Tarzan 3: Luật Của Rừng Già
Chương 4: Chú báo Sêta
Trong mấy ngày tiếp theo, Tácdăng dành thời gian tu bổ các loại vũ khí và đi dạo mấy vòng trong rừng sâu. Chàng đã thay sợi dây cung bằng một đoạn ruột hươu phơi khô. Thật ra dây cung tốt nhất là dây làm bằng ruột hổ. Nhưng hiện tại chàng chưa săn được con nào. Sẵn có thời gian, chàng bện một cuộn dây thừng bằng một thứ cỏ khô rất dai. Ngoài ra, chàng còn nạo mỏng da hươu làm một chiếc quần ống lững và một sợi dây lưng rất đẹp. Xong xuôi công việc, chàng đi vòng xung quanh, tìm hiểu địa thế khu rừng. Trông thấy sớm sớm mặt trời nhô lên từ mặt biển, nhưng chàng vẫn chưa tin rằng mình đang sống ở bờ tây của lục địa châu Phi. Còn nếu cho rằng nơi chàng sống là vùng Đông Phi thì cũng rất khó tin. Bởi vì con tàu Kin xây chở chàng đến đây không thể bơi qua Địa Trung Hải, qua kêng đào Xuy ê và bờ biển Hồng Hải. Nó cũng không đủ khả năng bơi qua mũi Hảo Vọng.
Tácdăng hoàn toàn không biết mình đang ở nơi đâu. Càng lang thang trong rừng, chàng càng thấy lòng mình trống rỗng. Ước gì tìm được nơi đây một người bạn của thời thơ ấu! Nỗi khát khao tình bạn trong lòng làm cho cổ chàng tức nghẹn. Chàng biết rằng giữa chàng và những con vượn khôn ngoan nhất trong bộ lạc rất ít những điểm tương đồng. Nhưng dù sao có một con thú làm bạn thì vẫn còn hơn là cô độc, vò võ một mình giữa chốn rừng hoang.
Lang thang mãi cũng chán, chàng lại leo cây hái hoa quả và sục sạo quanh những gốc cây mục để tìm bắt những con bọ cánh cứng. Món thực phẩm tươi sống này đã bắt đầu hợp với khẩu vị của chàng. Đi khoảng một dặm, chàng chợt phát hiện ra mùi hôi của con báo Sêta. Rõ ràng là con báo này đang ở đầu chiều gió thổi. Thật may mắn ! Chàng đang cần một sợi dây cung và một bộ da làm quần áo che sương che nắng.
Vọt qua một vài cây cổ thụ, Tácdăng đã trông thấy con mèo khổng lồ đó đang nấp trong một lùm cây rậm rạp. Cùng lúc ấy chàng cũng ngửi thấy mùi hôi của một đàn vượn lớn. Có thể con báo Sêta đang rình bắt vượn. Khi chỉ còn cách Sêta mấy mét, chàng trông thấy bộ lạc vượn của Acút đang nằm nghỉ ngơi trên một khoảng rừng trống. Bên cạnh những con vượn cái nặng nề, lười nhác, lũ vượn con hiếu động vẫn chí chóe nô dỡn với nhau. Một vài con vượn đực đang tuổi lớn thì luẩn quẩn bên mấy gốc cây, bóc vỏ nhặt trứng kiến. Con vượn đứng gần Sêta lại chính là Acút.
Từ một gốc cây đổ nghiêng, báo Sêta rón rén bò dần xuống thấp. Chú vượn Acút hoàn toàn bình thản, không hề hay biết có con báo trên đầu mình. Tác dăng thận trọng luồn xuống thấp hơn, cho tới khi chỉ cách đầu con báo vài bước chân. Thoạt đầu chàng định sử dụng mũi giáo để phóng. Nhưng thấy cành lá quá rậm,chàng quyết định dùng dao.
Báo Sêta vừa hạ thấp hai chân sau lấy đà thì cũng là lúc Tácdăng thét lên một tiếng rồi nhảy bổ xuống lưng con báo. Nghe tiếng thét, Acút giật mình nhìn lên cao. Nó trông thấy đè lên lưng con báo là con khỉ da trắng đã từng xiết cổ, khuất phục nó cách đây mấy ngày.
Hai hàm răng của Tác dăng cắn ngập sau vào ót con báo, cánh tay trái ghì chặt cổ, còn cánh tay phải thì thọc dao tới tấp vào bụng địch thủ. TRông thấy cảnh tượng dữ dội đó, Acút vội nhảy sang bên.
Trong giây lát, cả hai địch thủ rơi phịch xuống mặt đất. Báo Sêta rống lên, nghiến răng giận dữ. Nhưng nó vẫn bị con khỉ da trắng siết chặt cổ họng. Mũi dao bằng đá cứ mỗi lúc một ngập sâu vào vùng tim của nó. Không đầy nửa phút sau, con báo rống lên một tiếng cuối cùng rồi nằm nhũn ra mặt đất. Chàng trai cuả rừng già đạp chân lên cổ báo, ngửa mặt lên cao, dồn đầy hơi trong lồng ngực rồi thét vang tiếng thét chiến thắng. Acút và đàn vượn giương tròn mắt, hết nhìn cái xác con báo lại nhìn cơ thể tráng kiện của chàng trai.
