Sáp Huyết
Quyển 2 - Chương 308: Đấu tướng (1)
Những binh Hạ đó đang nhìn chằm chằm ba người Địch Thanh bên đường, trong mắt lộ ra ý cảnh giác. Dù sao lúc trước Đan Đan đã từng bị Phi Ưng bắt qua một lần, những người này được dặn dò của Ngột Tốt, bất cứ lúc nào cũng bảo vệ Đan Đan. Nếu có sai sót, khó tránh khỏi rơi đầu.
Gặp thoáng qua như sắc núi chạm mây, ve qua cỏ xanh...
Thản nhiên, tựa như gần lại xa. Địch Thanh đã định cất bước đi tới, cổ kiệu đột nhiên dừng lại. Trên vai Qua Binh khẽ dựng lên, Hàn Tiếu tươi cười ngưng lại, chỉ có Địch Thanh vẫn bất động thanh sắc, liếc qua kiệu nhỏ.
Màn kiệu vén ra, quả nhiên hiện ra màu tím quen thuộc, như đinh hương nở rộ. Đan Đan xuống kiệu, nhìn về hướng Địch Thanh, giống như là cô đang nhìn Địch Thanh, lại nhìn về hướng núi xanh liền mây.
Vẫn cao ngạo như trước, vẫn phóng khoáng như trước. Nhưng trong bảy phần cao ngạo, chứa lẫn một phần phiền muộn, hai phần tiều tụy.
Người Đan Đan lạnh giống như băng sơn, trong trong ánh mắt lại có chán nản và có tưởng niệm.
Cô ấy đang tưởng niệm gì?
Địch Thanh không nghĩ ngợi nữa, cũng không có nhìn nữa, hắn dời ánh mắt đi, tuyệt không phải vì cảm thấy Đan Đan có thể nhận ra hắn.
Đan Đan cuối cùng dời ánh mắt đi. Địch Thanh đã thay đổi trang phục, cô ấy đương nhiên nhận không ra. Nhưng tại sao cô ấy muốn xuống kiệu, chẳng lẽ... ở đây từng có kỷ niệm?
Thật lâu sau, binh Hạ không nói, cũng không dám khuyên. Đan Đan đột nhiên kéo mép váy, nhảy bước chân chạy về hướng chân núi.
Quân Hạ hộ vệ đều biến sắc, nhưng hô cũng không dám hô, chỉ có thể thấp giọng hô lên, hộ vệ giải tán ra. May là vừa nhìn chỗ cỏ xanh vô ngần không ai ẩn núp, cũng không có thích khách.
Địch Thanh vô cùng kinh hãi, không hiểu Đan Đan muốn làm gì. Cho dù hắn đoán được tâm cơ của Phi Ưng, nhưng lại nhìn không thấy tâm tư của Đan Đan.
Đan Đan ngồi xổm xuống, ngồi xổm trong cỏ xanh, nhặt khối đá vụn lên, đang vẽ gì, lại giống như đang nhìn gì, hồi sau cô đứng dậy xuống núi, vào cổ kiệu.
Cổ kiệu nâng lên, đám người đó đi xa.
Địch Thanh nhìn cổ kiệu đó biến mất không thấy, xoay người muốn đi, Hàn Tiếu đột nhiên nói:
- Cô gái này lúc nãy hình như đang viết cái gì, chính là bên bụi hoa đỗ quyên đó.
Địch Thanh hơi giật mình, lắc đầu nói:
- Cô ấy viết cái gì? Không liên quan chuyện của chúng ta.
Qua Binh có chút tò mò, nói:
- Địch tướng quân, thuộc hạ đi xem thử.
Y biết Địch Thanh sẽ không ngăn, bay vút qua, lát sau trở về nói:
- Hàn Tiếu nói không sai, cô gái đó quả thật viết mấy chữ kỳ quái.
Địch Thanh không nhẹ lòng hỏi,
- Viết cái gì.
Vẻ mặt Qua Binh cổ quái, hồi lâu sau mới nói:
- Cô ấy viết là hoa lặng lẽ nở, tại sao ngài đến?
Địch Thanh chấn động, lại ngây người.
Hoa lặng lẽ nỡ, tại sao ngài sẽ đến?
