Seven
Chương 2
Trước khi ra tòa, Andy đã thỏa thuận ổn thỏa.
Đúng thế, dù y thừa nhận bản thân rất có thiện cảm với Seven, nhưng thế thì sao nào? Trong trường hợp ngồi rục tù suốt mười năm thì hiển nhiên đến bang Florida sẽ tốt hơn nhiều lắm so với ở lại quần đảo Virgin.
Con người luôn phải đối mặt với sự thật.
Y công nhận hôm nay Seven nhìn rất giống người bị hại, áo trắng tinh khôi và quần đen sạch sẽ, cổ áo được ủi thẳng góp phần tôn lên cần cổ thon dài, bên dưới cổ áo rộng là hõm cổ rất sâu, mơ hồ có thể thấy được cả xương quai xanh tinh xảo.
Seven tỉ mỉ cài gọn cúc ở cổ tay áo, cổ tay áo bao lấy xương cổ tay mảnh mai của cậu, chỉ để lộ đôi bàn tay xinh đẹp kia.
Sau khi chuẩn bị xong xuôi hết thảy, Seven lên tiếng, “Có thể đưa đơn xin nơi bỏ tù hôm qua cho tôi không?”
Andy nhìn thoáng qua cậu, cái miệng của y nhênh nhếch lên, rồi thở một hơi thật dài, “Không được, xin lỗi cậu.”
Seven bèn gật đầu, “Nếu vậy… Tôi thật tiếc là ba ngày sau, sẽ có rất nhiều tòa soạn nhận được thư tố giác anh đấy. Những chứng cứ được giấu kín có liên quan đến hãng luật David, về bao che tội phạm, giả mạo chứng minh thư, thay chính khách đả kích đối thủ, hãm hại người vô tội, ví dụ như vụ gián điệp của Mr. Li, vụ thuốc lá của công ty Morris, thêm cả vụ scandal bê bối của Thống đốc nữa… Tôi đoán chừng sẽ có nhiều người hứng thú lắm đây, anh đã dùng cách nào để vị chính khách ấy mù mờ hết cả lý trí để rồi trèo lên giường của một ả gái *** vào chính tiệc mừng công trạng của ông ta —— xét theo tình huống người ta không biết, các người đã giả tạo thân phận của ả gái *** đó.”
Trong một khoảng thời gian ngắn ngủi, Andy khiếp sợ đến gần như không thở nổi, trong khi Seven vẫn đang thủng thẳng giải trình tiếp, “Mật mã của anh đều là dùng DES(1) để thiết lập, quả thật rất cao siêu, mà máy của anh cũng xịn lắm, Tulip E-Go(2) mà, máy tính xách tay đắt tiền nhất thế giới, không hổ danh bất hư truyền, tôi phải mất cả tối dùng mọi thủ pháp mới có thể mở được mật mã của anh. Sau đó, tôi đăng nhập vào hộp mail anh chuyên dùng, tôi phỏng đoán máy tính có nhiều tài liệu bên trong như thế nhất định là tách riêng một mình, hên thay, tôi đã đoán đúng. Vậy nên tôi liền gửi thư đề nghị quản trị mạng chỗ bọn anh cho phép tôi kết nối. Và tôi lại gặp may bận nữa, anh ta đồng ý. Lần này thì là hệ điều hành UNIX(3), so với đặt mật mã bằng DES của anh, phá hệ điều hành này vốn không cần thời gian, chỉ cần kỹ xảo…” Cuối cùng, cậu chốt lại bằng một câu khen ngợi, “Xem ra, ở David anh là một người rất có địa vị.” Xong lại thản nhiên bổ sung thêm một câu nữa, “Tôi có một nickname trên mạng, là Seven Days, không phải vì Chúa sáng tạo ra thế giới chỉ mất bảy ngày(4), mà là có rất ít hệ thống nào trong vòng bảy ngày tôi không phá được.”
Trong một khắc, Andy thật chẳng biết nên khóc hay nên cười, ai mà ngờ được y thế mà lại đưa máy tính cho một hacker tiếng tăm lừng lẫy mượn chứ. Đầu óc y quay mòng mòng loạn cả lên. Y đã suy tính đường đi nước bước bao nhiêu là nhiều, nhưng vẻn vẹn một câu của Seven đã đập vỡ tất cả ý đồ của y mất tiêu.
“Bức mail của tôi đã được đặt ở chế độ tự động gửi, chỉ cần tôi không hủy bỏ, nó sẽ gửi đi hàng loạt. Dung Thanh liệu có đáng giá để anh đánh đổi cả David không?”
Khuôn mặt gầy guộc của Andy hiện chút cười khổ, y than thở, “Nhưng Seven à, nhà tù của quần đảo Virgin, nó là địa ngục.”
Seven chỉ hỏi, “Người kiểu Dung Thanh có phải tựa như kẻ sống trên thiên đường hay không?”
Andy hơi trợn mi, đáp trả, “Nếu là về khía cạnh thích gì được nấy, thì thế cũng coi là đúng được!”
Seven lơ đãng nhướn mày, đơn giản nói, “Nếu vậy, tôi tuyệt đối sẽ không ở cùng một nơi với anh ta đâu. Anh ta ở thiên đường thì tôi thà xuống địa ngục.”
“Cậu hận cậu ta?”
Seven lắc đầu, cậu khép mắt một chút, nói, “Chỉ là không còn yêu anh ta nữa, nên chẳng mong còn vướng víu bất cứ khúc mắc gì với anh ta hết.”
Andy bắt đầu dần dà hiểu Seven hơn. Cậu là tuýp người, lúc yêu thì sẽ toàn tâm toàn ý, lúc không yêu nữa ước chừng cũng chẳng muốn dằng dai lằng nhằng.
Vậy Dung Thanh có hiểu điểm này không đây? Andy mông lung ngẫm thử, chắc chắn Dung Thanh cũng thừa hiểu rất rõ.
“Tôi chỉ cần đơn xin bỏ tù trong tay anh, những việc khác anh cứ làm theo ý của Dung Thanh, tùy.” Seven lại đơm thêm một câu.
Có biết không đấy hử, cậu phải chịu án mười năm lận đấy chứ không đùa đâu Mấy lời này rốt cuộc Andy không thể thốt ra.
Y bỗng nhiên cảm thấy Seven là một người có thể khiến kẻ khác tự lật đổ chính mình, khi bạn đối mặt cậu ấy, có đôi khi sẽ trở nên không còn giống chính mình nữa.
Seven nhìn kỹ đơn xin bỏ tù kia một lần, đoạn dùng đôi tay xinh đẹp kỹ lưỡng xé vụn tờ đơn kia, vụn nát đến độ này, Andy cảm thấy không khác với dùng máy nghiền giấy là bao.
Andy ngồi ở vị trí luật sư bào chữa, lưng sờ sờ cảm nhận được Dung Thanh an vị ngay phía sau. Y nhấp nhổm không yên, nghĩ đến đơn xin kia đã bị xé vụn, thế là mồ hôi lạnh túa đầm túa đìa ướt rượt cả trán.
Vì Andy không mấy đả động, thành thử cả case thẩm tra xử lý gần như nghiêng về một phía. Kiefer đến tham dự với cái mặt xám ngoét, căm phẫn và gọn lỏn lên án bị cáo, Âu phục xa xỉ vận trên người rồi thì động tác tay, cái nào cái nấy đều đổ dồn miêu tả rằng, đây là một vị quý tộc bất hạnh xui xẻo bị ngã vào bùn lầy nhơ nhớp.
Thái độ của người Mỹ đối với người Anh hệt như một lão già đối mặt với bộ phận sinh dục của lão, cáu tiết nó thôi rồi can tội không đáp ứng được như lão mong muốn nhưng lại vẫn phải che đậy nó nhằm bảo vệ danh dự. Nhất lại còn là quý tộc truyền thống như Sutherland, hầu hết dân Mỹ thà tin rằng cậu trai da vàng Hoa Kiều này cố ý gây thương tích, chứ chả nguyện đi tin vị quý tộc truyền thống nhất của quê hương lại bỉ ổi cưỡng hiếp một đứa vị thành niên dị tộc.
Doney – đại diện bên nguyên – là một gã đàn ông trung niên điển hình của nước Mỹ, tóc màu nâu, hình thể bự chảng. Gã đánh giá Seven từ đầu xuống chân, đoạn buông lời châm chọc, “Sự thật sờ sờ là, cậu dụ dỗ đương sự của tôi, cậu lấp liếm tuổi thật của mình, cậu lợi dụng vẻ ngoài vô tội, thanh thuần… Hờ…” Như thể đang kể một chuyện buồn cười lắm, gã cứ thế liên mồm tuôn, “Đương sự của tôi chưa lõi đời nên bị cậu mê hoặc, rồi hai người đến biệt thự, quan hệ… Thưa các vị, nếu các vị từng đến biệt thự của đương sự tôi, các vị sẽ phát hiện nơi đó là cả một biển nghệ thuật, dĩ nhiên nếu để cho một kẻ tâm tư bất chính ghé thăm thì nó khác nào là một cung điện dát vàng chứ. Trong phòng ngủ nơi xảy ra vụ án, chúng ta có thể thấy chiếc bàn trà thấp chân(5) cổ thời nhà Minh(6) Trung Quốc, đẹp đẽ và giá trị vô ngần, và chính nó đã trở thành căn nguyên dẫn đến tai họa cho đương sự của tôi. Ngay lúc cậu đây trộm bàn trà tính chuồn đi thì đương sự của tôi cản cậu ta lại, kết quả bị đả thương, chân tướng của toàn bộ sự việc là như thế!”
Andy giơ tay, bác bỏ, “Phản đối, bên nguyên lập luận thiếu căn cứ!”
Quan tòa phán, “Phản đối có hiệu lực. Bên nguyên tiếp tục đưa ra câu hỏi.”
Doney dường như làm ra một động tác cảm thán dư thừa, hai tay chống lên ghế của bị cáo, ngữ khí ác độc, “Đêm đó không phải hai cậu đã quan hệ sao, cậu không hề chống cự gì à?”
Seven ngẩng đầu lên, bình thản bảo, “Chúng tôi không có quan hệ, ngài Kiefer cởi hết quần áo chỉ vì muốn nói chuyện phiếm với tôi.”
Khán phòng ồ lên một chặp cười. Andy không khỏi sửng sốt, ngay cả đại diện bên nguyên cũng thộn hết cả ra, chỉ nghe Seven không nhanh không chậm tiếp tục, “Nếu một người đàn ông ba mươi bảy tuổi, từng có ba biên bản bạo ngược *** lại còn chưa lõi sự đời, hắn vì sao sẽ không cởi sạch bách quần áo chỉ nhằm mục đích nói chuyện phiếm nhỉ?”
Khán phòng lại rung cười ồn ã. Quan tòa gõ búa, nhắc to, “Đề nghị bị cáo chú ý cách thức trả lời của mình.”
Doney hít sâu một hơi, lại hỏi, “Cậu Seven, nghe nói cậu là trẻ mồ côi, xin hỏi theo học tại Học viện âm nhạc ở Áo, cậu kiếm sống bằng cách nào?”
“Rất nhiều.”
Doney thắng lợi mà cười ngất, “Không dám nói đúng không? Vậy để tôi nói cho các quý ông quý bà của ban hội thẩm nghe, cậu Seven là dựa vào tiền tiếp chuyện ở quán bar cầu vồng(7) mà sống. Tiếp chuyện… Từ ngữ cũng giàu ý nghĩa thật, tán gẫu với khách, giải tỏa buồn khổ cho Gay, nghe chừng cao thượng chẳng thua gì bác sĩ tâm lý, nhưng mà thực tế thì sao nào? Rõ ràng cũng chỉ là một đại từ trai bao.”
Khán phòng rộn rạo ầm ầm. Andy đang khẽ thở dài thì Seven bất chợt nói, “Xin hỏi ông Doney, ông vừa mới ly hôn, đúng không?”
Khuôn mặt béo phì của Doney tức thì đông cứng, lại nghe Seven giải thích hết chi là trôi chảy, “Tay trái của ông có một vết hằn, ông rất hay sờ lên nó, hiển nhiên không có thói quen thiếu một thứ trên đó. Mỗi lần đụng đến nó, trông ông hằm hè kinh khủng, ông đổ hết thất bại của hôn nhân quy kết cho quần đảo Virgin quá mức cám dỗ chứ không phải do ông đã động tay động chân thô bạo quá đáng với phụ nữ!” Cậu nói tới đây, nữ trợ lý của Doney nhịn không được ngẩng đầu liếc mắt nhìn Doney một cái.
Lúc này Doney hoàn toàn đờ đẫn, Seven vẫn tiếp tục tường giải rất nhanh, “Ông đeo một chiếc đồng hồ bằng vàng giả, song song đó lại phải gồng mình bày vẻ vênh váo hành hiệu đính đầy người, ấy là vì ông không muốn người khác biết ông đang gặp trục trặc về vấn đề tài chính. Rõ là vì ông mụ mê cờ bạc, đêm ngày quyến luyến ở sòng bạc, ngủ không đủ, sinh ra gắt gỏng, tính tình cáu kỉnh. Chưa hết, rất dễ nhận thấy được ông còn cá cược đua ngựa, vì hôm nay là thứ ba, cứ cách mười lăm phút, ông lại kiểm tra tin nhắn di động gửi đến một lần, mỗi lần xem xong cảm xúc đều lên xuống khó kiềm chế. Hiện tại là mười một giờ đúng, trường đua ngựa sắp báo tin con ngựa dẫn đầu, liệu ông có thể nói cho mọi người biết là con nào không ta?”
Cả hội trường thinh lặng, chỉ có tiếng di động Doney réo lên báo hiệu mười một giờ đúng.
Andy vỗ trán, thấp giọng cảm thán, “Giỏi quá, giỏi quá đi, Seven.”
