Resident Evil 6 – Mật Mã Veronica
Chương 7
RODRIGO NGHỈ NGƠI TRONG BÓNG TỐI LẠNH LẼO MỘT CÁCH KHÓ NHỌC. Bất chợt có tiếng động ngoài hành lang, buộc gã phải ráng mở mắt ra, sẵn sàng ứng phó. Gã gồng cổ tay lên để nhấc khẩu súng, và nhận ra mình không đủ sức để nhấc nó nữa.
Tao sẽ giết bất cứ đứa nào dám quấy rầy, gã nghĩ thầm theo thói quen thường lệ. Thật đáng mừng, thay vì biến thành một xác chết thì gã lại vớ được một khẩu súng hẳn hoi. Một tên bảo vệ bị nhiễm đã té lăn xuống cầu thang và trườn vào nhà giam sau khi cô gái rời đi một lúc, Rodrigo giết nó bằng một cú đá ngay đầu rồi tước vũ khí, lúc đó vẫn nằm trong cái bao ngang phần hông gãy nát.
Gã chờ đợi, vừa ước gì mình có thể ngủ yên trở lại, lại vừa phải cảnh giác cao độ. Khẩu súng đã giúp đầu óc gã nhẹ nhõm đôi chút, và góp phần đẩy lui nỗi sợ hãi. Rồi gã sẽ phải nhắm mắt xuôi tay, không sớm thì muộn… nhưng dù thế nào đi nữa, gã cũng không muốn biến thành một trong số bọn chúng. Tự sát có thể nói là một tội lỗi khủng khiếp, nhưng nếu không đủ sức chống trả lại bọn nhiễm virus, có lẽ gã nên tự ban cho mình một viên đạn trước khi rơi vào tay nó. Đường nào rồi cũng xuống địa ngục thôi.
Những tiếng bước chân, và ai đó đang tiến vào phòng giam, rất nhanh. Zombie ư? Các giác quan của gã không còn nhạy bén nữa, nên khó mà nói được thứ đó đang đi nhanh hay gã đang phản ứng chậm, nhưng gã biết mình phải bóp cò cho nhanh một khi còn cơ hội.
Thình lình có một tia sáng nhỏ xuyên thấu bóng tối – và cô ta đứng đó, ngay trước mắt gã như trong một giấc mơ. Cô Redfield, vẫn sống, đang giơ cao bật lửa, cô để nguyên cho nó cháy và đặt xuống bàn như một chiếc đèn lồng nhỏ xíu.
“Cô làm gì ở đây?” Rodrigo lầm bầm, nhưng Claire không nhìn gã ta vì bận lục lọi cái túi ngang thắt lưng. Gã buông rơi khẩu súng khỏi tay, mắt nhắm lại chừng một giây hoặc một lúc gì đó. Khi mở mắt ra thì cô gái đang sờ soạng cánh tay hắn, tay kia cầm một ống tiêm.
“Đây là thuốc cầm máu,” cô cất tiếng, giọng nói mềm mại chẳng khác gì bàn tay, chỗ kim châm vào khẽ nhói lên rất nhanh.
“Đừng lo, anh không bị tiêm quá liều đâu, người ta có viết rõ liều lượng trên lưng lọ thuốc. Trong đó ghi rằng nó làm chậm lại tiến trình xuất huyết nội, nên anh sẽ không sao cho tới khi có người đến giúp. Tôi sẽ để bật lửa lại đây… anh tôi đã tặng nó cho tôi, một vật may mắn đấy.”
Trong lúc cô nói chuyện, Rodrigo tập trung lấy lại tinh thần, cố gắng vượt qua sự vô cảm trong nội tâm. Những gì Claire nói thật khác thường, bởi lẽ chính gã đã thả cô ta, cô ta cũng đã đi rồi. Thế sao cô còn quay lại giúp gã làm gì?
Bởi vì mình đã thả cô ta đi. Nhận thức ấy nảy sinh trong gã, nhấn chìm gã trong cơn xấu hổ và biết ơn lẫn lộn.
“Tôi… cô thật tốt bụng,” gã thì thào, ao ước mình có thể làm gì đó cho cô, một việc gì đó để đáp đền lòng trắc ẩn. Gã lục lọi trong ký ức, những lời đồn và sự thật về hòn đảo, có thể giúp cô ấy thoát thân…
“Cái máy chém,” gã nói, hai mắt chớp chớp, cố gắng không để ngữ điệu bị lắp bắp quá đáng. “Đằng sau nó là bệnh xá, chìa khóa trong túi tôi… dường như có bí ẩn ở đó. Hắn biết rõ động tĩnh, những mảnh ráp của câu đố... cô biết máy chém ở đâu chưa?”
Claire gật đầu. “Có. Cảm ơn anh, Rodrigo, nó sẽ giúp tôi rất nhiều. Bây giờ anh nghỉ ngơi đi nhé.”
