Si Mê Và Liều Lĩnh
Chương 12
Tất cả là tại ánh trăng sao lấp lánh quyện với màu bạc trong đôi mắt chàng và tiếng nói êm như nhung của chàng. Chàng kéo nàng vào vòng tay và xua mọi ý nghĩ tan biến đi.
“Phải,” nàng đáp. Chính là thế này đây.
“Còn gì khác?”
“Suy nghĩ,” nàng nói.
“Những nụ hôn say đắm, ta nghĩ thế.”
“Phải,” nàng nói.
“Đầy nguy hiểm.”
“Ôi, đúng thế.”
“Cô gái liều lĩnh,” chàng thốt lên. “Thật ngốc quá.” Chàng cúi xuống hôn nàng.
Có lẽ trước đây chuyện này chỉ là một vở kịch. Nhưng giờ thì không phải, không thể. Không có tiếng cười nào trong giọng nói hay ánh mắt chàng và không hề có vẻ vô tư trong cái si mê của đôi môi chàng. Nhưng mà chàng sẽ không đùa cho vui, bởi vì Lisle chẳng bao giờ như thế. Chàng không giả vờ. Nàng có thể vờ vịt rất dễ dàng. Chàng thì không bao giờ vờ vịt cả.
Miệng chàng không giả đò. Đôi môi chàng mạnh mẽ phủ lấy môi nàng, ấn mạnh cho tới khi nàng phải mở miệng ra, và nàng đã làm thế, ngay lập tức. Nụ hôn của chàng, nóng bỏng và kiên quyết, kéo họ trở lại nơi họ đã thoát ra. Những cảm xúc vẫn còn nguyên đó. Mọi giáo huấn và lý trí trên đời đều không thể ngăn họ lại. Họ đã phải kìm nén khao khát suốt nhiều giờ, chỉ chờ đợi được buông thả thêm lần nữa.
Một vụ việc chưa kết thúc. Lẽ ra họ nên để nó chơi vơi như thế, nhưng nó - dù thứ đã lôi họ sát lại nhau có là gì đi nữa - đâu chịu ngoan ngoãn lắng xuống.
Và sự thật là, nàng không muốn để nó đi. Nàng không muốn ngừng nó lại.
Nàng cảm nhận được vị rượu chàng vừa uống, và vị ấy chỉ làm đậm đà thêm hương vị của chàng, thứ hương vị đã khắc sâu trong tâm trí nàng. Cả đời nàng đã đợi điều này, đợi chàng.
Phải, nàng đã yêu si mê và cuồng nhiệt. Chẳng khác nào đang được nhấm rượu dưới ngàn trăng sao và trời đêm lung linh bí ẩn. Chẳng khác nào đang được bay lên giữa trăng sao.
Đừng bỏ đi. Đừng bao giờ bỏ em đi.
Vòng tay nàng siết chặt quanh cổ chàng còn chàng kéo nàng lên, ghì vào người chàng và dựa lưng vào bao lơn. Lần này tay chàng di chuyển nhanh và dứt khoát hơn lần trước. Chàng giật khăn choàng của nàng ra, ngừng hôn môi để lướt miệng xuống phía dưới, dọc theo cằm nàng. Môi chàng chạm tới đâu cũng để lại cảm giác nóng bỏng râm ran, lướt xuống cổ nàng cho tới khi chạm lên vùng da trên ngực.
Nàng cảm thấy nỗi phấn khích run rẩy lan khắp cơ thể, nên không thể ngăn mình kêu lên, một tiếng rên rỉ quằn quại. Đây là thứ duy nhất nàng không thể làm chủ hay điều khiển. Một trận cuồng phong khoái cảm đê mê tóm lấy nàng, khi môi chàng trượt trên ngực nàng.
Rồi tay chàng ở đó, vầy vò trên ngực nàng. Nàng bắt đầu kêu lên, nhưng miệng chàng lại phủ lấy miệng nàng. Nụ hôn bạo liệt khiến nàng im bặt, và nàng đầu hàng, hoàn toàn, một cách vui sướng, chìm nghỉm vào đại dương khoái cảm và sẵn lòng chết trong đó.
Nàng đưa hai bàn tay háo hức ve vuốt cánh tay, bờ vai và lưng chàng. Chàng thật ấm áp và mạnh mẽ, nàng có vuốt ve bao nhiêu cũng chẳng thấy vừa; nàng chưa thấy được gần gũi đủ mức.
Chàng đưa tay xuống thấp hơn, và trong màn đêm tĩnh lặng, tiếng sột soạt của chiếc váy dường như còn to hơn. Nhưng không gì bằng tiếng trái tim nàng, thình thịch rộn ràng với niềm hạnh phúc, nỗi sợ hãi và phấn khích mãnh liệt tới nỗi nàng cảm thấy đau nhói bên trong.
Lần này, chàng kéo váy nàng nhanh hơn và kém kiên nhẫn hơn trước đây. Bàn tay chàng ấm nóng trượt lên đùi nàng và ngay lập tức tìm thấy lối vào quần chẽn của nàng.
Cái động chạm thân mật khiến nàng choáng váng, nhưng nàng đã đợi cả cuộc đời để được choáng váng như thế. Bàn tay ấm áp của chàng ôm lấy nàng ở đó, quá thân thiết, như thể nơi ấy thuộc về chàng, cảm giác của nó vừa nguy hiểm vừa sung sướng như muốn phát điên. Nàng cọ xát trên bàn tay chàng vì nàng phải làm thế. Một cái gì đó bên trong, ở nơi sâu kín trong lòng, thôi thúc nàng làm như thế.
Đừng ngừng lại. Đừng ngừng lại. Đừng ngừng lại.
Nàng không nói nên lời nhưng có thể diễn tả những lời ấy bằng hành động, lưỡi nàng xoắn lấy lưỡi chàng trong khi cơ thể nàng chà xát trên bàn tay chàng. Rồi chàng trượt một ngón tay vào trong nàng và nàng nghĩ mình bắn tung ra thành muôn tia sáng. Nếu không phải môi chàng đang gắn chặt môi nàng thì chắc hẳn nàng đã thét lên.
Chàng trượt qua trượt lại ở đó, những bí mật ở đó vốn chỉ mình nàng hay biết, thế nhưng chàng cũng biết chúng, biết tất cả, thậm chí biết nhiều hơn nàng. Cả con người trong nàng đảo lộn lên. Mọi cảm giác tụ lại, giống như một bầy chim, rồi tung cánh bay thẳng lên trời xanh, hệt như đàn quạ chiều nay, trên chính tòa tháp này, và cơ thể nàng co giật mạnh như thể linh hồn nàng đã vút lên cao, cao mãi tới những vì sao.
Rồi nàng biết chuyện gì phải xảy ra. Mọi tế bào trong cơ thể nàng đều biết.
Nàng di chuyển bàn tay khắp người chàng, qua những cơ bắp cuồn cuộn trên cánh tay chàng, vòng quanh lưng rồi lướt xuống dưới quần chàng. Giờ nàng tìm thấy khoảng hở trên lưng quần chàng liền thọc tay vào lần quanh mông chàng. Chàng khẽ rướn người để nàng có chỗ trống, trong khi đó vẫn tiếp tục ve vuốt nàng, khẩn thiết hơn, và nàng như sắp ngã ngửa ra sau với cảm giác sung sướng bùng nổ. Nhưng bàn tay nàng vẫn di chuyển theo bản năng và tháo một chiếc cúc quần ra khỏi khuyết.
Khi nghe thấy tiếng hét, thoạt tiên nàng đã tưởng đó là tiếng của chính mình. Nhưng rồi nàng nhận ra không phải, mà cũng chẳng phải những con quạ đang quang quác.
Có ai đó đang rú lên.
Một tiếng hét lạnh sống lưng.
Lisle ngẩng đầu lên, cả thế gian quay mòng mòng xung quanh chàng. Thế giới chỉ có hai màu đen và bạc. Sao trên trời, muôn triệu vì sao.
Một người con gái trong vòng tay chàng, quá ấm và mềm mại.
Olivia, khuôn mặt nàng ngời ánh trăng, và bầu ngực nàng trắng ngọc ngà, nhô ra đầy kiêu hãnh từ vạt áo lót của chiếc váy.
Vùng u tối hừng hực trong tâm trí chàng dần sáng tỏ, như thể một cơn gió lạnh vừa phạt qua.
Bàn tay chàng đang cảm nhận sự ấm rực trơn mượt của...
Không. Lại thế rồi.
Chàng rút tay ra khỏi dưới váy nàng, và chiếc váy rủ xuống nghiêm chỉnh.
Chàng kéo vạt áo lót lên cho nàng, ấn hai bầu ngực vào trong. Gì nữa nhỉ? Khăn choàng của nàng... Đâu rồi? Kia. Chàng nhặt lên và quàng quanh cổ nàng.
Chàng làm tất cả chuyện này quá nhanh chóng theo bản năng. Còn không kịp nghĩ. Chàng vẫn thường thế. Nhưng có chuyện gì thế...?
Tiếng rú. Còn hơn cả rú. Từ đâu nhỉ?
Qua lan can, chàng nhìn xuống dưới. Trong sân, những bóng người đang chạy qua chạy lại.
Nghĩ xem nào.
Không có ai ở tầng trệt.
Tốt. Thế là tốt.
Chàng nhìn chằm chằm về phía cánh cửa dẫn vào ô cầu thang.
“Lisle, quần của ngài kìa.”
Chàng nhìn xuống. “Chết tiệt. Quỷ tha ma bắt ta đi.” Chàng cài khuy quần lại. “Ngu ngốc. Ngu ngốc. Ngu ngốc. Đần độn.”
“Không sao đâu,” nàng nói. “Không sao cả.”
Nàng xốc lại váy áo. Chỉ vì chàng. Chàng đã làm thế. Đảo tung cả con người nàng lên. Có chuyện quái quỷ gì với chàng vậy?
“Ta phải đối phó với chuyện này trước đã,” chàng nói. “Nhưng...”
“Đi thôi,” nàng nói. “Em sẽ theo ngay sau ngài.”
Mất một hồi lâu, trí óc trì độn của Lisle mới sáng tỏ phần nào để giúp chàng hiểu đôi chút chuyện gì vừa xảy ra. Ai đó đã kêu thét về tên giết người, ai đó đã gào lên về bọn đột nhập, ai đó đã rú rít về những bóng ma, cũng có thể ai đó đơn giản là bị sốc.