Tầm nghỉ trưa, tìm được Dung Thanh rồi, y mới nhả giận, “Daniel, thả cậu ấy tự do đi!”
Dung Thanh ngước đầu, hơi nhíu mày, hỏi lại, “Cậu đang nói gì đấy?”
“Daniel, cậu không còn cơ hội đâu. Nếu cứ khăng khăng theo kế hoạch của mình, cậu sẽ mất đi cậu ấy. Bất luận cậu ấy ở đâu, dù là ở trong nhà giam cậu có thể khống chế, cậu cũng không thể thay đổi được kết quả này.”
Dung Thanh nở nụ cười, con ngươi của hắn co rút lại một chút, đồng tử sâu và đen kia như thể đang trào phúng. Hắn từ tốn đáp, “Andy ạ, nếu chúng ta không phải là bạn chí cốt mười năm, tôi thật sự nghi ngờ cậu rốt cuộc có phải là Andy Wachowski hay không đấy. Kế hoạch của tôi là muốn cậu ta thụ án ở Florida mười năm, điều này tôi hy vọng cậu hiểu rõ, tôi không có ý sửa đổi gì cả.”
Hắn nói xong liền đứng dậy rời khỏi phòng nghỉ khách VIP, Andy khổ não nhìn theo bóng hắn, thầm than, “Đáng tiếc… Kế hoạch của cậu không phải là kế hoạch của thằng bé đâu.”
Trong phòng tạm giữ của ở tòa án xuất hiện một vị khách quý, ông ta mặc một bộ Âu phục thủ công màu lam, vừa khít thoải mái mà bao lấy thân hình cao ngất. Đành rằng tuổi tác ông ta cũng không còn trẻ, nhưng vẫn có thể thấy ông ta giữ dáng rất tốt. Mái tóc xám bạc, ngũ quan anh tuấn không vì năm tháng mà hiện nét già nua, ngược lại chỉ làm tăng thêm sức quyến rũ của sự thành thục, bên tay phải được bảo dưỡng thích đáng có đeo một chiếc nhẫn đá quý đen tuyền, trong tay chống một chiếc gậy bằng ngà voi, màu sắc vằn lắng mặt trên chứng tỏ đây là đồ cổ từ tận mấy thế kỷ trước. Những thứ trên mình của người đàn ông trung niên này tiệt không có mang vẻ khoe mẽ, hơn thế nữa, kết hợp với khí chất của ông ta càng thêm bổ sung cho nhau, khiến ông ta đậm đặc khí chất uy nghi, đường bệ, khó có thể đứng ngang hàng mà nhìn thẳng cho nổi.
“Công tước Sutherland, mời ngài đi bên này.” Anh cảnh sát tòa án kính cẩn dẫn đường ông ta vào phòng tạm giữ.
Bàn tay đặt trên bàn của Seven lập tức nắm chặt, cậu gọi, “Ngài cảnh sát, tôi chưa nói muốn gặp khách mà.”
Anh cảnh sát dường như không nghe được cậu nói gì, còn Donald Sutherland lại vô cùng phong độ mà ra hiệu, “Để ta và cậu đây riêng tư ít phút.”
Bắt gặp sự do dự từ anh cảnh sát, Donald bèn nói tiếp, “Anh yên tâm, đứa trẻ này sẽ không làm ta bị thương đâu.”
Sau khi anh ta ra ngoài, Donald mới ngồi xuống trước mặt Seven, han hỏi, “Con khỏe không? Seven.”
Seven ngoảnh mặt đi, không trả lời.
Donald vẫn mang vẻ mặt ôn hòa nói, “Tuy giữa chúng ta đã xảy ra vài chuyện không được vui vẻ lắm, nhưng dẫu sao con cũng là con ta, ta không thể đứng khoanh tay nhìn con chịu khổ.”
Seven khàn giọng bảo, “Vậy thì mời ông biến đi cho, như thế tôi sẽ bớt thấy khổ sở hơn đấy.”
“Con nói gì vậy?” Donald nhíu mày, “Con là con ta, sau này dĩ nhiên chúng ta sẽ phải ngày ngày gặp mặt.”
Seven quay mặt sang, biểu tình khó lòng tin được mà gằn, “Ngày, ngày, gặp, mặt?”
“Ừ, Seven.” Donald mỉm cười rút ra một tờ công văn được gấp cẩn thận, khuyên nhủ, “Con chưa trưởng thành, đây là đơn xin quyền giám hộ, con chỉ cần ký lên đây là cha con chúng ta có thể đoàn tụ ngay tức khắc.” Ông ta nói rồi đặt đôi tay được được chăm sóc tỉ mẩn lên tay Seven, tiếp tục vẽ ra viễn cảnh, “Chuyện sau này con không cần lo lắng, ta sẽ nhanh chóng giúp con được tạm tha ra ngoài. Con thích đi Áo học vỹ cầm, con thích vị thầy nào, hửm? Ta quen không ít viện trưởng Học viện Âm nhạc.” Hơi nhíu mày một chút, rồi lại tiếp, “Tất nhiên việc cho con cái họ Sutherland, còn cần ít thời gian. Có điều ta thấy gọi con Seven cũng không tệ, ta thích gọi con như thế.”
Khoảnh khắc kia Seven thật sự khó chịu như bị rắn độc cắn một vết, cậu rút mạnh tay về, nói đơn giản, “Cám ơn, tôi không có hứng thú.” Cậu chỉ về phía cửa, cao giọng, “Học vỹ cầm ở Áo? Đừng có sỉ nhục âm nhạc, tôi không muốn ngủ dậy từ trên giường ông rồi đến trường đâu. Mời ông ra ngoài cho!”
Thái độ của cậu quả quyết như thế, nhưng Donald cũng không lấy làm tức giận. Ông ta thu tay, vẫn mỉm cười như cũ, “Con quả thực rất thông minh, nhưng mà con ngoan à, nói cho cùng, con còn rất trẻ nên mới bị Cruise lừa. Con không đồng ý, ta cũng không miễn cưỡng, tờ đơn này con có thể ký lúc nào cũng được, xem con là con nên ta nhắc nhở con một câu. Ngục tù ── nó không giam được người ta, nó chỉ giam chính con mà thôi. Con xem con mồi trong ***g sắt đấy, có thể bảo toàn thân nó không nào?”
“Cút đi!” Seven khó lòng đè nén mà run rẩy.
Donald còn chưa nói tiếp, cửa đã ‘rầm’ một tiếng bị Andy mở toang ra, theo sau là viên cảnh sát bối rối ngập mặt.
Mặt mày Andy liền sa sầm, “Xin lỗi, thưa Công tước, ngài ở đây làm gì vậy?”
Donald mỉm cười, “Chỉ là có chút chuyện muốn bàn với Seven thôi.”
“Ngài không có quyền này, chớ nói ngài là Công tước của nước Anh, kể cả ngài có là Tổng thống Mỹ, đương sự của tôi cũng đã được “các quyền Miranda”(8) bảo hộ!” Andy lạnh lùng đính chính.
Donald cầm lấy mũ phớt, hết sức lịch thiệp đội lên đầu, “Cám ơn, hy vọng quyềnnày luôn bảo hộ được Seven.”
“Andy!” Sau khi nhìn bóng Donald khuất hẳn, Seven bất ngờ đề nghị, “Tự dưng tôi muốn tự đặt cho mình một cái tên tiếng Trung.”
Andy nghe xong không khỏi ngỡ ngàng, y cảm thấy thỉnh thoảng Seven có lối suy nghĩ đột phát thực đáng sợ, nhưng y vẫn hỏi, “Cậu muốn tự đặt tên mới là gì?”
Ngón tay thon dài của Seven kéo qua đơn giao quyền giám hộ tìm được cột có tên mẹ cậu: Muo. Li, cậu miết lên hai chữ kia, rồi mới nói, “Tôi sẽ tên là Mạc Tử Mộc, Mạc Tử Mộc.” Sau đó đặt bút viết lên trên cùng tờ đơn ba chữ tiếng Trung.
Andy nhận lấy tờ giấy kia, nhìn đến ba chữ Hán ấy, chữ Hán chính là như vậy, chợt liếc mắt nhìn qua giống như một bụi cây, và ba chữ này thì khiến người ta liên tưởng đến hoa cúc. (莫子木, giống chỗ nào hả cái cha Andy này, chưa gì đã rủa em nó…)
Andy nói, “Được, tôi sẽ giải quyết ổn thỏa giúp cậu, cậu Mạc.”
Kỳ thật đổi họ tên không thuộc phạm vi phục vụ của Andy, nhưng dường như y đã quên yêu cầu Seven phải trả thêm chi phí.
Lúc bọn họ ra tòa, xui xẻo thay lại đụng mặt phải Kiefer.
Kiefer dùng biểu tình cay nghiệt nhìn Seven, giọng điệu châm biếm, “Ai thế này, hóa ra là thằng ăn cắp!”
Andy vừa toan đứng ra bảo vệ Seven vượt qua đám người trước mặt, lại bị đám luật sư này tận lực chặn lại, Kiefer thì vọt đến trước mắt Seven, Andy cũng bị chúng ngăn cách.
Kiefer áp sát mặt Seven nhỏ giọng nhưng thực rõ ràng phun ra mấy câu, “Mày yêu cái bàn trà đó nhường ấy, phải chăng vì nó làm mày sướng tới bến phải không hử? Không đè mày trên đó, đôi ta sao có thể một trước một sau sảng khoái đến thế được.”
Hai tay Seven bị còng, cậu chỉ bình lặng đáp trả, “Tôi thật vui vì có thể trở thành ký ức tốt đẹp cuối cùng của ngài Kiefer đây!”
Kiefer bị tăng xông, nắm tay hắn vừa mới vung lên đã bị luật sư phía sau sợ sinh chuyện không hay ngăn vội lại. Hắn hung tợn rít, “Tao sẽ bắt mày phải trả giá, cái loại con của đồ đĩ ***!”
Seven chỉ đứng im không động đậy mà nhìn hắn, biểu tình như đang nhìn một con súc vật hạ đẳng nhất, điều này khiến Kiefer lại nổi đóa lần nữa không kiểm soát được.
“Xét thấy cậu chưa trưởng thành, tôi nghiêng về ý kiến hoãn thi hành án phạt, song, trên thực tế trong quá trình phạm tội, cậu đã sử dụng vũ khí sát thương cực độ nguy hiểm, và thực tế đã tạo thành thương tổn, điều này cho thấy, cậu không đủ năng lực tự kiềm chế không gây thương tích cho người khác. Xuất phát từ nguyên nhân này, tôi phán cậu ngồi tù, xem xét nguyện vọng nơi chịu tù của cậu, tôi tôn trọng ý kiến của cậu, cậu có thể chịu tù tại nhà giam trên hòn đảo trực thuộc đảo Saint Croix(9) tại quần đảo Virgin, thời hạn năm năm!” Quan tòa nói xong, búa đập xuống vang lên một tiếng nặng nề, tỏ rõ phán quyết chính thức có hiệu lực.
Lúc Andy tiễn Seven, hoặc bây giờ có thể gọi là Mạc Tử Mộc, Mạc Tử Mộc chỉ cười với y. Khi gần đi cậu gọi nhỏ, “Tôi tặng anh một món quà, ở trong hộp mail của anh.”
Andy dõi theo bóng dáng đã đi xa của người thiếu niên để lại cho y ấn tượng cực kỳ sâu sắc, xong sau bất đắc dĩ đi đối mặt với cơn thịnh nộ của Dung Thanh.
Có thể nói, y chưa bao giờ gặp qua một Dung Thanh tức giận, chính xác hơn là một Dung Thanh sẽ nổi giận.
Thời khắc kia y quả thực cho rằng Dung Thanh đã không thể khống chế được nữa, hắn ấn gí y vào tường, túm cổ áo y, cặp mắt đỏ ngầu dữ tợn, “Andy, tôi hy vọng cậu có thể chịu được hậu quả của việc lựa chọn phản bội tôi.”
Andy khẽ cười khổ, cũng giống như y không thể lãnh nhận hậu quả của việc không đồng ý với Seven thôi. Y thở gấp giận lẫy theo, “Daniel, tôi rất tiếc…”
Dần dần Dung Thanh cũng chịu bình tĩnh lại, hắn bảo, “Andy, hợp tác giữa chúng ta e rằng đến đây là kết thúc.”
Andy toát ướt sũng mồ hôi lạnh, vừa rồi y thực sự có cảm giác sẽ bị Dung Thanh xử luôn rồi, bèn thở phào một hơi, “Cám ơn!”
Dung Thanh lạnh nhạt nói nốt, “Thế nhưng cậu đã dùng hết mười năm giao hảo của chúng ta, tôi hy vọng cậu hiểu được điều này.”
Andy nhìn bóng hắn rời đi, ý của Dung Thanh rõ đến thế rồi còn gì, rằng tình bạn giữa y và hắn đã kết thúc, điều này có nghĩa ra sao, y hiểu rõ được.
Andy còn chưa về đến khách sạn, ông chủ Johnson của David đã gọi điện đến, gã ta gần như gầm lên, “Andy, công ty Cruise thu hồi tất cả case đã ủy thác cho chúng ta, hơn nữa hoàn toàn không chừa nổi một đường thương lượng, xin hỏi anh chuyện này rốt cuộc là sao đây?”
“Thành thực xin lỗi, chuyện này trở về tôi…”
“Không, Andy, Andy, tôi mới phải nói xin lỗi, thật tiếc là anh bị đuổi việc! Mẹ kiếp anh đã bị đuổi việc!”
“Johnson, đừng quên tôi cũng là đối tác của David!” Andy phẫn nộ lớn tiếng.
“Ô! không không, anh tưởng là mất đi hợp đồng của Cruise, anh còn có thể là đối tác của David sao? Tôi không ngại ở trước mặt tất cả thành viên hội đồng quản trị đuổi việc anh đâu!”