Cô với tay vuốt mái tóc của gã ra sau trán, một cử chỉ đơn giản nhưng vô cùng tử tế, vô cùng chu đáo, khiến nước mắt gã cứ chực trào ra.
“Nghỉ ngơi đi,” cô lại nói, và gã nhắm nghiền hai mắt, trong lòng tràn ngập một cảm giác thư thái êm đềm chưa từng có trong đời. Ý nghĩ cuối cùng của gã trước khi chìm vào giấc ngủ, đó là hy vọng cô có thể tha thứ cho những việc gã đã làm, có thể ban cho gã một sự khoan dung mà gã đáng được hưởng, để cuối cùng, có thể gã không phải xuống địa ngục nữa.
o0o
Rodrigo nói đúng về những bí ẩn. Claire đang đứng ở cuối hàng lang dưới tầng hầm bí mật, lấy hết can đảm để mở cánh cửa trơ trụi ngay trước mặt.
Bệnh xá phải nói là nhỏ bé và khó chịu, chẳng giống chút nào với những gì Claire chờ đợi ở một khu chuyên khoa của Umbrella – không thấy một thiết bị y tế nào, không một chút gì ra vẻ hiện đại. Chỉ có mỗi một cái bàn khám trong phòng trước, lớp sàn gỗ nứt nẻ xung quanh vấy đầy máu, một cái khay dụng cụ kiểu-y-khoa nằm gần đó. Căn phòng bên cạnh thì đã cháy không còn hình thù; nên cô không sao đoán được nó dùng cho mục đích gì, nhưng có vẻ là một nơi pha tạp giữa phòng hồi sức và lò thiêu. Nó cũng bốc mùi y như cái đầu tiên.
Có một văn phòng nhỏ bừa bộn nằm cách xa căn đầu tiên, đằng trước nó có độc nhất một thi thể nằm sóng xoài của một người đàn ông mặc áo khoác trong phòng thí nghiệm, khuôn mặt nhỏ thó xám ngoét lộ rõ vẻ khủng khiếp. Gã không có dấu hiệu đã bị lây nhiễm, và căn cứ vào việc không có một vật chủ virus nào cũng như không có vết thương rõ rệt nào, cô đoán gã ta đã lên cơn đau tim, hoặc đại loại thế. Bộ mặt co rúm đến méo mó, hai mắt trợn trừng và mồm há hốc, gợi lên cho cô ý nghĩ rằng gã ta đã chết vì sợ.
Claire cẩn thận bước qua cái xác, và tình cờ khám phá ra bí ẩn đầu tiên của căn phòng nhỏ này. Giày của cô vấp trúng một thứ lúc bước vào, mới đầu tưởng là hòn bi hay hòn đá gì đó nằm lăn lóc dưới sàn – hóa ra nó là một thứ chìa khóa hết sức khác thường. Một con mắt thủy tinh, đúng ra phải được gắn trên khuôn mặt kỳ quái bằng plastic của cái hình nộm giải phẫu, lúc này đang liếc mắt một cách đểu cáng trong góc phòng.
Với những điều Steve đã nói, về việc không ai trở lại từ bệnh xá, cộng thêm những gì đã biết về sự hứng thú điên loạn của Umbrella, nên Claire chẳng hề ngạc nhiên khi khám phá được lối đi ẩn phía sau vách tường. Những bậc thang đá mòn vẹt lộ ra khi cô đặt con mắt về đúng vị trí, đương nhiên cũng không phải là điều gây bất ngờ. Một bí mật, một thủ thuật, và Umbrella thì đầy rẫy những bí mật và thủ thuật kiểu này.
Mở cửa thôi. Để xem có gì nào.
Phải vậy thôi. Cô đâu có rỗi hơi cả ngày. Cô không muốn để Steve ở một mình quá lâu, nói cách khác là cô rất lo lắng cho cậu ta. Cậu ấy đã phải giết chính cha mình; và cô không thể tưởng tượng nổi còn có sự đả kích tinh thần nào lớn hơn thế nữa…
Claire lắc đầu, tự trách mình đã lãng phí thì giờ. Điều đó có gì quan trọng đâu khi cô đang ở một nơi vắng vẻ đến ghê rợn, với hàng tá người tưởng như đã chết, một nơi có thể cảm nhận được nỗi khiếp sợ tỏa ra từ những bức tường lạnh giá, quẩn quyện quanh người cô như một tấm vải liệm tử thi…
“Có gì quan trọng đâu,” cô nói và mở toang cánh cửa.
Ngay lập tức, có ba vật chủ nhiễm virus lắc lư tiến đến, thu hút toàn bộ sự chú ý của cô, khiến cô không thể quan sát được đầy đủ căn phòng rộng lớn bên trong. Cả ba đứa đều đã biến dạng tồi tệ, tứ chi tàn khuyết, da dẻ tả tơi, các thớ thịt thối rữa bong ra nhuốm đầy máu. Chúng di chuyển chậm chạp, lê mình đến chỗ cô một cách khó khăn, và cô có thể trông thấy những vết sẹo đã cũ trên lớp mô trần trụi mục rữa. Cho dù đã chuẩn bị tinh thần từ trước, ruột gan cô vẫn cứ cồn lên phát ói.
