Số 31 Đường Giấc Mơ
Chương 24
Con kéo đuôi chiếc áo sơ mi vải bông mịn kẻ xanh da trời và trắng cậu mặc bên trong chiếc áo len merino chui đầu màu be. Cậu nhìn xuống chiếc quần jeans đen hẹp ống và đôi giày da mũi nhọn. Cả bộ cánh đã ngốn của cậu 150 bảng. Cậu đã tự hứa là cậu sẽ không tốn tiền để mua sắm quần áo nữa, là cậu sẽ tiết kiệm tất cả tiền bạc để dành cho chiếc bằng lái máy bay cá nhân. Thế rồi cậu mới được nhận lương vào tài khoản, ngày thứ Bảy cậu đi tới Covent Garden[17] với thẻ thanh toán Switch và nướng hết nửa chỗ lương, trong một thoáng.
[17] Một quận với nhiều chợ và cửa hàng nhộn nhịp ở London.
Cậu cũng đã mua cả một chiếc khăn nữa. Mỏng, như một chiếc cà vạt. Cậu đã nhìn thấy Brad Pitt quàng một chiếc như vậy trên một trong mấy tờ tạp chí của mẹ cậu, nhưng giờ thì cậu lại không chắc lắm. Mấy tay đàn ông trong phòng thư tín nhìn cậu vẻ là lạ khi cậu bước vào hồi sáng, vì thế cậu đã tháo khăn ra vào nhét vào túi quần. Nhưng ở đây, ở trên gác này, thì lại khác. Ở trên này, bạn phù hợp với chung quanh khi bạn khác biệt, khi bạn có vẻ như chẳng biết Brent Cross[18] tồn tại. Cậu lôi chiếc khăn ra khỏi túi quần và quàng nó quanh cổ. Rồi cậu đẩy cửa bước vào ban thời trang Vogue và cố gắng làm ra vẻ lạnh nhạt, bình tĩnh và tự tại.
[18] Một khu trung tâm thương mại ở bắc London.
Daisy đang vội vã đi về phía cậu, chiếc túi dệt đeo chéo qua ngực. Cô mặc một chiếc áo khoác màu xám và quàng khăn.
“Ồ, chào em,” cậu nói, “em đi đâu đấy?”
Cô mỉm cười với cậu, nắm lấy tay áo cậu, kéo cậu về phía hành lang và ra sảnh. “Em chuồn đây,” cô thì thào. “Em vừa bảo với họ là bà cô em mất.”
Cậu nhướng mày nhìn cô.
“Không sao đâu,” cô nói, “em làm gì có bà cô nào, nên em chẳng lo nói gở cho ai. Em chỉ quá chán thôi. Em phải ra khỏi đây.”
Con chưa bao giờ nghỉ ngày làm việc nào trong đời nên cảm thấy hơi sốc. “Thế em định làm gì?”
Cô nhún vai và nhấn nút thang máy bằng ngón tay cái. “Em vẫn chưa quyết gì cả. Em đang nghĩ có thể em đi về nhà.”
“Thế thì phí quá.”
“Tại sao - thế thì anh sẽ làm gì nếu như thực sự bà cô anh không mất?”
“Anh chẳng biết. Tuy nhiên, chắc anh không về nhà đâu.
“Hừm.” Cô cau mày. “Có khi là anh có lý đấy. Có khi em cần phải giàu trí tưởng tượng hơn. Em biết rồi! Em biết chúng mình nên làm gì rồi.”
“Chúng mình á?”
“Ừ. Đi đến chợ Borough và mua đủ thứ đồ ăn ngon lành.”
“Nhưng anh không trốn được đâu.”
“Dĩ nhiên là anh trốn được.”
“Nào, thế anh sẽ nói thế nào với họ đây?”
“Bảo họ là cô anh vừa mất.”
“Không đời nào!”
“Nào, thế thì bảo họ là bạn của anh rất đau buồn vì cô của cô ấy vừa mất và anh cần phải chăm sóc cô ấy.”
“Cái gì! Không đời nào. Chỉ có con gái mới làm như thế.”
“Chúa ơi, em chẳng biết đâu. Thế thì bảo với họ là anh bị ốm vậy.”
Daisy bôi một chút sáp môi lên trán Con và cậu nói với sếp của mình là cậu vừa bị nôn. Năm phút sau cậu và Daisy gặp nhau ở góc phố Bruton và họ hối hả đi về phía Oxford Circus, cười đắc thắng như mấy đứa học trò ở cái thời cắp sách mà họ vừa mới đi qua.
Chợ Borough là một thế giới khác. Trong cuộc đời mình hiếm khi Con bước chân vào một siêu thị chứ đừng nói gì đến chợ thực phẩm. Con chẳng phải là một người quan tâm đến đồ ăn mấy. Cậu chỉ quan xem đồ ăn có rẻ không và có làm cậu no bụng không thôi. Nếu nó thơm ngon thì càng tốt, chính vì thế mà cậu thích McDonald’s. Nó không bao giờ làm cậu thất vọng. Cậu cố gắng không ăn khoai tây chiên giòn và đồ ngọt bởi bà cậu luôn bảo cậu rằng khi cậu đói thì cần phải ăn cái gì đó tử tế. Về cuối đời bà quá ốm không thể nấu cho cậu được nữa nên cậu bắt đầu ăn đồ McDonald’s. Cậu không thể cầm lòng nhìn bà đau đớn loay hoay trong bếp nên cậu đã quay qua tìm kiếm sự giúp đỡ của Ronald[19].
[19] Chú hè Ronald là biểu tượng của chuỗi cửa hàng đồ ăn nhanh Mc. Donald’s.
Con biết những thứ đó thật vớ vẩn, những thứ đồ ăn cậu vẫn tống vào cơ thể mình ấy, nhưng cậu cũng không thể buộc mình lắng vì việc đó. Da dẻ của cậu vẫn đẹp; tóc cậu vẫn đẹp; và vóc dáng cậu vẫn đẹp. Cậu sẽ lo lắng về nó khi cậu bắt đầu béo. Đồ ăn nhiên liệu, để lót dạ dày và để hấp thụ đồ uống có cồn - thế thôi.