Tác dăng quyết định phải nói. Bởi vì chàng thừa biết cái trí nhớ ngắn ngủi và khả năng suy nghĩ chậm chạp của loài vượn. Chàng phải nói để làm sáng tỏ mọi điều cho chúng hiểu. Nếu chàng im lặng bỏ đi, chàng sẽ bỏ mất cơ hội kết bạn với chúng.
- Ta là Tácdăng – con trai của loài vượn – chàng quý tộc tên tuổi của Luân Đôn lớn tiếng giải thích – Ta là một người thợ săn tài ba – một võ sĩ ! Ở “vùng nước lớn” ta đã để cho Acút được sống. Ta đã có thể giết Acút và chiếm quyền thủ lĩnh. Nhưng ta đã không làm điều đó. Bây giờ ta đã giết Sêta để cứu Acút. Từ nay nếu Acút và bộ lạc Acút gặp nạn cứ gọi Tácdăng! Hãy gọi thế này! Chàng trai chụm môi hú lên một tiếng, đúng tiếng của loài vượn gọi nhau khi gặp nguy hiểm – Ngược lại, khi nào Tácdăng gọi như thế chúng mày cũng phải chạy đến giúp Tácdăng, được không?
- Hu hu hu ! Acút gật đầu đồng tình. CẢ đàn vượn cũng đồng thanh kêu lên theo Acút.
Hiệp ước hòa bình và tình hữu nghị đã được ký kết quá ư đơn giản và chóng vánh. Ngay sau đó cả đàn vượn lại tản đi, tiếp tục công việc tìm kiếm thức ăn. Tácdăng cũng nhập luôn vào đàn, hí húi bới tìm côn trùng bên các gốc cây. Trong lúc kiếm ăn, Acút gần như không rời xa Tácdăng. Thỉnh thoảng, đôi mắt hõm sâu, nhỏ tí của nó lại đăm đăm nhìn chàng trai. Hình như nó đang suy ngẫm điều gì đó. Cuối cùng nó bước lại bên Tácdăng và làm một việc mà bao năm sống cùng loài vượn Tác dăng chưa hề chứng kiến: Nó cầm một trái cây chín đỏ , thơm phức đặt vào lòng bàn tay vị ân nhân da trắng của mình.
Suốt dọc con đường tìm kiếm thức ăn, cơ thể cân đối vạm vỡ của chàng huân tước nước Anh cứ thấp thoáng khi ẩn khi hiện giữa những chiếc lưng khom của loài vượn. Thỉnh thoảng chàng lại vấp phải một con vượn , nhưng tất cả đều nhường nhịn và tỏ ra đã quen với sự có mặt của chàng. Tất nhiên, mỗi khi chàng đứng gần những con vượn mẹ đang nuôi con nhỏ, chúng cũng nhe răng hăm dọa chàng. Một vài con vượn trẻ cũng gầm gừ khó chịu khi chàng làm chúng giật mình. Nhưng xét cho cùng tất cả mọi hành vi của chúng không có biểu hiện gì của sự thù địch.
Tácdăng cảm thấy dễ chịu trong sinh hoạt cộng đồng với bộ lạc vượn Acút. Chàng cố tự kiềm chế để không gây ra những xung khắc bất lợi. Trong những trường hợp cần thiết, để nhắc nhở những con vượn đực nóng nảy, đãng trí, chàng cũng nhe răng, cũng gầm gừ như chúng. Ngày mỗi ngày, chàng quen dần với cuộc sống bầy đàn, tưởng như xưa kia chưa bao giờ chàng biết tới cuộc sống của loài người văn minh. Từ sáng tới lúc mặt trời lặn, chàng lang thang bên những người bạn mới. Chàng biết rằng trí nhớ của loài vật rất ngắn ngủi, rất khó tạo ra được ở chúng một ấn tượng lâu bền. Chính vì vậy, ngoài nỗi nhớ Potơrôva và đứa con bé bỏng của mình chàng vẫn ước ao một ngày nào đó tìm ra dấu vết của loài người văn minh.
Có một buổi sáng chàng lên đường vào rừng cho tới tận xế chiều. Buổi sáng hôm sau khi tỉnh giấc, chàng thấy mặt trời mọc phía bên phải.Vì vậy chàng cho rằng bờ biển đang lượn dần ra hướng tây. Chàng lại vội vã lên đường, thoăn thoắt chuyền từ cành cây nọ sang cành cây kia như một con sóc. Ngay đêm hôm ấy mặt trời lại lặn xuống biển , đối lập với đất liền. Mỗi lúc Tácdăng một lo lắng hơn. Hình như bọn Rôcốp đã thả chàng xuống một hòn đảo hoang vắng! Rất tiếc là chàng đã biết điều đó hơi muộn! Thật khó mà chờ đợi được ở Rôcốp một điều gì tử tế. Bởi vì còn có gì tồi tệ hơn cuộc sống trên hoang đảo - một cuộc sống bị bao vây giữa bốn bề mây nước!
