừng rơn, “Không ngờ chuyến này Nhạc tiểu tướng quân lại thuận lợi tới vậy, mới nửa tháng đã về. Tề mỗ còn lo nếu đi đường chậm trễ, không biết phải đối phó với động thái khác thường phía Khúc hầu thế nào, nhưng nay xem ra Tề mỗ lo thừa rồi.”
Vào phòng tiếp khách, ba người nhà họ Doãn cũng có mặt, Vệ Quyết cũng dẫn Huyền Ưng vệ từ doanh trại chạy đến.
Giữa phòng đặt một chiếc bàn dài, Thanh Duy nhanh chóng mở hộp, lấy từng bức Tứ cảnh đồ ở bên trong ra, nói, “Tuy bộ tranh này lấy ở tư dinh của Khúc Bất Duy, nhưng để chắc chắn đây là hàng thật, xin mời Doãn Nhị thiếu gia và Doãn Tứ cô nương hãy kiểm tra.”
Nàng mở tranh nền ra, sau đó chồng từng bức tranh phủ lên.
Bức tranh nền “Lăng Xuyên tấp nập cảnh chiều hôm” cực kì tinh tế, khung cảnh huyên náo được phác họa trên giấy rõ ràng, và khi chồng tranh phủ lên, khung cảnh lập tức thay đổi, mây chiều biến thành suối rừng, lầu các hóa thành tháp cổ, hoàng hôn vắt ngang chân trời nay trở thành chuông xưa trên đỉnh núi, cảnh xa xăm lại có chiều sâu, như nghe tiếng chuông vang vọng trong núi.
Tuy mọi người ở đây đều đã nghe đến sự thần kì của Tứ cảnh đồ, tác phẩm của bậc thầy đúng là có khác, nghe là một chuyện, tận mắt nhìn thấy lại khác.
Hèn gì Khúc Bất Duy chịu dùng danh sách lên Tiển Khâm Đài để đổi một bức tranh thế này.
Doãn Uyển cẩn thận xem kỹ những bức tranh phủ còn lại, nói chắc nịch: “Chư vị đại nhân, đây chắc chắn là bức Tứ cảnh đồ của Đông Trai tiên sinh.”
Tề Văn Bách nói: “Vậy mau đem bức tranh phụ thân cô để lại chồng lên xem đi.”
Doãn Uyển lập tức lấy ra tranh nền phủ lên Tứ cảnh đồ.
Đập vào mắt là cánh rừng trúc xanh mướt, bên dưới là một vòng rào quây tròn, ngoài hàng rào là những tảng đá với hình thù kỳ lạ.
Chương Lộc Chi vừa nhìn thấy tranh liền mở miệng, “Đây không phải là bằng chứng Thẩm Lan để lại sao? Vì sao lại chỉ là một bức họa thế này?”
Hồi trước Sầm Tuyết Minh bảo vệ Thẩm Lan là vì muốn y để lại bằng chứng tố cáo Khúc Bất Duy, Chương Lộc Chi còn tưởng khi chồng tranh nền và tranh phủ lại với nhau, dù không phải một bức thư thì chí ít cũng phải có vài dòng chữ rõ ràng, ai dè lại chỉ là một bức tranh bình thường.
Nhưng ngẫm kỹ thì cũng không trách được, Thẩm Lan vẽ bức tranh này mà không có tranh đối chiếu so sánh, chỉ hạ bút dựa vào trí nhớ để giấu đáp án trong tranh.
Xem ra còn phải phân tích kỹ.
Mọi người xúm quanh bàn nhìn tranh, một thoáng trầm ngâm.
Tạ Dung Dữ nhìn Doãn Uyển, thấy nàng ta ấp úng mấy lần bèn hỏi: “Doãn Tứ cô nương có nhận xét gì không?”
Doãn Uyển chần chừ, thấp giọng nói: “Nhưng tôi… tôi không biết mình có nói đúng không nữa.”
Tạ Dung Dữ nói: “Trong số mọi người ở đây chỉ có cô nương am hiểu hội họa nhất, mỗi nghề có chuyên môn riêng, cô nương cứ nói chớ ngại.”