Ít nhất thì mọi chuyện cũng qua rất nhanh – nhưng một sự nghi ngại kinh khủng đang lớn dần trong óc cô, rằng những gì cô hy vọng đều vô nghĩa, khi nhìn quanh một lượt.
Lạy Chúa.
Căn phòng trang nhã đến lạ thường dưới ánh sáng lặng lẽ tuôn ra từ chúc đèn treo. Mặt sàn được lát đá và trang trí bằng một tấm thảm dệt tinh xảo, kéo dài từ cửa đến tận khu đặt chỗ ngồi phía bên kia phòng. Đằng đó có một chiếc ghế bọc nhung cầu kỳ và một cái bàn màu đỏ anh đào, mặt ghế quay ra cho phép người ngồi quan sát được toàn bộ phòng… mọi thứ có thể nói là tệ hơn cô tưởng, tệ hơn cả cái lãnh địa bí mật dưới lòng Raccoon của lão Irons điên khùng.
Có hai giếng nước xây theo đường lối riêng, một cái có giàn gông đóng cứng quanh tay vịn, cái kia có một cái lồng thép treo bên trên. Trên tường treo lủng lẳng những dây xích, một số có gắn theo những cái cùm còn tốt, một số có vòng cổ bằng da, một số nữa có lưỡi móc. Còn vài thiết bị tinh vi khác mà cô đã không nhìn kỹ, những thứ có bánh răng và đinh kim loại.
Claire đè nén nỗi ghê tởm xuống, tập trung vào khu vực ghế ngồi. Cách bài trí thanh nhã của căn phòng không biết sao chỉ càng khiến mọi thứ tệ hại đi, chẳng khác nào tô đậm thêm nhận thức lệnh lạc của một tay chủ nhân bị rối loạn tâm thần. Thưởng thức việc tra tấn người ta dường như vẫn chưa đủ, hắn ta - hay ả ta - còn muốn chiêm ngưỡng trong một khung cảnh tráng lệ, y như một kẻ quý tộc loạn trí.
Cô thấy một quyển sách ở cuối bàn và bước đến gần để cầm lên, ánh mắt vẫn nhìn đăm đăm tới trước. Virus, zombie, rồi quái vật, những cái chết vô nghĩa, tất cả những điều đó thật kinh tởm, vừa bi thảm vừa khủng khiếp – nhưng sự bệnh hoạn thể hiện bởi những dây xích và thiết bị chung quanh mới thật sự làm cô khiếp đảm đến tận xương tủy, nó khiến cô hầu như mất hẳn niềm tin vào cái gọi là nhân tính.
Quyến sách thật ra là một cuốn nhật ký, được bao da và làm bằng giấy chất lượng cao dày cộp. Bìa trong cho thấy nó là sở hữu của Tiến sĩ Enoch Stoker, ngoài ra không có thêm tựa đề hay lời chú gì cả.
“Hắn biết rõ tình hình, những mảnh ghép của câu đố…”
Claire chẳng muốn chạm vào một thứ đang nằm trơ trọi như mời mọc người ta đọc nó, nhưng Rodrigo có vẻ nghĩ rằng nó có ích. Cô lật qua vài trang, thấy chẳng có ghi ngày tháng gì cả, và bắt đầu đọc lướt những dòng chữ khẳng khiu khít rịt để tìm kiếm từ khóa hoặc tên gọi thân mật, hay thứ gì đó về câu đố, biết đâu đấy… và kia rồi, có một mục ghi nhận nhiều sự kiện liên quan tới Alfred Ashford. Cô hít một hơi sâu và bắt đầu đọc từ trên xuống.
Hôm nay, cuối cùng chúng tôi đã trò chuyện một cách chi tiết về sở thích và khoái lạc của tôi. Ngài Ashford không bộc bạch gì ngoài việc khích lệ tôi, giống như gã ta đã làm từ lúc tôi đến đây hồi sáu tuần trước. Gã cho tôi biết, rằng những nhu cầu của tôi hồi ban đầu khá là khác thường, nhưng đến giờ thì gã ta đã nắm vững hết mọi thứ, đến từng chi tiết. Thoạt tiên tôi thấy khó chịu, nhưng ngài Ashford – Alfred, gã ta yêu cầu tôi gọi là Alfred – chứng tỏ mình là một thính giả đầy háo hức. Gã nói mình và bà chị nhiệt liệt ủng hộ việc nghiên cứu trong giới hạn kinh nghiệm. Gã bảo, tôi nên coi họ như những người bạn tri âm, và tại đây, tôi có thể giảỉ bày một cách thoải mái.