Tại sao Đan Đan muốn viết câu này? Chẳng lẻ lúc nãy Đan Đan công chúa đã phát hiện Địch Thanh hắn đến. Cô ấy là làm sao phát hiện, Địch Thanh khóe miệng lộ ra nụ cười chế giễu, thầm nghĩ nói:
- Cô ấy nói, không thấy được là Địch Thanh ta rồi.
Địch Thanh tâm tình phức tạp, cuối cùng cất bước tới chỗ lúc nãy Đan Đan viết. Qua Binh nói không sai, bên cạnh một bụi hoa đỗ quyên, trên một chỗ đất cát bằng Đan Đan công chúa dùng đá vụn viết chính là mấy chữ đó.
Có lẽ sau khi gió thổi qua, cuối cùng bụi đất che lại nét chữ. Nhưng chữ trước mắt này, tựa như đã nói qua, luôn tồn tại, không ở bên tai trên đất, chỉ ớ trong óc trong tim.
Gió nhẹ hây hây thổi, hoa trên núi lay động, chữ viết vẫn còn, người đã không còn, chỉ có hương hoa nương theo gió mà đi. Từ trên núi xanh xanh đó thổi qua, lướt qua người đó đi về hướng đông, tới bên kiệu nhỏ đó lay động.
Cái kiệu lắc lư, người trong kiệu lạnh lùng không thay đổi, chỉ là đang nhìn bàn tay như ngọc. Mười ngón tay nhỏ dài, còn lưu lại mùi thơm của bùn đất. Đóa hoa lặng lẽ nở, nhưng người sẽ đến cuối cũng vẫn phải đi.
Nếu đã như vậy, găp nhau chi bằng không gặp, hay có lẽ, gặp nhau chi bằng hoài niệm?
Hoa nở hoa tàn, cỏ xanh xào xạc, trong nháy mắt lại đến mùa sương mới nhuộm rừng phong, cỏ dại vàng khô. Làn thu dâng lên, xung quanh trại An Viễn Tần Châu đầy cô tịch.
Tiếng gió lên, chinh phạt đầy trời.
Mặt trời chưa kịp lặn, cửa trại trại An Viễn sớm đã đóng chặt, quân dân trong trại tiêu điều lành lạnh giống như thu. Bên cạnh một tửu quán phía đông trại An Viễn, tà dương chiều muộn, gió xé cờ quán rượu, vù vù bay.
Lúc này chưa tới giờ cơm tối, trong tửu quán chỉ có một khách uống rượu.
Khách uống rượu đó đội cái mũ mềm, quần áo nghèo túng, gục ở trên bàn, không chờ trời tối hình như đã ngủ rồi.
Khách uống rượu cũng không gây người ta chú ý, nằm ở trước bàn làm người ta nhìn không thấy mặt. Bên hông y còn tùy tiện dắt một đơn đao, đơn đao cổ xưa, nghèo túng giống như khách uống rượu.
Ông chủ của tửu quán đang nhìn về khách uống rượu cúi xuống ngủ đó, nhíu mày. Nhưng nhìn bạc vụn trên tay, lại lắc đầu, lẩm bẩm:
- Đại hảo nam nhi, cả ngày nay uống rượu tới say mèm?
Lúc này mặt trời chiều tiêu điều, sau một tiếng chuông vang lên trại An Viễn tĩnh mịch hơi có chút náo nhiệt.
Có một số quân dân từ đằng xa đi tới, tụm năm tụm ba đi vào quán rượu ngồi xuống, tùy tiện lấy chút rượu, rồi ướp chút đồ ăn với cơm.
Tiếng chiêng là tín hiệu của thủ quân giao ban. Binh lính canh giữ trại cả ngày, dân chúng làm đồng cả ngày, đều mượn thời gian nghỉ tạm tới tửu quán lân cận uống mấy ngụm rượu.
Bất luận trại binh hay là dân chúng, đều mặt co mày cáu đang uống rượu buồn, không biết ở đâu truyền tới tiếng sáo trúc Khương xa xa, tràn đầy thê lương. Những người đó đang nghe tiếng sáo trúc tràn đầy nỗi nhớ quê hương, có người còn thở nặng nề, lẩm bẩm nói:
- Ngày tháng này, khi nào mới kết thúc?