Nhưng rõ ràng là Daisy nghĩ khác.
Vì vậy cô lượn tới lượn lui trong cửa hàng như thể ở đây bán mẫu quần áo thiết kế giảm nửa giá. Cô ve vuốt những lọ thủy tinh đựng hành nâu nhớp nháp và những ổ bánh mì hình thù kì dị. Cô hít hà những miếng pho mát nặng mùi và những khối thịt lổn nhổn đã ướp muối hoặc sấy khô. Cô nếm thử một mẩu kẹo mềm và những quả ô liu đẫm dầu. Cô đi từ quầy này qua quầy khác như một chú chó lơ đãng, đưa những đồng năm bảng nhàu nát cho người bán hàng và tự trang bị cho mình càng lúc càng nhiều những chiếc túi ni lông nặng trĩu.
“Anh có thích món gravadlax không?” Đột nhiên cô nói, vén mớ tóc xòa lên má bằng một bàn tay đang xách đủ loại túi.
“Grava gì cơ?”
“Gravadlax. Đó là món cá hồi, ướp thì là.”
“Thì là là cái gì?”
“Đó là một loại rau gia vị.”
“Anh không biết. Nó như thế nào nhỉ?”
“Nó hơi giống món cá hồi xông khói, nhưng không mặn bằng.”
Cậu nhún vai.Cậu có nghe nói đến cá hồi xông khói, nhưng chưa bao giờ ăn thử. “Anh không khoái ăn cá lắm.”
“Thế thì,” cô nói vẻ cương quyết, trả thêm năm đồng bảng nữa, “thế thì anh sẽ thích món này. Nó không giống cá lắm đâu. Nó giống giăm bông hơn.”
Cô mua những thanh bánh mì bột nhồi pho mát to tướng, những lát salami màu gỉ sắt, những khối pho mát màu phấn và một hộp trứng lớp lớp trắng như mây. Cảm thấy tội lỗi vì Daisy tiêu tất cả tiền của mình vào đồ ăn mà có lẽ cậu sẽ không thích, Con lẻn đi một phút để tìm một chai rượu vang.
“Anh định dùng rượu với gì?” Người đàn ông mặc chiếc áo linen kẻ sọc nói.
“Ờ, với đồ ăn,” Con nói.
“Gà, cá, đồ ăn cay hay đồ ăn giàu đạm?”
“Tôi chẳng biết. Có cá, có hàu, có ô liu và các thứ khác.”
“Nghe ngon lành đấy,” người đàn ông mỉm cười. “Thế thì lấy một chai Pouilly Fuisse nhé?”
Con chia tay một tờ hai mươi bảng trong nghẹn ngào và cầm lấy chai rượu đã được bọc giấy cẩn thận. “Nhớ phải dùng lạnh đấy,” anh ta nói. “Nhưng đừng quá lạnh. Nhé?”
Cậu tìm thấy Daisy đang nếm thử sô cô la hữu cơ[20]. “Mở miệng ra nào,” cô nói, đẩy một miếng vào miệng cậu.
[20] Nguyên văn “organic”: là các loại sản phẩm được trồng, thu hoạch và chế biến theo quy trình hoàn toàn tự nhiên, thân thiện với môi trường không sử dụng hóa chất kích thích hoặc độc hại, ảnh hưởng đến sức khỏe.
Cậu đưa tay lên. “Ừm, không đâu, cám ơn em. Anh không khoái sô cô la lắm.”
“Đừng có buồn cười thế,” cô nói, mẩu sô cô la vẫn bay lượn sát môi cậu. “Ai mà chả thích sô cô la. Bây giờ, mở miệng ra nào.”
Cậu hé môi và để ngón tay cô chạm vào miệng mình.
“Giờ thì,” cô nói, nhìn cậu vẻ phấn khích, “nói cho em biết đây chẳng phải là loại sô cô la ngon nhất mà anh từng được nếm trong đời sao?”
Cậu ngậm lấy chỗ sô cô la và để cho nó tan ra trong miệng. Phản ứng đầu tiên của cậu là nhè nó ra. Nó như mùi bùn. Nhưng rồi sô cô la thấm vào lưỡi cậu, qua răng cậu, cậu phát hiện ra rằng nó không chỉ có vị giống sô cô la mà còn giống sô cô la một trăm lần đậm đặc hơn.
“Thực sự là ngon,” cậu nói.
“Thấy chưa,” cô gật đầu, “em đã bảo anh mà. Để em mua một ít cho anh.”
Ngôi nhà của Daisy trông như mọi ngôi nhà bình thường khác, có điều là được thu nhỏ. Nó chỉ có một cửa ra vào phía trước và hai cửa sổ, thế là hết. Cửa trước mở thẳng vào phòng khách, với một ghế sofa nhỏ xíu, và một cái ghế bành. Ở phía sau là bếp được bố trí trong khu nhà kính dẫn ra sau một mảnh vườn nhỏ như một trạm dừng xe buýt. Nhưng ngôi nhà rất thanh lịch, rất hiện đại. Tường nhà được sơn màu cà phê trầm, chiếc ti vi mới tinh màn hình rộng, rèm cửa đắt tiền và tủ trong bếp lát gỗ tấm màu xám dưới ánh đèn halogen. Qua cửa vườn, Con có thể nhìn thấy máy sưởi sân bằng chrome và những cây cảnh nhiệt đới trồng trong những cái chậu màu xanh cô ban.
“Nhà đẹp đấy,” cậu nói.
“Cám ơn anh,” cô đáp, “nhỏ nhắn nhưng hoàn hảo.” Giọng cô có vẻ hụt hơi và chuyển thành những tiếng ho khan.
“Em không sao chứ?”
“Cái gì cơ? Ồ, ho ấy à. Không có gì đâu. Một chút vấn đề về phổi thôi mà.”
“Chị em đấy à?” Cậu cầm một khung ảnh một cô gái có mớ tóc vàng biscuit trông giống như Daisy, có điều có da thịt hơn.
“Chính xác. Đó là Mimi.” Cô để chỗ túi đựng hàng lên mặt một chiếc bàn gỗ thông cổ trong bếp và bắt đầu dỡ đồ ra. “Và đây là James, ngồi sau chị ấy.”