Cuối cùng, Lisle và Olivia xoay xở để tụ tập được mọi người về lại trong lâu đài. Chuyện này không dễ dàng gì vì đám người hầu đã đi trốn khắp nơi. Một số người trốn ra chuồng ngựa, nhưng chàng nghĩ họ sẽ chẳng ở lại đó lâu. Trời rất lạnh mà các chuồng ngựa đều đã hư hỏng cả. Nếu có chút lý trí, họ sẽ vào trong nhà để xúm xít với những người còn lại.
Quả nhiên, khi chàng và Olivia đã đưa được hai quý bà tới ngồi trước lò sưởi, với những ly whiskey, thì tất cả người hầu đã có mặt trong đại sảnh.
Đảm bảo về quân số.
Chàng để ý thấy đám người hầu không còn tụ tập dưới gác trang trí như lúc trước, nơi đó xưa kia vốn là lối vào sảnh. Thay vì thế, họ kéo tới gần đầu kia căn phòng, nơi có lò sưởi khổng lồ.
Có vẻ như hầu hết bọn họ đều không biết chuyện gì vừa xảy ra. Khi tiếng thét vang lên, họ hoảng sợ nên cứ thế bỏ chạy tán loạn.
Nhờ Olivia kiên nhẫn vô cùng khi đặt câu hỏi với mọi người, cuối cùng chàng cũng xác định được chắc chắn người gào lên đầu tiên là Quý bà Cooper. Những người khác sau đó la hét theo mà chẳng biết vì lý do gì.
Lúc này Quý bà Cooper đang tranh cãi với Quý bà Withcote về chuyện đã nhìn thấy gì.
“Đó là một con ma,” Quý bà Cooper nói. “Tôi đã thấy nó, rõ như ban ngày. Trên kia kìa.” Bà khua khua ly rượu về đầu kia của gian sảnh. “Trên gác trưng bày ấy.”
Mọi cái đầu đều quay về hướng đó và ngước lên. Chẳng có gì trên đấy cả. Gác trưng bày tối bưng.
“Trông nó như thế nào?” Lisle lên tiếng.
“Nó giống một con ma chứ còn sao nữa, trắng toát và mờ ảo,” Quý bà Cooper nói. “Mỏng mảnh. Như một làn sương. Nó đu đưa trên gác trưng bày.”
Một số người hầu run bắn người.
“Thật vô lý,” Quý bà Withcote nói. “Tôi biết chuyện gì xảy ra rồi. Bà ngủ gật, lúc nào chẳng thế, và nằm mơ thấy chuyện đó.”
“Tôi biết khi nào tôi mơ còn khi nào tỉnh. Tôi chẳng mơ thấy cái gì hết!”
“Nó đã ở đó trong bao lâu?” Lisle hỏi.
“Nó chưa bao giờ tồn tại ở đó cả,” Quý bà Withcote đốp lại.
Quý bà Cooper liếc mắt qua bà bạn. “Nó đã ở đó,” bà nói. “Một vài người hầu cũng đã nhìn thấy. Ta không biết chắc nó ở lại đó trong bao lâu. Có lẽ nó đã đu đưa ở đó từ lúc trước để quan sát chúng ta.”
Thêm nhiều người run rẩy.
“Khi ta ngước lên,” Quý bà Cooper nói tiếp, “thì nó đã ở đó. Ta gào thét. Ta còn có thể làm gì cơ chứ? Người ta sẽ làm gì trong trường hợp đó? Mọi người vẫn thường nghe thấy những chuyện như thế, nhưng ta chưa bao giờ tận mắt nhìn thấy một con ma, bằng xương bằng thịt.”
“Thật tình, Agatha, làm sao có thể là bằng xương bằng thịt cơ chứ. Bà nói vô lý quá đi.”
“Bà cũng hét ầm ĩ đấy thôi, Millicent.”
“Vì bà dọa tôi sợ hết hồn. Tôi cứ tưởng những người Scotland tàn bạo tới giết chúng ta. Rồi bà chạy nhào ra khỏi đại sảnh, lao ra cửa giữa màn đêm, nửa số gia nhân hoảng sợ chạy theo sau bà. Tôi chẳng biết phải nghĩ gì nữa. Váy lót của bà bén lửa hay sao?”
Lisle liếc nhìn Olivia.
Nói đúng ra là chàng liếc nhìn sang chỗ nàng vừa đứng. Nhưng giờ nàng không còn ở đó.
Chàng hoảng hốt nhìn quanh đại sảnh. Dù có rất nhiều nến trong phòng, các góc nhà vẫn tối om. Chàng nhận ra, một kẻ đột nhập có thể dễ dàng lẩn vào giữa đám người đang trong tâm trạng rối bời này mà không bị phát hiện. Rất dễ để lén chộp ra một người...
Nhưng không, chàng đang nghĩ gì thế? Bất cứ ai cố lén chộp một người không tránh khỏi khiến người khác ngạc nhiên.
Chàng đang băn khoăn không biết nghĩ sao thì một ánh sáng xuất hiện trong góc tối, tỏa ra từ trên cao, ở mé Bắc của gian sảnh. Chàng ngước nhìn về phía đó.
Olivia đứng trên gác trưng bày, tay cầm giá nến nhỏ. Mọi con mắt đều đổ về hướng đó.
Chỉ nàng mới có kiểu tạo ra sự xuất hiện kịch tính như thế.
“Dù lúc trước có hay không cái gì ở đây,” nàng gọi với xuống, “thì giờ ở đây cũng chẳng có gì cả.”
Nàng bước ra giữa gác trưng bày, ngay trước khung cửa sổ mái vòm. Nàng đặt chúc đài xuống một chiếc bàn ai đó đã đặt sẵn ở đấy. Tắm đẫm trong ánh nến, mái tóc sáng ngời màu vàng lửa, nàng đứng với vẻ uy nghiêm của một nữ hoàng: đầu ngẩng cao, vai ưỡn ra, không hề sợ hãi. Một người giàu trí tưởng tượng hẳn sẽ nghĩ rằng một nữ chúa thời xưa cũng đứng với dáng vẻ ấy khi bà thôi thúc đám đầy tớ bảo vệ tòa lâu đài bằng mọi giá.
“Ở đây chẳng có gì cả,” nàng nhắc lại. “Không có bóng dáng ma mãnh nào hết. Không có dấu chân mờ. Không có bất cứ thứ gì.”
Giọng Quý bà Cooper vang lên cắt ngang bài diễn thuyết. “Nhưng ta đã thấy nó, cháu yêu, rõ như ban ngày ấy.”
“Cháu không nghi ngờ chuyện bà thấy cái gì đó,” Olivia đáp. “Có thể một con chim đã bay qua ô cửa sổ vỡ. Cũng có thể một kẻ ưa nghịch nào đó tìm được lối vào đây cũng nên.”
Nàng ngừng lại một lúc cho mọi chuyện lắng xuống.
Rồi nàng nói tiếp, “Bailey, lấy cho ta một cái chổi và một tấm voan dài.”
Trong khi cô hầu gái làm theo lệnh nàng, Lisle nhận ra không khí đã thay đổi, nỗi sợ hãi hoảng loạn của mọi người đã tan biến. Từ sự yên lặng điếng người, giờ đám đông khán giả đã bắt đầu thư giãn, khe khẽ rì rầm với nhau.
Sau vài phút, Bailey xuất hiện trên gác trưng bày với một cái chổi và một tấm vải. Olivia đưa chúc đài cho cô và bảo cô đi xuống. Gác trưng bày lại chìm trong bóng tối.
Không lâu sau đó, Lisle nghe thấy tiếng sột soạt khe khẽ. Rồi một cái gì đó trắng toát đu đưa ở lan can của gác trưng bày.
Chàng nghe thấy tiếng mọi người hít thở sâu.
“Tất cả những gì người ta cần làm là đứng trong bóng tối, với một tấm vải mỏng móc trên cây gậy dài,” giọng Olivia vẳng xuống từ trong bóng tối.
“Ôi trời ơi!” Quý bà Cooper kêu lên.
Đám người hầu rì rầm to hơn. Có ai đó cười khẽ.
Sau một lát, Quý bà Withcote nói với giọng rõ ràng là rất phấn khởi, “Ồ, điều đó cho thấy người ta dễ dàng bị lừa bịp đến mức nào.”
“Nhưng ai lại làm một việc như thế chứ?” Quý bà Cooper cự nự.
“Kiểu người ưa đùa cợt,” Quý bà Withcote nói. “Thế giới này đâu thiếu loại người ấy.”
Olivia lại xuất hiện giữa họ, cũng đột ngột như khi nàng biến mất. Nàng đứng trong vùng ánh sáng chan hòa tỏa ra từ lò sưởi.
Dù Lisle sẵn biết đó là cách tạo cảm giác kịch tính, nhưng nàng vẫn khiến trái tim chàng lỗi nhịp. Nàng mang dáng vẻ của thần tiên, đứng trước cái lò sưởi khổng lồ, ánh sáng chiếu từ phía sau tỏa ra một vầng hào quang đùa giỡn trên những lọn tóc đỏ au, làn da trắng sữa, chiếc váy lụa bồng bềnh.
Lisle để ý thấy nàng vẫn giữ nguyên dáng vẻ nhân vật Nữ chúa Lâu đài, hai bàn tay đặt nhẹ trên hông, lưng thẳng tắp.
“Đây là một trò đùa ngớ ngẩn,” nàng nói với mọi người. “Có nhiều khả năng mấy cậu bé trong làng muốn bày trò để cười nhạo người London chúng ta. Chắc chúng nghĩ đó là một trò đùa hay ho, xem mọi người chạy nháo nhào khắp nơi, la hét trong khiếp sợ.”
“Làm sao có thể trách bọn chúng được chứ?” Quý bà Withcote cười phá lên. “Chuyện này đúng là buồn cười, bà công nhận không, Agatha? Gợi tôi nhớ cái lần ngài Thorogood gài bẫy bà vợ. Bà còn nhớ không?”
“Sao tôi quên được chứ? Người ta nói suốt một tuần ròng rã là tình nhân của bà ta không hứng tình lấy một lần vì ông ta sợ mất mật.”
Trong khi hai bà già tiếp tục kể lể những kỷ niệm dâm ô của họ, Olivia cho đám người hầu tản đi làm việc. Nàng gọi Nichols cùng Bailey đến và bảo họ đi kiểm tra tất cả các phòng và hành lang. Như thế để trấn an những ai vẫn sợ kẻ đột nhập còn ở trong lâu đài.
Nàng bảo khi tới giờ đi ngủ nàng muốn mọi thứ đã yên ắng và trật tự. “Cho họ uống thuốc nếu em thấy phải làm thế,” là yêu cầu cuối cùng của nàng.