Chắc chắn là Rôcốp đã quay tàu đi về một dải đất nào đó. Có thể hắn đã thả thằng Ghiếch bé bỏng của Tácdăng vào một bộ tộc dã man đúng như hắn đã đe dọa trong thư. Tácdăng cảm thấy ớn lạnh cả thân thể, khi hình dung đứa con trai của mình đang nhảy nhót cuồng loạn giữa những người da đen mông muội. Rồi chuyện gì sẽ đến với nó? Bao nhiêu năm sống trong rừng già và chung đụng với những bộ tộc châu Phi, chàng thừa hiểu thế nào là cuộc sống bộ tộc. Bất kỳ cuộc sống nào cũng có những niềm vui, cũng có những giờ phút thảnh thơi, no đủ, đôi khi rất lãng mạn. Nhưng nếu nhìn nhận một cách toàn diện, cuộc sống của những bộ tộc châu Phi nơi đây vẫn chỉ là những chuỗi ngày cực nhọc, sợ hãi, đau khổ và tuyệt vọng.
Nếu như đứa con trai của chàng bị Rô cốp thả vào một bộ tộc dã man nào đó, có nghĩa là con đường trở về với loài người văn minh đã khép chặt trước mặt nó. Nó sẽ hoàn toàn không biết gốc tích của mình và lớn lên như một gã thổ dân man rợ. Còn có điều gì khủng khiếp hơn khi nó sống với những bộ tộc ăn thịt người. Chao ôi! Tácdăng thầm kêu lên khi nghĩ tới hàm răng nhọn lởm chởm dưới hai cánh mũi đục thủng, lủng liễng chiếc khoang sắt nặng nề, bóng nhẫy và khuôn mặt loang lỗ những vết sơn xanh đỏ. Lẽ nào đứa con trai của chàng lại trở thành một người như thế?
Chàng cảm thấy cổ họng mình tắc nghẹn. Ước gì giờ này chàng tóm được Rô cốp trong tay!
Và còn Gian nữa ! Giờ này em ở nơi đâu? Chắc chắn là Gian đang vô cùng lo sợ và đau khổ vì cùng một lúc mất cả chàng lẫn Giếch. Nỗi đau đớn của Gian chắc cũng chẳng kém những đau khổ mà chàng đang phải chịu đựng nơi đây. Nhưng nghĩ đi nghĩ lại, chàng lại tự an ủi rằng, ít nhất thì trong ba người, vẫn còn Gian chưa bị ám hại. Dù sao Gian của chàng vẫn sống an toàn ở Luân ĐÔn và không biết rõ những bất hạnh của chồng con…Thật tội nghiệp cho Tácdăng ! Chàng không hề hay biết số phận của vợ chàng. Mà có lẽ như thế còn hơn. Nếu như chàng biết rõ toàn bộ sự thật về Gian, nỗi đau xót , ân hận của chàng còn tăng lên gấp bội.
Tácdăng vừa đi vừa nghĩ. Chàng đi mà không hề biết mình đanh ở nơi đâu. Bước chân của chàng cũng buồn bã và rối bời như những ý nghĩ trong đầu chàng. Đột nhiên chàng nghe thấy có tiếng rên rỉ vang lên , nghe rất lạ. Chàng nhẹ chân tiến về phía có tiếng động. Chỉ một lát sau chàng tìm ra nguyên nhân. Đó là một con báo rất to đang nằm mắc kẹt dưới một cành cây lớn bị gió làm gẫy. Con báo bị chặn ngang bụng. Trông thấy Tácdăng đến gần, con báo gầm gừ, nhe răng ra dọa. Nó cố vùng vẫy để thoát ra cành cây nặng. Nhưng dù giãy dụa đến mấy nó cũng chỉ làm bật được vài mảnh vỏ cây mà thôi. Khúc cây đồ sộ như đã dồn hết trọng lượng lên thân nó.
Tácdăng lùi lại mấy bước. Chàng rút một chiếc tên, đặt vào cung rồi kéo dây. Chàng ngắm mũi tên vào ngực con báo. Cần phải kết thúc nỗi đau đớn tuyệt vọng của nó.! Tácdăng nghĩ bụng rồi giương thẳng cánh cung. Nhưng đột nhiên chàng lại chùn cánh tay. Có một ý nghĩ chợt lóe lên trong đầu. Tại sao chàng lại không giải phóng cho nó, bảo vệ sự sống và tự do của nó? Một việc mà chàng hoàn toàn có thể làm được. Hình như con báo đã không chịu đựng nổi sức nặng của cành cây cổ thụ nữa. Nó chỉ còn biết động đậy bốn chân một cách yếu ớt.