“Bạn trai chị ấy đấy à?”
“Đúng vậy. Bạn trai chị ấy. Chủ nhà của em. James vô cùng dễ thương.”
“Trông họ đẹp đôi,” cậu nói, đặt ảnh vào chỗ cũ. Và trông họ đẹp đôi thực. Đẹp đôi và tẻ ngắt.
Cậu quay trở lại bếp nơi Daisy đang cắt chanh làm bốn. Mưa phùn hồi nãy đã chuyển sang mưa rào và cửa kính căn bếp bắt đầu đọng hơi nước. Cái bàn giờ đây trông giống hệt một quầy thực phẩm trong chợ Borough. Có những cái khay bạc đựng đá vụn và hàu sẫm màu, đĩa với lớp lớp thịt, pho mát, và những chùm nho trĩu nặng. “Ăn một quả ô liu đi này,” Daisy nói, “chúng ngon lắm.” Cậu ngó vào cái bát và lưỡng lự trước những gì cậu thấy. Ô liu theo kinh nghiệm của cậu thường nhỏ xíu, màu đen và nhăn nhúm trang trí trên chiếc bánh pizza. Chúng không có màu xanh sẫm, to gần bằng hạt óc chó và đang bơi trong bát dầu màu ka ki lẫn vài mảnh gì đó màu đỏ. Cậu nghĩ đến chuyện bỏ tọt một quả vào miệng, nhưng rồi lại cố tưởng tượng xem mình sẽ làm gì nếu như hương vị của nó cũng kinh khủng như vẻ ngoài của nó. Có thể cậu sẽ phát ốm. Cũng có thể cậu sẽ nôn nó ra chiếc áo len merino. “Không,” cậu nói, “anh chẳng khoái ô liu đâu.”
Cô quay lại và nhìn anh chăm chú. “Thực ra anh có thích đồ ăn tí nào không đấy?” cô hỏi đùa.
Cậu nhún vai. Cậu đã ngớ ra. “Anh cũng thích một số món ăn chứ. Chỉ không phải...” - cậu liếc nhìn cái bàn - “em biết không?”
“Ô liu, sô cô la và cá hả?”
“Ừ.”
“Nhưng anh thích pho mát chứ?”
“Ừ, anh không ngại pho mát.” Cậu mỉm cười.
“Thế xúc xích?”
“Ừ, cũng được.”
“Còn bánh mì?”
“Anh thích bánh mì lắm.”
“Thế bánh mì có ô liu thì sao?”
“Hừm...” cậu mỉm cười. “Có thể.”
Cô cười vang. “Thế, anh vẫn thường ăn gì nào? Món khoái khẩu của anh là món nào?”
“McDonald’s.”
“Không phải chứ!” Mắt cô tròn xoe.
“Ừ. Anh thích McDonald’s. Thực sự, thực sự thích nó.”
“Nhưng tại sao chứ?”
“Anh không biết. Bởi vì nó có hương vị thơm ngon.”
“Không, không phải đâu.”
“Có chứ.”
“Nào, nó có hương vị thơm ngon trong vòng ba mươi giây khi ta ăn, sau đó thì chẳng đọng lại gì.”
“Ừ, anh biết, nhưng khi đang ăn thì cũng ngon mà.”
“Nhưng ngoài McDonald’s ra. Anh còn thích gì nữa nào?”
Cậu nhún vai. “Món cà ri, thỉnh thoảng. Món Tàu. Món chiên giòn.”
“Ồ, chúa ơi.” Cô đặt tay lên xương quai xanh. “Đây đúng là số phận! Anh được gửi đến cho em là có lý do của nó. Em sẽ phải chỉnh đốn lại khẩu vị của anh. Giờ thì hãy ăn ngay một quả ô liu này cho em!” Cô đẩy nó vào giữa đôi môi cậu trước khi cậu kịp phản đối và bỗng dưng cậu thấy mình đang nhai một thứ gì đó có thớ giống như một quả mận cũ và có hương vị của đồ ăn dành cho chó bị thiu. Cậu muốn ọe vì món này, nhưng vẫn cố nhai. Cậu nhai phải cái gì đó cưng cứng ở giữa, giống như một viên đạn, nhưng cậu vẫn tiếp tục. Daisy nhìn cậu chờ đợi. Rốt cuộc, một số vị ngon khác bắt đầu xuất hiện - tiêu, cá ngừ, pho mát, muối - và, khi cậu đã nhai hết, cậu đã đi tới chỗ thưởng thức nó. Cậu nuốt và nhìn Daisy một cách đắc thắng và rạng rỡ.
“Thế cái hạt đâu?” Daisy hỏi.
“Cái gì, cái cưng cứng ở giữa á?”
“Phải đấy, cái cưng cứng ở giữa ấy.”
Cậu nhún vai. “Anh nuốt mất rồi.”
Cô đưa tay lên miệng để chặn tiếng cười. “Không phải chứ?!”
“Có mà,” cậu đáp. “Chẳng phải là anh cần làm thế còn gì?”
“Không. Đáng lý anh phải nhả hạt ra.”
“Cái gì? Thật á?”
“Phải.”
“Ồ, cứt thật. Liệu anh có bị sao không?”
“Không,” cô lắc đầu, mỉm cười. “Em không nghĩ thế đâu. Tuy thế, có thể rút cuộc một cây ô liu nhỏ bé sẽ mọc lên ở đó.” Cô chỉ vào bụng cậu.
Cậu liếc xuống, rồi lại nhìn lên, mỉm cười. “Nào, anh nghĩ nếu anh đã ăn một hạt ô liu mà chẳng để ý thì có lẽ với mấy thứ này anh sẽ chẳng sao đâu.” Cậu khoát tay chỉ cái bàn. “Tiếp đi nào.”