Hai người tiến hành nhiệm vụ của mình.
Ngay sau đó, hai quý bà lảo đảo về giường.
Khi ấy chỉ còn lại Olivia và Lisle trong đại sảnh.
Nàng đứng yên lặng nhìn ngọn lửa. Ánh lửa mạ vàng mái tóc và làm hồng đôi má nàng, hình ảnh ấy khiến tim chàng nhói đau.
Mình sẽ làm gì? chàng nghĩ. Mình sẽ làm gì với nàng đây?
“Thật là nhanh trí tuyệt vời,” chàng khen ngợi. “Chỉ trong mấy phút em đã giúp mọi người hiểu rõ vấn đề.”
“Đâu cần nghĩ chứ,” nàng đáp. “Em giả ma suốt mà. Em thậm chí còn làm được mặt quỷ nữa kìa. Dễ lắm.”
“Lẽ ra màn biểu diễn ấy chẳng khiến ta phải ngạc nhiên đâu,” chàng nói. “Thế mà ta lại thấy rất kinh ngạc.”
“Chắc chắn ngài không nghĩ em tin có chuyện ma quỷ rồi,” nàng nói.
“Em rất giàu trí tưởng tượng.”
“Phải, nhưng không cả tin.”
Không, không hề cả tin hay ngây thơ hay khờ khạo. Nàng chưa bao giờ có những tính cách đó. Cả tính rụt rè hay đắn đo cũng không. Hay đúng hơn là bất cứ tính cách gì giống với những phụ nữ chàng từng biết.
Cảm nhận ấy ùa đến tâm trí và huyết quản chàng cùng một lúc: sự dễ thăng hoa của nàng, sự mềm mại của làn da, hương vị cơ thể, những đường cong trên thân hình, và sức nóng lan tỏa khắp cơ thể chàng, khiến đầu óc chàng chao đảo.
Nàng là sức mạnh của tự nhiên, không thể ngăn cản, không thể chống cự.
Chàng phải làm cái quái quỷ gì đây?
Chàng không thể tin nàng cũng không thể tin vào chính mình. Cứ nhìn những gì chàng đã làm xem, mới chỉ vài giờ sau khi họ đồng thuận rằng chuyện đó không được phép xảy ra lần nữa.
Em không muốn phá hoại cuộc sống của ngài và em biết ngài cũng không muốn phá hoại cuộc sống của em.
“Nói về chuyện lãng mạn vừa rồi ấy mà,” chàng cất tiếng.
“Nếu ngài định xin lỗi về chuyện đã xảy ra trên gác thượng thì em sẽ bóp cổ ngài đấy,” nàng nói.
“Nếu chúng ta không bị gián đoạn...”
“Phải, em biết.” Nàng cau mày. “Em phải nghĩ về chuyện này. Em tin chắc sẽ có giải pháp. Nhưng giờ thì em chưa tìm ra. Hôm nay là một ngày quá dài.”
Dài như cả cuộc đời, chàng thầm nghĩ.
Cuộc đời chàng. Nó đang thay đổi, không cưỡng lại được, không dừng lại được. Nó đã bắt đầu thay đổi từ giây phút môi chàng được chạm vào môi nàng - không, trước cả khi ấy mới đúng. Là từ giây phút chàng thấy nàng trong phòng tiệc.
“Đúng vậy, chính xác,” chàng nói.
“Nhưng chuyện của trái tim...” Nàng nhăn mặt. “Đây là những gì em đang nghĩ trong đầu. Hiện chúng ta đang rất cần một quản gia. Rõ ràng là Edwards sẽ không quay lại dù có đang ở đâu chăng nữa. Chúng ta cũng đang rất cần thuê người hầu Scotland. Người hầu London không thuộc về nơi này. Họ không thích nó, không hiểu và không phù hợp với nó. Rõ ràng là một số người muốn phá hoại công việc của chúng ta ở đây. Chúng ta phải tìm hiểu tường tận chuyện này. Cũng cần cả một lực lượng người giúp việc kiên định, có thể tin tưởng, những người gắn bó với nơi này ấy.”
Dù ngày hôm nay như thế là quá dài, nhưng chàng vẫn vô cùng khó chịu và tức giận bản thân khi trong lòng cảm thấy thật yếu đuối. Chàng luôn được xem là một người mạnh mẽ. Nhưng khi thấy nàng trên gác thượng và ngắm nhìn những vì sao trong đôi mắt nàng, chàng đã làm đúng cái chuyện mà mình đã thề sẽ không bao giờ tái diễn.
Tuy nhiên, chàng không thể phớt lờ những lời nàng nói. Thực tế. Nàng đã khái quát hoàn cảnh này logic không kém gì chàng những lúc không rối bời bởi vô vàn cảm xúc như thế.
“Em nói đúng,” chàng nói.
Đôi mắt nàng mở to. “Em ư?”
“Chúng ta có một vấn đề, nhưng đó không phải vấn đề duy nhất,” chàng nói. “Chúng ta tới đây để xây dựng lại lâu đài. Chúng ta tới đây để giải quyết các vấn đề của nó. Đó là điều cần tập trung vào. Nếu chúng ta làm thế...”
Đôi môi nàng cong lên. “Sẽ không có thời gian để mắc sai lầm.”
“Quỷ sứ tạo công ăn việc làm cho những đôi tay nhàn rỗi,” chàng nói.
“Em chưa bao giờ nghĩ mình cần tới sự giúp đỡ của quỷ sứ cơ đấy,” nàng nói. Nàng khẽ cười rồi bước đi. “Được rồi, thế nhé, coi như chúng ta đã có một kế hoạch. Và có thể tiến hành vào ngày mai.” Nàng chúc chàng ngủ ngon rồi biến mất vào chái Nam lâu đài.
Olivia vẫn giữ nguyên vẻ mặt vui tươi cho tới khi đã an toàn phía sau cánh cửa và bắt đầu bước chân lên cầu thang.
Rồi dừng lại ôm chặt đầu.
Họ sẽ phải làm gì đây?
Ham muốn quả là một thứ khủng khiếp, không như nàng hằng tưởng tượng. Nó thật không chịu nổi. Đứng ở đó, ngắm nhìn chàng, khao khát được chạm vào chàng và khao khát được chàng đụng chạm.
Những gì đã xảy ra trên gác thượng mang cảm giác tàn phá khủng khiếp.
Nàng biết đó là gì. Nói cho cùng, nàng đã từng đọc tuyển tập văn học khiêu dâm cực kỳ thú vị của Bà Cố, và đã học được cách làm bản thân sung sướng.
Nhưng đó chỉ là một sự mô phỏng tầm thường.
Nghĩ tới chuyện khác đi, nàng ra lệnh cho bản thân. Và thế là nàng nghĩ về những người quản gia, cách họ biến mất và cách tìm được họ. Nàng nghĩ về những con ma vốn chẳng phải là ma. Nàng liệt kê danh sách những vấn đề về gia nhân cần giải quyết trong lúc bước lên những bậc thang uốn lượn dẫn vào phòng mình.
Nàng ngả lưng xuống giường mà không kỳ vọng sẽ ngủ ngon, nhưng những sự kiện trong ngày đã giúp nàng. Đặt đầu xuống gối, điều tiếp theo nàng biết là ánh sáng ban mai mờ xám đã tràn ngập khắp căn phòng và Bailey đang đứng bên giường, tay bưng khay đồ điểm tâm. Từ đó hương sô cô la thoảng đưa vào mũi Olivia.
Đại sảnh Lâu đài Gorewood
Sáng thứ Ba ngày 18 tháng Mười
Hai Nữ Yêu vẫn chưa dậy, mà có lẽ phải tới tận trưa mới dậy. Lisle nghĩ đó là thời gian biểu bình thường của họ khi không bị những thế lực tự nhiên quấy rấy.
Tuy thấy song trong lòng lại chẳng hề thanh bình, chàng muốn có một bữa sáng thật yên tĩnh.
Mãi tới giờ chàng mới nhận ra những bữa điểm tâm trước đây chẳng hề yên ả thế này.
Chàng nghe thấy tiếng bước chân nhẹ nhàng của người hầu khi họ đi lại làm việc... tiếng gió rít qua những khe tường hổng và những khung cửa sổ vỡ... tiếng lửa tí tách trong lò.
Môi trường ở đây không hề lý tưởng, và chàng cách xa nơi mình muốn sống hàng trăm dặm, công việc trước mắt chẳng khiến chàng hứng thú chút nào. Nhưng lúc này chàng có sự thanh bình. Và trật tự. Và một khoảnh khắc yên tĩnh để suy nghĩ về sự trớ trêu mà Olivia đã tạo ra.
Nàng bước vào ngay khi chàng vừa uống xong tách cà phê Nichols pha cho chàng.
Lisle đứng lên.
Nàng đứng ngay bên cạnh chàng, săm soi vào cái tách nhỏ bé trên bàn. “Đó là cà phê Thổ Nhĩ Kỳ à?”
Chàng gật đầu. Váy áo nàng sột soạt bên tai chàng. Chàng ngửi thấy mùi hương của nàng, hương nước hoa thoang thoảng. Hay đó là thứ mùi gợi cảm hơn cả nước hoa? Rất thoảng. Không phải mùi trong chai nước hoa. Nhiều khả năng là mùi hoa cỏ khô được đặt trong tủ quần áo của nàng.
“Ta quen uống rồi,” chàng nói. “Nhưng không phải đặc biệt thích nó. sẵn có gì thì ta uống nấy thôi. Nhưng Nichols cảm thấy có trách nhiệm lớn lao trong việc quan tâm chăm sóc sở thích của ‘cậu chủ’. Cái gì có thể làm là cậu ấy phải làm bằng được. Dù chúng ta đi đâu, cậu ấy cũng mang theo cà phê Thổ Nhĩ Kỳ. Dù chúng ta ở đâu, cậu ấy cũng chuẩn bị thức uống ấy mỗi sáng. Em muốn uống một chút không?”
“Có, em rất muốn.” Nàng bước qua một bên rồi ngồi xuống ghế. “Bà Cố lúc nào cũng có món này, nhưng cô hầu của bà bo bo giữ bí quyết, nhất định không chỉ cho Bailey cách pha chế.”
“Ta sẽ bảo Nichols dạy cô ấy,” chàng nói, ngồi lại vào ghế. “Nichols luôn coi thường thói bo bo nhỏ mọn.” Và cậu ấy sẽ không lấy làm phiền nếu được bày vẽ cho một cô hầu gái xinh đẹp bất cứ cái gì cô ấy muốn học, bao gồm cả những thứ cô nàng chưa biết mà lại đang rất muốn biết.