Quân Hạ đại thắng Hảo Thủy Xuyên, Kính Nguyên Lộ khổ sở vùng vẫy. Tần Châu chính là nơi tiếp giáp, cũng là sợ bóng sợ gió, trông gà hóa cuốc, cả ngày vây thủ. Trại An Viễn rất nhiều quân thủ, vốn là từ phía bắc rút về, nghe tiếng sáo trúc vang lên khó tránh khỏi nhớ quê hương.
Lúc này ven đường đi đến một người mù, bên cạnh còn có một cô gái.
Người mù mặt đầy tang thương, trong tay đang cầm hai khối lê hoa bản, nhẹ nhàng gõ. Tiết tấu tuy là đơn điệu, lại có ý cổ tang thương. Cô gái đó trên tay đang cầm một cây đàn tỳ bà, khuôn mặt mỹ lệ, quần áo mộc mạc, chải tóc hai bím dài.
Thấy hai người này giống như là ông cháu sống nương tựa lẫn nhau, làm người ta vừa thoạt nhìn ẩn sinh sự thông cảm.
Có quân trại nhìn thấy, hô:
- Giang lão hán, đến đúng lúc nói chuyện chút đi.
Quân trại đều nhận ra hai ông cháu này. Ông lão mù họ Giang, cô gái đang cầm tỳ bà kia tên Lộ Nhi. Ông cháu này lưu lạc tứ xứ, nghe nói vốn ở tây bắc, vì nhớ cố thổ, cuối cùng về tới cảnh Tống, lấy nghề hát rong kể chuyện để sống, bây giờ thì đang ở trại An Viễn.
Lỗ Nhi dẫn ông nội tới cái ghế dài ngồi xuống, hỏi:
- Các vị khán quan, hôm nay muốn nghe những gì?
Có một đàn ông mặt dài nói:
- Hôm qua đang nói mấu chốt, hôm nay đương nhiên vẫn là nói cuộc chiến Hảo Thủy Xuyên rồi.
Người đàn ông đang cúi đầu ngủ hình như động đậy, nhưng cuối cũng không có ngẩng đầu.
Quân trại đều nhìn người đàn ông lạ mặt đó, không biết đó là ai, nhưng không ai có tâm tư hỏi. Bây giờ chiến tranh khói bụi, không biết có bao nhiêu người đàn ông tây bắc du đãng như vậy, ai quản được nhiều?
Lộ Nhi nói với ông lão mù:
- Ông nội, bọn họ muốn nghe câu chuyện của những anh liệt đó.
- Không phải là chuyện xưa, chỉ là chuyện đã qua.
Ông lão đó khàn khàn cổ họng, gõ nhẹ lê hoa bản, hát:
- Tắc hạ thu lai phong cảnh dị, hành dương nhạn khứ vô lưu ý. Tứ diện biên thanh liên giác khởi, thiên chướng lý, trường yên lạc nhật cô thành bế! Trọc tửu nhất bôi gia vạn lý, yến nhiên vị lặc quy vô kế. Khương quản du du sương mãn địa, nhân bất mị, tương quân bạch phát chinh phu lệ! (BTV đã dịch nghĩa ở phần trước).
Giọng ông lão tang thương, Lộ Nhi nhẹ nhàng gảy tỳ bà, ngữ điệu không bàn mà hợp ý nhau.
Tửu quán mọi người nghe rồi, chỉ cảm thấy làn điệu tràn đầy thê lương bi tráng, nhìn xa xa tà dương chói rọi, trong lòng bi thương.
Ông lão hát xong, Lộ Nhi phụ họa nói:
- Ông nội, ca khúc của ông là ca khúc gì?
Ông cụ nói:
- Đây là lời của Phạm công, lão đây nhất thời hứng khởi hát ra, hát không hay, xin chư vị khán quan chớ để ý.
Có một người đàn ông người mặc áo tang nói:
- Hát hay đấy. Ông lão, Phạm công ông nói chính là Phạm Trọng Yêm đại nhân hả?
Ông lão nói:
- Trên đời này, không phải là có một Phạm công sao?
Người đàn ông mặt dài nói:
- Vậy cũng không phải, vốn còn có một lão tử Đại Phạm.