Tácdăng đút ống tên vào ống, hất cánh cung chéo qua vai rồi bước lại gần con thú. Từ mép con thú vang lên một tiếng rên nho nhỏ. Tiếng rên vừa có vẻ nũng nịu vừa có vẻ như hài lòng, chẳng khác gì tiếng một con mèo ăn no, nằm sưởi nắng. Con báo mở to mắt nhìn Tácdăng .Ánh mắt của nó thật khó hiểu, nửa như đe dọa, nửa như van lơn, cầu cứu. Tình thế lúc này thật khó xử. Nếu Tácdăng cứu con thú, chàng phải tiến lại gần nó và tập trung sức lực nâng bổng cành cây lên cao. Khó mà lường hết điều gì sẽ xẩy ra. Có khi làm phúc phải tội. Sau khi con báo được giải thoát, nó có thể lao thẳng vào cắn xé người đã cứu nó. Nhưng Tác dăng không sợ. Chàng tin vào sức mạnh của mình và tin vào những điều tốt đẹp do chính tay mình làm nên. Không do dự nữa, chàng tiến lại sát cành cây, chỉ còn cách con vật vài bước chân. Chàng lên tiếng an ủi con vật. Nghe tiếng người vỗ về, con mèo khổng lồ lập tức quay đầu trở ra rồi nhe hai hàm răng trắng lạnh. Nhưng rõ ràng cử chỉ của nó chỉ có vẻ như là một phản xạ tự vệ hơn là một phản ứng giận giữ. Tácdăng chọn một vị trí thuận lợi để nhấc cành cây lên. Chàng đứng sát con báo tới mức ống chân chàng đã chạm vào lớp lông mịn như nhung của nó. Chàng cúi đầu luồn qua cành cây, ghé vai vào rồi dồn sức đứng dậy. Cành cây thực sự nặng hơn rất nhiều so với dự đoán. Nhưng chỉ sau một vài giây cố gắng chàng đã nâng được cành cây từ từ lên cao. Con báo cảm thấy sức mạnh trên mình nó mỗi lúc một nhẹ dần. Nó đã thấy nhẹ nhõm dễ thở. Bất thình lình, nó vọt ra khỏi khúc gỗ. Ngay trong giây lát ấy Tácdăng cũng thả cành cây, đứng dậy thủ thế.
Hai con thú nhìn thẳng vào mặt nhau. Đứa con trai của rừng xanh tự nhiên bật cười. Thật là một việc làm ngộ nghĩnh và liều lĩnh. Chàng đã chơi một canh bạc lớn, đã đem sự sống của mình ra để đánh cược lấy sự sống cho một con thú dữ - một con thú mà ngay trong giây phút này, sau khi được cứu mạng, nó có thể xông vào cắn chết chàng tức khắc. Nhưng con báo Sêta đã không làm điều đó. Sau khi thoát khỏi cành cây đáng ghét nọ, nó đứng im nhìn Tácdăng đang thong thả leo lên cành cây cao. Ánh mắt của nó giống như cái nhìn của một con chó trung thành dõi theo bước chân ông chủ.
Đi được một lúc, Tácdăng vẫn thấy con báo Sêta lẽo đẽo bám theo mình. Chàng dừng lại trên cành cây, cúi xuống nhìn con báo phía dưới. Phải chăng Sêta đang đói và đang chuẩn bị tấn công chàng? Nhưng sau một giây quan sát, chàng hiểu rằng Sêta đang muốn tiễn chàng. Hành động đó chỉ có ý nghĩ bộc lộ lòng biết ơn.
Một lát sau Tácdăng đánh hơi được mùi hươu. Từ trên cành cao chàng nhảy bổ xuống cổ con hươu rồi cất tiếng gọi Sêta. Đó là tiếng gọi săn mồi mà chàng đã thuộc sau bao lần tiếp xúc với loài báo Sêta. Chàng vừa dứt tiếng kêu, từ phía bên trái đã vang lên tiếng cây rừng sột soạt. Cơ thể mềm mại, uyển chuyển của Sêta đã lộ ra bên lùm cây. Vừa ngửi thấy mùi máu hươu, Sêta đã vọt tới bên cạnh Tácdăng.
Không đầy nửa phút sau, cả hai con thú, kẻ dùng tay, kẻ dùng mõm cùng vui vẻ thưởng thức món thịt hươu tươi nóng.
Từ ngày hôm đó, Tácdăng và báo Sêta đã trở thành một cặp thợ săn lão luyện gắn bó với nhau, cùng lang thang trong rừng già. Một hôm Sêta bắt được một con trâu rừng. Sêta gọi Tácdăng đến cùng ăn. Đôi bạn tri kỷ đang vui vẻ xé thịt trâu rừng thì từ lùm cỏ lau , sư tử Numa xông ra. Thét lên một tiếng hăm dọa, Numa nhảy bổ vào cướp mồi. Báo Sêta buộc phải chạy vào bụi rậm gần đó. Tácdăng cũng nhảy lên cành cây bên cạnh. Sau khi chọn được tư thế thuận lợi, Tácdăng rút sợi dây thòng lọng trên vai xuống, buộc một đầu dây vào cành cây rồi tung vòng thòng lọng xuống đầu sư tử. Khi võng dây đã chụp đúng cổ sư tử Tácdăng rút mạnh sợi dây và lên tiếng gọi Sêta. Ngay lập tức Sêta quay trở lại. Tácdăng nhảy xuống đất, rút dao tấn công từ bên trái. Trong khi đó Seeta tấn công từ bên phải. Con sư tử chưa kịp định thần đã thấy mình bị treo lên khỏi mặt đất. Móng vuốt của Sê ta và mũi dao của Tácdăng tới tấp bổ vào hông sư tử. Chỉ vài phút sau cả dải rừng già đã vang lên tiếng thét chiến thắng của loài vượn người và loài báo hoa.