Dù Lisle chưa lắc chuông, Nichols đã xuất hiện, như thể cậu luôn biết lúc nào thì chủ nhân cần. “Thưa ngài?”
“Cà phê Thổ Nhĩ Kỳ cho Tiểu thư Carsington,” Lisle nói.
“Vâng, thưa ngài.”
“Và khi cô Bailey có thời gian, cậu nhớ dạy cho cô ấy cách pha chế nó.”
“Vâng, thưa ngài.” Dù giọng Nichols không thay đổi, Lisle vẫn nhận ra một tia sáng trong mắt cậu.
Hẳn Olivia cũng nhận ra. Khi cậu đầy tớ biến mất vào trong sảnh xuống bếp, nàng nói, “Cậu ta không được nghĩ tới chuyện quyến rũ cô hầu gái của em đâu đấy.”
“Ta có đủ rắc rối với những nguyên tắc đạo đức của bản thân rồi,” chàng hạ thấp giọng. “Em không thể yêu cầu ta chịu trách nhiệm về vấn đề đạo đức của người khác nữa. Và đương nhiên ta không thể bắt cậu ấy phải nghĩ thế này thế khác. Cậu ấy cũng là, đàn ông mà.”
“Em chỉ cảnh báo ngài thôi,” nàng nói. “Em không thể chịu trách nhiệm với những gì Bailey sẽ làm. Cô ấy biết rất ít về đàn ông.”
“Nichols sẽ tự mình tìm ra cách,” Lisle nói. “Như ta đã nói hôm qua, cậu ấy mạnh mẽ hơn vẻ bề ngoài. Có lần cơn gió sa mạc đã nhấc bổng cậu ấy mang đi một quãng khá xa rồi quẳng xuống giữa một đoàn người Bedouin. Cậu ấy đã giúp họ cào cát và pha cà phê cho họ. Họ cho cậu ấy mượn một con lạc đà. Khi quay trở lại chỗ ta, cậu ấy xin lỗi vì đã ‘vắng mặt không xin phép’.”
Nàng nhìn chàng, ánh cười và nét hoài nghi pha lẫn trong đôi mắt xanh ngời. “Ngài đang bịa chuyện.”
“Đừng ngốc thế,” chàng nói. “Ta đâu có trí tưởng tượng.”
Những hình ảnh nóng bỏng diễn ra trong đầu và kể cả những giấc mơ còn phóng túng hơn không được xếp vào tưởng tượng, chàng tự nhủ. Đối với đàn ông, những thứ như thế được tính là thực tế.
“Chắc ngài muốn biết ai dàn dựng chuyện đó,” nàng nói.
Chàng nhìn theo ánh mắt nàng lên gác trưng bày. “Ý em là vụ ma hiện hình ấy hả?”
“Em muốn xem xét kỹ một lượt nữa, dưới ánh sáng ban ngày,” nàng nói. “Có thể ở đó chẳng có gì, chỉ là Quý bà Cooper tưởng tượng hoặc mơ thấy. Nhưng giả thiết đó có vẻ không hợp lý. Ai đó đã chơi trò nhát ma trong mấy năm trở lại đây. Chẳng có lý do gì để họ không chơi nữa khi giờ đây có thêm những khán giả mới thế này.”
“Nhưng do ngay từ đầu họ lại nghĩ ra trò đó?” chàng nói. “Sao lại phải dọa dẫm người ta chạy ra khỏi một nơi nào đấy?”
“Bởi vì họ muốn chiếm đoạt nơi ấy cho bản thân hoặc bởi vì nó có cái họ muốn,” nàng đáp.
“Rõ ràng là chẳng ai muốn có cái lâu đài này đâu,” chàng nói. “Mains đã không kiếm nổi người thuê và ta chẳng thấy dấu hiệu nào cho thấy có người tùy tiện sống ở đây cả.”
“Mains,” nàng nói như sực nhớ. “Em đã định nói chuyện với ngài về ông ta.”
Nichols quay trở lại phòng với tách bình cà phê. Cậu rót đầy cốc cho nàng và Lisle rồi lại biến mất.
Olivia quay lại quan sát cậu ta bước đi. “Quả là một món quà của thượng đế,” nàng nói. “Ngài đã bao giờ để ý rằng rất ít đàn ông có thể làm cho bản thân trở nên kín đáo như thế không? Thường thường họ luôn ra sức thu hút sự chú ý bằng mọi cách mà họ nghĩ ra.” Ánh mắt nàng quay lại phía chàng. “Nhưng không phải là ngài. Em cho rằng đó là do ngài sống ở Ai Cập, và làm những công việc đó.”
“Di chuyển nhẹ nhàng là một kỹ năng quan trọng,” chàng nói.
“Em muốn học lắm,” nàng nói, “nhưng chẳng thể làm thế khi mặc đống váy áo này.”
Hôm nay, nàng mặc bộ váy màu nâu. Để hợp với ban ngày, chiếc váy che kín tới tận cổ nàng. Nhưng nó cũng có nét giống bộ váy nàng mặc đêm qua: ống tay áo khổng lồ và chiếc váy chứa hàng núi vải, được gia cố bởi vô khối lớp váy lót...
Chàng chỉnh đốn lại lý trí.
“Cơ hội thì nhiều mà khả năng làm việc thì chẳng có,” nàng nói.
“En đang nói về Mains sao,” chàng nói.
“Phải.” Nàng hít vào hương vị cà phê và thở ra đầy vẻ tán thưởng rồi nhấp một ngụm, “Ồ, thật hảo hạng. Ngon hơn cả cà phê của Bà Cố.”
“Mains,” chàng giữ nguyên chủ đề.
“Ngài quả là người có lý trí vô cùng kiên định,” nàng nói.
“Một trong hai chúng ta phải có điều đó chứ. Em thì vốn đã một bước mười phương rồi.”
“Quả thế thật, em đang nghĩ đến thức ăn.”
“Để ta lấy cho em.” Chàng đứng dậy, đi về phía tủ thức ăn, thấy mừng vì được đi lại một chút, làm việc gì đó. “Em nói đi.”
“Phải, được rồi. Ông ta là một ẩn số, em phải thừa nhận thế. Em nghĩ ông ta hoàn toàn bất tài. Hay ngu dốt. Hay cả hai. Nói cho cùng, mọi người đều muốn làm việc. Làng này đâu có giàu có gì cho cam. Có một điểm khó khăn khi tìm nhân công. Không phải ai cũng nhận được lời mời tới làm việc trong một tòa lâu đài thế kỷ mười lăm, ngay cả khi đó là một tòa lâu đài còn mới và được bài trí sang trọng. Nhưng là một trợ lý mà không thuê nổi nhân công lao động, trên mảnh đất bao đời nay vẫn là nơi cung cấp nguồn nhân lực cho một vùng rộng lớn với bán kính hàng dặm quanh đây - điều đó thật quá lạ lùng.”
Chàng quay trở lại bàn và đặt đĩa thức ăn xuống trước mặt nàng.
Nàng nhìn cái đĩa. “Không có món haghi, em hiểu rồi.”
“Đầu bếp của chúng ta là người Pháp mà,” chàng nói.
“Cũng không có cá hồi,” nàng nói. “Nhưng em nhận ra bằng cách nào đó ông ta đã xoay xở để tạo ra một bữa điểm tâm hoàn hảo trong cái bếp lò khủng khiếp đó.”
“Đáng ngạc nhiên quá phải không?” chàng đồng tình. Chàng ngồi lại ghế. “Về Mains ấy mà? Em đang nói gì nhỉ?”
Nàng cầm dao nĩa lên. “Lý trí của ngài quả là quá kiên định.”
“Ừ, ta đang rất lo lắng. Ta tin là một khi em lôi chuyện này ra nói tức là có cái gì đó đáng giá để nói với ta.”
“Nhiều thứ đấy,” nàng nói. “Thứ nhất, trợ lý của ngài uống hơi nhiều, ông ta hơi bất tài và hơi lười biếng, nhưng thật ra những điều đó chưa phải vấn đề. Ông ta không làm tốt việc của mình. Nhưng những năm vừa rồi, trước khi qua đời, ông chú Frederick Dalmay của ngài vẫn giám sát chặt chẽ ông ta. Từ khi ông mất tới nay, sự giám sát chuyển sang cho cha ngài.” Nàng dừng ở đó và tập trung vào bữa điểm tâm.
Lisle không hỏi nàng thêm nữa. Chàng không cần hỏi. “Cha ta đã làm mọi chuyện tệ đi,” chàng nói.
“Hẳn có những người cũng bảo thế.”
“Những yêu sách đầy mâu thuẫn,” chàng nói tiếp. “Đổi ý xoành xoạch.”
“Đúng thế.”
“Ta hiểu chuyện gì đã xảy ra,” chàng nói. “Chẳng cần phải tưởng tượng. Người dân ở đây cũng có cảm nhận giống như ta.”
“Những quy định đặt ra hoặc là hà khắc đến ngớ ngẩn, hoặc là mâu thuẫn với những quy định khác,” nàng nói thêm. “Kết quả là chúng ta mất những người giao hàng. Làng vẫn còn người sinh sống, nhưng nhiều gia đình đã chuyển đi. Trong nhiều nhà, đàn ông bỏ đi xa kiếm việc.” Cứ nhai hết một miệng đầy thức ăn, nàng lại tiếp tục phân tích một thôi một hồi. Lisle để mặc nàng tự nhiên phát biểu. Chàng còn bận suy nghĩ một chuyện quan trọng khác.
“Em đã học từ cha dượng và các chú cách điều khiển thái ấp,” nàng nói. “Ngài biết ngài Rathbourne xem đó là những nhiệm vụ trọng đại như thế nào rồi đấy. Từ những gì em biết thì ông chú Frederick của ngài cũng áp dụng những nguyên tắc tương tự.”
“Cha ta thì không như vậy,” chàng nói. “Ông không thể trung thành với một nguyên tắc hay quy định nào hết.”
“Tin tốt lành là, giờ chúng ta đã hiểu rõ tại sao ngài không được đón chào ở đây.”
“Sự thù hằn,” chàng nói. “Họ không biết liệu chúng ta có chất thêm nỗi khổ sở lên vai họ hay không.”
“Chúng ta phải giành lại niềm tin của họ,” nàng nói. “Em tin chúng ta phải bắt đầu từ đó. Sau đấy mới xử lý được chuyện ma mãnh.”
Lisle chưa kịp trả lời thì Nichols lại xuất hiện.