Mọi người mỉm cười nói, bên cạnh có người nói:
- Ta nói chính là Phạm Ung, ha ha...
Người đó muốn nói lại thôi, tràn đầy khinh miệt.
Gặp thoáng qua như sắc núi chạm mây, ve qua cỏ xanh...
Thản nhiên, tựa như gần lại xa. Địch Thanh đã định cất bước đi tới, cổ kiệu đột nhiên dừng lại. Trên vai Qua Binh khẽ dựng lên, Hàn Tiếu tươi cười ngưng lại, chỉ có Địch Thanh vẫn bất động thanh sắc, liếc qua kiệu nhỏ.
Màn kiệu vén ra, quả nhiên hiện ra màu tím quen thuộc, như đinh hương nở rộ. Đan Đan xuống kiệu, nhìn về hướng Địch Thanh, giống như là cô đang nhìn Địch Thanh, lại nhìn về hướng núi xanh liền mây.
Vẫn cao ngạo như trước, vẫn phóng khoáng như trước. Nhưng trong bảy phần cao ngạo, chứa lẫn một phần phiền muộn, hai phần tiều tụy.
Người Đan Đan lạnh giống như băng sơn, trong trong ánh mắt lại có chán nản và có tưởng niệm.
Cô ấy đang tưởng niệm gì?
Địch Thanh không nghĩ ngợi nữa, cũng không có nhìn nữa, hắn dời ánh mắt đi, tuyệt không phải vì cảm thấy Đan Đan có thể nhận ra hắn.
Đan Đan cuối cùng dời ánh mắt đi. Địch Thanh đã thay đổi trang phục, cô ấy đương nhiên nhận không ra. Nhưng tại sao cô ấy muốn xuống kiệu, chẳng lẽ... ở đây từng có kỷ niệm?
Thật lâu sau, binh Hạ không nói, cũng không dám khuyên. Đan Đan đột nhiên kéo mép váy, nhảy bước chân chạy về hướng chân núi.
Quân Hạ hộ vệ đều biến sắc, nhưng hô cũng không dám hô, chỉ có thể thấp giọng hô lên, hộ vệ giải tán ra. May là vừa nhìn chỗ cỏ xanh vô ngần không ai ẩn núp, cũng không có thích khách.
Địch Thanh vô cùng kinh hãi, không hiểu Đan Đan muốn làm gì. Cho dù hắn đoán được tâm cơ của Phi Ưng, nhưng lại nhìn không thấy tâm tư của Đan Đan.
Đan Đan ngồi xổm xuống, ngồi xổm trong cỏ xanh, nhặt khối đá vụn lên, đang vẽ gì, lại giống như đang nhìn gì, hồi sau cô đứng dậy xuống núi, vào cổ kiệu.
Cổ kiệu nâng lên, đám người đó đi xa.
Địch Thanh nhìn cổ kiệu đó biến mất không thấy, xoay người muốn đi, Hàn Tiếu đột nhiên nói:
- Cô gái này lúc nãy hình như đang viết cái gì, chính là bên bụi hoa đỗ quyên đó.
Địch Thanh hơi giật mình, lắc đầu nói:
- Cô ấy viết cái gì? Không liên quan chuyện của chúng ta.
Qua Binh có chút tò mò, nói:
- Địch tướng quân, thuộc hạ đi xem thử.
Y biết Địch Thanh sẽ không ngăn, bay vút qua, lát sau trở về nói:
- Hàn Tiếu nói không sai, cô gái đó quả thật viết mấy chữ kỳ quái.
Địch Thanh không nhẹ lòng hỏi,
- Viết cái gì.
Vẻ mặt Qua Binh cổ quái, hồi lâu sau mới nói:
- Cô ấy viết là hoa lặng lẽ nở, tại sao ngài đến?
Địch Thanh chấn động, lại ngây người.
Hoa lặng lẽ nỡ, tại sao ngài sẽ đến?
Tại sao Đan Đan muốn viết câu này? Chẳng lẻ lúc nãy Đan Đan công chúa đã phát hiện Địch Thanh hắn đến. Cô ấy là làm sao phát hiện, Địch Thanh khóe miệng lộ ra nụ cười chế giễu, thầm nghĩ nói:
- Cô ấy nói, không thấy được là Địch Thanh ta rồi.