Cách đó không xa có một đoàn thuyền độc mộc của những chiến binh da đen, bôi mặt sặc sỡ đang thong thả bơi dọc bờ sông. Các chiến binh đang bơi, đột nhiên phải dừng tay chèo nghe ngóng. Chưa bao giờ họ nghe thấy một thứ âm thanh lạ tai đến thế. Tất nhiên không phải tiếng song ca mà chỉ là tiếng rú hả hê của hai loài thú dữ.
Tácdăng hoàn toàn không biết mình đang ở nơi đâu. Càng lang thang trong rừng, chàng càng thấy lòng mình trống rỗng. Ước gì tìm được nơi đây một người bạn của thời thơ ấu! Nỗi khát khao tình bạn trong lòng làm cho cổ chàng tức nghẹn. Chàng biết rằng giữa chàng và những con vượn khôn ngoan nhất trong bộ lạc rất ít những điểm tương đồng. Nhưng dù sao có một con thú làm bạn thì vẫn còn hơn là cô độc, vò võ một mình giữa chốn rừng hoang.
Lang thang mãi cũng chán, chàng lại leo cây hái hoa quả và sục sạo quanh những gốc cây mục để tìm bắt những con bọ cánh cứng. Món thực phẩm tươi sống này đã bắt đầu hợp với khẩu vị của chàng. Đi khoảng một dặm, chàng chợt phát hiện ra mùi hôi của con báo Sêta. Rõ ràng là con báo này đang ở đầu chiều gió thổi. Thật may mắn ! Chàng đang cần một sợi dây cung và một bộ da làm quần áo che sương che nắng.
Vọt qua một vài cây cổ thụ, Tácdăng đã trông thấy con mèo khổng lồ đó đang nấp trong một lùm cây rậm rạp. Cùng lúc ấy chàng cũng ngửi thấy mùi hôi của một đàn vượn lớn. Có thể con báo Sêta đang rình bắt vượn. Khi chỉ còn cách Sêta mấy mét, chàng trông thấy bộ lạc vượn của Acút đang nằm nghỉ ngơi trên một khoảng rừng trống. Bên cạnh những con vượn cái nặng nề, lười nhác, lũ vượn con hiếu động vẫn chí chóe nô dỡn với nhau. Một vài con vượn đực đang tuổi lớn thì luẩn quẩn bên mấy gốc cây, bóc vỏ nhặt trứng kiến. Con vượn đứng gần Sêta lại chính là Acút.
Từ một gốc cây đổ nghiêng, báo Sêta rón rén bò dần xuống thấp. Chú vượn Acút hoàn toàn bình thản, không hề hay biết có con báo trên đầu mình. Tác dăng thận trọng luồn xuống thấp hơn, cho tới khi chỉ cách đầu con báo vài bước chân. Thoạt đầu chàng định sử dụng mũi giáo để phóng. Nhưng thấy cành lá quá rậm,chàng quyết định dùng dao.
Báo Sêta vừa hạ thấp hai chân sau lấy đà thì cũng là lúc Tácdăng thét lên một tiếng rồi nhảy bổ xuống lưng con báo. Nghe tiếng thét, Acút giật mình nhìn lên cao. Nó trông thấy đè lên lưng con báo là con khỉ da trắng đã từng xiết cổ, khuất phục nó cách đây mấy ngày.
Hai hàm răng của Tác dăng cắn ngập sau vào ót con báo, cánh tay trái ghì chặt cổ, còn cánh tay phải thì thọc dao tới tấp vào bụng địch thủ. TRông thấy cảnh tượng dữ dội đó, Acút vội nhảy sang bên.
Trong giây lát, cả hai địch thủ rơi phịch xuống mặt đất. Báo Sêta rống lên, nghiến răng giận dữ. Nhưng nó vẫn bị con khỉ da trắng siết chặt cổ họng. Mũi dao bằng đá cứ mỗi lúc một ngập sâu vào vùng tim của nó. Không đầy nửa phút sau, con báo rống lên một tiếng cuối cùng rồi nằm nhũn ra mặt đất. Chàng trai cuả rừng già đạp chân lên cổ báo, ngửa mặt lên cao, dồn đầy hơi trong lồng ngực rồi thét vang tiếng thét chiến thắng. Acút và đàn vượn giương tròn mắt, hết nhìn cái xác con báo lại nhìn cơ thể tráng kiện của chàng trai.
Tác dăng quyết định phải nói. Bởi vì chàng thừa biết cái trí nhớ ngắn ngủi và khả năng suy nghĩ chậm chạp của loài vượn. Chàng phải nói để làm sáng tỏ mọi điều cho chúng hiểu. Nếu chàng im lặng bỏ đi, chàng sẽ bỏ mất cơ hội kết bạn với chúng.