Tay Andy nắm thành nắm đấm, y nới lỏng cà vạt, mở bung cửa, ngã mạnh người lên giường.
Mẹ nó, y hung hăng mắng trong lòng.
Lúc này, trong phòng vang lên một tiếng ‘Ding’, Andy thoáng do dự, đoạn ngồi bật dậy, bật laptop lên, thuận tay gõ mật mã.
Màn hình báo hiệu có mail gửi đến, y mở rồi xem lướt qua, biểu cảm trên mặt biến đổi muôn vẻ, từ giật mình đến cười lạnh. Y chậm rãi móc di động, giọng nói cay độc bên trong lại truyền đến, “Andy, anh là người khôn ngoan, chắc hẳn không hy vọng tôi sẽ đem sự việc…”
“Dĩ nhiên, tôi hiểu rất rõ ông là tên lưu manh ác ôn đầy tiếng xấu trong giới luật sư!”
Johnson dường như có chút giật mình, gã chần chừ một chút, nơm nớp vặn lại, “Andy, anh tính làm gì đấy?’
“Làm gì à, Johnson, tôi muốn ông ngày mai nhượng vị trí của mình cho tôi!”
“Mày điên rồi à?” Dễ nhận thấy Johnson vừa sợ vừa giận, không rõ vì sao Andy đột nhiên trở nên cứng rắn như thế.
“Tôi không điên đâu, Johnson, nếu ông không muốn để người khác biết ông đã bức đương sự của mình đến đường cùng như thế nào, rồi mới tính toán giá cả. Nếu ông không muốn để ông trùm đầy thế lực nào đó biết, không phải ông cứu con hắn, mà là chính ông kéo dài thời gian truyền tin tình báo, mới khiến con hắn biến thành đứa què. Nếu viên nghị sĩ nào đó biết ông đã tìm người vạch trần vụ ông ta quấy rối *** một đứa bé rồi giao cho tòa soạn báo…”
“Shit! Andy, mày đang xằng bậy!”
“Johnson, chúng ta đều là luật sư, coi trọng chứng cứ, tôi có thể gửi đến mail ông dăm thứ tài liệu, ông xem qua rồi chúng ta sẽ cùng bàn lại với nhau!” Andy dứt khoát mà tắt máy, y nhìn lên bức mail trên màn hình mà Seven đã gửi, chậm rãi thốt ra cái tên, “Mạc Tử Mộc.”
Seven Days từng có một câu danh ngôn: Nếu ta và ngươi cùng đồng thời online, sẽ không có bí mật nào ngươi có thể che giấu khỏi ta.
Hòn đảo con thuộc Saint Croix này nằm rất gần đảo chủ, dù trên bản đồ hoàn toàn không đánh dấu hòn đảo đơn độc này, nhưng quả thực nó lại gần lắm, gần đến mức người ta có thể bơi qua bơi lại từ hòn đảo này sang những đảo khác.
Đảo con dưới thời kỳ chịu ách thống trị của Đan Mạch(10) cũng từng dùng để giam giữ một ít hải tặc và tội phạm trộm cắp, dân bản xứ gọi đảo này là đảo Mammon.
Đảo mắt khắp cả đảo Mammon, địa hình của nó đa số cũng là đồi núi như đảo chủ Saint Croix.
Nhà giam Mammon được xây cạnh bờ biển, diện tích ước chừng hơn 10 000m². Nó giống một tòa thành hình chữ nhật, khu nhà chính có các gờ mái phẳng, cao chót vót, đỉnh tháp hình tròn, mang đậm phong cách kiến trúc Baroque(11).
Đảo Mammon cũng giống như bao đảo nhỏ khác rải rác khắp vùng biển Caribbean này, phong cảnh hấp dẫn, cây cối xanh tươi.
Mạc Tử Mộc từ xe chở tù đến trên đảo, rồi cùng một đoàn tù nhân leo núi ước chừng một tiếng mới vào tới nhà giam tư nhân cao cấp trông rất bóng bẩy này. Cậu cùng những phạm nhân khác bị cảnh ngục xua đến nơi báo danh.
“Từ từ đã! Seven!” Phía sau có người gọi.
Mạc Tử Mộc ngoái đầu, bắt gặp một cảnh ngục đang gọi cậu.
“Có người muốn gặp mày, đi theo tao!” Cảnh ngục đưa tay đẩy cậu.
Hơi đẩy gọng kính, Mạc Tử Mộc ngoan ngoãn theo sát tên cảnh ngục béo kia đi đến phòng tiếp khách.
Dung Thanh đang ngồi nơi đó chờ cậu, Mạc Tử Mộc không có đường để cự tuyệt, cảnh ngục béo ị từ sau lưng thô bạo đẩy cậu vào. Dung Thanh cũng không ngồi cách qua lớp lưới thép nào mà là ngồi ngay trong phòng giam.
“Seven!” Dung Thanh vẫn mang bộ dạng như thế, vẫn hệt như trong quá khứ, săn sóc dịu dàng, “Ngồi xuống đi.”
Mạc Tử Mộc kéo một cái ghế ra rồi ngồi xuống, giữ một khoảng cách nhất định với hắn.
“Seven, đói bụng không?” Dung Thanh hỏi.
Lúc này Mạc Tử Mộc mới chú ý trong tay Dung Thanh ấy thế mà lại đang cầm một hộp thức ăn, nóng hôi hổi, khói bốc nghi ngút.
Hắn mở hộp thức ăn ra, bên trong không ngờ còn lấy ra một cái chụp tiểu bánh bao(13). Hắn nói, “Tôi đặc biệt mời đầu bếp chuyên làm bánh bao từ đại lục(14)đến, ở tận trấn Nam Tường(15) quê nhà mẹ cậu đó, xem xem có khác gì với trong ký ức của cậu không.”
Dung Thanh chính là như vậy, lúc tốt đẹp thì cứ như nâng niu cậu trong lòng bàn tay, khiến cậu quên đi bản thân là ai, có mấy cân mấy lạng, buồn rằng, chuyện gì cũng tồn tại chữ ‘nhưng’. Nhưng mà sau đó thì sao… Có rất nhiều chuyện, Mạc Tử Mộc không muốn nhớ lại nữa.
Thế nên món ăn trước mắt này, Mạc Tử Mộc không dám đụng vào, cũng không muốn đụng vào, cậu chỉ khe khẽ chau lại hai hàng lông mày, hỏi thẳng, “Tôi còn nợ nần gì anh chăng?”
Đôi mắt Dung Thanh hơi rũ xuống, hắn dọn đũa ra, điềm nhiên nói, “Seven, chẳng lẽ cậu không hận tôi sao? Cậu không muốn báo thù ư? Biết đâu cậu không phải là không có cơ hội nào!”
Mạc Tử Mộc chỉ thở dài một hơi, đáp, “Không, Dung Thanh, trò chơi này anh thắng, thắng triệt để. Tôi hoàn toàn chịu thua, kể từ nay trở đi sẽ rời khỏi trò chơi này. Tôi chỉ hy vọng… Cả hai chúng ta sẽ không còn xuất hiện trong cuộc đời nhau thêm nữa.”
1. DES (viết tắt của Data Encryption Standard, hay Tiêu chuẩn mã hóa dữ liệu) là một phương pháp mật mã hóa được FIPS (Tiêu chuẩn Xử lý Thông tin Liên bang Hoa Kỳ) chọn làm chuẩn chính thức vào năm 1976.
DES là phương pháp mật mã dữ liệu tiêu chuẩn cho một số phát triển VPN. DES áp dụng một khóa 56 bit cho 64 bit dữ liệu. DES có thể cung cấp tới 72*105 khóa đóng gói dữ liệu. DES được IBM phát triển và được xem như một cải biên cuả hệ mật LUCIPHER. Lần đầu tiên DES được công bố trong Hồ sơ Liên bang vào ngày 17/03/1975. Sau nhiều cuộc tranh luận công khai, DES đã được chấp nhận chọn làm chuẩn cho các ứng dụng không được coi là mật vào 05/01/1977 và được U.S Department of Defense (Cục phòng thủ Mỹ) chọn, khi đó DES là một trong những kỹ thuật mật mã mạnh, nó được xem như là không thể bẻ gãy tại thời điểm đó. Nhưng khi máy tính tốc độ cao hơn đã bẻ gãy DES trong khoảng thời gian ngắn (ít hơn một ngày) thì DES không còn được sử dụng lâu dài cho những ứng dụng bảo mật cao.
2. Máy tính laptop Tulip E-Go với logo hình Tulip của hãng Ego Lifestyle, Hà Lan là loại máy tính đắt nhất thế giới.
Hình dáng nhỏ gọn như một chiếc túi xách thời trang, tiện lợi cho việc di chuyển với những người thường xuyên bận rộn. Đây là sản phẩm tiêu biểu cho sự kết hợp giữa thời trang và công nghệ, sử dụng công nghệ hệ thống EXO của công ty Inclosia, kết dính những lớp sợi, da và các chất liệu khác trong các thiết bị điện tử, nhằm giúp người dùng có thể tùy biến lớp “áo khoác” ngoài của laptop. Người mua có thể yêu cầu in chữ ký, ảnh, logo của riêng mình lên bàn phím. Chất liệu lớp vỏ ngoài của Tulip Ego khá đa dạng: da, gỗ, đá quý… và có thể thay đổi vỏ bọc cho laptop. Đặc biệt quai xách của Ego được mạ crom rất bền.
Và về mặt công nghệ thì không cần phải bàn, Tulip Ego được ứng dụng những công nghệ tiên tiến nhất.
3. Hệ điều hành UNIX là một hệ điều hành máy tính viết vào những năm 1960 và 1970 do một số nhân viên của công ty AT&T Bell Labs bao gồm Ken Thompson, Dennis Ritchie và Douglas McIlroy. Ngày nay hệ điều hành Unix được phân ra thành nhiều nhánh khác nhau, nhánh của AT&T, nhánh của một số nhà phân phối thương mại và nhánh của những tổ chức phi lợi nhuận.
Unix có thể chạy trên nhiều loại máy tính khác nhau, từ những máy tính cá nhân cho đến các máy chủ dịch vụ. Nó là một hệ điều hành đa nhiệm (có thể cùng lúc thực hiện nhiều nhiệm vụ) hỗ trợ một cách lý tưởng đối với các ứng dụng nhiều người dùng. Unix được viết bằng ngôn ngữ lập trình C, một ngôn ngữ rất mạnh và mềm dẻo. Unix hỗ trợ các ứng dụng mạng và hỗ trợ nhiều môi trường lập trình khác nhau. Với hàng trăm lệnh và một số lượng rất lớn các tùy chọn, Unix thực sự là một khó khăn đối với người mới bắt đầu. Với sự phát triển của các shell Unix hệ điều hành này đã trở nên phổ dụng hơn trong lĩnh vực điện toán.
Vì Bell Laboratories bị cấm không cho phép tiếp thị Unix vì lệnh chống độc quyền đối với AT & T nên Unix đã được cung cấp miễn phí cho các trường đại học trên toàn Bắc Mỹ từ năm 1976. Năm 1979 Đại học California tại Berkeley đã xây dựng một phiên bản của Unix dùng cho các máy tính VAX. Sau khi đã được ưa thích trong các lĩnh vực công nghệ, AT & T đã giành được quyền tiếp thị đối với Unix và đã cho ra đời System V vào năm 1983. Cho đên nay Unix vẫn được sử dụng rất rộng rãi trong thị trường dành cho máy chủ. Đã có nhiều phiên bản phát triển khác nhau, trong đó có Linux.
Unix là một trong những hệ điều hành 64 bit đầu tiên. Hiện nay Unix được sử dụng bởi nhiều công ty tập đoàn lớn trên thế giới vì mức độ bảo mật của nó tương đối cao.
4. Bảy ngày tạo thế của Thiên Chúa:
Sáng Thế Ký 1:1-27 ghi chép:
Lúc ban đầu, khi Thiên Chúa tạo dựng trời đất. Đất còn trống rỗng, chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm, và Thần khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước. Thiên Chúa phán: “Phải có ánh sáng.” Liền có ánh sáng.Thiên Chúa thấy ánh sáng tốt đẹp. Thiên Chúa tách ánh sáng ra khỏi bóng tối. Thiên Chúa gọi ánh sáng là “ngày”, còn bóng tối là “đêm”. Qua một buổi chiều và một buổi mai: đó là ngày thứ nhất.
Thiên Chúa phán: “Phải có một cái vòm trời ở giữa khối nước, để phân rẽ nước với nước.” Thiên Chúa làm ra cái vòm đó và phân rẽ nước phía dưới vòm với nước phía trên. Liền có như vậy. Thiên Chúa gọi vòm đó là”trời”. Qua một buổi chiều và một buổi mai: đó là ngày thứ hai. Thiên Chúa phán: “Nước phía dưới trời phải tụ lại một nơi, để chỗ cạn lộ ra.” Liền có như vậy. Thiên Chúa gọi chỗ cạn là “đất”, khối nước tụ lại là “biển”. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp.
Thiên Chúa phán: “Đất phải sinh cây cối xanh tươi, cỏ mang hạt giống, và cây trên mặt đất có trái, ra trái tuỳ theo loại, trong có hạt giống.” Liền có như vậy. Đất trổ sinh cây cối, cỏ mang hạt giống tuỳ theo loại, và cây ra trái, trong trái có hạt giống tuỳ theo loại. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp. Qua một buổi chiều và một buổi mai: đó là ngày thứ ba.