Địch Thanh tâm tình phức tạp, cuối cùng cất bước tới chỗ lúc nãy Đan Đan viết. Qua Binh nói không sai, bên cạnh một bụi hoa đỗ quyên, trên một chỗ đất cát bằng Đan Đan công chúa dùng đá vụn viết chính là mấy chữ đó.
Có lẽ sau khi gió thổi qua, cuối cùng bụi đất che lại nét chữ. Nhưng chữ trước mắt này, tựa như đã nói qua, luôn tồn tại, không ở bên tai trên đất, chỉ ớ trong óc trong tim.
Gió nhẹ hây hây thổi, hoa trên núi lay động, chữ viết vẫn còn, người đã không còn, chỉ có hương hoa nương theo gió mà đi. Từ trên núi xanh xanh đó thổi qua, lướt qua người đó đi về hướng đông, tới bên kiệu nhỏ đó lay động.
Cái kiệu lắc lư, người trong kiệu lạnh lùng không thay đổi, chỉ là đang nhìn bàn tay như ngọc. Mười ngón tay nhỏ dài, còn lưu lại mùi thơm của bùn đất. Đóa hoa lặng lẽ nở, nhưng người sẽ đến cuối cũng vẫn phải đi.
Nếu đã như vậy, găp nhau chi bằng không gặp, hay có lẽ, gặp nhau chi bằng hoài niệm?
Hoa nở hoa tàn, cỏ xanh xào xạc, trong nháy mắt lại đến mùa sương mới nhuộm rừng phong, cỏ dại vàng khô. Làn thu dâng lên, xung quanh trại An Viễn Tần Châu đầy cô tịch.
Tiếng gió lên, chinh phạt đầy trời.
Mặt trời chưa kịp lặn, cửa trại trại An Viễn sớm đã đóng chặt, quân dân trong trại tiêu điều lành lạnh giống như thu. Bên cạnh một tửu quán phía đông trại An Viễn, tà dương chiều muộn, gió xé cờ quán rượu, vù vù bay.
Lúc này chưa tới giờ cơm tối, trong tửu quán chỉ có một khách uống rượu.
Khách uống rượu đó đội cái mũ mềm, quần áo nghèo túng, gục ở trên bàn, không chờ trời tối hình như đã ngủ rồi.
Khách uống rượu cũng không gây người ta chú ý, nằm ở trước bàn làm người ta nhìn không thấy mặt. Bên hông y còn tùy tiện dắt một đơn đao, đơn đao cổ xưa, nghèo túng giống như khách uống rượu.
Ông chủ của tửu quán đang nhìn về khách uống rượu cúi xuống ngủ đó, nhíu mày. Nhưng nhìn bạc vụn trên tay, lại lắc đầu, lẩm bẩm:
- Đại hảo nam nhi, cả ngày nay uống rượu tới say mèm?
Lúc này mặt trời chiều tiêu điều, sau một tiếng chuông vang lên trại An Viễn tĩnh mịch hơi có chút náo nhiệt.
Có một số quân dân từ đằng xa đi tới, tụm năm tụm ba đi vào quán rượu ngồi xuống, tùy tiện lấy chút rượu, rồi ướp chút đồ ăn với cơm.
Tiếng chiêng là tín hiệu của thủ quân giao ban. Binh lính canh giữ trại cả ngày, dân chúng làm đồng cả ngày, đều mượn thời gian nghỉ tạm tới tửu quán lân cận uống mấy ngụm rượu.
Bất luận trại binh hay là dân chúng, đều mặt co mày cáu đang uống rượu buồn, không biết ở đâu truyền tới tiếng sáo trúc Khương xa xa, tràn đầy thê lương. Những người đó đang nghe tiếng sáo trúc tràn đầy nỗi nhớ quê hương, có người còn thở nặng nề, lẩm bẩm nói:
- Ngày tháng này, khi nào mới kết thúc?