- Ta là Tácdăng – con trai của loài vượn – chàng quý tộc tên tuổi của Luân Đôn lớn tiếng giải thích – Ta là một người thợ săn tài ba – một võ sĩ ! Ở “vùng nước lớn” ta đã để cho Acút được sống. Ta đã có thể giết Acút và chiếm quyền thủ lĩnh. Nhưng ta đã không làm điều đó. Bây giờ ta đã giết Sêta để cứu Acút. Từ nay nếu Acút và bộ lạc Acút gặp nạn cứ gọi Tácdăng! Hãy gọi thế này! Chàng trai chụm môi hú lên một tiếng, đúng tiếng của loài vượn gọi nhau khi gặp nguy hiểm – Ngược lại, khi nào Tácdăng gọi như thế chúng mày cũng phải chạy đến giúp Tácdăng, được không?
- Hu hu hu ! Acút gật đầu đồng tình. CẢ đàn vượn cũng đồng thanh kêu lên theo Acút.
Hiệp ước hòa bình và tình hữu nghị đã được ký kết quá ư đơn giản và chóng vánh. Ngay sau đó cả đàn vượn lại tản đi, tiếp tục công việc tìm kiếm thức ăn. Tácdăng cũng nhập luôn vào đàn, hí húi bới tìm côn trùng bên các gốc cây. Trong lúc kiếm ăn, Acút gần như không rời xa Tácdăng. Thỉnh thoảng, đôi mắt hõm sâu, nhỏ tí của nó lại đăm đăm nhìn chàng trai. Hình như nó đang suy ngẫm điều gì đó. Cuối cùng nó bước lại bên Tácdăng và làm một việc mà bao năm sống cùng loài vượn Tác dăng chưa hề chứng kiến: Nó cầm một trái cây chín đỏ , thơm phức đặt vào lòng bàn tay vị ân nhân da trắng của mình.
Suốt dọc con đường tìm kiếm thức ăn, cơ thể cân đối vạm vỡ của chàng huân tước nước Anh cứ thấp thoáng khi ẩn khi hiện giữa những chiếc lưng khom của loài vượn. Thỉnh thoảng chàng lại vấp phải một con vượn , nhưng tất cả đều nhường nhịn và tỏ ra đã quen với sự có mặt của chàng. Tất nhiên, mỗi khi chàng đứng gần những con vượn mẹ đang nuôi con nhỏ, chúng cũng nhe răng hăm dọa chàng. Một vài con vượn trẻ cũng gầm gừ khó chịu khi chàng làm chúng giật mình. Nhưng xét cho cùng tất cả mọi hành vi của chúng không có biểu hiện gì của sự thù địch.
Tácdăng cảm thấy dễ chịu trong sinh hoạt cộng đồng với bộ lạc vượn Acút. Chàng cố tự kiềm chế để không gây ra những xung khắc bất lợi. Trong những trường hợp cần thiết, để nhắc nhở những con vượn đực nóng nảy, đãng trí, chàng cũng nhe răng, cũng gầm gừ như chúng. Ngày mỗi ngày, chàng quen dần với cuộc sống bầy đàn, tưởng như xưa kia chưa bao giờ chàng biết tới cuộc sống của loài người văn minh. Từ sáng tới lúc mặt trời lặn, chàng lang thang bên những người bạn mới. Chàng biết rằng trí nhớ của loài vật rất ngắn ngủi, rất khó tạo ra được ở chúng một ấn tượng lâu bền. Chính vì vậy, ngoài nỗi nhớ Potơrôva và đứa con bé bỏng của mình chàng vẫn ước ao một ngày nào đó tìm ra dấu vết của loài người văn minh.
Có một buổi sáng chàng lên đường vào rừng cho tới tận xế chiều. Buổi sáng hôm sau khi tỉnh giấc, chàng thấy mặt trời mọc phía bên phải.Vì vậy chàng cho rằng bờ biển đang lượn dần ra hướng tây. Chàng lại vội vã lên đường, thoăn thoắt chuyền từ cành cây nọ sang cành cây kia như một con sóc. Ngay đêm hôm ấy mặt trời lại lặn xuống biển , đối lập với đất liền. Mỗi lúc Tácdăng một lo lắng hơn. Hình như bọn Rôcốp đã thả chàng xuống một hòn đảo hoang vắng! Rất tiếc là chàng đã biết điều đó hơi muộn! Thật khó mà chờ đợi được ở Rôcốp một điều gì tử tế. Bởi vì còn có gì tồi tệ hơn cuộc sống trên hoang đảo - một cuộc sống bị bao vây giữa bốn bề mây nước!
Chắc chắn là Rôcốp đã quay tàu đi về một dải đất nào đó. Có thể hắn đã thả thằng Ghiếch bé bỏng của Tácdăng vào một bộ tộc dã man đúng như hắn đã đe dọa trong thư. Tácdăng cảm thấy ớn lạnh cả thân thể, khi hình dung đứa con trai của mình đang nhảy nhót cuồng loạn giữa những người da đen mông muội. Rồi chuyện gì sẽ đến với nó? Bao nhiêu năm sống trong rừng già và chung đụng với những bộ tộc châu Phi, chàng thừa hiểu thế nào là cuộc sống bộ tộc. Bất kỳ cuộc sống nào cũng có những niềm vui, cũng có những giờ phút thảnh thơi, no đủ, đôi khi rất lãng mạn. Nhưng nếu nhìn nhận một cách toàn diện, cuộc sống của những bộ tộc châu Phi nơi đây vẫn chỉ là những chuỗi ngày cực nhọc, sợ hãi, đau khổ và tuyệt vọng.