“Thưa ngài, thưa tiểu thư Carsington, có một người đàn ông đang ở đây muốn thưa chuyện,” cậu nói.
“Phải,” nàng đáp. Chính là thế này đây.
“Còn gì khác?”
“Suy nghĩ,” nàng nói.
“Những nụ hôn say đắm, ta nghĩ thế.”
“Phải,” nàng nói.
“Đầy nguy hiểm.”
“Ôi, đúng thế.”
“Cô gái liều lĩnh,” chàng thốt lên. “Thật ngốc quá.” Chàng cúi xuống hôn nàng.
Có lẽ trước đây chuyện này chỉ là một vở kịch. Nhưng giờ thì không phải, không thể. Không có tiếng cười nào trong giọng nói hay ánh mắt chàng và không hề có vẻ vô tư trong cái si mê của đôi môi chàng. Nhưng mà chàng sẽ không đùa cho vui, bởi vì Lisle chẳng bao giờ như thế. Chàng không giả vờ. Nàng có thể vờ vịt rất dễ dàng. Chàng thì không bao giờ vờ vịt cả.
Miệng chàng không giả đò. Đôi môi chàng mạnh mẽ phủ lấy môi nàng, ấn mạnh cho tới khi nàng phải mở miệng ra, và nàng đã làm thế, ngay lập tức. Nụ hôn của chàng, nóng bỏng và kiên quyết, kéo họ trở lại nơi họ đã thoát ra. Những cảm xúc vẫn còn nguyên đó. Mọi giáo huấn và lý trí trên đời đều không thể ngăn họ lại. Họ đã phải kìm nén khao khát suốt nhiều giờ, chỉ chờ đợi được buông thả thêm lần nữa.
Một vụ việc chưa kết thúc. Lẽ ra họ nên để nó chơi vơi như thế, nhưng nó - dù thứ đã lôi họ sát lại nhau có là gì đi nữa - đâu chịu ngoan ngoãn lắng xuống.
Và sự thật là, nàng không muốn để nó đi. Nàng không muốn ngừng nó lại.
Nàng cảm nhận được vị rượu chàng vừa uống, và vị ấy chỉ làm đậm đà thêm hương vị của chàng, thứ hương vị đã khắc sâu trong tâm trí nàng. Cả đời nàng đã đợi điều này, đợi chàng.
Phải, nàng đã yêu si mê và cuồng nhiệt. Chẳng khác nào đang được nhấm rượu dưới ngàn trăng sao và trời đêm lung linh bí ẩn. Chẳng khác nào đang được bay lên giữa trăng sao.
Đừng bỏ đi. Đừng bao giờ bỏ em đi.
Vòng tay nàng siết chặt quanh cổ chàng còn chàng kéo nàng lên, ghì vào người chàng và dựa lưng vào bao lơn. Lần này tay chàng di chuyển nhanh và dứt khoát hơn lần trước. Chàng giật khăn choàng của nàng ra, ngừng hôn môi để lướt miệng xuống phía dưới, dọc theo cằm nàng. Môi chàng chạm tới đâu cũng để lại cảm giác nóng bỏng râm ran, lướt xuống cổ nàng cho tới khi chạm lên vùng da trên ngực.
Nàng cảm thấy nỗi phấn khích run rẩy lan khắp cơ thể, nên không thể ngăn mình kêu lên, một tiếng rên rỉ quằn quại. Đây là thứ duy nhất nàng không thể làm chủ hay điều khiển. Một trận cuồng phong khoái cảm đê mê tóm lấy nàng, khi môi chàng trượt trên ngực nàng.
Rồi tay chàng ở đó, vầy vò trên ngực nàng. Nàng bắt đầu kêu lên, nhưng miệng chàng lại phủ lấy miệng nàng. Nụ hôn bạo liệt khiến nàng im bặt, và nàng đầu hàng, hoàn toàn, một cách vui sướng, chìm nghỉm vào đại dương khoái cảm và sẵn lòng chết trong đó.
Nàng đưa hai bàn tay háo hức ve vuốt cánh tay, bờ vai và lưng chàng. Chàng thật ấm áp và mạnh mẽ, nàng có vuốt ve bao nhiêu cũng chẳng thấy vừa; nàng chưa thấy được gần gũi đủ mức.
Chàng đưa tay xuống thấp hơn, và trong màn đêm tĩnh lặng, tiếng sột soạt của chiếc váy dường như còn to hơn. Nhưng không gì bằng tiếng trái tim nàng, thình thịch rộn ràng với niềm hạnh phúc, nỗi sợ hãi và phấn khích mãnh liệt tới nỗi nàng cảm thấy đau nhói bên trong.
Lần này, chàng kéo váy nàng nhanh hơn và kém kiên nhẫn hơn trước đây. Bàn tay chàng ấm nóng trượt lên đùi nàng và ngay lập tức tìm thấy lối vào quần chẽn của nàng.
Cái động chạm thân mật khiến nàng choáng váng, nhưng nàng đã đợi cả cuộc đời để được choáng váng như thế. Bàn tay ấm áp của chàng ôm lấy nàng ở đó, quá thân thiết, như thể nơi ấy thuộc về chàng, cảm giác của nó vừa nguy hiểm vừa sung sướng như muốn phát điên. Nàng cọ xát trên bàn tay chàng vì nàng phải làm thế. Một cái gì đó bên trong, ở nơi sâu kín trong lòng, thôi thúc nàng làm như thế.
Đừng ngừng lại. Đừng ngừng lại. Đừng ngừng lại.
Nàng không nói nên lời nhưng có thể diễn tả những lời ấy bằng hành động, lưỡi nàng xoắn lấy lưỡi chàng trong khi cơ thể nàng chà xát trên bàn tay chàng. Rồi chàng trượt một ngón tay vào trong nàng và nàng nghĩ mình bắn tung ra thành muôn tia sáng. Nếu không phải môi chàng đang gắn chặt môi nàng thì chắc hẳn nàng đã thét lên.
Chàng trượt qua trượt lại ở đó, những bí mật ở đó vốn chỉ mình nàng hay biết, thế nhưng chàng cũng biết chúng, biết tất cả, thậm chí biết nhiều hơn nàng. Cả con người trong nàng đảo lộn lên. Mọi cảm giác tụ lại, giống như một bầy chim, rồi tung cánh bay thẳng lên trời xanh, hệt như đàn quạ chiều nay, trên chính tòa tháp này, và cơ thể nàng co giật mạnh như thể linh hồn nàng đã vút lên cao, cao mãi tới những vì sao.
Rồi nàng biết chuyện gì phải xảy ra. Mọi tế bào trong cơ thể nàng đều biết.
Nàng di chuyển bàn tay khắp người chàng, qua những cơ bắp cuồn cuộn trên cánh tay chàng, vòng quanh lưng rồi lướt xuống dưới quần chàng. Giờ nàng tìm thấy khoảng hở trên lưng quần chàng liền thọc tay vào lần quanh mông chàng. Chàng khẽ rướn người để nàng có chỗ trống, trong khi đó vẫn tiếp tục ve vuốt nàng, khẩn thiết hơn, và nàng như sắp ngã ngửa ra sau với cảm giác sung sướng bùng nổ. Nhưng bàn tay nàng vẫn di chuyển theo bản năng và tháo một chiếc cúc quần ra khỏi khuyết.
Khi nghe thấy tiếng hét, thoạt tiên nàng đã tưởng đó là tiếng của chính mình. Nhưng rồi nàng nhận ra không phải, mà cũng chẳng phải những con quạ đang quang quác.
Có ai đó đang rú lên.
Một tiếng hét lạnh sống lưng.
Lisle ngẩng đầu lên, cả thế gian quay mòng mòng xung quanh chàng. Thế giới chỉ có hai màu đen và bạc. Sao trên trời, muôn triệu vì sao.
Một người con gái trong vòng tay chàng, quá ấm và mềm mại.
Olivia, khuôn mặt nàng ngời ánh trăng, và bầu ngực nàng trắng ngọc ngà, nhô ra đầy kiêu hãnh từ vạt áo lót của chiếc váy.
Vùng u tối hừng hực trong tâm trí chàng dần sáng tỏ, như thể một cơn gió lạnh vừa phạt qua.
Bàn tay chàng đang cảm nhận sự ấm rực trơn mượt của...
Không. Lại thế rồi.
Chàng rút tay ra khỏi dưới váy nàng, và chiếc váy rủ xuống nghiêm chỉnh.
Chàng kéo vạt áo lót lên cho nàng, ấn hai bầu ngực vào trong. Gì nữa nhỉ? Khăn choàng của nàng... Đâu rồi? Kia. Chàng nhặt lên và quàng quanh cổ nàng.
Chàng làm tất cả chuyện này quá nhanh chóng theo bản năng. Còn không kịp nghĩ. Chàng vẫn thường thế. Nhưng có chuyện gì thế...?
Tiếng rú. Còn hơn cả rú. Từ đâu nhỉ?
Qua lan can, chàng nhìn xuống dưới. Trong sân, những bóng người đang chạy qua chạy lại.
Nghĩ xem nào.
Không có ai ở tầng trệt.
Tốt. Thế là tốt.
Chàng nhìn chằm chằm về phía cánh cửa dẫn vào ô cầu thang.
“Lisle, quần của ngài kìa.”
Chàng nhìn xuống. “Chết tiệt. Quỷ tha ma bắt ta đi.” Chàng cài khuy quần lại. “Ngu ngốc. Ngu ngốc. Ngu ngốc. Đần độn.”
“Không sao đâu,” nàng nói. “Không sao cả.”
Nàng xốc lại váy áo. Chỉ vì chàng. Chàng đã làm thế. Đảo tung cả con người nàng lên. Có chuyện quái quỷ gì với chàng vậy?
“Ta phải đối phó với chuyện này trước đã,” chàng nói. “Nhưng...”
“Đi thôi,” nàng nói. “Em sẽ theo ngay sau ngài.”
Mất một hồi lâu, trí óc trì độn của Lisle mới sáng tỏ phần nào để giúp chàng hiểu đôi chút chuyện gì vừa xảy ra. Ai đó đã kêu thét về tên giết người, ai đó đã gào lên về bọn đột nhập, ai đó đã rú rít về những bóng ma, cũng có thể ai đó đơn giản là bị sốc.
Cuối cùng, Lisle và Olivia xoay xở để tụ tập được mọi người về lại trong lâu đài. Chuyện này không dễ dàng gì vì đám người hầu đã đi trốn khắp nơi. Một số người trốn ra chuồng ngựa, nhưng chàng nghĩ họ sẽ chẳng ở lại đó lâu. Trời rất lạnh mà các chuồng ngựa đều đã hư hỏng cả. Nếu có chút lý trí, họ sẽ vào trong nhà để xúm xít với những người còn lại.