Thiên Chúa phán: “Phải có những vầng sáng trên vòm trời, để phân chia ngày với đêm, để làm dấu chỉ xác định các đại lễ, ngày và năm. Đó sẽ là những vầng sáng trên vòm trời để chiếu soi mặt đất.” Liền có như vậy. Thiên Chúa làm ra hai vầng sáng lớn: vầng sáng lớn hơn để điều khiển ngày, vầng sáng nhỏ hơn để điều khiển đêm; Chúa cũng làm ra các ngôi sao. Thiên Chúa đặt các vầng sáng trên vòm trời để chiếu soi mặt đất, để điều khiển ngày và đêm, và để phân chia ánh sáng với bóng tối. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp. Qua một buổi chiều và một buổi mai: đó là ngày thứ tư.
Thiên Chúa phán: “Nước phải sinh ra đầy rẫy những sinh vật lúc nhúc, và loài chim phải bay lượn trên mặt đất, dưới vòm trời.” Thiên Chúa sáng tạo các thủy quái khổng lồ, cùng mọi sinh vật vẫy vùng lúc nhúc dưới nước tuỳ theo loại, và mọi giống chim bay tuỳ theo loại. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp. Thiên Chúa chúc phúc cho chúng rằng: “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy biển; và chim phải sinh sản cho nhiều trên mặt đất.” Qua một buổi chiều và một buổi mai: đó là ngày thứ năm.
Thiên Chúa phán: “Đất phải sinh ra các sinh vật tuỳ theo loại: gia súc, loài bò sát và dã thú tuỳ theo loại.” Liền có như vậy. Thiên Chúa làm ra loài thú tuỳ theo loại, gia súc tuỳ theo loại và loài bò sát dưới đất tuỳ theo loại. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp. Thiên Chúa phán: “Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất.” Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ.
Tóm lại:
Ngày thứ nhất: Ánh sáng và bóng tối
Ngày thứ hai: Bầu Trời và biển cả
Ngày thứ ba: Tách biển và Đất liền – Cây cỏ mọc trên đất, tuỳ theo loại sinh trưởng và tái sinh theo từng giống hoa – quả – hạt
Ngày thứ tư: Tạo dựng Mặt Trời, Mặt Trăng cùng các vì tinh tú, phân định ngày với đêm, thời tiết trên các vùng Trái Đất.
Ngày thứ năm:Tạo dựng các sinh vật sống và sinh sôi dưới nước, trên không các loại thủy sản, các loại cầm.
Ngày thứ sáu: Tạo dựng muôn thú trên mặt đất và cuối cùng dựng lên loài người: cai quản thế giới trần gian.
Ngày thứ bảy: Thiên Chúa nghỉ ngơi.
Và ngày thứ bảy là ngày các tín đồ của Chúa thờ phụng Chúa, được gọi là ngày Sabbath (Ngày Thánh, thứ bảy theo đạo Do Thái và chủ nhật theo đạo Cơ Đốc)
5. Bàn trà thấp chân
là ví dụ kiểu này này =_=
thực ra search toàn ra bàn thấp chân kiểu Nhật thôi =_= cái này hổng phải bàn thời Minh đâu nhá =_=
6. Thời nhà Minh (Minh triều) là triều đình cai trị Trung Quốc từ 1368 đến 1644. Đây là triều đại độc lập cuối cùng ở Trung Quốc do tộc Hán lãnh đạo, sau khi giành lại nước từ nhà Nguyên của người Mông Cổ và trước khi bị thôn tính vào tay nhà Thanh của người Mãn Châu. Dưới thời nhà Minh, Trung Hoa có quốc hiệu là Đại Minh Quốc. Dù kinh đô của triều Minh là Bắc Kinh đã thất thủ năm 1644 vào tay người Mãn Châu, con cháu họ vẫn giữ được ngôi báu và quyền lực (hiện thường được gọi chung là Nam Minh) cho tới tận năm 1662.
Dưới triều Minh, Trung Quốc có 18 tỉnh và chỉ bao gồm phạm vi vùng Đông Nam của Trung Hoa đại lục ngày nay, và một vài nơi khác.Nhà Minh thường được xem là đỉnh cao của nền văn minh Trung Hoa, và cũng là lúc mầm mống của chủ nghĩa tư bản xuất hiện.
7. Cờ cầu vồng đôi khi được coi là “Cờ tự do” đã được nổi danh như là một ký hiệu tự hào của cộng đồng LGBT (bao gồm đồng tính nữ Les, đồng tính nam Gay, lưỡng tính Bi và hoán tính Trans).
Cờ cầu vồng ra đời năm 1978 qua sự sáng tạo của hoạ sĩ Gilbert Baker. Những gam màu khác nhau tượng trưng cho sự đa dạng của cộng đồng thể hiện niềm hy vọng cũng như sự khát khao bình đẳng của cộng đồng LGBT trên toàn thế giới.
Lá cờ nguyên thuỷ ban đầu có 8 màu. Năm 1978 -1979, lá cờ rút xuống còn 7 mầu, tương ứng với 7 sắc cầu vồng. Từ năm 1979 đến nay, lá cờ chỉ còn 6 mầu cơ bản (bỏ màu hồng và màu ngọc lam) để tính thẩm mỹ của nó cao hơn. Cờ cầu vồng tung bay hiên ngang trong các cuộc diễu hành GAY Pride, và là niềm tự hào của toàn thể cộng đồng LGBT trên toàn thế giới
– Màu đỏ: tượng trưng cho dũng khí.
– Màu cam: tượng trưng cho khả năng và nhận thức.
– Màu vàng: tượng trưng cho sự thách thức.
– Màu lục (xanh lá cây): tượng trưng cho sự khích lệ và phấn đấu.
– Màu xanh dương: tượng trưng cho hy vọng, sự chia sẻ, giúp đỡ, đấu tranh.
– Màu tím: tượng trưng cho sự thống nhất, hòa hợp, đoàn kết.
Do đó, quán bar cầu vồng trong truyện là đang nói đến quán bar Gay.
8. Các quyền Miranda (Miranda Rights) tức Quyền miễn khai và Quyền có luật sư biện hộ dành cho nghi phạm. Thông thường, nếu các quyền này không được tôn trọng thì các bản án sẽ bị huỷ bỏ vì không có giá trị.
Ở Hoa Kỳ, lời cảnh báo Miranda (Miranda warning) là một lời cảnh báo được cảnh sát thông báo cho nghi phạm hình sự ngay lúc bị bắt giữ, hay khi đang ở tình trạng giam giữ, trước khi nghi phạm hình sự bị thẩm vấn hoặc lấy cung liên quan đến sự phạm tội, hay trong một tình trạng quyền tự do đi lại của nghi phạm bị cản trở dù người đó không bi bắt giữ.
You have the right to remain silent. If you give up that right, any thing you say may be used against you in a court of law. You have the right to be represented by an attorney. If you cannot afford an attorney, one will be appointed to represent you, free of charge, by the court.
Tạm dịch:
Anh có quyền giữ im lặng. Nếu anh từ bỏ quyền đó, những gì anh nói có thể được dùng làm bằng chứng chống lại anh tại tòa án. Anh có quyền có luật sư đại diện. Nếu anh không có tiền thuê luật sư, tòa án sẽ bổ nhiệm một luật sư để đại diện cho anh miễn phí.
Một bản buộc tội bởi một nghi phạm sẽ không tạo thành một chứng cứ có thể thừa nhận trừ phi nghi phạm đó đã được thông báo cho biết “các quyền Miranda” của mình và đã được người ta làm cho hiểu, nắm rõ và tự nguyện từ bỏ các quyền này. Tuy nhiên, cảnh sát có thể yêu cầu cung cấp các thông tin về thân thế như: tên gọi, ngày sinh và địa chỉ và không cần đọc các cảnh báo Miranda này cho nghi phạm.
9 + 10. Đảo Saint Croix, một trong bốn hòn đảo chính của quần đảo Virgin.
ở dưới cùng kìa:”D
Hãy cứ nôm na coi như đây là bối cảnh chạy loăng quăng mấy chap sau này của em Bảy, rừng, bờ biển, đồi núi và những khoảnh đất hoang vu:))
Khi Christopher Columbus đến đảo này vào thế kỷ 15, ông đã đặt tên cho nó là Santa Crux.
Hòn đảo này được Hiệp sĩ De Poincy mua vào năm 1660. Đến năm 1665, Saint Croix được công ty Đông Ấn ở Pháp mua lại, chấm dứt sự hiện diện của các Hiệp sĩ ở vùng Caribbean.
Rồi sau đó, năm 1733, Công ty West India Đan Mạch đã mua Saint Croix từ Pháp >> thời kỳ chịu ách thống trị của Đan Mạch theo chap này.
Và đến Thế chiến I thì Mỹ đã mua cả Quần đảo Virgin từ tay Đan Mạch.
11. Kiến trúc Baroque là một thuật ngữ dùng để mô tả phong cách xây dựng của thời kỳ Baroque, Ý bắt đầu vào cuối thế kỷ 17, tận dụng những ngôn ngữ của kiến trúc Phục hưng theo một cách thức mới mang tính chất hùng biện và phong cách sân khấu; thường dùng để phô trương sức mạnh của Nhà Thờ và chính quyền chuyên chế. Nó tạo dựng nên một khám phá mới về hình dáng, ánh sáng và bóng với cường độ mạnh. Trong kỷ nguyên Baroque, kiến trúc trở nên phức tạp và cầu kỳ hơn.
Nghệ thuật kiến trúc Baroque đi ngược lại với lối nghệ thuật kiến trúc thời Phục Hưng cứng nhắc vốn thừa hưởng từ Hy Lạp cổ đại và La Mã cổ đại.
Trong khi thời Phục hưng đã thu hút của cải và quyền lực của các triều đình Ý và là một sự pha trộn của các thế lực thế tục và tôn giáo, thì ít nhất ban đầu, Baroque lại trực tiếp liên quan đến Kháng-Cải cách, một phong trào trong Giáo Hội Công Giáo cải cách chính nó để đáp trả Cải cách Tin lành. Kiến trúc Baroque là sự vận động liên tục của những bức tường uốn lượn đầy ấn tượng. Lối kiến trúc này thường được thấy trong nhà hát, nhà thờ bằng những không gian kịch tính vốn là kết quả của sự kết hợp chặt chẽ giữa các kiến trúc sư, các nhà điêu khắc, các nhà hội họa cùng tạo ra một kết quả thống nhất và nhấn mạnh hiệu quả ảo ảnh với mục đích làm cho chiều sâu sâu hơn, chiều dài dài hơn, những luồng ánh sáng chuyển động và sự âm vang của âm thanh khi được phát ra dù chỉ là một tiếng động rất nhỏ. Hình oval là hình chủ đạo của lối kiến trúc đòi hỏi sự tỉ mỉ, chi tiết và cầu kỳ này, nó xuất hiện hầu như ở tất cả mọi nơi, từ nét uốn lượn của những dãy tường dài đến cái góc nhỏ khuất cao trên trần.
Kiến trúc Baroque tạo ra những không gian phức tạp và những luồng ánh sáng kỳ bí được chiếu khắp nơi mà người ta không thể nào tìm ra được điểm xuất phát của ánh sáng đó. Ngoài ra, người ta còn nhận biết được kiểu kiến trúc này thông qua các thức cột có kích thước lớn và thường chồng cao hai tầng, cửa sổ lớn hình chữ nhật, một cửa bé hơn hình tròn, nửa tròn hay hình oval.
12. Đại lục Trung Quốc
Khu vực tô đậm thường được xem là đại lục Trung Quốc:
Trung Quốc đại lục, còn gọi là Hoa Lục, là một tên gọi thường đồng nghĩa với khu vực hiện đang dưới sự quản lý của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa; tuy nhiên, nó thường không tính hai đặc khu hành chính Hồng Kông và Ma Cao, đang được quản lý dưới chính sách “một nước hai chế độ”. Cụm từ này thường được dùng để phân biệt Trung Hoa lục địa với Đài Loan và một số đảo khác đang nằm dưới sự quản lý của Trung Hoa Dân quốc (Bành Hồ, Kim Môn, và Mã Tổ), cũng như hai đặc khu hành chính Hồng Kông và Ma Cao.
“Trung Quốc đại lục” hay “đại lục” thường được người Trung Quốc của cả hai phía của eo biển Đài Loan cũng như trong các cộng đồng Hoa kiều sử dụng. Cụm từ này trung lập trong vị thế chính trị của Đài Loan. Nó ngụ ý rằng có một quốc gia lớn hơn bao gồm cả lục địa và Đài Loan, nhưng không nói rõ do ai quản lý, và cho phép người Trung Quốc chỉ đến địa lục Trung Hoa mà không cần phải tranh cãi về chính trị. Tuy nhiên, “Trung Hoa địa lục” gần như không bao giờ được sử dụng bởi những người ủng hộ độc lập cho Đài Loan. Những người này gọi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là “Trung Quốc” và Trung Hoa Dân quốc là “Đài Loan”.
Tại đại lục, cụm từ “Trung Quốc nội địa” cũng được sử dụng cho khu vực này để phân biệt với Đài Loan, Hồng Kông, và Ma Cao.
13 + 15. Trấn Nam Tường nằm ở phía tây bắc Thượng Hải, thuộc huyện Gia Định.
Tiểu ánh bao là sản phẩm nổi tiếng của thị trấn này. Tiểu bánh bao Nam Tường:
Tiểu bánh bao (hay Xiao Long Bao, hay Soup Dumpling cũng là ẻm) là một loại bánh bao nhỏ nhân thịt từ Thượng Hải chứa có nước thịt ngọt bên trong, vỏ bánh khá mỏng, giống kiểu vỏ há cảo, bên trong thường có chút nước giống nước dùng, vì thế khi ăn sẽ phải để vào 1 chiếc bát con, cắn 1 miếng nhỏ để nước chảy ra rồi mới ăn tiếp, nếu không sẽ bị bỏng hoặc nước tung toé khắp nơi. Nước trong bánh chảy ra bát rồi thêm chút giấm đen rồi ăn từ từ nốt phần còn lại, không còn gì tuyệt vời hơn.