Nếu như đứa con trai của chàng bị Rô cốp thả vào một bộ tộc dã man nào đó, có nghĩa là con đường trở về với loài người văn minh đã khép chặt trước mặt nó. Nó sẽ hoàn toàn không biết gốc tích của mình và lớn lên như một gã thổ dân man rợ. Còn có điều gì khủng khiếp hơn khi nó sống với những bộ tộc ăn thịt người. Chao ôi! Tácdăng thầm kêu lên khi nghĩ tới hàm răng nhọn lởm chởm dưới hai cánh mũi đục thủng, lủng liễng chiếc khoang sắt nặng nề, bóng nhẫy và khuôn mặt loang lỗ những vết sơn xanh đỏ. Lẽ nào đứa con trai của chàng lại trở thành một người như thế?
Chàng cảm thấy cổ họng mình tắc nghẹn. Ước gì giờ này chàng tóm được Rô cốp trong tay!
Và còn Gian nữa ! Giờ này em ở nơi đâu? Chắc chắn là Gian đang vô cùng lo sợ và đau khổ vì cùng một lúc mất cả chàng lẫn Giếch. Nỗi đau đớn của Gian chắc cũng chẳng kém những đau khổ mà chàng đang phải chịu đựng nơi đây. Nhưng nghĩ đi nghĩ lại, chàng lại tự an ủi rằng, ít nhất thì trong ba người, vẫn còn Gian chưa bị ám hại. Dù sao Gian của chàng vẫn sống an toàn ở Luân ĐÔn và không biết rõ những bất hạnh của chồng con…Thật tội nghiệp cho Tácdăng ! Chàng không hề hay biết số phận của vợ chàng. Mà có lẽ như thế còn hơn. Nếu như chàng biết rõ toàn bộ sự thật về Gian, nỗi đau xót , ân hận của chàng còn tăng lên gấp bội.
Tácdăng vừa đi vừa nghĩ. Chàng đi mà không hề biết mình đanh ở nơi đâu. Bước chân của chàng cũng buồn bã và rối bời như những ý nghĩ trong đầu chàng. Đột nhiên chàng nghe thấy có tiếng rên rỉ vang lên , nghe rất lạ. Chàng nhẹ chân tiến về phía có tiếng động. Chỉ một lát sau chàng tìm ra nguyên nhân. Đó là một con báo rất to đang nằm mắc kẹt dưới một cành cây lớn bị gió làm gẫy. Con báo bị chặn ngang bụng. Trông thấy Tácdăng đến gần, con báo gầm gừ, nhe răng ra dọa. Nó cố vùng vẫy để thoát ra cành cây nặng. Nhưng dù giãy dụa đến mấy nó cũng chỉ làm bật được vài mảnh vỏ cây mà thôi. Khúc cây đồ sộ như đã dồn hết trọng lượng lên thân nó.
Tácdăng lùi lại mấy bước. Chàng rút một chiếc tên, đặt vào cung rồi kéo dây. Chàng ngắm mũi tên vào ngực con báo. Cần phải kết thúc nỗi đau đớn tuyệt vọng của nó.! Tácdăng nghĩ bụng rồi giương thẳng cánh cung. Nhưng đột nhiên chàng lại chùn cánh tay. Có một ý nghĩ chợt lóe lên trong đầu. Tại sao chàng lại không giải phóng cho nó, bảo vệ sự sống và tự do của nó? Một việc mà chàng hoàn toàn có thể làm được. Hình như con báo đã không chịu đựng nổi sức nặng của cành cây cổ thụ nữa. Nó chỉ còn biết động đậy bốn chân một cách yếu ớt.
Tácdăng đút ống tên vào ống, hất cánh cung chéo qua vai rồi bước lại gần con thú. Từ mép con thú vang lên một tiếng rên nho nhỏ. Tiếng rên vừa có vẻ nũng nịu vừa có vẻ như hài lòng, chẳng khác gì tiếng một con mèo ăn no, nằm sưởi nắng. Con báo mở to mắt nhìn Tácdăng .Ánh mắt của nó thật khó hiểu, nửa như đe dọa, nửa như van lơn, cầu cứu. Tình thế lúc này thật khó xử. Nếu Tácdăng cứu con thú, chàng phải tiến lại gần nó và tập trung sức lực nâng bổng cành cây lên cao. Khó mà lường hết điều gì sẽ xẩy ra. Có khi làm phúc phải tội. Sau khi con báo được giải thoát, nó có thể lao thẳng vào cắn xé người đã cứu nó. Nhưng Tác dăng không sợ. Chàng tin vào sức mạnh của mình và tin vào những điều tốt đẹp do chính tay mình làm nên. Không do dự nữa, chàng tiến lại sát cành cây, chỉ còn cách con vật vài bước chân. Chàng lên tiếng an ủi con vật. Nghe tiếng người vỗ về, con mèo khổng lồ lập tức quay đầu trở ra rồi nhe hai hàm răng trắng lạnh. Nhưng rõ ràng cử chỉ của nó chỉ có vẻ như là một phản xạ tự vệ hơn là một phản ứng giận giữ. Tácdăng chọn một vị trí thuận lợi để nhấc cành cây lên. Chàng đứng sát con báo tới mức ống chân chàng đã chạm vào lớp lông mịn như nhung của nó. Chàng cúi đầu luồn qua cành cây, ghé vai vào rồi dồn sức đứng dậy. Cành cây thực sự nặng hơn rất nhiều so với dự đoán. Nhưng chỉ sau một vài giây cố gắng chàng đã nâng được cành cây từ từ lên cao. Con báo cảm thấy sức mạnh trên mình nó mỗi lúc một nhẹ dần. Nó đã thấy nhẹ nhõm dễ thở. Bất thình lình, nó vọt ra khỏi khúc gỗ. Ngay trong giây lát ấy Tácdăng cũng thả cành cây, đứng dậy thủ thế.