Quả nhiên, khi chàng và Olivia đã đưa được hai quý bà tới ngồi trước lò sưởi, với những ly whiskey, thì tất cả người hầu đã có mặt trong đại sảnh.
Đảm bảo về quân số.
Chàng để ý thấy đám người hầu không còn tụ tập dưới gác trang trí như lúc trước, nơi đó xưa kia vốn là lối vào sảnh. Thay vì thế, họ kéo tới gần đầu kia căn phòng, nơi có lò sưởi khổng lồ.
Có vẻ như hầu hết bọn họ đều không biết chuyện gì vừa xảy ra. Khi tiếng thét vang lên, họ hoảng sợ nên cứ thế bỏ chạy tán loạn.
Nhờ Olivia kiên nhẫn vô cùng khi đặt câu hỏi với mọi người, cuối cùng chàng cũng xác định được chắc chắn người gào lên đầu tiên là Quý bà Cooper. Những người khác sau đó la hét theo mà chẳng biết vì lý do gì.
Lúc này Quý bà Cooper đang tranh cãi với Quý bà Withcote về chuyện đã nhìn thấy gì.
“Đó là một con ma,” Quý bà Cooper nói. “Tôi đã thấy nó, rõ như ban ngày. Trên kia kìa.” Bà khua khua ly rượu về đầu kia của gian sảnh. “Trên gác trưng bày ấy.”
Mọi cái đầu đều quay về hướng đó và ngước lên. Chẳng có gì trên đấy cả. Gác trưng bày tối bưng.
“Trông nó như thế nào?” Lisle lên tiếng.
“Nó giống một con ma chứ còn sao nữa, trắng toát và mờ ảo,” Quý bà Cooper nói. “Mỏng mảnh. Như một làn sương. Nó đu đưa trên gác trưng bày.”
Một số người hầu run bắn người.
“Thật vô lý,” Quý bà Withcote nói. “Tôi biết chuyện gì xảy ra rồi. Bà ngủ gật, lúc nào chẳng thế, và nằm mơ thấy chuyện đó.”
“Tôi biết khi nào tôi mơ còn khi nào tỉnh. Tôi chẳng mơ thấy cái gì hết!”
“Nó đã ở đó trong bao lâu?” Lisle hỏi.
“Nó chưa bao giờ tồn tại ở đó cả,” Quý bà Withcote đốp lại.
Quý bà Cooper liếc mắt qua bà bạn. “Nó đã ở đó,” bà nói. “Một vài người hầu cũng đã nhìn thấy. Ta không biết chắc nó ở lại đó trong bao lâu. Có lẽ nó đã đu đưa ở đó từ lúc trước để quan sát chúng ta.”
Thêm nhiều người run rẩy.
“Khi ta ngước lên,” Quý bà Cooper nói tiếp, “thì nó đã ở đó. Ta gào thét. Ta còn có thể làm gì cơ chứ? Người ta sẽ làm gì trong trường hợp đó? Mọi người vẫn thường nghe thấy những chuyện như thế, nhưng ta chưa bao giờ tận mắt nhìn thấy một con ma, bằng xương bằng thịt.”
“Thật tình, Agatha, làm sao có thể là bằng xương bằng thịt cơ chứ. Bà nói vô lý quá đi.”
“Bà cũng hét ầm ĩ đấy thôi, Millicent.”
“Vì bà dọa tôi sợ hết hồn. Tôi cứ tưởng những người Scotland tàn bạo tới giết chúng ta. Rồi bà chạy nhào ra khỏi đại sảnh, lao ra cửa giữa màn đêm, nửa số gia nhân hoảng sợ chạy theo sau bà. Tôi chẳng biết phải nghĩ gì nữa. Váy lót của bà bén lửa hay sao?”
Lisle liếc nhìn Olivia.
Nói đúng ra là chàng liếc nhìn sang chỗ nàng vừa đứng. Nhưng giờ nàng không còn ở đó.
Chàng hoảng hốt nhìn quanh đại sảnh. Dù có rất nhiều nến trong phòng, các góc nhà vẫn tối om. Chàng nhận ra, một kẻ đột nhập có thể dễ dàng lẩn vào giữa đám người đang trong tâm trạng rối bời này mà không bị phát hiện. Rất dễ để lén chộp ra một người...
Nhưng không, chàng đang nghĩ gì thế? Bất cứ ai cố lén chộp một người không tránh khỏi khiến người khác ngạc nhiên.
Chàng đang băn khoăn không biết nghĩ sao thì một ánh sáng xuất hiện trong góc tối, tỏa ra từ trên cao, ở mé Bắc của gian sảnh. Chàng ngước nhìn về phía đó.
Olivia đứng trên gác trưng bày, tay cầm giá nến nhỏ. Mọi con mắt đều đổ về hướng đó.
Chỉ nàng mới có kiểu tạo ra sự xuất hiện kịch tính như thế.
“Dù lúc trước có hay không cái gì ở đây,” nàng gọi với xuống, “thì giờ ở đây cũng chẳng có gì cả.”
Nàng bước ra giữa gác trưng bày, ngay trước khung cửa sổ mái vòm. Nàng đặt chúc đài xuống một chiếc bàn ai đó đã đặt sẵn ở đấy. Tắm đẫm trong ánh nến, mái tóc sáng ngời màu vàng lửa, nàng đứng với vẻ uy nghiêm của một nữ hoàng: đầu ngẩng cao, vai ưỡn ra, không hề sợ hãi. Một người giàu trí tưởng tượng hẳn sẽ nghĩ rằng một nữ chúa thời xưa cũng đứng với dáng vẻ ấy khi bà thôi thúc đám đầy tớ bảo vệ tòa lâu đài bằng mọi giá.
“Ở đây chẳng có gì cả,” nàng nhắc lại. “Không có bóng dáng ma mãnh nào hết. Không có dấu chân mờ. Không có bất cứ thứ gì.”
Giọng Quý bà Cooper vang lên cắt ngang bài diễn thuyết. “Nhưng ta đã thấy nó, cháu yêu, rõ như ban ngày ấy.”
“Cháu không nghi ngờ chuyện bà thấy cái gì đó,” Olivia đáp. “Có thể một con chim đã bay qua ô cửa sổ vỡ. Cũng có thể một kẻ ưa nghịch nào đó tìm được lối vào đây cũng nên.”
Nàng ngừng lại một lúc cho mọi chuyện lắng xuống.
Rồi nàng nói tiếp, “Bailey, lấy cho ta một cái chổi và một tấm voan dài.”
Trong khi cô hầu gái làm theo lệnh nàng, Lisle nhận ra không khí đã thay đổi, nỗi sợ hãi hoảng loạn của mọi người đã tan biến. Từ sự yên lặng điếng người, giờ đám đông khán giả đã bắt đầu thư giãn, khe khẽ rì rầm với nhau.
Sau vài phút, Bailey xuất hiện trên gác trưng bày với một cái chổi và một tấm vải. Olivia đưa chúc đài cho cô và bảo cô đi xuống. Gác trưng bày lại chìm trong bóng tối.
Không lâu sau đó, Lisle nghe thấy tiếng sột soạt khe khẽ. Rồi một cái gì đó trắng toát đu đưa ở lan can của gác trưng bày.
Chàng nghe thấy tiếng mọi người hít thở sâu.
“Tất cả những gì người ta cần làm là đứng trong bóng tối, với một tấm vải mỏng móc trên cây gậy dài,” giọng Olivia vẳng xuống từ trong bóng tối.
“Ôi trời ơi!” Quý bà Cooper kêu lên.
Đám người hầu rì rầm to hơn. Có ai đó cười khẽ.
Sau một lát, Quý bà Withcote nói với giọng rõ ràng là rất phấn khởi, “Ồ, điều đó cho thấy người ta dễ dàng bị lừa bịp đến mức nào.”
“Nhưng ai lại làm một việc như thế chứ?” Quý bà Cooper cự nự.
“Kiểu người ưa đùa cợt,” Quý bà Withcote nói. “Thế giới này đâu thiếu loại người ấy.”
Olivia lại xuất hiện giữa họ, cũng đột ngột như khi nàng biến mất. Nàng đứng trong vùng ánh sáng chan hòa tỏa ra từ lò sưởi.
Dù Lisle sẵn biết đó là cách tạo cảm giác kịch tính, nhưng nàng vẫn khiến trái tim chàng lỗi nhịp. Nàng mang dáng vẻ của thần tiên, đứng trước cái lò sưởi khổng lồ, ánh sáng chiếu từ phía sau tỏa ra một vầng hào quang đùa giỡn trên những lọn tóc đỏ au, làn da trắng sữa, chiếc váy lụa bồng bềnh.
Lisle để ý thấy nàng vẫn giữ nguyên dáng vẻ nhân vật Nữ chúa Lâu đài, hai bàn tay đặt nhẹ trên hông, lưng thẳng tắp.
“Đây là một trò đùa ngớ ngẩn,” nàng nói với mọi người. “Có nhiều khả năng mấy cậu bé trong làng muốn bày trò để cười nhạo người London chúng ta. Chắc chúng nghĩ đó là một trò đùa hay ho, xem mọi người chạy nháo nhào khắp nơi, la hét trong khiếp sợ.”
“Làm sao có thể trách bọn chúng được chứ?” Quý bà Withcote cười phá lên. “Chuyện này đúng là buồn cười, bà công nhận không, Agatha? Gợi tôi nhớ cái lần ngài Thorogood gài bẫy bà vợ. Bà còn nhớ không?”
“Sao tôi quên được chứ? Người ta nói suốt một tuần ròng rã là tình nhân của bà ta không hứng tình lấy một lần vì ông ta sợ mất mật.”
Trong khi hai bà già tiếp tục kể lể những kỷ niệm dâm ô của họ, Olivia cho đám người hầu tản đi làm việc. Nàng gọi Nichols cùng Bailey đến và bảo họ đi kiểm tra tất cả các phòng và hành lang. Như thế để trấn an những ai vẫn sợ kẻ đột nhập còn ở trong lâu đài.
Nàng bảo khi tới giờ đi ngủ nàng muốn mọi thứ đã yên ắng và trật tự. “Cho họ uống thuốc nếu em thấy phải làm thế,” là yêu cầu cuối cùng của nàng.
Hai người tiến hành nhiệm vụ của mình.
Ngay sau đó, hai quý bà lảo đảo về giường.