Thật kỳ quặc, khi lớn tiếng diễn tả những cảm xúc, những cảm nhận và suy nghĩ mà tôi chưa từng nói ra. Tôi đã kể về việc đó bắt đầu như thế nào lúc tôi còn nhỏ. Về những con thú mà tôi đã trải qua hồi đầu, và sau đó là tới những đứa trẻ khác. Tôi không biết có phải mình có khả năng giết chóc hay không, nhưng cứ nhìn thấy máu là tôi lại kích động lên, chỉ có gây ra đau đớn mới giúp tôi lấp đầy được khoảng không trống trải cô độc trong nội tâm, tạo nên những cảm xúc sâu sắc về sức mạnh và quyền năng.
Tôi nghĩ gã ta rất hiểu về những tiếng thét, về tầm quan trọng của tiếng thét đối với tôi và…
Đủ rồi. Đây không phải thứ cô muốn tìm, nó chỉ khiến cô thấy muốn ói thôi. Cô lật qua vài trang, tìm được một mục khác nói về Alfred và cô chị, liếc thấy vài điểm về chỗ ở riêng và lùi lại, cau mày.
Alfred quan tâm đến một trong những cuộc mổ xác của tôi hôm nay, sau đó nói rằng Alexia hỏi thăm sức khỏe của tôi, rằng cô ấy muốn biết liệu tôi đã có đủ mọi thứ cần thiết chưa. Alfred vốn tôn sùng Alexia, và sẽ không cho phép một ai đến gần cô ấy, nên tôi chưa từng yêu cầu và cũng không có ý định được gặp cô ta; Alfred muốn nhà riêng của họ được giữ kín, mục đích chẳng qua là bảo vệ cô ta cho riêng mình. Gã nói chỗ đó nằm sau lâu đài, phần lớn mọi người không hề biết tới sự tồn tại của nó. Alfred bảo rằng không một ai khác được biết cả. Tôi nghĩ gã ta hiểu rõ giá trị của việc có một người quen cùng chung sở thích.
Gã nói Rockfort có nhiều chỗ cần dùng tới các chìa khóa khác lạ - kiểu như con mắt mà gã ta đưa cho tôi – một số còn mới, một số đã rất cũ. Edward Ashford, ông nội của Alfred Ashford, có vẻ bị ám ảnh về những bí mật, một sự ám ảnh do chịu ảnh hưởng từ những sáng lập viên khác của Umbrella, và Alfred thừa hưởng điều đó. Gã nói mình và Alexia là những kẻ sống sót duy nhất biết mọi khu vực bí ẩn ở Rockfort. Alfred có trong tay đầy đủ các chìa khóa lúc tiếp quản vị trí của ông nội, chúng được làm cho cả hai người họ. Tôi đùa rằng tốt hơn nên có một bộ nữa đề phòng trường hợp gã ta tự nhốt mình bên ngoài, và gã cười khẩy. Gã nói Alexia sẽ luôn luôn để gã ta vào trong.
Tôi tin rằng cặp chị em này có một mối liên hệ sâu sắc hơn hẳn những bộ đôi khác – nói theo kiểu ẩn dụ, nếu bạn cắt người này thì người kia sẽ chảy máu. Tôi rất muốn thử nghiệm giả thiết này theo đúng nghĩa đen về mức độ đau đớn. Tôi đã khám phá ra rằng, nhét đầy thủy tinh cắt vụn vào một vết thương mới và khâu nó lại là một…
Đồ bệnh hoạn. Claire liệng cuốn sách sang bên và chùi tay vào quần jean, tự nhủ mình biết nhiêu đó là quá đủ. Cô hy vọng một cách chân thành rằng cái thây chỗ bậc thang là của Tiến sĩ Stoker, rằng quả tim đen tối của hắn đã chịu đựng hết nổi, và ý nghĩ phải xuống địa ngục đã khiến bộ mặt hắn nhuốm đầy khiếp đảm – rồi cô đột ngột nhận thấy mình đã hít thở quá nhiều không khí ở đây, nhiều đến nỗi sẽ nôn oẹ ra nếu còn ở lại cái bệnh xá này thêm một phút giây nào nữa. Cô quay mình bước nhanh ra cửa, chạy như điên đến bên những bậc thang. Cô nhảy vọt lên hai bậc một, rồi chạy ào qua căn phòng bên trên mà không hề nhìn lại cái xác, không nghĩ đến bất cứ chuyện gì khác ngoài việc biến ra ngoài. Lúc đã ra được bên ngoài, chỗ lối đi dẫn vào cái máy chém, cô tựa người vào vách tường và thở hào hển, ra sức đè nén cơn buồn nôn xuống. Mất vài phút cô mới trở lại được bình thường.