Hai con thú nhìn thẳng vào mặt nhau. Đứa con trai của rừng xanh tự nhiên bật cười. Thật là một việc làm ngộ nghĩnh và liều lĩnh. Chàng đã chơi một canh bạc lớn, đã đem sự sống của mình ra để đánh cược lấy sự sống cho một con thú dữ - một con thú mà ngay trong giây phút này, sau khi được cứu mạng, nó có thể xông vào cắn chết chàng tức khắc. Nhưng con báo Sêta đã không làm điều đó. Sau khi thoát khỏi cành cây đáng ghét nọ, nó đứng im nhìn Tácdăng đang thong thả leo lên cành cây cao. Ánh mắt của nó giống như cái nhìn của một con chó trung thành dõi theo bước chân ông chủ.
Đi được một lúc, Tácdăng vẫn thấy con báo Sêta lẽo đẽo bám theo mình. Chàng dừng lại trên cành cây, cúi xuống nhìn con báo phía dưới. Phải chăng Sêta đang đói và đang chuẩn bị tấn công chàng? Nhưng sau một giây quan sát, chàng hiểu rằng Sêta đang muốn tiễn chàng. Hành động đó chỉ có ý nghĩ bộc lộ lòng biết ơn.
Một lát sau Tácdăng đánh hơi được mùi hươu. Từ trên cành cao chàng nhảy bổ xuống cổ con hươu rồi cất tiếng gọi Sêta. Đó là tiếng gọi săn mồi mà chàng đã thuộc sau bao lần tiếp xúc với loài báo Sêta. Chàng vừa dứt tiếng kêu, từ phía bên trái đã vang lên tiếng cây rừng sột soạt. Cơ thể mềm mại, uyển chuyển của Sêta đã lộ ra bên lùm cây. Vừa ngửi thấy mùi máu hươu, Sêta đã vọt tới bên cạnh Tácdăng.
Không đầy nửa phút sau, cả hai con thú, kẻ dùng tay, kẻ dùng mõm cùng vui vẻ thưởng thức món thịt hươu tươi nóng.
Từ ngày hôm đó, Tácdăng và báo Sêta đã trở thành một cặp thợ săn lão luyện gắn bó với nhau, cùng lang thang trong rừng già. Một hôm Sêta bắt được một con trâu rừng. Sêta gọi Tácdăng đến cùng ăn. Đôi bạn tri kỷ đang vui vẻ xé thịt trâu rừng thì từ lùm cỏ lau , sư tử Numa xông ra. Thét lên một tiếng hăm dọa, Numa nhảy bổ vào cướp mồi. Báo Sêta buộc phải chạy vào bụi rậm gần đó. Tácdăng cũng nhảy lên cành cây bên cạnh. Sau khi chọn được tư thế thuận lợi, Tácdăng rút sợi dây thòng lọng trên vai xuống, buộc một đầu dây vào cành cây rồi tung vòng thòng lọng xuống đầu sư tử. Khi võng dây đã chụp đúng cổ sư tử Tácdăng rút mạnh sợi dây và lên tiếng gọi Sêta. Ngay lập tức Sêta quay trở lại. Tácdăng nhảy xuống đất, rút dao tấn công từ bên trái. Trong khi đó Seeta tấn công từ bên phải. Con sư tử chưa kịp định thần đã thấy mình bị treo lên khỏi mặt đất. Móng vuốt của Sê ta và mũi dao của Tácdăng tới tấp bổ vào hông sư tử. Chỉ vài phút sau cả dải rừng già đã vang lên tiếng thét chiến thắng của loài vượn người và loài báo hoa.
Cách đó không xa có một đoàn thuyền độc mộc của những chiến binh da đen, bôi mặt sặc sỡ đang thong thả bơi dọc bờ sông. Các chiến binh đang bơi, đột nhiên phải dừng tay chèo nghe ngóng. Chưa bao giờ họ nghe thấy một thứ âm thanh lạ tai đến thế. Tất nhiên không phải tiếng song ca mà chỉ là tiếng rú hả hê của hai loài thú dữ.
Tác giả :
Edgar Rice Burroughs