Đúng thế, dù y thừa nhận bản thân rất có thiện cảm với Seven, nhưng thế thì sao nào? Trong trường hợp ngồi rục tù suốt mười năm thì hiển nhiên đến bang Florida sẽ tốt hơn nhiều lắm so với ở lại quần đảo Virgin.
Con người luôn phải đối mặt với sự thật.
Y công nhận hôm nay Seven nhìn rất giống người bị hại, áo trắng tinh khôi và quần đen sạch sẽ, cổ áo được ủi thẳng góp phần tôn lên cần cổ thon dài, bên dưới cổ áo rộng là hõm cổ rất sâu, mơ hồ có thể thấy được cả xương quai xanh tinh xảo.
Seven tỉ mỉ cài gọn cúc ở cổ tay áo, cổ tay áo bao lấy xương cổ tay mảnh mai của cậu, chỉ để lộ đôi bàn tay xinh đẹp kia.
Sau khi chuẩn bị xong xuôi hết thảy, Seven lên tiếng, “Có thể đưa đơn xin nơi bỏ tù hôm qua cho tôi không?”
Andy nhìn thoáng qua cậu, cái miệng của y nhênh nhếch lên, rồi thở một hơi thật dài, “Không được, xin lỗi cậu.”
Seven bèn gật đầu, “Nếu vậy… Tôi thật tiếc là ba ngày sau, sẽ có rất nhiều tòa soạn nhận được thư tố giác anh đấy. Những chứng cứ được giấu kín có liên quan đến hãng luật David, về bao che tội phạm, giả mạo chứng minh thư, thay chính khách đả kích đối thủ, hãm hại người vô tội, ví dụ như vụ gián điệp của Mr. Li, vụ thuốc lá của công ty Morris, thêm cả vụ scandal bê bối của Thống đốc nữa… Tôi đoán chừng sẽ có nhiều người hứng thú lắm đây, anh đã dùng cách nào để vị chính khách ấy mù mờ hết cả lý trí để rồi trèo lên giường của một ả gái *** vào chính tiệc mừng công trạng của ông ta —— xét theo tình huống người ta không biết, các người đã giả tạo thân phận của ả gái *** đó.”
Trong một khoảng thời gian ngắn ngủi, Andy khiếp sợ đến gần như không thở nổi, trong khi Seven vẫn đang thủng thẳng giải trình tiếp, “Mật mã của anh đều là dùng DES(1) để thiết lập, quả thật rất cao siêu, mà máy của anh cũng xịn lắm, Tulip E-Go(2) mà, máy tính xách tay đắt tiền nhất thế giới, không hổ danh bất hư truyền, tôi phải mất cả tối dùng mọi thủ pháp mới có thể mở được mật mã của anh. Sau đó, tôi đăng nhập vào hộp mail anh chuyên dùng, tôi phỏng đoán máy tính có nhiều tài liệu bên trong như thế nhất định là tách riêng một mình, hên thay, tôi đã đoán đúng. Vậy nên tôi liền gửi thư đề nghị quản trị mạng chỗ bọn anh cho phép tôi kết nối. Và tôi lại gặp may bận nữa, anh ta đồng ý. Lần này thì là hệ điều hành UNIX(3), so với đặt mật mã bằng DES của anh, phá hệ điều hành này vốn không cần thời gian, chỉ cần kỹ xảo…” Cuối cùng, cậu chốt lại bằng một câu khen ngợi, “Xem ra, ở David anh là một người rất có địa vị.” Xong lại thản nhiên bổ sung thêm một câu nữa, “Tôi có một nickname trên mạng, là Seven Days, không phải vì Chúa sáng tạo ra thế giới chỉ mất bảy ngày(4), mà là có rất ít hệ thống nào trong vòng bảy ngày tôi không phá được.”
Trong một khắc, Andy thật chẳng biết nên khóc hay nên cười, ai mà ngờ được y thế mà lại đưa máy tính cho một hacker tiếng tăm lừng lẫy mượn chứ. Đầu óc y quay mòng mòng loạn cả lên. Y đã suy tính đường đi nước bước bao nhiêu là nhiều, nhưng vẻn vẹn một câu của Seven đã đập vỡ tất cả ý đồ của y mất tiêu.
“Bức mail của tôi đã được đặt ở chế độ tự động gửi, chỉ cần tôi không hủy bỏ, nó sẽ gửi đi hàng loạt. Dung Thanh liệu có đáng giá để anh đánh đổi cả David không?”
Khuôn mặt gầy guộc của Andy hiện chút cười khổ, y than thở, “Nhưng Seven à, nhà tù của quần đảo Virgin, nó là địa ngục.”
Seven chỉ hỏi, “Người kiểu Dung Thanh có phải tựa như kẻ sống trên thiên đường hay không?”
Andy hơi trợn mi, đáp trả, “Nếu là về khía cạnh thích gì được nấy, thì thế cũng coi là đúng được!”
Seven lơ đãng nhướn mày, đơn giản nói, “Nếu vậy, tôi tuyệt đối sẽ không ở cùng một nơi với anh ta đâu. Anh ta ở thiên đường thì tôi thà xuống địa ngục.”
“Cậu hận cậu ta?”
Seven lắc đầu, cậu khép mắt một chút, nói, “Chỉ là không còn yêu anh ta nữa, nên chẳng mong còn vướng víu bất cứ khúc mắc gì với anh ta hết.”
Andy bắt đầu dần dà hiểu Seven hơn. Cậu là tuýp người, lúc yêu thì sẽ toàn tâm toàn ý, lúc không yêu nữa ước chừng cũng chẳng muốn dằng dai lằng nhằng.
Vậy Dung Thanh có hiểu điểm này không đây? Andy mông lung ngẫm thử, chắc chắn Dung Thanh cũng thừa hiểu rất rõ.
“Tôi chỉ cần đơn xin bỏ tù trong tay anh, những việc khác anh cứ làm theo ý của Dung Thanh, tùy.” Seven lại đơm thêm một câu.
Có biết không đấy hử, cậu phải chịu án mười năm lận đấy chứ không đùa đâu Mấy lời này rốt cuộc Andy không thể thốt ra.
Y bỗng nhiên cảm thấy Seven là một người có thể khiến kẻ khác tự lật đổ chính mình, khi bạn đối mặt cậu ấy, có đôi khi sẽ trở nên không còn giống chính mình nữa.
Seven nhìn kỹ đơn xin bỏ tù kia một lần, đoạn dùng đôi tay xinh đẹp kỹ lưỡng xé vụn tờ đơn kia, vụn nát đến độ này, Andy cảm thấy không khác với dùng máy nghiền giấy là bao.
Andy ngồi ở vị trí luật sư bào chữa, lưng sờ sờ cảm nhận được Dung Thanh an vị ngay phía sau. Y nhấp nhổm không yên, nghĩ đến đơn xin kia đã bị xé vụn, thế là mồ hôi lạnh túa đầm túa đìa ướt rượt cả trán.
Vì Andy không mấy đả động, thành thử cả case thẩm tra xử lý gần như nghiêng về một phía. Kiefer đến tham dự với cái mặt xám ngoét, căm phẫn và gọn lỏn lên án bị cáo, Âu phục xa xỉ vận trên người rồi thì động tác tay, cái nào cái nấy đều đổ dồn miêu tả rằng, đây là một vị quý tộc bất hạnh xui xẻo bị ngã vào bùn lầy nhơ nhớp.
Thái độ của người Mỹ đối với người Anh hệt như một lão già đối mặt với bộ phận sinh dục của lão, cáu tiết nó thôi rồi can tội không đáp ứng được như lão mong muốn nhưng lại vẫn phải che đậy nó nhằm bảo vệ danh dự. Nhất lại còn là quý tộc truyền thống như Sutherland, hầu hết dân Mỹ thà tin rằng cậu trai da vàng Hoa Kiều này cố ý gây thương tích, chứ chả nguyện đi tin vị quý tộc truyền thống nhất của quê hương lại bỉ ổi cưỡng hiếp một đứa vị thành niên dị tộc.
Doney – đại diện bên nguyên – là một gã đàn ông trung niên điển hình của nước Mỹ, tóc màu nâu, hình thể bự chảng. Gã đánh giá Seven từ đầu xuống chân, đoạn buông lời châm chọc, “Sự thật sờ sờ là, cậu dụ dỗ đương sự của tôi, cậu lấp liếm tuổi thật của mình, cậu lợi dụng vẻ ngoài vô tội, thanh thuần… Hờ…” Như thể đang kể một chuyện buồn cười lắm, gã cứ thế liên mồm tuôn, “Đương sự của tôi chưa lõi đời nên bị cậu mê hoặc, rồi hai người đến biệt thự, quan hệ… Thưa các vị, nếu các vị từng đến biệt thự của đương sự tôi, các vị sẽ phát hiện nơi đó là cả một biển nghệ thuật, dĩ nhiên nếu để cho một kẻ tâm tư bất chính ghé thăm thì nó khác nào là một cung điện dát vàng chứ. Trong phòng ngủ nơi xảy ra vụ án, chúng ta có thể thấy chiếc bàn trà thấp chân(5) cổ thời nhà Minh(6) Trung Quốc, đẹp đẽ và giá trị vô ngần, và chính nó đã trở thành căn nguyên dẫn đến tai họa cho đương sự của tôi. Ngay lúc cậu đây trộm bàn trà tính chuồn đi thì đương sự của tôi cản cậu ta lại, kết quả bị đả thương, chân tướng của toàn bộ sự việc là như thế!”
Andy giơ tay, bác bỏ, “Phản đối, bên nguyên lập luận thiếu căn cứ!”
Quan tòa phán, “Phản đối có hiệu lực. Bên nguyên tiếp tục đưa ra câu hỏi.”
Doney dường như làm ra một động tác cảm thán dư thừa, hai tay chống lên ghế của bị cáo, ngữ khí ác độc, “Đêm đó không phải hai cậu đã quan hệ sao, cậu không hề chống cự gì à?”
Seven ngẩng đầu lên, bình thản bảo, “Chúng tôi không có quan hệ, ngài Kiefer cởi hết quần áo chỉ vì muốn nói chuyện phiếm với tôi.”
Khán phòng ồ lên một chặp cười. Andy không khỏi sửng sốt, ngay cả đại diện bên nguyên cũng thộn hết cả ra, chỉ nghe Seven không nhanh không chậm tiếp tục, “Nếu một người đàn ông ba mươi bảy tuổi, từng có ba biên bản bạo ngược *** lại còn chưa lõi sự đời, hắn vì sao sẽ không cởi sạch bách quần áo chỉ nhằm mục đích nói chuyện phiếm nhỉ?”
Khán phòng lại rung cười ồn ã. Quan tòa gõ búa, nhắc to, “Đề nghị bị cáo chú ý cách thức trả lời của mình.”
Doney hít sâu một hơi, lại hỏi, “Cậu Seven, nghe nói cậu là trẻ mồ côi, xin hỏi theo học tại Học viện âm nhạc ở Áo, cậu kiếm sống bằng cách nào?”
“Rất nhiều.”
Doney thắng lợi mà cười ngất, “Không dám nói đúng không? Vậy để tôi nói cho các quý ông quý bà của ban hội thẩm nghe, cậu Seven là dựa vào tiền tiếp chuyện ở quán bar cầu vồng(7) mà sống. Tiếp chuyện… Từ ngữ cũng giàu ý nghĩa thật, tán gẫu với khách, giải tỏa buồn khổ cho Gay, nghe chừng cao thượng chẳng thua gì bác sĩ tâm lý, nhưng mà thực tế thì sao nào? Rõ ràng cũng chỉ là một đại từ trai bao.”
Khán phòng rộn rạo ầm ầm. Andy đang khẽ thở dài thì Seven bất chợt nói, “Xin hỏi ông Doney, ông vừa mới ly hôn, đúng không?”
Khuôn mặt béo phì của Doney tức thì đông cứng, lại nghe Seven giải thích hết chi là trôi chảy, “Tay trái của ông có một vết hằn, ông rất hay sờ lên nó, hiển nhiên không có thói quen thiếu một thứ trên đó. Mỗi lần đụng đến nó, trông ông hằm hè kinh khủng, ông đổ hết thất bại của hôn nhân quy kết cho quần đảo Virgin quá mức cám dỗ chứ không phải do ông đã động tay động chân thô bạo quá đáng với phụ nữ!” Cậu nói tới đây, nữ trợ lý của Doney nhịn không được ngẩng đầu liếc mắt nhìn Doney một cái.
Lúc này Doney hoàn toàn đờ đẫn, Seven vẫn tiếp tục tường giải rất nhanh, “Ông đeo một chiếc đồng hồ bằng vàng giả, song song đó lại phải gồng mình bày vẻ vênh váo hành hiệu đính đầy người, ấy là vì ông không muốn người khác biết ông đang gặp trục trặc về vấn đề tài chính. Rõ là vì ông mụ mê cờ bạc, đêm ngày quyến luyến ở sòng bạc, ngủ không đủ, sinh ra gắt gỏng, tính tình cáu kỉnh. Chưa hết, rất dễ nhận thấy được ông còn cá cược đua ngựa, vì hôm nay là thứ ba, cứ cách mười lăm phút, ông lại kiểm tra tin nhắn di động gửi đến một lần, mỗi lần xem xong cảm xúc đều lên xuống khó kiềm chế. Hiện tại là mười một giờ đúng, trường đua ngựa sắp báo tin con ngựa dẫn đầu, liệu ông có thể nói cho mọi người biết là con nào không ta?”
Cả hội trường thinh lặng, chỉ có tiếng di động Doney réo lên báo hiệu mười một giờ đúng.
Andy vỗ trán, thấp giọng cảm thán, “Giỏi quá, giỏi quá đi, Seven.”