Doãn Uyển mím môi, đoạn nói: “Tứ cảnh đồ là tác phẩm đạt đến đỉnh cao của Đông Trai tiên sinh, mực đậm mực nhạt đều có hàm ý, nhờ đó mới có câu giấu bút giữa sáng, giấu mối trong bóng. Nếu cha để lại bức tranh này hòng tiết lộ manh mối, tôi… tôi cho rằng, không nên xem nó như tranh vẽ, mà chỉ nên nhìn vào chỗ sáng.”
Nàng ta nói xong, thấy mọi người có vẻ không hiểu, do dự một lúc rồi trải một tờ giấy trắng ra bàn. Doãn Trì hiểu ý, lập tức lấy bút chấm mực, đưa bút cho nàng.
Doãn Uyển nhận bút, gương mặt lập tức trở nên bình tĩnh, không còn là tiểu cô nương run rẩy sợ hãi nữa, tay trái cầm tay áo, cổ tay phải nâng lên, bút múa trên giấy, chẳng mấy chốc đã vẽ lại những cây tre hiên ngang, “Nếu phụ thân dùng tranh để giấu manh mối, như vậy nơi duy nhất ông ấy có thể sử dụng là ánh sáng trong tranh. Phía sau bên trái là rừng tre, bên phải là bốn cây tre xanh, hàng rào ở phía sau, bên trái là nơi mực nhạt nhất và trông đơn giản nhất, tôi cho rằng, muốn giấu thứ gì đó trong tranh thì chỉ có thể chọn chỗ này. Tôi đã vẽ riêng ra cây tre và hàng rào, mời chư vị xem, nó giống gì?”
Bốn khóm tre đưa ngang, kết hợp với hàng rào bên dưới, chẳng phải là chữ “Khúc” (曲) đấy sao?
Ắt hẳn Thẩm Lan muốn ám chỉ kẻ cầm đầu chuyện giao dịch danh sách Tiển Khâm Đài chính là Khúc Bất Duy.
Vệ Quyết lại bảo: “Nhưng Sầm Tuyết Minh vắt óc tìm kế để Thẩm Lan vẽ tranh phủ, không lí nào chỉ để lại một chữ ‘Khúc’ như có như không này được, hơn nữa chữ Khúc này cũng không thể làm bằng chứng rõ ràng, để tự vệ, chắc chắn hắn ta có để lại manh mối khác.”
Chương Lộc Chi nói: “Có khi nào nằm ở mấy con vịt kia không?”
Mọi người nghe thế thì sững ra, đồng loạt quay sang nhìn hắn, Tề Văn Bách hỏi: “Vịt? Vịt ở đâu?”
Chương Lộc Chi chỉ vào đống đá có hình thù kỳ quái bên dưới rừng tre, nói: “Thế đó không phải là vịt à? Ba con đứng, một con nằm.”
Mọi người nheo mắt nhìn, quả nhiên là mấy con vịt đi lạc rừng tre.
Chỉ vì có mặt ở đây đều là văn nhân nhã sĩ, kể cả Thanh Duy và Nhạc Ngư Thất, vì ảnh hưởng bởi Ôn Thiên nên cũng biết thưởng thức nhã thú, do đó theo quán tính đều cho rằng những vết mực mơ hồ dưới rừng tre là đá tảng, còn người ít học như Chương Lộc Chi lại có thể nhìn ra ngay thực tế.
Tề Văn Bách nói: “Đúng rồi! ‘Vịt lạc rừng tre’, Sầm Tuyết Minh được Khúc Bất Duy giao việc buôn bán danh sách lên đài, rất có thể mấy con vịt này ám chỉ chính Sầm Tuyết Minh.”
Kỳ Minh cũng nói: “Sầm Tuyết Minh vừa giao bức tranh này cho Doãn Tứ cô nương thì mất tích, vậy có khi nào đám vịt này chỉ nơi Sầm Tuyết Minh đang ở không?”
Tạ Dung Dữ lập tức ra lệnh: “Tề Châu doãn, Tống Trưởng lại, lập tức kiểm tra những vụ án trước và sau khi Sầm Tuyết Minh mất tích, đưa tất cả những manh mối có liên quan đến ‘vịt’ và cùng loại với ‘vịt’ cho ta.”
“Vâng.”