Quân Hạ đại thắng Hảo Thủy Xuyên, Kính Nguyên Lộ khổ sở vùng vẫy. Tần Châu chính là nơi tiếp giáp, cũng là sợ bóng sợ gió, trông gà hóa cuốc, cả ngày vây thủ. Trại An Viễn rất nhiều quân thủ, vốn là từ phía bắc rút về, nghe tiếng sáo trúc vang lên khó tránh khỏi nhớ quê hương.
Lúc này ven đường đi đến một người mù, bên cạnh còn có một cô gái.
Người mù mặt đầy tang thương, trong tay đang cầm hai khối lê hoa bản, nhẹ nhàng gõ. Tiết tấu tuy là đơn điệu, lại có ý cổ tang thương. Cô gái đó trên tay đang cầm một cây đàn tỳ bà, khuôn mặt mỹ lệ, quần áo mộc mạc, chải tóc hai bím dài.
Thấy hai người này giống như là ông cháu sống nương tựa lẫn nhau, làm người ta vừa thoạt nhìn ẩn sinh sự thông cảm.
Có quân trại nhìn thấy, hô:
- Giang lão hán, đến đúng lúc nói chuyện chút đi.
Quân trại đều nhận ra hai ông cháu này. Ông lão mù họ Giang, cô gái đang cầm tỳ bà kia tên Lộ Nhi. Ông cháu này lưu lạc tứ xứ, nghe nói vốn ở tây bắc, vì nhớ cố thổ, cuối cùng về tới cảnh Tống, lấy nghề hát rong kể chuyện để sống, bây giờ thì đang ở trại An Viễn.
Lỗ Nhi dẫn ông nội tới cái ghế dài ngồi xuống, hỏi:
- Các vị khán quan, hôm nay muốn nghe những gì?
Có một đàn ông mặt dài nói:
- Hôm qua đang nói mấu chốt, hôm nay đương nhiên vẫn là nói cuộc chiến Hảo Thủy Xuyên rồi.
Người đàn ông đang cúi đầu ngủ hình như động đậy, nhưng cuối cũng không có ngẩng đầu.
Quân trại đều nhìn người đàn ông lạ mặt đó, không biết đó là ai, nhưng không ai có tâm tư hỏi. Bây giờ chiến tranh khói bụi, không biết có bao nhiêu người đàn ông tây bắc du đãng như vậy, ai quản được nhiều?
Lộ Nhi nói với ông lão mù:
- Ông nội, bọn họ muốn nghe câu chuyện của những anh liệt đó.
- Không phải là chuyện xưa, chỉ là chuyện đã qua.
Ông lão đó khàn khàn cổ họng, gõ nhẹ lê hoa bản, hát:
- Tắc hạ thu lai phong cảnh dị, hành dương nhạn khứ vô lưu ý. Tứ diện biên thanh liên giác khởi, thiên chướng lý, trường yên lạc nhật cô thành bế! Trọc tửu nhất bôi gia vạn lý, yến nhiên vị lặc quy vô kế. Khương quản du du sương mãn địa, nhân bất mị, tương quân bạch phát chinh phu lệ! (BTV đã dịch nghĩa ở phần trước).
Giọng ông lão tang thương, Lộ Nhi nhẹ nhàng gảy tỳ bà, ngữ điệu không bàn mà hợp ý nhau.
Tửu quán mọi người nghe rồi, chỉ cảm thấy làn điệu tràn đầy thê lương bi tráng, nhìn xa xa tà dương chói rọi, trong lòng bi thương.
Ông lão hát xong, Lộ Nhi phụ họa nói:
- Ông nội, ca khúc của ông là ca khúc gì?
Ông cụ nói:
- Đây là lời của Phạm công, lão đây nhất thời hứng khởi hát ra, hát không hay, xin chư vị khán quan chớ để ý.
Có một người đàn ông người mặc áo tang nói:
- Hát hay đấy. Ông lão, Phạm công ông nói chính là Phạm Trọng Yêm đại nhân hả?
Ông lão nói:
- Trên đời này, không phải là có một Phạm công sao?
Người đàn ông mặt dài nói:
- Vậy cũng không phải, vốn còn có một lão tử Đại Phạm.
Mọi người mỉm cười nói, bên cạnh có người nói:
- Ta nói chính là Phạm Ung, ha ha...
Người đó muốn nói lại thôi, tràn đầy khinh miệt.
Tác giả :
Mặc Vũ