Trong vòng hai tiếng sau đó, Con đã làm một điều mà cậu chưa bao giờ làm. Cậu ăn. Cậu tiệc tùng. Cậu hưởng thụ. Cậu ngâm nga với những món ăn. Và mặc dù cậu không thích tất cả mọi thứ (nhất là món pho mát dê, làm cậu liên tưởng đến cái chất bẩn người ta cạy ở móng chân ra), cậu thích phần lớn đồ ăn. Nhưng chủ yếu cậu thích được ngồi bên bàn, dưới lớp kính mờ, bám hơi nước, cảm thấy một chút nắng hiện ra ở sân sau, uống chút rượu trắng lạnh vừa đúng độ và lắng nghe câu chuyện của Daisy.
Mọi thứ về Daisy như khiến cậu đắm say, từ cái lối nói chữ “mẹ kiếp” nhẹ như hơi thở, làm như thể đó là một chữ được ưa chuộng lắm, cho tới cách cô mút từng ngón tay một sau khi ăn cái gì đó dính dầu. Cậu thích chuyện cô có ý kiến cá nhân về mọi thứ, từ bàn chân (“Kinh tởm, nhưng cũng không kinh tởm bằng lưỡi. Anh đã bao giờ ngắm nghía một cái lưỡi chưa?”) đến đảo Sidly (“Nơi yêu thích nhất của em trên thế giới, trừ nhà bố mẹ em ra.”) đến chó (“Một khi anh đã nhìn vào đôi mắt của một chú chó núi Pyrene, anh sẽ bị hút hồn. Anh sẽ dành suốt phần đời còn lại để tìm kiếm một con cho mình.”).
“Kể cho em nghe chuyện gì đó thực sự thú vị về bản thân anh đi nào,” cô nói, rót cà phê từ ấm ra hai chiếc tách màu trắng.
“Thực sự thú vị á?”
“Ừ. Chuyện gì đó thực sự làm em sững sờ ấy.”
“Chết cha,” cậu nói, tay xoa xoa cằm. “Tại sao?”
“Bởi vì có điều gì đó ở anh thật khó hiểu và em muốn biết đó là điều gì?”
Cậu chậm rãi gật đầu với cô. “Được rồi,” cậu nói. “Này nhé, sau khi mẹ anh bỏ đi Thổ Nhĩ Kỳ năm ngoái, anh phải trả lại căn hộ và chẳng có chỗ nào để ở. Vậy là anh ngủ ngoài phố. Trước lối vào một cửa hàng. Hai tuần liền.”
“Cái gì - anh á?”
“Ừ.”
“Chúa ơi, em không thể tưởng tượng được điều đó. Trông anh thật là... không tì vết.”
“Không tì vết?”
“Vâng, đầu tóc và quần áo anh. Không nhàu, không bẩn. Anh thơm mùi xà phòng giặt. Trông anh lúc nào cũng như vừa bước ra khỏi một trang catalogue. Ý em là, thế chuyện ấy ra sao? Có tồi tệ lắm không? Anh có tắm không?”
“Có chứ. Anh có tắm. Thậm chí còn thay cả đồ lót nữa. Không đến nỗi tệ lắm. Anh vẫn đi làm hàng ngày mà.”
“Anh có phải xin ăn không?”
Cậu lại cười vang. “Không! Anh vẫn có lương mà! Chỉ có hai tuần thôi.”
“Chúa ơi, dù sao đi nữa. Thật kinh khủng làm sao. Cái ý nghĩ không được chui vào giường của mình mỗi tối. Không được tự tay tắt đèn và lăn vào chỗ của mình và cảm thấy bình yên và an toàn. Thật kinh khủng.”
Cậu lại nhún vai. “Vậy, thế còn em thì sao? Kể cho anh chuyện gì đó về em khiến anh kinh ngạc đi nào.”
Cô nhắm mắt lại một thoáng rồi mở ra. “Hừm, anh có chắc là anh muốn biết không? Chuyện gây thất vọng lắm đấy.”
“Có chứ, anh muốn biết mà.”
“Này nhé, có chuyện này về em mà thường ít khi em kể cho ai, nhưng em nói với anh vì... em chẳng biết nữa. Em có cái cảm giác về anh...” Cô dừng lại một giây rồi liếc nhìn cậu. “Có một điều này, một tình trạng, với hai lá phổi của em. Chúng tạo ra quá nhiều đờm và em phải uống đủ loại thuốc và làm đủ các loại massage để đường thở của em được thông thoáng. Nhưng em cũng kém đề kháng với viêm nhiễm. Căn bản là tình trạng này khiến người ta thành người giấy. Có lần em đã phải vào viện nằm cả tuần chỉ vì bị cảm lạnh. Đủ loại dây dợ. Giữa sự sống và cái chết. Thật chán.”
Con nhìn cô chăm chú một lát, không biết phải nói sao.
“Em bảo anh rằng chuyện này gây thất vọng lắm mà.”
“Nhưng trông em có ốm đau gì đâu.”
“Không, em không cảm thấy ốm yếu. Nhưng, cả đời em đã bị thế này, cho nên em cũng thực sự chả biết cảm thấy khỏe thì như thế nào.”
“Cái bệnh đó, gọi là bệnh gì nhỉ?”
“Đó là bệnh xơ nang.”
“Ồ, phải rồi. Anh có nghe nói đến bệnh đó.”
“Vâng. Em có một căn bệnh rất chi là nổi tiếng. Một căn bệnh ngôi sao, thực thế. Căn bệnh này tối nào cũng được mời đi dự các buổi chiếu khai mạc phim.”
“Xin lỗi em, anh chỉ...”
“Không, em không làm ra vẻ khôi hài đâu. Em không quá nhạy cảm về nó nữa. Bệnh là bệnh thôi. Và ai mà quan tâm đến một căn bệnh cổ lỗ sĩ ngốc nghếch như thế làm gì, thật lòng mà nói? Cuộc sống là để sống. Và để ăn. Và để uống. Nhắc đến mới nhớ,” cô nhoẻn cười, “liệu em có nên mở thêm một chai rượu nữa hay không?”
Con gật đầu và nhìn cô trong lúc cô đi lấy chai rượu trong tủ lạnh. Sự nhỏ nhắn của cô, sự trong suốt của cô, giờ đây được đặt dưới ánh sáng không bình yên mới mẻ của những gì cô vừa thổ lộ với anh. Làn da mịn trắng như thạch cao của cô có chút ánh xanh và mái tóc mỏng manh của cô trông yếu ớt và dễ đứt. Cô không phải là một nàng tiên hay nữ thần. Cô không phải là một cô nàng hay chuyện ở Condé Nast. Cô bị ốm. Rất ốm.