Khi ấy chỉ còn lại Olivia và Lisle trong đại sảnh.
Nàng đứng yên lặng nhìn ngọn lửa. Ánh lửa mạ vàng mái tóc và làm hồng đôi má nàng, hình ảnh ấy khiến tim chàng nhói đau.
Mình sẽ làm gì? chàng nghĩ. Mình sẽ làm gì với nàng đây?
“Thật là nhanh trí tuyệt vời,” chàng khen ngợi. “Chỉ trong mấy phút em đã giúp mọi người hiểu rõ vấn đề.”
“Đâu cần nghĩ chứ,” nàng đáp. “Em giả ma suốt mà. Em thậm chí còn làm được mặt quỷ nữa kìa. Dễ lắm.”
“Lẽ ra màn biểu diễn ấy chẳng khiến ta phải ngạc nhiên đâu,” chàng nói. “Thế mà ta lại thấy rất kinh ngạc.”
“Chắc chắn ngài không nghĩ em tin có chuyện ma quỷ rồi,” nàng nói.
“Em rất giàu trí tưởng tượng.”
“Phải, nhưng không cả tin.”
Không, không hề cả tin hay ngây thơ hay khờ khạo. Nàng chưa bao giờ có những tính cách đó. Cả tính rụt rè hay đắn đo cũng không. Hay đúng hơn là bất cứ tính cách gì giống với những phụ nữ chàng từng biết.
Cảm nhận ấy ùa đến tâm trí và huyết quản chàng cùng một lúc: sự dễ thăng hoa của nàng, sự mềm mại của làn da, hương vị cơ thể, những đường cong trên thân hình, và sức nóng lan tỏa khắp cơ thể chàng, khiến đầu óc chàng chao đảo.
Nàng là sức mạnh của tự nhiên, không thể ngăn cản, không thể chống cự.
Chàng phải làm cái quái quỷ gì đây?
Chàng không thể tin nàng cũng không thể tin vào chính mình. Cứ nhìn những gì chàng đã làm xem, mới chỉ vài giờ sau khi họ đồng thuận rằng chuyện đó không được phép xảy ra lần nữa.
Em không muốn phá hoại cuộc sống của ngài và em biết ngài cũng không muốn phá hoại cuộc sống của em.
“Nói về chuyện lãng mạn vừa rồi ấy mà,” chàng cất tiếng.
“Nếu ngài định xin lỗi về chuyện đã xảy ra trên gác thượng thì em sẽ bóp cổ ngài đấy,” nàng nói.
“Nếu chúng ta không bị gián đoạn...”
“Phải, em biết.” Nàng cau mày. “Em phải nghĩ về chuyện này. Em tin chắc sẽ có giải pháp. Nhưng giờ thì em chưa tìm ra. Hôm nay là một ngày quá dài.”
Dài như cả cuộc đời, chàng thầm nghĩ.
Cuộc đời chàng. Nó đang thay đổi, không cưỡng lại được, không dừng lại được. Nó đã bắt đầu thay đổi từ giây phút môi chàng được chạm vào môi nàng - không, trước cả khi ấy mới đúng. Là từ giây phút chàng thấy nàng trong phòng tiệc.
“Đúng vậy, chính xác,” chàng nói.
“Nhưng chuyện của trái tim...” Nàng nhăn mặt. “Đây là những gì em đang nghĩ trong đầu. Hiện chúng ta đang rất cần một quản gia. Rõ ràng là Edwards sẽ không quay lại dù có đang ở đâu chăng nữa. Chúng ta cũng đang rất cần thuê người hầu Scotland. Người hầu London không thuộc về nơi này. Họ không thích nó, không hiểu và không phù hợp với nó. Rõ ràng là một số người muốn phá hoại công việc của chúng ta ở đây. Chúng ta phải tìm hiểu tường tận chuyện này. Cũng cần cả một lực lượng người giúp việc kiên định, có thể tin tưởng, những người gắn bó với nơi này ấy.”
Dù ngày hôm nay như thế là quá dài, nhưng chàng vẫn vô cùng khó chịu và tức giận bản thân khi trong lòng cảm thấy thật yếu đuối. Chàng luôn được xem là một người mạnh mẽ. Nhưng khi thấy nàng trên gác thượng và ngắm nhìn những vì sao trong đôi mắt nàng, chàng đã làm đúng cái chuyện mà mình đã thề sẽ không bao giờ tái diễn.
Tuy nhiên, chàng không thể phớt lờ những lời nàng nói. Thực tế. Nàng đã khái quát hoàn cảnh này logic không kém gì chàng những lúc không rối bời bởi vô vàn cảm xúc như thế.
“Em nói đúng,” chàng nói.
Đôi mắt nàng mở to. “Em ư?”
“Chúng ta có một vấn đề, nhưng đó không phải vấn đề duy nhất,” chàng nói. “Chúng ta tới đây để xây dựng lại lâu đài. Chúng ta tới đây để giải quyết các vấn đề của nó. Đó là điều cần tập trung vào. Nếu chúng ta làm thế...”
Đôi môi nàng cong lên. “Sẽ không có thời gian để mắc sai lầm.”
“Quỷ sứ tạo công ăn việc làm cho những đôi tay nhàn rỗi,” chàng nói.
“Em chưa bao giờ nghĩ mình cần tới sự giúp đỡ của quỷ sứ cơ đấy,” nàng nói. Nàng khẽ cười rồi bước đi. “Được rồi, thế nhé, coi như chúng ta đã có một kế hoạch. Và có thể tiến hành vào ngày mai.” Nàng chúc chàng ngủ ngon rồi biến mất vào chái Nam lâu đài.
Olivia vẫn giữ nguyên vẻ mặt vui tươi cho tới khi đã an toàn phía sau cánh cửa và bắt đầu bước chân lên cầu thang.
Rồi dừng lại ôm chặt đầu.
Họ sẽ phải làm gì đây?
Ham muốn quả là một thứ khủng khiếp, không như nàng hằng tưởng tượng. Nó thật không chịu nổi. Đứng ở đó, ngắm nhìn chàng, khao khát được chạm vào chàng và khao khát được chàng đụng chạm.
Những gì đã xảy ra trên gác thượng mang cảm giác tàn phá khủng khiếp.
Nàng biết đó là gì. Nói cho cùng, nàng đã từng đọc tuyển tập văn học khiêu dâm cực kỳ thú vị của Bà Cố, và đã học được cách làm bản thân sung sướng.
Nhưng đó chỉ là một sự mô phỏng tầm thường.
Nghĩ tới chuyện khác đi, nàng ra lệnh cho bản thân. Và thế là nàng nghĩ về những người quản gia, cách họ biến mất và cách tìm được họ. Nàng nghĩ về những con ma vốn chẳng phải là ma. Nàng liệt kê danh sách những vấn đề về gia nhân cần giải quyết trong lúc bước lên những bậc thang uốn lượn dẫn vào phòng mình.
Nàng ngả lưng xuống giường mà không kỳ vọng sẽ ngủ ngon, nhưng những sự kiện trong ngày đã giúp nàng. Đặt đầu xuống gối, điều tiếp theo nàng biết là ánh sáng ban mai mờ xám đã tràn ngập khắp căn phòng và Bailey đang đứng bên giường, tay bưng khay đồ điểm tâm. Từ đó hương sô cô la thoảng đưa vào mũi Olivia.
Đại sảnh Lâu đài Gorewood
Sáng thứ Ba ngày 18 tháng Mười
Hai Nữ Yêu vẫn chưa dậy, mà có lẽ phải tới tận trưa mới dậy. Lisle nghĩ đó là thời gian biểu bình thường của họ khi không bị những thế lực tự nhiên quấy rấy.
Tuy thấy song trong lòng lại chẳng hề thanh bình, chàng muốn có một bữa sáng thật yên tĩnh.
Mãi tới giờ chàng mới nhận ra những bữa điểm tâm trước đây chẳng hề yên ả thế này.
Chàng nghe thấy tiếng bước chân nhẹ nhàng của người hầu khi họ đi lại làm việc... tiếng gió rít qua những khe tường hổng và những khung cửa sổ vỡ... tiếng lửa tí tách trong lò.
Môi trường ở đây không hề lý tưởng, và chàng cách xa nơi mình muốn sống hàng trăm dặm, công việc trước mắt chẳng khiến chàng hứng thú chút nào. Nhưng lúc này chàng có sự thanh bình. Và trật tự. Và một khoảnh khắc yên tĩnh để suy nghĩ về sự trớ trêu mà Olivia đã tạo ra.
Nàng bước vào ngay khi chàng vừa uống xong tách cà phê Nichols pha cho chàng.
Lisle đứng lên.
Nàng đứng ngay bên cạnh chàng, săm soi vào cái tách nhỏ bé trên bàn. “Đó là cà phê Thổ Nhĩ Kỳ à?”
Chàng gật đầu. Váy áo nàng sột soạt bên tai chàng. Chàng ngửi thấy mùi hương của nàng, hương nước hoa thoang thoảng. Hay đó là thứ mùi gợi cảm hơn cả nước hoa? Rất thoảng. Không phải mùi trong chai nước hoa. Nhiều khả năng là mùi hoa cỏ khô được đặt trong tủ quần áo của nàng.
“Ta quen uống rồi,” chàng nói. “Nhưng không phải đặc biệt thích nó. sẵn có gì thì ta uống nấy thôi. Nhưng Nichols cảm thấy có trách nhiệm lớn lao trong việc quan tâm chăm sóc sở thích của ‘cậu chủ’. Cái gì có thể làm là cậu ấy phải làm bằng được. Dù chúng ta đi đâu, cậu ấy cũng mang theo cà phê Thổ Nhĩ Kỳ. Dù chúng ta ở đâu, cậu ấy cũng chuẩn bị thức uống ấy mỗi sáng. Em muốn uống một chút không?”
“Có, em rất muốn.” Nàng bước qua một bên rồi ngồi xuống ghế. “Bà Cố lúc nào cũng có món này, nhưng cô hầu của bà bo bo giữ bí quyết, nhất định không chỉ cho Bailey cách pha chế.”
“Ta sẽ bảo Nichols dạy cô ấy,” chàng nói, ngồi lại vào ghế. “Nichols luôn coi thường thói bo bo nhỏ mọn.” Và cậu ấy sẽ không lấy làm phiền nếu được bày vẽ cho một cô hầu gái xinh đẹp bất cứ cái gì cô ấy muốn học, bao gồm cả những thứ cô nàng chưa biết mà lại đang rất muốn biết.