Tầm nghỉ trưa, tìm được Dung Thanh rồi, y mới nhả giận, “Daniel, thả cậu ấy tự do đi!”
Dung Thanh ngước đầu, hơi nhíu mày, hỏi lại, “Cậu đang nói gì đấy?”
“Daniel, cậu không còn cơ hội đâu. Nếu cứ khăng khăng theo kế hoạch của mình, cậu sẽ mất đi cậu ấy. Bất luận cậu ấy ở đâu, dù là ở trong nhà giam cậu có thể khống chế, cậu cũng không thể thay đổi được kết quả này.”
Dung Thanh nở nụ cười, con ngươi của hắn co rút lại một chút, đồng tử sâu và đen kia như thể đang trào phúng. Hắn từ tốn đáp, “Andy ạ, nếu chúng ta không phải là bạn chí cốt mười năm, tôi thật sự nghi ngờ cậu rốt cuộc có phải là Andy Wachowski hay không đấy. Kế hoạch của tôi là muốn cậu ta thụ án ở Florida mười năm, điều này tôi hy vọng cậu hiểu rõ, tôi không có ý sửa đổi gì cả.”
Hắn nói xong liền đứng dậy rời khỏi phòng nghỉ khách VIP, Andy khổ não nhìn theo bóng hắn, thầm than, “Đáng tiếc… Kế hoạch của cậu không phải là kế hoạch của thằng bé đâu.”
Trong phòng tạm giữ của ở tòa án xuất hiện một vị khách quý, ông ta mặc một bộ Âu phục thủ công màu lam, vừa khít thoải mái mà bao lấy thân hình cao ngất. Đành rằng tuổi tác ông ta cũng không còn trẻ, nhưng vẫn có thể thấy ông ta giữ dáng rất tốt. Mái tóc xám bạc, ngũ quan anh tuấn không vì năm tháng mà hiện nét già nua, ngược lại chỉ làm tăng thêm sức quyến rũ của sự thành thục, bên tay phải được bảo dưỡng thích đáng có đeo một chiếc nhẫn đá quý đen tuyền, trong tay chống một chiếc gậy bằng ngà voi, màu sắc vằn lắng mặt trên chứng tỏ đây là đồ cổ từ tận mấy thế kỷ trước. Những thứ trên mình của người đàn ông trung niên này tiệt không có mang vẻ khoe mẽ, hơn thế nữa, kết hợp với khí chất của ông ta càng thêm bổ sung cho nhau, khiến ông ta đậm đặc khí chất uy nghi, đường bệ, khó có thể đứng ngang hàng mà nhìn thẳng cho nổi.
“Công tước Sutherland, mời ngài đi bên này.” Anh cảnh sát tòa án kính cẩn dẫn đường ông ta vào phòng tạm giữ.
Bàn tay đặt trên bàn của Seven lập tức nắm chặt, cậu gọi, “Ngài cảnh sát, tôi chưa nói muốn gặp khách mà.”
Anh cảnh sát dường như không nghe được cậu nói gì, còn Donald Sutherland lại vô cùng phong độ mà ra hiệu, “Để ta và cậu đây riêng tư ít phút.”
Bắt gặp sự do dự từ anh cảnh sát, Donald bèn nói tiếp, “Anh yên tâm, đứa trẻ này sẽ không làm ta bị thương đâu.”
Sau khi anh ta ra ngoài, Donald mới ngồi xuống trước mặt Seven, han hỏi, “Con khỏe không? Seven.”
Seven ngoảnh mặt đi, không trả lời.
Donald vẫn mang vẻ mặt ôn hòa nói, “Tuy giữa chúng ta đã xảy ra vài chuyện không được vui vẻ lắm, nhưng dẫu sao con cũng là con ta, ta không thể đứng khoanh tay nhìn con chịu khổ.”
Seven khàn giọng bảo, “Vậy thì mời ông biến đi cho, như thế tôi sẽ bớt thấy khổ sở hơn đấy.”
“Con nói gì vậy?” Donald nhíu mày, “Con là con ta, sau này dĩ nhiên chúng ta sẽ phải ngày ngày gặp mặt.”
Seven quay mặt sang, biểu tình khó lòng tin được mà gằn, “Ngày, ngày, gặp, mặt?”
“Ừ, Seven.” Donald mỉm cười rút ra một tờ công văn được gấp cẩn thận, khuyên nhủ, “Con chưa trưởng thành, đây là đơn xin quyền giám hộ, con chỉ cần ký lên đây là cha con chúng ta có thể đoàn tụ ngay tức khắc.” Ông ta nói rồi đặt đôi tay được được chăm sóc tỉ mẩn lên tay Seven, tiếp tục vẽ ra viễn cảnh, “Chuyện sau này con không cần lo lắng, ta sẽ nhanh chóng giúp con được tạm tha ra ngoài. Con thích đi Áo học vỹ cầm, con thích vị thầy nào, hửm? Ta quen không ít viện trưởng Học viện Âm nhạc.” Hơi nhíu mày một chút, rồi lại tiếp, “Tất nhiên việc cho con cái họ Sutherland, còn cần ít thời gian. Có điều ta thấy gọi con Seven cũng không tệ, ta thích gọi con như thế.”
Khoảnh khắc kia Seven thật sự khó chịu như bị rắn độc cắn một vết, cậu rút mạnh tay về, nói đơn giản, “Cám ơn, tôi không có hứng thú.” Cậu chỉ về phía cửa, cao giọng, “Học vỹ cầm ở Áo? Đừng có sỉ nhục âm nhạc, tôi không muốn ngủ dậy từ trên giường ông rồi đến trường đâu. Mời ông ra ngoài cho!”
Thái độ của cậu quả quyết như thế, nhưng Donald cũng không lấy làm tức giận. Ông ta thu tay, vẫn mỉm cười như cũ, “Con quả thực rất thông minh, nhưng mà con ngoan à, nói cho cùng, con còn rất trẻ nên mới bị Cruise lừa. Con không đồng ý, ta cũng không miễn cưỡng, tờ đơn này con có thể ký lúc nào cũng được, xem con là con nên ta nhắc nhở con một câu. Ngục tù ── nó không giam được người ta, nó chỉ giam chính con mà thôi. Con xem con mồi trong ***g sắt đấy, có thể bảo toàn thân nó không nào?”
“Cút đi!” Seven khó lòng đè nén mà run rẩy.
Donald còn chưa nói tiếp, cửa đã ‘rầm’ một tiếng bị Andy mở toang ra, theo sau là viên cảnh sát bối rối ngập mặt.
Mặt mày Andy liền sa sầm, “Xin lỗi, thưa Công tước, ngài ở đây làm gì vậy?”
Donald mỉm cười, “Chỉ là có chút chuyện muốn bàn với Seven thôi.”
“Ngài không có quyền này, chớ nói ngài là Công tước của nước Anh, kể cả ngài có là Tổng thống Mỹ, đương sự của tôi cũng đã được “các quyền Miranda”(8) bảo hộ!” Andy lạnh lùng đính chính.
Donald cầm lấy mũ phớt, hết sức lịch thiệp đội lên đầu, “Cám ơn, hy vọng quyềnnày luôn bảo hộ được Seven.”
“Andy!” Sau khi nhìn bóng Donald khuất hẳn, Seven bất ngờ đề nghị, “Tự dưng tôi muốn tự đặt cho mình một cái tên tiếng Trung.”
Andy nghe xong không khỏi ngỡ ngàng, y cảm thấy thỉnh thoảng Seven có lối suy nghĩ đột phát thực đáng sợ, nhưng y vẫn hỏi, “Cậu muốn tự đặt tên mới là gì?”
Ngón tay thon dài của Seven kéo qua đơn giao quyền giám hộ tìm được cột có tên mẹ cậu: Muo. Li, cậu miết lên hai chữ kia, rồi mới nói, “Tôi sẽ tên là Mạc Tử Mộc, Mạc Tử Mộc.” Sau đó đặt bút viết lên trên cùng tờ đơn ba chữ tiếng Trung.
Andy nhận lấy tờ giấy kia, nhìn đến ba chữ Hán ấy, chữ Hán chính là như vậy, chợt liếc mắt nhìn qua giống như một bụi cây, và ba chữ này thì khiến người ta liên tưởng đến hoa cúc. (莫子木, giống chỗ nào hả cái cha Andy này, chưa gì đã rủa em nó…)
Andy nói, “Được, tôi sẽ giải quyết ổn thỏa giúp cậu, cậu Mạc.”
Kỳ thật đổi họ tên không thuộc phạm vi phục vụ của Andy, nhưng dường như y đã quên yêu cầu Seven phải trả thêm chi phí.
Lúc bọn họ ra tòa, xui xẻo thay lại đụng mặt phải Kiefer.
Kiefer dùng biểu tình cay nghiệt nhìn Seven, giọng điệu châm biếm, “Ai thế này, hóa ra là thằng ăn cắp!”
Andy vừa toan đứng ra bảo vệ Seven vượt qua đám người trước mặt, lại bị đám luật sư này tận lực chặn lại, Kiefer thì vọt đến trước mắt Seven, Andy cũng bị chúng ngăn cách.
Kiefer áp sát mặt Seven nhỏ giọng nhưng thực rõ ràng phun ra mấy câu, “Mày yêu cái bàn trà đó nhường ấy, phải chăng vì nó làm mày sướng tới bến phải không hử? Không đè mày trên đó, đôi ta sao có thể một trước một sau sảng khoái đến thế được.”
Hai tay Seven bị còng, cậu chỉ bình lặng đáp trả, “Tôi thật vui vì có thể trở thành ký ức tốt đẹp cuối cùng của ngài Kiefer đây!”
Kiefer bị tăng xông, nắm tay hắn vừa mới vung lên đã bị luật sư phía sau sợ sinh chuyện không hay ngăn vội lại. Hắn hung tợn rít, “Tao sẽ bắt mày phải trả giá, cái loại con của đồ đĩ ***!”
Seven chỉ đứng im không động đậy mà nhìn hắn, biểu tình như đang nhìn một con súc vật hạ đẳng nhất, điều này khiến Kiefer lại nổi đóa lần nữa không kiểm soát được.
“Xét thấy cậu chưa trưởng thành, tôi nghiêng về ý kiến hoãn thi hành án phạt, song, trên thực tế trong quá trình phạm tội, cậu đã sử dụng vũ khí sát thương cực độ nguy hiểm, và thực tế đã tạo thành thương tổn, điều này cho thấy, cậu không đủ năng lực tự kiềm chế không gây thương tích cho người khác. Xuất phát từ nguyên nhân này, tôi phán cậu ngồi tù, xem xét nguyện vọng nơi chịu tù của cậu, tôi tôn trọng ý kiến của cậu, cậu có thể chịu tù tại nhà giam trên hòn đảo trực thuộc đảo Saint Croix(9) tại quần đảo Virgin, thời hạn năm năm!” Quan tòa nói xong, búa đập xuống vang lên một tiếng nặng nề, tỏ rõ phán quyết chính thức có hiệu lực.
Lúc Andy tiễn Seven, hoặc bây giờ có thể gọi là Mạc Tử Mộc, Mạc Tử Mộc chỉ cười với y. Khi gần đi cậu gọi nhỏ, “Tôi tặng anh một món quà, ở trong hộp mail của anh.”
Andy dõi theo bóng dáng đã đi xa của người thiếu niên để lại cho y ấn tượng cực kỳ sâu sắc, xong sau bất đắc dĩ đi đối mặt với cơn thịnh nộ của Dung Thanh.
Có thể nói, y chưa bao giờ gặp qua một Dung Thanh tức giận, chính xác hơn là một Dung Thanh sẽ nổi giận.
Thời khắc kia y quả thực cho rằng Dung Thanh đã không thể khống chế được nữa, hắn ấn gí y vào tường, túm cổ áo y, cặp mắt đỏ ngầu dữ tợn, “Andy, tôi hy vọng cậu có thể chịu được hậu quả của việc lựa chọn phản bội tôi.”
Andy khẽ cười khổ, cũng giống như y không thể lãnh nhận hậu quả của việc không đồng ý với Seven thôi. Y thở gấp giận lẫy theo, “Daniel, tôi rất tiếc…”
Dần dần Dung Thanh cũng chịu bình tĩnh lại, hắn bảo, “Andy, hợp tác giữa chúng ta e rằng đến đây là kết thúc.”
Andy toát ướt sũng mồ hôi lạnh, vừa rồi y thực sự có cảm giác sẽ bị Dung Thanh xử luôn rồi, bèn thở phào một hơi, “Cám ơn!”
Dung Thanh lạnh nhạt nói nốt, “Thế nhưng cậu đã dùng hết mười năm giao hảo của chúng ta, tôi hy vọng cậu hiểu được điều này.”
Andy nhìn bóng hắn rời đi, ý của Dung Thanh rõ đến thế rồi còn gì, rằng tình bạn giữa y và hắn đã kết thúc, điều này có nghĩa ra sao, y hiểu rõ được.
Andy còn chưa về đến khách sạn, ông chủ Johnson của David đã gọi điện đến, gã ta gần như gầm lên, “Andy, công ty Cruise thu hồi tất cả case đã ủy thác cho chúng ta, hơn nữa hoàn toàn không chừa nổi một đường thương lượng, xin hỏi anh chuyện này rốt cuộc là sao đây?”
“Thành thực xin lỗi, chuyện này trở về tôi…”
“Không, Andy, Andy, tôi mới phải nói xin lỗi, thật tiếc là anh bị đuổi việc! Mẹ kiếp anh đã bị đuổi việc!”
“Johnson, đừng quên tôi cũng là đối tác của David!” Andy phẫn nộ lớn tiếng.
“Ô! không không, anh tưởng là mất đi hợp đồng của Cruise, anh còn có thể là đối tác của David sao? Tôi không ngại ở trước mặt tất cả thành viên hội đồng quản trị đuổi việc anh đâu!”