Con thở một hơi thật sâu và cố gắng để không hỏi cô có bao giờ cô sẽ khá hơn.
[17] Một quận với nhiều chợ và cửa hàng nhộn nhịp ở London.
Cậu cũng đã mua cả một chiếc khăn nữa. Mỏng, như một chiếc cà vạt. Cậu đã nhìn thấy Brad Pitt quàng một chiếc như vậy trên một trong mấy tờ tạp chí của mẹ cậu, nhưng giờ thì cậu lại không chắc lắm. Mấy tay đàn ông trong phòng thư tín nhìn cậu vẻ là lạ khi cậu bước vào hồi sáng, vì thế cậu đã tháo khăn ra vào nhét vào túi quần. Nhưng ở đây, ở trên gác này, thì lại khác. Ở trên này, bạn phù hợp với chung quanh khi bạn khác biệt, khi bạn có vẻ như chẳng biết Brent Cross[18] tồn tại. Cậu lôi chiếc khăn ra khỏi túi quần và quàng nó quanh cổ. Rồi cậu đẩy cửa bước vào ban thời trang Vogue và cố gắng làm ra vẻ lạnh nhạt, bình tĩnh và tự tại.
[18] Một khu trung tâm thương mại ở bắc London.
Daisy đang vội vã đi về phía cậu, chiếc túi dệt đeo chéo qua ngực. Cô mặc một chiếc áo khoác màu xám và quàng khăn.
“Ồ, chào em,” cậu nói, “em đi đâu đấy?”
Cô mỉm cười với cậu, nắm lấy tay áo cậu, kéo cậu về phía hành lang và ra sảnh. “Em chuồn đây,” cô thì thào. “Em vừa bảo với họ là bà cô em mất.”
Cậu nhướng mày nhìn cô.
“Không sao đâu,” cô nói, “em làm gì có bà cô nào, nên em chẳng lo nói gở cho ai. Em chỉ quá chán thôi. Em phải ra khỏi đây.”
Con chưa bao giờ nghỉ ngày làm việc nào trong đời nên cảm thấy hơi sốc. “Thế em định làm gì?”
Cô nhún vai và nhấn nút thang máy bằng ngón tay cái. “Em vẫn chưa quyết gì cả. Em đang nghĩ có thể em đi về nhà.”
“Thế thì phí quá.”
“Tại sao - thế thì anh sẽ làm gì nếu như thực sự bà cô anh không mất?”
“Anh chẳng biết. Tuy nhiên, chắc anh không về nhà đâu.
“Hừm.” Cô cau mày. “Có khi là anh có lý đấy. Có khi em cần phải giàu trí tưởng tượng hơn. Em biết rồi! Em biết chúng mình nên làm gì rồi.”
“Chúng mình á?”
“Ừ. Đi đến chợ Borough và mua đủ thứ đồ ăn ngon lành.”
“Nhưng anh không trốn được đâu.”
“Dĩ nhiên là anh trốn được.”
“Nào, thế anh sẽ nói thế nào với họ đây?”
“Bảo họ là cô anh vừa mất.”
“Không đời nào!”
“Nào, thế thì bảo họ là bạn của anh rất đau buồn vì cô của cô ấy vừa mất và anh cần phải chăm sóc cô ấy.”
“Cái gì! Không đời nào. Chỉ có con gái mới làm như thế.”
“Chúa ơi, em chẳng biết đâu. Thế thì bảo với họ là anh bị ốm vậy.”
Daisy bôi một chút sáp môi lên trán Con và cậu nói với sếp của mình là cậu vừa bị nôn. Năm phút sau cậu và Daisy gặp nhau ở góc phố Bruton và họ hối hả đi về phía Oxford Circus, cười đắc thắng như mấy đứa học trò ở cái thời cắp sách mà họ vừa mới đi qua.
Chợ Borough là một thế giới khác. Trong cuộc đời mình hiếm khi Con bước chân vào một siêu thị chứ đừng nói gì đến chợ thực phẩm. Con chẳng phải là một người quan tâm đến đồ ăn mấy. Cậu chỉ quan xem đồ ăn có rẻ không và có làm cậu no bụng không thôi. Nếu nó thơm ngon thì càng tốt, chính vì thế mà cậu thích McDonald’s. Nó không bao giờ làm cậu thất vọng. Cậu cố gắng không ăn khoai tây chiên giòn và đồ ngọt bởi bà cậu luôn bảo cậu rằng khi cậu đói thì cần phải ăn cái gì đó tử tế. Về cuối đời bà quá ốm không thể nấu cho cậu được nữa nên cậu bắt đầu ăn đồ McDonald’s. Cậu không thể cầm lòng nhìn bà đau đớn loay hoay trong bếp nên cậu đã quay qua tìm kiếm sự giúp đỡ của Ronald[19].
[19] Chú hè Ronald là biểu tượng của chuỗi cửa hàng đồ ăn nhanh Mc. Donald’s.
Con biết những thứ đó thật vớ vẩn, những thứ đồ ăn cậu vẫn tống vào cơ thể mình ấy, nhưng cậu cũng không thể buộc mình lắng vì việc đó. Da dẻ của cậu vẫn đẹp; tóc cậu vẫn đẹp; và vóc dáng cậu vẫn đẹp. Cậu sẽ lo lắng về nó khi cậu bắt đầu béo. Đồ ăn nhiên liệu, để lót dạ dày và để hấp thụ đồ uống có cồn - thế thôi.
Nhưng rõ ràng là Daisy nghĩ khác.