Khi đã trấn tĩnh, Claire nạp một băng đạn mới và quay lại hướng khu huấn luyện. Cô phát hiện thấy mình bị mất khẩu súng thứ hai mà Steve đã đưa, có lẽ đâu đó giữa phòng tra tấn và cửa trước, nhưng giờ có cho vàng cô cũng không muốn chui vào đó nữa. Cô sẽ tìm Steve, rồi họ sẽ cùng tìm mấy cái khóa chết tiệt, cùng tránh xa cái nhà thương điên mà Umbrella dựng nên tại Rockfort.
o0o
Steve khóc lóc một hồi, lắc lư người từ sau ra trước một hồi, lờ mờ cảm thấy mình vừa làm một Việc Lớn. Có những thứ làm thay đổi con người ta vĩnh viễn, và đây là một việc như thế. Cậu đã phải giết chính cha mình. Cả hai người cha của cậu, những người tốt chẳng biết hại ai, đều đã chết. Sẽ không còn ai trên đời này yêu thương cậu nữa, và ý nghĩ đó lặp lại không ngừng, khiến cậu cứ khóc rồi lắc lư người từ sau ra trước.
Chính ý nghĩ về những khẩu Luger đã lôi cậu ra khỏi mớ cảm xúc bùng nhùng, nhắc cho cậu nhớ mình đang ở đâu và chuyện gì đang xảy ra. Cậu vẫn cảm thấy đau đớn kinh khủng cả về thể xác lẫn tinh thần, nhưng đã phần nào trở về với thực tại, cậu ước gì có Claire bên cạnh, ước gì có được một cốc nước. Những khẩu Luger. Đôi mắt mọng nước của Steve bắt gặp chúng, và cậu lôi cả hai ra khỏi thắt lưng, nhìn chúng chằm chằm. Cứ cho là ngu ngốc và vô nghĩa, nhưng từ sâu thẳm đâu đó trong trí óc, thấp thoáng cái khoảnh khắc mà cậu đã lấy những khẩu súng từ trên tường xuống, rồi đến cái lúc mà cậu bị nhốt trong lò nướng. Một cái bẫy… và điều hiển nhiên nhất mà cậu có thể tưởng tượng ra, đó là một cái bẫy như vậy dĩ nhiên dùng để ngăn ngừa kẻ khác ăn trộm súng.
Nghĩa là công dụng chúng không phải chỉ để bắn. Đúng rồi, chúng có hình dáng tuyệt hảo, được mạ vàng và hiển nhiên rất đắt, nhưng nhà Ashford đâu đếm xỉa gì tới tiền bạc chứ… và nếu chúng có giá trị tình cảm gì đó, thì đâu thể được đem ra làm bẫy như vậy?
Cậu quyết định nên quay lại và quan sát kỹ hơn nơi treo hai khẩu súng, để xem có gì xảy ra nếu đặt chúng về chỗ cũ không. Từ đây đến đó mất chừng hai phút là cùng, cậu có thể đi rồi về trong khoảng năm phút; Claire chắc sẽ chờ cậu nếu có về đây trước.
Nếu ở lại đây thì mình chỉ biết có khóc thôi. Cậu rất cần cái gì đó để làm.
Steve đứng dậy, cảm giác run rẩy và trống vắng khi phủi bụi dính trên quần, không sao tránh được việc liếc nhìn lại nơi cha mình đã chết. Cậu thấy dễ chịu hẳn khi nhận ra Claire đã che phủ ông bằng một tấm vải nhựa. Cô ấy thật cừ khôi… mặc dù vì một lý do nào đó, cậu cứ cảm thấy không được tự nhiên khi thuật lại cho cô mọi chi tiết. Cậu cũng không biết mình cảm thấy thế nào nữa.
Cậu bước ra ngoài, hơi ngạc nhiên khi thấy mình không đứng trong sân trước của khu huấn luyện. Cũng khá ngạc nhiên khi chứng kiến một chiếc xe tăng Đức từ thời Thế chiến II, đang nằm trong góc quanh chỗ cậu đã đi qua. Những bánh xích to tướng lấm len bùn, tháp pháo xoay vòng với một khẩu súng vĩ đại, toàn bộ đều nguyên vẹn.
Đáng lẽ cậu phải chú tâm tới nó từ trước mới đúng, ít nhất cũng phải ở mức độ cao hơn là hơi ngạc nhiên – chẳng có lý do gì mà một chiếc tăng lại hiện diện trong khu nghiên cứu Rockfort – nhưng lúc này, tất cả những gì cậu cần làm là xem lại cái bẫy của khẩu Luger, để xem có thể làm được gì đó để rời khỏi hòn đảo này. Cậu có một linh cảm tồi tệ, rằng Claire đang sa lầy với việc hỏi han gã Umbrella bị thương, mà cậu là người đã khơi mào chuyện đó.
Mặt bên kia chiếc tăng là một cánh cửa mở ra sân huấn luyện. Ít nhất thì cảm giác của cậu còn chưa bị hỏng. Có vẻ trời đã tối hơn; Steve nhìn lên và thấy mây đã che phủ cả trăng lẫn sao. Lúc băng qua sân được nửa đường thì có tiếng sấm, lớn đến nỗi mặt đất hình như rung chuyển dưới chân cậu. Đến khi cậu tới được đầu bên kia thì trời tiếp tục đổ mưa.