“Vệ Quyết, ngươi hãy dẫn Huyền Ưng Ti đi tra xét xung quanh, tìm ra tất cả những thành trấn, làng xóm, bao gồm núi hồ có nuôi vịt.”
“Rõ.”
“Còn Doãn Tứ cô nương, cô hãy đem bức tranh này về kiểm tra thật kỹ, nếu có manh mối mới lập tức báo ngay cho châu phủ.”
“Điện hạ yên tâm, dân nữ biết rồi ạ.”
Đúng lúc này, Doãn Trì nói: “Điện hạ, Nguyệt Chương cũng muốn giúp một tay.” Hắn nhìn bụi tre Doãn Uyển vẽ, nở nụ cười xa xôi, “Không ngờ Uyển Uyển lại tài ba đến vậy, chỉ vài nét bút đã đủ để tại hạ lĩnh giáo. Tuy… kỹ thuật của tại hạ không bằng Uyển Uyển, nhưng thời gian nghiên cứu hội họa không hề kém thua Uyển Uyển, tại hạ sẵn lòng cùng muội ấy kiểm tra bức tranh mà thầy giáo để lại, cùng phân tài bàn bạc, hi vọng có thể giúp được điện hạ.”
Hắn quả là người mê vẽ, điều tra manh mối vẫn không quên gọt giũa kỹ năng.
Trong cái nhìn của hắn về bức vẽ của Doãn Uyển có hâm mộ, có thán phục, nhiều hơn hết là mừng rỡ, và tuyệt nhiên không hề có ghen tị.
Có nhẽ khi người ta thực sự yêu thích điều gì đó, và khi biết núi cao có núi cao hơn, người giỏi có người giỏi hơn, thì sẽ nảy sinh niềm vui “chí ít ta không cô đơn”.
Tạ Dung Dữ nhìn Doãn Trì, gật đầu nói: “Doãn Nhị thiếu gia đồng ý giúp thì còn gì tốt bằng.”
Vệ Quyết là người dứt khoát, vừa họp xong, hắn nhanh chóng quay về doanh trại điều động Huyền Ưng vệ. Tề Văn Bách muốn tiễn Tạ Dung Dữ một đoạn, nhưng Nhạc Ngư Thất ở đằng sau đã gọi lại: “Này cậu kia, Tiểu Chiêu vương đúng không, cậu ở lại.”
Tạ Dung Dữ dừng bước, xoay người lại vái, “Vâng.”
Nhạc Ngư Thất khoát tay với những người khác, “Được rồi, các ngươi đi đi.”
Tề Văn Bách cảm thấy Nhạc Ngư Thất quá bất lịch sự với Tiểu Chiêu vương, ông dè dặt nhìn Tạ Dung Dữ, thấy y vẫn điềm nhiên như không, thế là đành dẫn mọi người cáo lui.
Trong phòng, ngoài Nhạc Ngư Thất và Tạ Dung Dữ thì chỉ còn lại mỗi mình Thanh Duy.
Nhạc Ngư Thất liếc nàng, “Con còn đứng đây làm gì, sợ ta ăn hắn hả?”
Than Duy cụp mắt không đáp.
Nàng biết sư phụ nói muốn đánh gãy chân chó của nàng, đưa ai đó đi gặp Diêm vương chỉ là nói đùa chứ không phải thật, nhưng nàng vẫn không muốn đi, nàng sợ sư phụ làm khó y.
Tạ Dung Dữ nhìn Thanh Duy, ôn tồn khuyên nhủ: “Đi trước đi, ta cũng có chuyện muốn nói với Nhạc tiền bối.”
Thanh Duy nhìn y, lưỡng lự một hồi rồi gật đầu.
Nhìn bóng dáng Thanh Duy dần khuất, Nhạc Ngư Thất bỏ đi vẻ mặt hằm hằm sát khí, chắp tay bước ra cửa, nói: “Đi theo ta.”
Hoàng hôn vừa buông, ráng chiều nhuộm mây trời, Nhạc Ngư Thất quay về chỗ ở, vào phòng lấy một bầu rượu rồi ngồi xuống ghế tre giữa sân, ngước mắt nhìn Tạ Dung Dữ, “Nói đi, ngươi làm cách nào mà dụ được con a đầu hoang dã nhà ta vào tròng hả?”
Tác giả :
Trầm Tiêu Chi