Vì vậy cô lượn tới lượn lui trong cửa hàng như thể ở đây bán mẫu quần áo thiết kế giảm nửa giá. Cô ve vuốt những lọ thủy tinh đựng hành nâu nhớp nháp và những ổ bánh mì hình thù kì dị. Cô hít hà những miếng pho mát nặng mùi và những khối thịt lổn nhổn đã ướp muối hoặc sấy khô. Cô nếm thử một mẩu kẹo mềm và những quả ô liu đẫm dầu. Cô đi từ quầy này qua quầy khác như một chú chó lơ đãng, đưa những đồng năm bảng nhàu nát cho người bán hàng và tự trang bị cho mình càng lúc càng nhiều những chiếc túi ni lông nặng trĩu.
“Anh có thích món gravadlax không?” Đột nhiên cô nói, vén mớ tóc xòa lên má bằng một bàn tay đang xách đủ loại túi.
“Grava gì cơ?”
“Gravadlax. Đó là món cá hồi, ướp thì là.”
“Thì là là cái gì?”
“Đó là một loại rau gia vị.”
“Anh không biết. Nó như thế nào nhỉ?”
“Nó hơi giống món cá hồi xông khói, nhưng không mặn bằng.”
Cậu nhún vai.Cậu có nghe nói đến cá hồi xông khói, nhưng chưa bao giờ ăn thử. “Anh không khoái ăn cá lắm.”
“Thế thì,” cô nói vẻ cương quyết, trả thêm năm đồng bảng nữa, “thế thì anh sẽ thích món này. Nó không giống cá lắm đâu. Nó giống giăm bông hơn.”
Cô mua những thanh bánh mì bột nhồi pho mát to tướng, những lát salami màu gỉ sắt, những khối pho mát màu phấn và một hộp trứng lớp lớp trắng như mây. Cảm thấy tội lỗi vì Daisy tiêu tất cả tiền của mình vào đồ ăn mà có lẽ cậu sẽ không thích, Con lẻn đi một phút để tìm một chai rượu vang.
“Anh định dùng rượu với gì?” Người đàn ông mặc chiếc áo linen kẻ sọc nói.
“Ờ, với đồ ăn,” Con nói.
“Gà, cá, đồ ăn cay hay đồ ăn giàu đạm?”
“Tôi chẳng biết. Có cá, có hàu, có ô liu và các thứ khác.”
“Nghe ngon lành đấy,” người đàn ông mỉm cười. “Thế thì lấy một chai Pouilly Fuisse nhé?”
Con chia tay một tờ hai mươi bảng trong nghẹn ngào và cầm lấy chai rượu đã được bọc giấy cẩn thận. “Nhớ phải dùng lạnh đấy,” anh ta nói. “Nhưng đừng quá lạnh. Nhé?”
Cậu tìm thấy Daisy đang nếm thử sô cô la hữu cơ[20]. “Mở miệng ra nào,” cô nói, đẩy một miếng vào miệng cậu.
[20] Nguyên văn “organic”: là các loại sản phẩm được trồng, thu hoạch và chế biến theo quy trình hoàn toàn tự nhiên, thân thiện với môi trường không sử dụng hóa chất kích thích hoặc độc hại, ảnh hưởng đến sức khỏe.
Cậu đưa tay lên. “Ừm, không đâu, cám ơn em. Anh không khoái sô cô la lắm.”
“Đừng có buồn cười thế,” cô nói, mẩu sô cô la vẫn bay lượn sát môi cậu. “Ai mà chả thích sô cô la. Bây giờ, mở miệng ra nào.”
Cậu hé môi và để ngón tay cô chạm vào miệng mình.
“Giờ thì,” cô nói, nhìn cậu vẻ phấn khích, “nói cho em biết đây chẳng phải là loại sô cô la ngon nhất mà anh từng được nếm trong đời sao?”
Cậu ngậm lấy chỗ sô cô la và để cho nó tan ra trong miệng. Phản ứng đầu tiên của cậu là nhè nó ra. Nó như mùi bùn. Nhưng rồi sô cô la thấm vào lưỡi cậu, qua răng cậu, cậu phát hiện ra rằng nó không chỉ có vị giống sô cô la mà còn giống sô cô la một trăm lần đậm đặc hơn.
“Thực sự là ngon,” cậu nói.
“Thấy chưa,” cô gật đầu, “em đã bảo anh mà. Để em mua một ít cho anh.”
Ngôi nhà của Daisy trông như mọi ngôi nhà bình thường khác, có điều là được thu nhỏ. Nó chỉ có một cửa ra vào phía trước và hai cửa sổ, thế là hết. Cửa trước mở thẳng vào phòng khách, với một ghế sofa nhỏ xíu, và một cái ghế bành. Ở phía sau là bếp được bố trí trong khu nhà kính dẫn ra sau một mảnh vườn nhỏ như một trạm dừng xe buýt. Nhưng ngôi nhà rất thanh lịch, rất hiện đại. Tường nhà được sơn màu cà phê trầm, chiếc ti vi mới tinh màn hình rộng, rèm cửa đắt tiền và tủ trong bếp lát gỗ tấm màu xám dưới ánh đèn halogen. Qua cửa vườn, Con có thể nhìn thấy máy sưởi sân bằng chrome và những cây cảnh nhiệt đới trồng trong những cái chậu màu xanh cô ban.
“Nhà đẹp đấy,” cậu nói.
“Cám ơn anh,” cô đáp, “nhỏ nhắn nhưng hoàn hảo.” Giọng cô có vẻ hụt hơi và chuyển thành những tiếng ho khan.
“Em không sao chứ?”
“Cái gì cơ? Ồ, ho ấy à. Không có gì đâu. Một chút vấn đề về phổi thôi mà.”
“Chị em đấy à?” Cậu cầm một khung ảnh một cô gái có mớ tóc vàng biscuit trông giống như Daisy, có điều có da thịt hơn.
“Chính xác. Đó là Mimi.” Cô để chỗ túi đựng hàng lên mặt một chiếc bàn gỗ thông cổ trong bếp và bắt đầu dỡ đồ ra. “Và đây là James, ngồi sau chị ấy.”
“Bạn trai chị ấy đấy à?”
“Đúng vậy. Bạn trai chị ấy. Chủ nhà của em. James vô cùng dễ thương.”
“Trông họ đẹp đôi,” cậu nói, đặt ảnh vào chỗ cũ. Và trông họ đẹp đôi thực. Đẹp đôi và tẻ ngắt.