Steve gia tăng nhịp chân, đảo người sang phải và hướng tới lâu đài. Trời mưa nặng hạt và lạnh giá, nhưng cậu đón nhận nó không chút ngần ngại, bằng cách há lớn miệng và ngửng mặt lên trời, mặc cho nước mưa gột rửa khắp mình. Chỉ vài giây sau là cậu đã ướt đầm đìa.
“Steve!”
Claire.
Cậu có cảm giác bao tử thót lên một cái, trong lúc quay lại nhìn cô chạy đến. Cô bắt kịp cậu bên ngoài cánh cửa dẫn vào lâu đài, dáng vẻ đầy lo lắng.
“Cậu ổn chứ?” cô vừa hỏi vừa ngập ngừng quan sát cậu, những hạt mưa long lanh rủ xuống từ đôi mắt.
Steve định nói rằng mình cừ lắm chứ bộ, rằng cậu đã gạt bỏ mọi điều tồi tệ nhất và sẵn sàng tiếp tục cuộc săn zombie, nhưng khi cậu mở miệng ra thì không nói được chữ nào.
“Tôi chẳng biết nữa. Chắc là ổn,” cậu nói một cách thật thà, cố nặn một nụ cười nửa miệng. Cậu không muốn làm cô ấy lo lắng, nhưng cũng không muốn gợi lại việc đó chút nào.
Có vẻ Claire cũng hiểu, nên lập tức đổi chủ đề.
“Tôi phát giác ra chị em sinh đôi nhà Ashford có một chỗ trú ẩn bí mật phía sau lâu đài,” cô nói. “Không hoàn toàn chắc chắn, nhưng những chìa khóa mà chúng ta tìm có lẽ nằm ở đó. Tôi nghĩ rất có thể lắm.”
“Chắc cô nhận ra điều đó từ, ừm, Rodrigo?” Steve ngờ vực hỏi. Thật khó tưởng tượng nổi một tên nhân viên Umbrella lại tiết lộ bí mật cho kẻ thù.
Claire do dự, rồi gật đầu. “Ở chỗ lối đi vòng cung,” cô đáp, và cậu thình lình có cảm giác cô đang che dấu điều gì đó. Nhưng cậu không hỏi gì mà chỉ chờ.
“Vấn đề là làm sao vào trong tòa nhà,” cô nói tiếp. “Tôi chắc là nó đã bị khóa, nên có lẽ chúng ta phải mò mẫm quanh lâu đài một ít, để coi có kiếm được bản đồ hay lối đi nào không…”
Cô vén mái tóc ướt sũng đang che phủ cặp mắt, mỉm cười. “…và cậu biết đấy, kiếm chỗ tránh mưa trước khi ướt như chuột lột.”
Steve đồng ý. Họ tiến theo lối đi băng ngang khu đất nham nhở, bước qua vài cái xác vất vưởng dọc đường. Cậu thuật lại với cô ý tưởng của mình về những khẩu Luger, một hy vọng mà cô nghĩ họ nhất định phải bám lấy – cho dù Claire vẫn ngờ rằng, những câu đố tinh ranh nho nhỏ của Umbrella chưa chắc đã theo lô gíc, khi mà nhà Ashford đang nắm quyền kiểm soát hòn đảo.
Họ dừng chân ở cổng trước để chỉnh lại quần áo, kẻo lại bị nó làm vướng víu. Cả hai đều ướt mẹt, cho dù đã cố hết sức vắt khô nước mưa. Thật may mắn là mấy đôi giày hãy còn khô; mặc quần áo ướt vốn chẳng dễ chịu gì, nhưng đi lòng vòng trong một đôi giày ì ọp còn tệ hơn gấp bội.
Steve giương súng lên và mở cửa. Cả hai vừa tiến vào vừa run lập cập…
…và nghe có tiếng đóng cửa phát ra trên cầu thang, bên phải.
“Alfred,” Steve hạ thấp giọng. “Dám cá là hắn. Nghĩ coi nếu bọn mình khoét vài cái lỗ lên cái mông thảm thương của hắn thì sao nhỉ?”
Cậu tiến đến cầu thang, bỏ mặc câu hỏi lại đằng sau. Tên điên khùng này phải chết mới đáng tội, vì những lý do mà Steve đến không xuể.
Claire bám theo, đặt tay lên vai cậu. “Nghe này, tôi tìm thấy một số thứ đằng sau nhà tù… nó cho thấy hắn không những điên khùng, mà còn điên khùng trầm trọng. Kiểu một thằng điên giết người hàng loạt.”
“Hiểu rồi,” Steve đáp. “Lại thêm một lý do nữa để xử hắn càng mau càng tốt.”
“Chỉ là… chỉ là nên cẩn thận nhé?”
Claire có vẻ lo lắng, và Steve bất chợt thấy như được che chở tuyệt đối.
Đúng, hắn sẽ phải đền tội, cậu nghĩ dứt khoát, nhưng vẫn gật đầu để Claire yên dạ. “Nhất định rồi.”