Dù Lisle chưa lắc chuông, Nichols đã xuất hiện, như thể cậu luôn biết lúc nào thì chủ nhân cần. “Thưa ngài?”
“Cà phê Thổ Nhĩ Kỳ cho Tiểu thư Carsington,” Lisle nói.
“Vâng, thưa ngài.”
“Và khi cô Bailey có thời gian, cậu nhớ dạy cho cô ấy cách pha chế nó.”
“Vâng, thưa ngài.” Dù giọng Nichols không thay đổi, Lisle vẫn nhận ra một tia sáng trong mắt cậu.
Hẳn Olivia cũng nhận ra. Khi cậu đầy tớ biến mất vào trong sảnh xuống bếp, nàng nói, “Cậu ta không được nghĩ tới chuyện quyến rũ cô hầu gái của em đâu đấy.”
“Ta có đủ rắc rối với những nguyên tắc đạo đức của bản thân rồi,” chàng hạ thấp giọng. “Em không thể yêu cầu ta chịu trách nhiệm về vấn đề đạo đức của người khác nữa. Và đương nhiên ta không thể bắt cậu ấy phải nghĩ thế này thế khác. Cậu ấy cũng là, đàn ông mà.”
“Em chỉ cảnh báo ngài thôi,” nàng nói. “Em không thể chịu trách nhiệm với những gì Bailey sẽ làm. Cô ấy biết rất ít về đàn ông.”
“Nichols sẽ tự mình tìm ra cách,” Lisle nói. “Như ta đã nói hôm qua, cậu ấy mạnh mẽ hơn vẻ bề ngoài. Có lần cơn gió sa mạc đã nhấc bổng cậu ấy mang đi một quãng khá xa rồi quẳng xuống giữa một đoàn người Bedouin. Cậu ấy đã giúp họ cào cát và pha cà phê cho họ. Họ cho cậu ấy mượn một con lạc đà. Khi quay trở lại chỗ ta, cậu ấy xin lỗi vì đã ‘vắng mặt không xin phép’.”
Nàng nhìn chàng, ánh cười và nét hoài nghi pha lẫn trong đôi mắt xanh ngời. “Ngài đang bịa chuyện.”
“Đừng ngốc thế,” chàng nói. “Ta đâu có trí tưởng tượng.”
Những hình ảnh nóng bỏng diễn ra trong đầu và kể cả những giấc mơ còn phóng túng hơn không được xếp vào tưởng tượng, chàng tự nhủ. Đối với đàn ông, những thứ như thế được tính là thực tế.
“Chắc ngài muốn biết ai dàn dựng chuyện đó,” nàng nói.
Chàng nhìn theo ánh mắt nàng lên gác trưng bày. “Ý em là vụ ma hiện hình ấy hả?”
“Em muốn xem xét kỹ một lượt nữa, dưới ánh sáng ban ngày,” nàng nói. “Có thể ở đó chẳng có gì, chỉ là Quý bà Cooper tưởng tượng hoặc mơ thấy. Nhưng giả thiết đó có vẻ không hợp lý. Ai đó đã chơi trò nhát ma trong mấy năm trở lại đây. Chẳng có lý do gì để họ không chơi nữa khi giờ đây có thêm những khán giả mới thế này.”
“Nhưng do ngay từ đầu họ lại nghĩ ra trò đó?” chàng nói. “Sao lại phải dọa dẫm người ta chạy ra khỏi một nơi nào đấy?”
“Bởi vì họ muốn chiếm đoạt nơi ấy cho bản thân hoặc bởi vì nó có cái họ muốn,” nàng đáp.
“Rõ ràng là chẳng ai muốn có cái lâu đài này đâu,” chàng nói. “Mains đã không kiếm nổi người thuê và ta chẳng thấy dấu hiệu nào cho thấy có người tùy tiện sống ở đây cả.”
“Mains,” nàng nói như sực nhớ. “Em đã định nói chuyện với ngài về ông ta.”
Nichols quay trở lại phòng với tách bình cà phê. Cậu rót đầy cốc cho nàng và Lisle rồi lại biến mất.
Olivia quay lại quan sát cậu ta bước đi. “Quả là một món quà của thượng đế,” nàng nói. “Ngài đã bao giờ để ý rằng rất ít đàn ông có thể làm cho bản thân trở nên kín đáo như thế không? Thường thường họ luôn ra sức thu hút sự chú ý bằng mọi cách mà họ nghĩ ra.” Ánh mắt nàng quay lại phía chàng. “Nhưng không phải là ngài. Em cho rằng đó là do ngài sống ở Ai Cập, và làm những công việc đó.”
“Di chuyển nhẹ nhàng là một kỹ năng quan trọng,” chàng nói.
“Em muốn học lắm,” nàng nói, “nhưng chẳng thể làm thế khi mặc đống váy áo này.”
Hôm nay, nàng mặc bộ váy màu nâu. Để hợp với ban ngày, chiếc váy che kín tới tận cổ nàng. Nhưng nó cũng có nét giống bộ váy nàng mặc đêm qua: ống tay áo khổng lồ và chiếc váy chứa hàng núi vải, được gia cố bởi vô khối lớp váy lót...
Chàng chỉnh đốn lại lý trí.
“Cơ hội thì nhiều mà khả năng làm việc thì chẳng có,” nàng nói.
“En đang nói về Mains sao,” chàng nói.
“Phải.” Nàng hít vào hương vị cà phê và thở ra đầy vẻ tán thưởng rồi nhấp một ngụm, “Ồ, thật hảo hạng. Ngon hơn cả cà phê của Bà Cố.”
“Mains,” chàng giữ nguyên chủ đề.
“Ngài quả là người có lý trí vô cùng kiên định,” nàng nói.
“Một trong hai chúng ta phải có điều đó chứ. Em thì vốn đã một bước mười phương rồi.”
“Quả thế thật, em đang nghĩ đến thức ăn.”
“Để ta lấy cho em.” Chàng đứng dậy, đi về phía tủ thức ăn, thấy mừng vì được đi lại một chút, làm việc gì đó. “Em nói đi.”
“Phải, được rồi. Ông ta là một ẩn số, em phải thừa nhận thế. Em nghĩ ông ta hoàn toàn bất tài. Hay ngu dốt. Hay cả hai. Nói cho cùng, mọi người đều muốn làm việc. Làng này đâu có giàu có gì cho cam. Có một điểm khó khăn khi tìm nhân công. Không phải ai cũng nhận được lời mời tới làm việc trong một tòa lâu đài thế kỷ mười lăm, ngay cả khi đó là một tòa lâu đài còn mới và được bài trí sang trọng. Nhưng là một trợ lý mà không thuê nổi nhân công lao động, trên mảnh đất bao đời nay vẫn là nơi cung cấp nguồn nhân lực cho một vùng rộng lớn với bán kính hàng dặm quanh đây - điều đó thật quá lạ lùng.”
Chàng quay trở lại bàn và đặt đĩa thức ăn xuống trước mặt nàng.
Nàng nhìn cái đĩa. “Không có món haghi, em hiểu rồi.”
“Đầu bếp của chúng ta là người Pháp mà,” chàng nói.
“Cũng không có cá hồi,” nàng nói. “Nhưng em nhận ra bằng cách nào đó ông ta đã xoay xở để tạo ra một bữa điểm tâm hoàn hảo trong cái bếp lò khủng khiếp đó.”
“Đáng ngạc nhiên quá phải không?” chàng đồng tình. Chàng ngồi lại ghế. “Về Mains ấy mà? Em đang nói gì nhỉ?”
Nàng cầm dao nĩa lên. “Lý trí của ngài quả là quá kiên định.”
“Ừ, ta đang rất lo lắng. Ta tin là một khi em lôi chuyện này ra nói tức là có cái gì đó đáng giá để nói với ta.”
“Nhiều thứ đấy,” nàng nói. “Thứ nhất, trợ lý của ngài uống hơi nhiều, ông ta hơi bất tài và hơi lười biếng, nhưng thật ra những điều đó chưa phải vấn đề. Ông ta không làm tốt việc của mình. Nhưng những năm vừa rồi, trước khi qua đời, ông chú Frederick Dalmay của ngài vẫn giám sát chặt chẽ ông ta. Từ khi ông mất tới nay, sự giám sát chuyển sang cho cha ngài.” Nàng dừng ở đó và tập trung vào bữa điểm tâm.
Lisle không hỏi nàng thêm nữa. Chàng không cần hỏi. “Cha ta đã làm mọi chuyện tệ đi,” chàng nói.
“Hẳn có những người cũng bảo thế.”
“Những yêu sách đầy mâu thuẫn,” chàng nói tiếp. “Đổi ý xoành xoạch.”
“Đúng thế.”
“Ta hiểu chuyện gì đã xảy ra,” chàng nói. “Chẳng cần phải tưởng tượng. Người dân ở đây cũng có cảm nhận giống như ta.”
“Những quy định đặt ra hoặc là hà khắc đến ngớ ngẩn, hoặc là mâu thuẫn với những quy định khác,” nàng nói thêm. “Kết quả là chúng ta mất những người giao hàng. Làng vẫn còn người sinh sống, nhưng nhiều gia đình đã chuyển đi. Trong nhiều nhà, đàn ông bỏ đi xa kiếm việc.” Cứ nhai hết một miệng đầy thức ăn, nàng lại tiếp tục phân tích một thôi một hồi. Lisle để mặc nàng tự nhiên phát biểu. Chàng còn bận suy nghĩ một chuyện quan trọng khác.
“Em đã học từ cha dượng và các chú cách điều khiển thái ấp,” nàng nói. “Ngài biết ngài Rathbourne xem đó là những nhiệm vụ trọng đại như thế nào rồi đấy. Từ những gì em biết thì ông chú Frederick của ngài cũng áp dụng những nguyên tắc tương tự.”
“Cha ta thì không như vậy,” chàng nói. “Ông không thể trung thành với một nguyên tắc hay quy định nào hết.”
“Tin tốt lành là, giờ chúng ta đã hiểu rõ tại sao ngài không được đón chào ở đây.”
“Sự thù hằn,” chàng nói. “Họ không biết liệu chúng ta có chất thêm nỗi khổ sở lên vai họ hay không.”
“Chúng ta phải giành lại niềm tin của họ,” nàng nói. “Em tin chúng ta phải bắt đầu từ đó. Sau đấy mới xử lý được chuyện ma mãnh.”
Lisle chưa kịp trả lời thì Nichols lại xuất hiện.
“Thưa ngài, thưa tiểu thư Carsington, có một người đàn ông đang ở đây muốn thưa chuyện,” cậu nói.
Tác giả :
Loretta Chase