Cậu quay trở lại bếp nơi Daisy đang cắt chanh làm bốn. Mưa phùn hồi nãy đã chuyển sang mưa rào và cửa kính căn bếp bắt đầu đọng hơi nước. Cái bàn giờ đây trông giống hệt một quầy thực phẩm trong chợ Borough. Có những cái khay bạc đựng đá vụn và hàu sẫm màu, đĩa với lớp lớp thịt, pho mát, và những chùm nho trĩu nặng. “Ăn một quả ô liu đi này,” Daisy nói, “chúng ngon lắm.” Cậu ngó vào cái bát và lưỡng lự trước những gì cậu thấy. Ô liu theo kinh nghiệm của cậu thường nhỏ xíu, màu đen và nhăn nhúm trang trí trên chiếc bánh pizza. Chúng không có màu xanh sẫm, to gần bằng hạt óc chó và đang bơi trong bát dầu màu ka ki lẫn vài mảnh gì đó màu đỏ. Cậu nghĩ đến chuyện bỏ tọt một quả vào miệng, nhưng rồi lại cố tưởng tượng xem mình sẽ làm gì nếu như hương vị của nó cũng kinh khủng như vẻ ngoài của nó. Có thể cậu sẽ phát ốm. Cũng có thể cậu sẽ nôn nó ra chiếc áo len merino. “Không,” cậu nói, “anh chẳng khoái ô liu đâu.”
Cô quay lại và nhìn anh chăm chú. “Thực ra anh có thích đồ ăn tí nào không đấy?” cô hỏi đùa.
Cậu nhún vai. Cậu đã ngớ ra. “Anh cũng thích một số món ăn chứ. Chỉ không phải...” - cậu liếc nhìn cái bàn - “em biết không?”
“Ô liu, sô cô la và cá hả?”
“Ừ.”
“Nhưng anh thích pho mát chứ?”
“Ừ, anh không ngại pho mát.” Cậu mỉm cười.
“Thế xúc xích?”
“Ừ, cũng được.”
“Còn bánh mì?”
“Anh thích bánh mì lắm.”
“Thế bánh mì có ô liu thì sao?”
“Hừm...” cậu mỉm cười. “Có thể.”
Cô cười vang. “Thế, anh vẫn thường ăn gì nào? Món khoái khẩu của anh là món nào?”
“McDonald’s.”
“Không phải chứ!” Mắt cô tròn xoe.
“Ừ. Anh thích McDonald’s. Thực sự, thực sự thích nó.”
“Nhưng tại sao chứ?”
“Anh không biết. Bởi vì nó có hương vị thơm ngon.”
“Không, không phải đâu.”
“Có chứ.”
“Nào, nó có hương vị thơm ngon trong vòng ba mươi giây khi ta ăn, sau đó thì chẳng đọng lại gì.”
“Ừ, anh biết, nhưng khi đang ăn thì cũng ngon mà.”
“Nhưng ngoài McDonald’s ra. Anh còn thích gì nữa nào?”
Cậu nhún vai. “Món cà ri, thỉnh thoảng. Món Tàu. Món chiên giòn.”
“Ồ, chúa ơi.” Cô đặt tay lên xương quai xanh. “Đây đúng là số phận! Anh được gửi đến cho em là có lý do của nó. Em sẽ phải chỉnh đốn lại khẩu vị của anh. Giờ thì hãy ăn ngay một quả ô liu này cho em!” Cô đẩy nó vào giữa đôi môi cậu trước khi cậu kịp phản đối và bỗng dưng cậu thấy mình đang nhai một thứ gì đó có thớ giống như một quả mận cũ và có hương vị của đồ ăn dành cho chó bị thiu. Cậu muốn ọe vì món này, nhưng vẫn cố nhai. Cậu nhai phải cái gì đó cưng cứng ở giữa, giống như một viên đạn, nhưng cậu vẫn tiếp tục. Daisy nhìn cậu chờ đợi. Rốt cuộc, một số vị ngon khác bắt đầu xuất hiện - tiêu, cá ngừ, pho mát, muối - và, khi cậu đã nhai hết, cậu đã đi tới chỗ thưởng thức nó. Cậu nuốt và nhìn Daisy một cách đắc thắng và rạng rỡ.
“Thế cái hạt đâu?” Daisy hỏi.
“Cái gì, cái cưng cứng ở giữa á?”
“Phải đấy, cái cưng cứng ở giữa ấy.”
Cậu nhún vai. “Anh nuốt mất rồi.”
Cô đưa tay lên miệng để chặn tiếng cười. “Không phải chứ?!”
“Có mà,” cậu đáp. “Chẳng phải là anh cần làm thế còn gì?”
“Không. Đáng lý anh phải nhả hạt ra.”
“Cái gì? Thật á?”
“Phải.”
“Ồ, cứt thật. Liệu anh có bị sao không?”
“Không,” cô lắc đầu, mỉm cười. “Em không nghĩ thế đâu. Tuy thế, có thể rút cuộc một cây ô liu nhỏ bé sẽ mọc lên ở đó.” Cô chỉ vào bụng cậu.
Cậu liếc xuống, rồi lại nhìn lên, mỉm cười. “Nào, anh nghĩ nếu anh đã ăn một hạt ô liu mà chẳng để ý thì có lẽ với mấy thứ này anh sẽ chẳng sao đâu.” Cậu khoát tay chỉ cái bàn. “Tiếp đi nào.”
Trong vòng hai tiếng sau đó, Con đã làm một điều mà cậu chưa bao giờ làm. Cậu ăn. Cậu tiệc tùng. Cậu hưởng thụ. Cậu ngâm nga với những món ăn. Và mặc dù cậu không thích tất cả mọi thứ (nhất là món pho mát dê, làm cậu liên tưởng đến cái chất bẩn người ta cạy ở móng chân ra), cậu thích phần lớn đồ ăn. Nhưng chủ yếu cậu thích được ngồi bên bàn, dưới lớp kính mờ, bám hơi nước, cảm thấy một chút nắng hiện ra ở sân sau, uống chút rượu trắng lạnh vừa đúng độ và lắng nghe câu chuyện của Daisy.