Tay Andy nắm thành nắm đấm, y nới lỏng cà vạt, mở bung cửa, ngã mạnh người lên giường.
Mẹ nó, y hung hăng mắng trong lòng.
Lúc này, trong phòng vang lên một tiếng ‘Ding’, Andy thoáng do dự, đoạn ngồi bật dậy, bật laptop lên, thuận tay gõ mật mã.
Màn hình báo hiệu có mail gửi đến, y mở rồi xem lướt qua, biểu cảm trên mặt biến đổi muôn vẻ, từ giật mình đến cười lạnh. Y chậm rãi móc di động, giọng nói cay độc bên trong lại truyền đến, “Andy, anh là người khôn ngoan, chắc hẳn không hy vọng tôi sẽ đem sự việc…”
“Dĩ nhiên, tôi hiểu rất rõ ông là tên lưu manh ác ôn đầy tiếng xấu trong giới luật sư!”
Johnson dường như có chút giật mình, gã chần chừ một chút, nơm nớp vặn lại, “Andy, anh tính làm gì đấy?’
“Làm gì à, Johnson, tôi muốn ông ngày mai nhượng vị trí của mình cho tôi!”
“Mày điên rồi à?” Dễ nhận thấy Johnson vừa sợ vừa giận, không rõ vì sao Andy đột nhiên trở nên cứng rắn như thế.
“Tôi không điên đâu, Johnson, nếu ông không muốn để người khác biết ông đã bức đương sự của mình đến đường cùng như thế nào, rồi mới tính toán giá cả. Nếu ông không muốn để ông trùm đầy thế lực nào đó biết, không phải ông cứu con hắn, mà là chính ông kéo dài thời gian truyền tin tình báo, mới khiến con hắn biến thành đứa què. Nếu viên nghị sĩ nào đó biết ông đã tìm người vạch trần vụ ông ta quấy rối *** một đứa bé rồi giao cho tòa soạn báo…”
“Shit! Andy, mày đang xằng bậy!”
“Johnson, chúng ta đều là luật sư, coi trọng chứng cứ, tôi có thể gửi đến mail ông dăm thứ tài liệu, ông xem qua rồi chúng ta sẽ cùng bàn lại với nhau!” Andy dứt khoát mà tắt máy, y nhìn lên bức mail trên màn hình mà Seven đã gửi, chậm rãi thốt ra cái tên, “Mạc Tử Mộc.”
Seven Days từng có một câu danh ngôn: Nếu ta và ngươi cùng đồng thời online, sẽ không có bí mật nào ngươi có thể che giấu khỏi ta.
Hòn đảo con thuộc Saint Croix này nằm rất gần đảo chủ, dù trên bản đồ hoàn toàn không đánh dấu hòn đảo đơn độc này, nhưng quả thực nó lại gần lắm, gần đến mức người ta có thể bơi qua bơi lại từ hòn đảo này sang những đảo khác.
Đảo con dưới thời kỳ chịu ách thống trị của Đan Mạch(10) cũng từng dùng để giam giữ một ít hải tặc và tội phạm trộm cắp, dân bản xứ gọi đảo này là đảo Mammon.
Đảo mắt khắp cả đảo Mammon, địa hình của nó đa số cũng là đồi núi như đảo chủ Saint Croix.
Nhà giam Mammon được xây cạnh bờ biển, diện tích ước chừng hơn 10 000m². Nó giống một tòa thành hình chữ nhật, khu nhà chính có các gờ mái phẳng, cao chót vót, đỉnh tháp hình tròn, mang đậm phong cách kiến trúc Baroque(11).
Đảo Mammon cũng giống như bao đảo nhỏ khác rải rác khắp vùng biển Caribbean này, phong cảnh hấp dẫn, cây cối xanh tươi.
Mạc Tử Mộc từ xe chở tù đến trên đảo, rồi cùng một đoàn tù nhân leo núi ước chừng một tiếng mới vào tới nhà giam tư nhân cao cấp trông rất bóng bẩy này. Cậu cùng những phạm nhân khác bị cảnh ngục xua đến nơi báo danh.
“Từ từ đã! Seven!” Phía sau có người gọi.
Mạc Tử Mộc ngoái đầu, bắt gặp một cảnh ngục đang gọi cậu.
“Có người muốn gặp mày, đi theo tao!” Cảnh ngục đưa tay đẩy cậu.
Hơi đẩy gọng kính, Mạc Tử Mộc ngoan ngoãn theo sát tên cảnh ngục béo kia đi đến phòng tiếp khách.
Dung Thanh đang ngồi nơi đó chờ cậu, Mạc Tử Mộc không có đường để cự tuyệt, cảnh ngục béo ị từ sau lưng thô bạo đẩy cậu vào. Dung Thanh cũng không ngồi cách qua lớp lưới thép nào mà là ngồi ngay trong phòng giam.
“Seven!” Dung Thanh vẫn mang bộ dạng như thế, vẫn hệt như trong quá khứ, săn sóc dịu dàng, “Ngồi xuống đi.”
Mạc Tử Mộc kéo một cái ghế ra rồi ngồi xuống, giữ một khoảng cách nhất định với hắn.
“Seven, đói bụng không?” Dung Thanh hỏi.
Lúc này Mạc Tử Mộc mới chú ý trong tay Dung Thanh ấy thế mà lại đang cầm một hộp thức ăn, nóng hôi hổi, khói bốc nghi ngút.
Hắn mở hộp thức ăn ra, bên trong không ngờ còn lấy ra một cái chụp tiểu bánh bao(13). Hắn nói, “Tôi đặc biệt mời đầu bếp chuyên làm bánh bao từ đại lục(14)đến, ở tận trấn Nam Tường(15) quê nhà mẹ cậu đó, xem xem có khác gì với trong ký ức của cậu không.”
Dung Thanh chính là như vậy, lúc tốt đẹp thì cứ như nâng niu cậu trong lòng bàn tay, khiến cậu quên đi bản thân là ai, có mấy cân mấy lạng, buồn rằng, chuyện gì cũng tồn tại chữ ‘nhưng’. Nhưng mà sau đó thì sao… Có rất nhiều chuyện, Mạc Tử Mộc không muốn nhớ lại nữa.
Thế nên món ăn trước mắt này, Mạc Tử Mộc không dám đụng vào, cũng không muốn đụng vào, cậu chỉ khe khẽ chau lại hai hàng lông mày, hỏi thẳng, “Tôi còn nợ nần gì anh chăng?”
Đôi mắt Dung Thanh hơi rũ xuống, hắn dọn đũa ra, điềm nhiên nói, “Seven, chẳng lẽ cậu không hận tôi sao? Cậu không muốn báo thù ư? Biết đâu cậu không phải là không có cơ hội nào!”
Mạc Tử Mộc chỉ thở dài một hơi, đáp, “Không, Dung Thanh, trò chơi này anh thắng, thắng triệt để. Tôi hoàn toàn chịu thua, kể từ nay trở đi sẽ rời khỏi trò chơi này. Tôi chỉ hy vọng… Cả hai chúng ta sẽ không còn xuất hiện trong cuộc đời nhau thêm nữa.”
1. DES (viết tắt của Data Encryption Standard, hay Tiêu chuẩn mã hóa dữ liệu) là một phương pháp mật mã hóa được FIPS (Tiêu chuẩn Xử lý Thông tin Liên bang Hoa Kỳ) chọn làm chuẩn chính thức vào năm 1976.
DES là phương pháp mật mã dữ liệu tiêu chuẩn cho một số phát triển VPN. DES áp dụng một khóa 56 bit cho 64 bit dữ liệu. DES có thể cung cấp tới 72*105 khóa đóng gói dữ liệu. DES được IBM phát triển và được xem như một cải biên cuả hệ mật LUCIPHER. Lần đầu tiên DES được công bố trong Hồ sơ Liên bang vào ngày 17/03/1975. Sau nhiều cuộc tranh luận công khai, DES đã được chấp nhận chọn làm chuẩn cho các ứng dụng không được coi là mật vào 05/01/1977 và được U.S Department of Defense (Cục phòng thủ Mỹ) chọn, khi đó DES là một trong những kỹ thuật mật mã mạnh, nó được xem như là không thể bẻ gãy tại thời điểm đó. Nhưng khi máy tính tốc độ cao hơn đã bẻ gãy DES trong khoảng thời gian ngắn (ít hơn một ngày) thì DES không còn được sử dụng lâu dài cho những ứng dụng bảo mật cao.
2. Máy tính laptop Tulip E-Go với logo hình Tulip của hãng Ego Lifestyle, Hà Lan là loại máy tính đắt nhất thế giới.
Hình dáng nhỏ gọn như một chiếc túi xách thời trang, tiện lợi cho việc di chuyển với những người thường xuyên bận rộn. Đây là sản phẩm tiêu biểu cho sự kết hợp giữa thời trang và công nghệ, sử dụng công nghệ hệ thống EXO của công ty Inclosia, kết dính những lớp sợi, da và các chất liệu khác trong các thiết bị điện tử, nhằm giúp người dùng có thể tùy biến lớp “áo khoác” ngoài của laptop. Người mua có thể yêu cầu in chữ ký, ảnh, logo của riêng mình lên bàn phím. Chất liệu lớp vỏ ngoài của Tulip Ego khá đa dạng: da, gỗ, đá quý… và có thể thay đổi vỏ bọc cho laptop. Đặc biệt quai xách của Ego được mạ crom rất bền.
Và về mặt công nghệ thì không cần phải bàn, Tulip Ego được ứng dụng những công nghệ tiên tiến nhất.
3. Hệ điều hành UNIX là một hệ điều hành máy tính viết vào những năm 1960 và 1970 do một số nhân viên của công ty AT&T Bell Labs bao gồm Ken Thompson, Dennis Ritchie và Douglas McIlroy. Ngày nay hệ điều hành Unix được phân ra thành nhiều nhánh khác nhau, nhánh của AT&T, nhánh của một số nhà phân phối thương mại và nhánh của những tổ chức phi lợi nhuận.
Unix có thể chạy trên nhiều loại máy tính khác nhau, từ những máy tính cá nhân cho đến các máy chủ dịch vụ. Nó là một hệ điều hành đa nhiệm (có thể cùng lúc thực hiện nhiều nhiệm vụ) hỗ trợ một cách lý tưởng đối với các ứng dụng nhiều người dùng. Unix được viết bằng ngôn ngữ lập trình C, một ngôn ngữ rất mạnh và mềm dẻo. Unix hỗ trợ các ứng dụng mạng và hỗ trợ nhiều môi trường lập trình khác nhau. Với hàng trăm lệnh và một số lượng rất lớn các tùy chọn, Unix thực sự là một khó khăn đối với người mới bắt đầu. Với sự phát triển của các shell Unix hệ điều hành này đã trở nên phổ dụng hơn trong lĩnh vực điện toán.
Vì Bell Laboratories bị cấm không cho phép tiếp thị Unix vì lệnh chống độc quyền đối với AT & T nên Unix đã được cung cấp miễn phí cho các trường đại học trên toàn Bắc Mỹ từ năm 1976. Năm 1979 Đại học California tại Berkeley đã xây dựng một phiên bản của Unix dùng cho các máy tính VAX. Sau khi đã được ưa thích trong các lĩnh vực công nghệ, AT & T đã giành được quyền tiếp thị đối với Unix và đã cho ra đời System V vào năm 1983. Cho đên nay Unix vẫn được sử dụng rất rộng rãi trong thị trường dành cho máy chủ. Đã có nhiều phiên bản phát triển khác nhau, trong đó có Linux.
Unix là một trong những hệ điều hành 64 bit đầu tiên. Hiện nay Unix được sử dụng bởi nhiều công ty tập đoàn lớn trên thế giới vì mức độ bảo mật của nó tương đối cao.
4. Bảy ngày tạo thế của Thiên Chúa:
Sáng Thế Ký 1:1-27 ghi chép:
Lúc ban đầu, khi Thiên Chúa tạo dựng trời đất. Đất còn trống rỗng, chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm, và Thần khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước. Thiên Chúa phán: “Phải có ánh sáng.” Liền có ánh sáng.Thiên Chúa thấy ánh sáng tốt đẹp. Thiên Chúa tách ánh sáng ra khỏi bóng tối. Thiên Chúa gọi ánh sáng là “ngày”, còn bóng tối là “đêm”. Qua một buổi chiều và một buổi mai: đó là ngày thứ nhất.
Thiên Chúa phán: “Phải có một cái vòm trời ở giữa khối nước, để phân rẽ nước với nước.” Thiên Chúa làm ra cái vòm đó và phân rẽ nước phía dưới vòm với nước phía trên. Liền có như vậy. Thiên Chúa gọi vòm đó là”trời”. Qua một buổi chiều và một buổi mai: đó là ngày thứ hai. Thiên Chúa phán: “Nước phía dưới trời phải tụ lại một nơi, để chỗ cạn lộ ra.” Liền có như vậy. Thiên Chúa gọi chỗ cạn là “đất”, khối nước tụ lại là “biển”. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp.
Thiên Chúa phán: “Đất phải sinh cây cối xanh tươi, cỏ mang hạt giống, và cây trên mặt đất có trái, ra trái tuỳ theo loại, trong có hạt giống.” Liền có như vậy. Đất trổ sinh cây cối, cỏ mang hạt giống tuỳ theo loại, và cây ra trái, trong trái có hạt giống tuỳ theo loại. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp. Qua một buổi chiều và một buổi mai: đó là ngày thứ ba.