Họ di chuyển nhanh chóng lên cầu thang, dừng lại bên ngoài cánh cửa đóng lại hồi nãy. Steve bước chắn ra trước Claire, cô khẽ nhướng mày nhưng không nói gì cả.
“Đến đến ba,” cậu thì thào, xoay tay nắm cửa thật chậm, thấy mừng vì nó không khóa. “Một, hai, ba!”
Cậu xô mạnh cánh cửa, lao vào phòng và quét nhanh khẩu súng, sẵn sàng bắn bất cứ thứ gì di động, nhưng không có gì cả. Đây là một văn phòng nhỏ trống không với ánh sáng dìu dịu, chung quanh dựng đầy các kệ.
Claire cũng đã vào và hướng sang trái, đi qua một cái trường kỷ và một cái bàn thấp chỗ bức tường phía bắc. Steve thất vọng đi theo cô, chờ đợi có thêm một cánh cửa khác dẫn vào một hành lang khác, thấy ngán tới tận cổ với những mê lộ ngớ ngẩn ở khắp mọi nơi, vốn luôn khiến cậu phát bực cả mình…
Cậu dừng bước và nhìn chăm chú, giống y như Claire cũng đang làm. Cách chừng mười bước là một bức tường, một ngõ cụt với hai khuôn trống khoét trên một tấm bảng ngang ngực, hình dáng giống hệt hai khẩu Luger.
Steve rùn mình sung sướng trước chiến thắng. Cậu không có một lý do xác thực nào để tin rằng họ có thể tìm được lối vào chỗ trú ẩn bí mật của nhà Ashford, nhưng dẫu sao cậu vẫn cứ tin. Có lẽ Claire cũng vậy.
“Tôi nghĩ chúng ta tìm ra rồi,” cô khẽ nói. “Dám cá là vậy.”
Tao sẽ giết bất cứ đứa nào dám quấy rầy, gã nghĩ thầm theo thói quen thường lệ. Thật đáng mừng, thay vì biến thành một xác chết thì gã lại vớ được một khẩu súng hẳn hoi. Một tên bảo vệ bị nhiễm đã té lăn xuống cầu thang và trườn vào nhà giam sau khi cô gái rời đi một lúc, Rodrigo giết nó bằng một cú đá ngay đầu rồi tước vũ khí, lúc đó vẫn nằm trong cái bao ngang phần hông gãy nát.
Gã chờ đợi, vừa ước gì mình có thể ngủ yên trở lại, lại vừa phải cảnh giác cao độ. Khẩu súng đã giúp đầu óc gã nhẹ nhõm đôi chút, và góp phần đẩy lui nỗi sợ hãi. Rồi gã sẽ phải nhắm mắt xuôi tay, không sớm thì muộn… nhưng dù thế nào đi nữa, gã cũng không muốn biến thành một trong số bọn chúng. Tự sát có thể nói là một tội lỗi khủng khiếp, nhưng nếu không đủ sức chống trả lại bọn nhiễm virus, có lẽ gã nên tự ban cho mình một viên đạn trước khi rơi vào tay nó. Đường nào rồi cũng xuống địa ngục thôi.
Những tiếng bước chân, và ai đó đang tiến vào phòng giam, rất nhanh. Zombie ư? Các giác quan của gã không còn nhạy bén nữa, nên khó mà nói được thứ đó đang đi nhanh hay gã đang phản ứng chậm, nhưng gã biết mình phải bóp cò cho nhanh một khi còn cơ hội.
Thình lình có một tia sáng nhỏ xuyên thấu bóng tối – và cô ta đứng đó, ngay trước mắt gã như trong một giấc mơ. Cô Redfield, vẫn sống, đang giơ cao bật lửa, cô để nguyên cho nó cháy và đặt xuống bàn như một chiếc đèn lồng nhỏ xíu.
“Cô làm gì ở đây?” Rodrigo lầm bầm, nhưng Claire không nhìn gã ta vì bận lục lọi cái túi ngang thắt lưng. Gã buông rơi khẩu súng khỏi tay, mắt nhắm lại chừng một giây hoặc một lúc gì đó. Khi mở mắt ra thì cô gái đang sờ soạng cánh tay hắn, tay kia cầm một ống tiêm.
“Đây là thuốc cầm máu,” cô cất tiếng, giọng nói mềm mại chẳng khác gì bàn tay, chỗ kim châm vào khẽ nhói lên rất nhanh.
“Đừng lo, anh không bị tiêm quá liều đâu, người ta có viết rõ liều lượng trên lưng lọ thuốc. Trong đó ghi rằng nó làm chậm lại tiến trình xuất huyết nội, nên anh sẽ không sao cho tới khi có người đến giúp. Tôi sẽ để bật lửa lại đây… anh tôi đã tặng nó cho tôi, một vật may mắn đấy.”