Mọi thứ về Daisy như khiến cậu đắm say, từ cái lối nói chữ “mẹ kiếp” nhẹ như hơi thở, làm như thể đó là một chữ được ưa chuộng lắm, cho tới cách cô mút từng ngón tay một sau khi ăn cái gì đó dính dầu. Cậu thích chuyện cô có ý kiến cá nhân về mọi thứ, từ bàn chân (“Kinh tởm, nhưng cũng không kinh tởm bằng lưỡi. Anh đã bao giờ ngắm nghía một cái lưỡi chưa?”) đến đảo Sidly (“Nơi yêu thích nhất của em trên thế giới, trừ nhà bố mẹ em ra.”) đến chó (“Một khi anh đã nhìn vào đôi mắt của một chú chó núi Pyrene, anh sẽ bị hút hồn. Anh sẽ dành suốt phần đời còn lại để tìm kiếm một con cho mình.”).
“Kể cho em nghe chuyện gì đó thực sự thú vị về bản thân anh đi nào,” cô nói, rót cà phê từ ấm ra hai chiếc tách màu trắng.
“Thực sự thú vị á?”
“Ừ. Chuyện gì đó thực sự làm em sững sờ ấy.”
“Chết cha,” cậu nói, tay xoa xoa cằm. “Tại sao?”
“Bởi vì có điều gì đó ở anh thật khó hiểu và em muốn biết đó là điều gì?”
Cậu chậm rãi gật đầu với cô. “Được rồi,” cậu nói. “Này nhé, sau khi mẹ anh bỏ đi Thổ Nhĩ Kỳ năm ngoái, anh phải trả lại căn hộ và chẳng có chỗ nào để ở. Vậy là anh ngủ ngoài phố. Trước lối vào một cửa hàng. Hai tuần liền.”
“Cái gì - anh á?”
“Ừ.”
“Chúa ơi, em không thể tưởng tượng được điều đó. Trông anh thật là... không tì vết.”
“Không tì vết?”
“Vâng, đầu tóc và quần áo anh. Không nhàu, không bẩn. Anh thơm mùi xà phòng giặt. Trông anh lúc nào cũng như vừa bước ra khỏi một trang catalogue. Ý em là, thế chuyện ấy ra sao? Có tồi tệ lắm không? Anh có tắm không?”
“Có chứ. Anh có tắm. Thậm chí còn thay cả đồ lót nữa. Không đến nỗi tệ lắm. Anh vẫn đi làm hàng ngày mà.”
“Anh có phải xin ăn không?”
Cậu lại cười vang. “Không! Anh vẫn có lương mà! Chỉ có hai tuần thôi.”
“Chúa ơi, dù sao đi nữa. Thật kinh khủng làm sao. Cái ý nghĩ không được chui vào giường của mình mỗi tối. Không được tự tay tắt đèn và lăn vào chỗ của mình và cảm thấy bình yên và an toàn. Thật kinh khủng.”
Cậu lại nhún vai. “Vậy, thế còn em thì sao? Kể cho anh chuyện gì đó về em khiến anh kinh ngạc đi nào.”
Cô nhắm mắt lại một thoáng rồi mở ra. “Hừm, anh có chắc là anh muốn biết không? Chuyện gây thất vọng lắm đấy.”
“Có chứ, anh muốn biết mà.”
“Này nhé, có chuyện này về em mà thường ít khi em kể cho ai, nhưng em nói với anh vì... em chẳng biết nữa. Em có cái cảm giác về anh...” Cô dừng lại một giây rồi liếc nhìn cậu. “Có một điều này, một tình trạng, với hai lá phổi của em. Chúng tạo ra quá nhiều đờm và em phải uống đủ loại thuốc và làm đủ các loại massage để đường thở của em được thông thoáng. Nhưng em cũng kém đề kháng với viêm nhiễm. Căn bản là tình trạng này khiến người ta thành người giấy. Có lần em đã phải vào viện nằm cả tuần chỉ vì bị cảm lạnh. Đủ loại dây dợ. Giữa sự sống và cái chết. Thật chán.”
Con nhìn cô chăm chú một lát, không biết phải nói sao.
“Em bảo anh rằng chuyện này gây thất vọng lắm mà.”
“Nhưng trông em có ốm đau gì đâu.”
“Không, em không cảm thấy ốm yếu. Nhưng, cả đời em đã bị thế này, cho nên em cũng thực sự chả biết cảm thấy khỏe thì như thế nào.”
“Cái bệnh đó, gọi là bệnh gì nhỉ?”
“Đó là bệnh xơ nang.”
“Ồ, phải rồi. Anh có nghe nói đến bệnh đó.”
“Vâng. Em có một căn bệnh rất chi là nổi tiếng. Một căn bệnh ngôi sao, thực thế. Căn bệnh này tối nào cũng được mời đi dự các buổi chiếu khai mạc phim.”
“Xin lỗi em, anh chỉ...”
“Không, em không làm ra vẻ khôi hài đâu. Em không quá nhạy cảm về nó nữa. Bệnh là bệnh thôi. Và ai mà quan tâm đến một căn bệnh cổ lỗ sĩ ngốc nghếch như thế làm gì, thật lòng mà nói? Cuộc sống là để sống. Và để ăn. Và để uống. Nhắc đến mới nhớ,” cô nhoẻn cười, “liệu em có nên mở thêm một chai rượu nữa hay không?”
Con gật đầu và nhìn cô trong lúc cô đi lấy chai rượu trong tủ lạnh. Sự nhỏ nhắn của cô, sự trong suốt của cô, giờ đây được đặt dưới ánh sáng không bình yên mới mẻ của những gì cô vừa thổ lộ với anh. Làn da mịn trắng như thạch cao của cô có chút ánh xanh và mái tóc mỏng manh của cô trông yếu ớt và dễ đứt. Cô không phải là một nàng tiên hay nữ thần. Cô không phải là một cô nàng hay chuyện ở Condé Nast. Cô bị ốm. Rất ốm.
Con thở một hơi thật sâu và cố gắng để không hỏi cô có bao giờ cô sẽ khá hơn.
Tác giả :
Lisa Jewell