Thiên Chúa phán: “Phải có những vầng sáng trên vòm trời, để phân chia ngày với đêm, để làm dấu chỉ xác định các đại lễ, ngày và năm. Đó sẽ là những vầng sáng trên vòm trời để chiếu soi mặt đất.” Liền có như vậy. Thiên Chúa làm ra hai vầng sáng lớn: vầng sáng lớn hơn để điều khiển ngày, vầng sáng nhỏ hơn để điều khiển đêm; Chúa cũng làm ra các ngôi sao. Thiên Chúa đặt các vầng sáng trên vòm trời để chiếu soi mặt đất, để điều khiển ngày và đêm, và để phân chia ánh sáng với bóng tối. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp. Qua một buổi chiều và một buổi mai: đó là ngày thứ tư.
Thiên Chúa phán: “Nước phải sinh ra đầy rẫy những sinh vật lúc nhúc, và loài chim phải bay lượn trên mặt đất, dưới vòm trời.” Thiên Chúa sáng tạo các thủy quái khổng lồ, cùng mọi sinh vật vẫy vùng lúc nhúc dưới nước tuỳ theo loại, và mọi giống chim bay tuỳ theo loại. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp. Thiên Chúa chúc phúc cho chúng rằng: “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy biển; và chim phải sinh sản cho nhiều trên mặt đất.” Qua một buổi chiều và một buổi mai: đó là ngày thứ năm.
Thiên Chúa phán: “Đất phải sinh ra các sinh vật tuỳ theo loại: gia súc, loài bò sát và dã thú tuỳ theo loại.” Liền có như vậy. Thiên Chúa làm ra loài thú tuỳ theo loại, gia súc tuỳ theo loại và loài bò sát dưới đất tuỳ theo loại. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp. Thiên Chúa phán: “Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất.” Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ.
Tóm lại:
Ngày thứ nhất: Ánh sáng và bóng tối
Ngày thứ hai: Bầu Trời và biển cả
Ngày thứ ba: Tách biển và Đất liền – Cây cỏ mọc trên đất, tuỳ theo loại sinh trưởng và tái sinh theo từng giống hoa – quả – hạt
Ngày thứ tư: Tạo dựng Mặt Trời, Mặt Trăng cùng các vì tinh tú, phân định ngày với đêm, thời tiết trên các vùng Trái Đất.
Ngày thứ năm:Tạo dựng các sinh vật sống và sinh sôi dưới nước, trên không các loại thủy sản, các loại cầm.
Ngày thứ sáu: Tạo dựng muôn thú trên mặt đất và cuối cùng dựng lên loài người: cai quản thế giới trần gian.
Ngày thứ bảy: Thiên Chúa nghỉ ngơi.
Và ngày thứ bảy là ngày các tín đồ của Chúa thờ phụng Chúa, được gọi là ngày Sabbath (Ngày Thánh, thứ bảy theo đạo Do Thái và chủ nhật theo đạo Cơ Đốc)
5. Bàn trà thấp chân
là ví dụ kiểu này này =_=
thực ra search toàn ra bàn thấp chân kiểu Nhật thôi =_= cái này hổng phải bàn thời Minh đâu nhá =_=
6. Thời nhà Minh (Minh triều) là triều đình cai trị Trung Quốc từ 1368 đến 1644. Đây là triều đại độc lập cuối cùng ở Trung Quốc do tộc Hán lãnh đạo, sau khi giành lại nước từ nhà Nguyên của người Mông Cổ và trước khi bị thôn tính vào tay nhà Thanh của người Mãn Châu. Dưới thời nhà Minh, Trung Hoa có quốc hiệu là Đại Minh Quốc. Dù kinh đô của triều Minh là Bắc Kinh đã thất thủ năm 1644 vào tay người Mãn Châu, con cháu họ vẫn giữ được ngôi báu và quyền lực (hiện thường được gọi chung là Nam Minh) cho tới tận năm 1662.
Dưới triều Minh, Trung Quốc có 18 tỉnh và chỉ bao gồm phạm vi vùng Đông Nam của Trung Hoa đại lục ngày nay, và một vài nơi khác.Nhà Minh thường được xem là đỉnh cao của nền văn minh Trung Hoa, và cũng là lúc mầm mống của chủ nghĩa tư bản xuất hiện.
7. Cờ cầu vồng đôi khi được coi là “Cờ tự do” đã được nổi danh như là một ký hiệu tự hào của cộng đồng LGBT (bao gồm đồng tính nữ Les, đồng tính nam Gay, lưỡng tính Bi và hoán tính Trans).
Cờ cầu vồng ra đời năm 1978 qua sự sáng tạo của hoạ sĩ Gilbert Baker. Những gam màu khác nhau tượng trưng cho sự đa dạng của cộng đồng thể hiện niềm hy vọng cũng như sự khát khao bình đẳng của cộng đồng LGBT trên toàn thế giới.
Lá cờ nguyên thuỷ ban đầu có 8 màu. Năm 1978 -1979, lá cờ rút xuống còn 7 mầu, tương ứng với 7 sắc cầu vồng. Từ năm 1979 đến nay, lá cờ chỉ còn 6 mầu cơ bản (bỏ màu hồng và màu ngọc lam) để tính thẩm mỹ của nó cao hơn. Cờ cầu vồng tung bay hiên ngang trong các cuộc diễu hành GAY Pride, và là niềm tự hào của toàn thể cộng đồng LGBT trên toàn thế giới
– Màu đỏ: tượng trưng cho dũng khí.
– Màu cam: tượng trưng cho khả năng và nhận thức.
– Màu vàng: tượng trưng cho sự thách thức.
– Màu lục (xanh lá cây): tượng trưng cho sự khích lệ và phấn đấu.
– Màu xanh dương: tượng trưng cho hy vọng, sự chia sẻ, giúp đỡ, đấu tranh.
– Màu tím: tượng trưng cho sự thống nhất, hòa hợp, đoàn kết.
Do đó, quán bar cầu vồng trong truyện là đang nói đến quán bar Gay.
8. Các quyền Miranda (Miranda Rights) tức Quyền miễn khai và Quyền có luật sư biện hộ dành cho nghi phạm. Thông thường, nếu các quyền này không được tôn trọng thì các bản án sẽ bị huỷ bỏ vì không có giá trị.
Ở Hoa Kỳ, lời cảnh báo Miranda (Miranda warning) là một lời cảnh báo được cảnh sát thông báo cho nghi phạm hình sự ngay lúc bị bắt giữ, hay khi đang ở tình trạng giam giữ, trước khi nghi phạm hình sự bị thẩm vấn hoặc lấy cung liên quan đến sự phạm tội, hay trong một tình trạng quyền tự do đi lại của nghi phạm bị cản trở dù người đó không bi bắt giữ.
You have the right to remain silent. If you give up that right, any thing you say may be used against you in a court of law. You have the right to be represented by an attorney. If you cannot afford an attorney, one will be appointed to represent you, free of charge, by the court.
Tạm dịch:
Anh có quyền giữ im lặng. Nếu anh từ bỏ quyền đó, những gì anh nói có thể được dùng làm bằng chứng chống lại anh tại tòa án. Anh có quyền có luật sư đại diện. Nếu anh không có tiền thuê luật sư, tòa án sẽ bổ nhiệm một luật sư để đại diện cho anh miễn phí.
Một bản buộc tội bởi một nghi phạm sẽ không tạo thành một chứng cứ có thể thừa nhận trừ phi nghi phạm đó đã được thông báo cho biết “các quyền Miranda” của mình và đã được người ta làm cho hiểu, nắm rõ và tự nguyện từ bỏ các quyền này. Tuy nhiên, cảnh sát có thể yêu cầu cung cấp các thông tin về thân thế như: tên gọi, ngày sinh và địa chỉ và không cần đọc các cảnh báo Miranda này cho nghi phạm.
9 + 10. Đảo Saint Croix, một trong bốn hòn đảo chính của quần đảo Virgin.
ở dưới cùng kìa:”D
Hãy cứ nôm na coi như đây là bối cảnh chạy loăng quăng mấy chap sau này của em Bảy, rừng, bờ biển, đồi núi và những khoảnh đất hoang vu:))
Khi Christopher Columbus đến đảo này vào thế kỷ 15, ông đã đặt tên cho nó là Santa Crux.
Hòn đảo này được Hiệp sĩ De Poincy mua vào năm 1660. Đến năm 1665, Saint Croix được công ty Đông Ấn ở Pháp mua lại, chấm dứt sự hiện diện của các Hiệp sĩ ở vùng Caribbean.
Rồi sau đó, năm 1733, Công ty West India Đan Mạch đã mua Saint Croix từ Pháp >> thời kỳ chịu ách thống trị của Đan Mạch theo chap này.
Và đến Thế chiến I thì Mỹ đã mua cả Quần đảo Virgin từ tay Đan Mạch.
11. Kiến trúc Baroque là một thuật ngữ dùng để mô tả phong cách xây dựng của thời kỳ Baroque, Ý bắt đầu vào cuối thế kỷ 17, tận dụng những ngôn ngữ của kiến trúc Phục hưng theo một cách thức mới mang tính chất hùng biện và phong cách sân khấu; thường dùng để phô trương sức mạnh của Nhà Thờ và chính quyền chuyên chế. Nó tạo dựng nên một khám phá mới về hình dáng, ánh sáng và bóng với cường độ mạnh. Trong kỷ nguyên Baroque, kiến trúc trở nên phức tạp và cầu kỳ hơn.
Nghệ thuật kiến trúc Baroque đi ngược lại với lối nghệ thuật kiến trúc thời Phục Hưng cứng nhắc vốn thừa hưởng từ Hy Lạp cổ đại và La Mã cổ đại.
Trong khi thời Phục hưng đã thu hút của cải và quyền lực của các triều đình Ý và là một sự pha trộn của các thế lực thế tục và tôn giáo, thì ít nhất ban đầu, Baroque lại trực tiếp liên quan đến Kháng-Cải cách, một phong trào trong Giáo Hội Công Giáo cải cách chính nó để đáp trả Cải cách Tin lành. Kiến trúc Baroque là sự vận động liên tục của những bức tường uốn lượn đầy ấn tượng. Lối kiến trúc này thường được thấy trong nhà hát, nhà thờ bằng những không gian kịch tính vốn là kết quả của sự kết hợp chặt chẽ giữa các kiến trúc sư, các nhà điêu khắc, các nhà hội họa cùng tạo ra một kết quả thống nhất và nhấn mạnh hiệu quả ảo ảnh với mục đích làm cho chiều sâu sâu hơn, chiều dài dài hơn, những luồng ánh sáng chuyển động và sự âm vang của âm thanh khi được phát ra dù chỉ là một tiếng động rất nhỏ. Hình oval là hình chủ đạo của lối kiến trúc đòi hỏi sự tỉ mỉ, chi tiết và cầu kỳ này, nó xuất hiện hầu như ở tất cả mọi nơi, từ nét uốn lượn của những dãy tường dài đến cái góc nhỏ khuất cao trên trần.
Kiến trúc Baroque tạo ra những không gian phức tạp và những luồng ánh sáng kỳ bí được chiếu khắp nơi mà người ta không thể nào tìm ra được điểm xuất phát của ánh sáng đó. Ngoài ra, người ta còn nhận biết được kiểu kiến trúc này thông qua các thức cột có kích thước lớn và thường chồng cao hai tầng, cửa sổ lớn hình chữ nhật, một cửa bé hơn hình tròn, nửa tròn hay hình oval.
12. Đại lục Trung Quốc
Khu vực tô đậm thường được xem là đại lục Trung Quốc:
Trung Quốc đại lục, còn gọi là Hoa Lục, là một tên gọi thường đồng nghĩa với khu vực hiện đang dưới sự quản lý của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa; tuy nhiên, nó thường không tính hai đặc khu hành chính Hồng Kông và Ma Cao, đang được quản lý dưới chính sách “một nước hai chế độ”. Cụm từ này thường được dùng để phân biệt Trung Hoa lục địa với Đài Loan và một số đảo khác đang nằm dưới sự quản lý của Trung Hoa Dân quốc (Bành Hồ, Kim Môn, và Mã Tổ), cũng như hai đặc khu hành chính Hồng Kông và Ma Cao.
“Trung Quốc đại lục” hay “đại lục” thường được người Trung Quốc của cả hai phía của eo biển Đài Loan cũng như trong các cộng đồng Hoa kiều sử dụng. Cụm từ này trung lập trong vị thế chính trị của Đài Loan. Nó ngụ ý rằng có một quốc gia lớn hơn bao gồm cả lục địa và Đài Loan, nhưng không nói rõ do ai quản lý, và cho phép người Trung Quốc chỉ đến địa lục Trung Hoa mà không cần phải tranh cãi về chính trị. Tuy nhiên, “Trung Hoa địa lục” gần như không bao giờ được sử dụng bởi những người ủng hộ độc lập cho Đài Loan. Những người này gọi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là “Trung Quốc” và Trung Hoa Dân quốc là “Đài Loan”.
Tại đại lục, cụm từ “Trung Quốc nội địa” cũng được sử dụng cho khu vực này để phân biệt với Đài Loan, Hồng Kông, và Ma Cao.
13 + 15. Trấn Nam Tường nằm ở phía tây bắc Thượng Hải, thuộc huyện Gia Định.
Tiểu ánh bao là sản phẩm nổi tiếng của thị trấn này. Tiểu bánh bao Nam Tường:
Tiểu bánh bao (hay Xiao Long Bao, hay Soup Dumpling cũng là ẻm) là một loại bánh bao nhỏ nhân thịt từ Thượng Hải chứa có nước thịt ngọt bên trong, vỏ bánh khá mỏng, giống kiểu vỏ há cảo, bên trong thường có chút nước giống nước dùng, vì thế khi ăn sẽ phải để vào 1 chiếc bát con, cắn 1 miếng nhỏ để nước chảy ra rồi mới ăn tiếp, nếu không sẽ bị bỏng hoặc nước tung toé khắp nơi. Nước trong bánh chảy ra bát rồi thêm chút giấm đen rồi ăn từ từ nốt phần còn lại, không còn gì tuyệt vời hơn.
Tác giả :
Trường Hạ Lưu Nhiên