Trong lúc cô nói chuyện, Rodrigo tập trung lấy lại tinh thần, cố gắng vượt qua sự vô cảm trong nội tâm. Những gì Claire nói thật khác thường, bởi lẽ chính gã đã thả cô ta, cô ta cũng đã đi rồi. Thế sao cô còn quay lại giúp gã làm gì?
Bởi vì mình đã thả cô ta đi. Nhận thức ấy nảy sinh trong gã, nhấn chìm gã trong cơn xấu hổ và biết ơn lẫn lộn.
“Tôi… cô thật tốt bụng,” gã thì thào, ao ước mình có thể làm gì đó cho cô, một việc gì đó để đáp đền lòng trắc ẩn. Gã lục lọi trong ký ức, những lời đồn và sự thật về hòn đảo, có thể giúp cô ấy thoát thân…
“Cái máy chém,” gã nói, hai mắt chớp chớp, cố gắng không để ngữ điệu bị lắp bắp quá đáng. “Đằng sau nó là bệnh xá, chìa khóa trong túi tôi… dường như có bí ẩn ở đó. Hắn biết rõ động tĩnh, những mảnh ráp của câu đố... cô biết máy chém ở đâu chưa?”
Claire gật đầu. “Có. Cảm ơn anh, Rodrigo, nó sẽ giúp tôi rất nhiều. Bây giờ anh nghỉ ngơi đi nhé.”
Cô với tay vuốt mái tóc của gã ra sau trán, một cử chỉ đơn giản nhưng vô cùng tử tế, vô cùng chu đáo, khiến nước mắt gã cứ chực trào ra.
“Nghỉ ngơi đi,” cô lại nói, và gã nhắm nghiền hai mắt, trong lòng tràn ngập một cảm giác thư thái êm đềm chưa từng có trong đời. Ý nghĩ cuối cùng của gã trước khi chìm vào giấc ngủ, đó là hy vọng cô có thể tha thứ cho những việc gã đã làm, có thể ban cho gã một sự khoan dung mà gã đáng được hưởng, để cuối cùng, có thể gã không phải xuống địa ngục nữa.
o0o
Rodrigo nói đúng về những bí ẩn. Claire đang đứng ở cuối hàng lang dưới tầng hầm bí mật, lấy hết can đảm để mở cánh cửa trơ trụi ngay trước mặt.
Bệnh xá phải nói là nhỏ bé và khó chịu, chẳng giống chút nào với những gì Claire chờ đợi ở một khu chuyên khoa của Umbrella – không thấy một thiết bị y tế nào, không một chút gì ra vẻ hiện đại. Chỉ có mỗi một cái bàn khám trong phòng trước, lớp sàn gỗ nứt nẻ xung quanh vấy đầy máu, một cái khay dụng cụ kiểu-y-khoa nằm gần đó. Căn phòng bên cạnh thì đã cháy không còn hình thù; nên cô không sao đoán được nó dùng cho mục đích gì, nhưng có vẻ là một nơi pha tạp giữa phòng hồi sức và lò thiêu. Nó cũng bốc mùi y như cái đầu tiên.
Có một văn phòng nhỏ bừa bộn nằm cách xa căn đầu tiên, đằng trước nó có độc nhất một thi thể nằm sóng xoài của một người đàn ông mặc áo khoác trong phòng thí nghiệm, khuôn mặt nhỏ thó xám ngoét lộ rõ vẻ khủng khiếp. Gã không có dấu hiệu đã bị lây nhiễm, và căn cứ vào việc không có một vật chủ virus nào cũng như không có vết thương rõ rệt nào, cô đoán gã ta đã lên cơn đau tim, hoặc đại loại thế. Bộ mặt co rúm đến méo mó, hai mắt trợn trừng và mồm há hốc, gợi lên cho cô ý nghĩ rằng gã ta đã chết vì sợ.
Claire cẩn thận bước qua cái xác, và tình cờ khám phá ra bí ẩn đầu tiên của căn phòng nhỏ này. Giày của cô vấp trúng một thứ lúc bước vào, mới đầu tưởng là hòn bi hay hòn đá gì đó nằm lăn lóc dưới sàn – hóa ra nó là một thứ chìa khóa hết sức khác thường. Một con mắt thủy tinh, đúng ra phải được gắn trên khuôn mặt kỳ quái bằng plastic của cái hình nộm giải phẫu, lúc này đang liếc mắt một cách đểu cáng trong góc phòng.
Với những điều Steve đã nói, về việc không ai trở lại từ bệnh xá, cộng thêm những gì đã biết về sự hứng thú điên loạn của Umbrella, nên Claire chẳng hề ngạc nhiên khi khám phá được lối đi ẩn phía sau vách tường. Những bậc thang đá mòn vẹt lộ ra khi cô đặt con mắt về đúng vị trí, đương nhiên cũng không phải là điều gây bất ngờ. Một bí mật, một thủ thuật, và Umbrella thì đầy rẫy những bí mật và thủ thuật kiểu này.
Mở cửa thôi. Để xem có gì nào.
Phải vậy thôi. Cô đâu có rỗi hơi cả ngày. Cô không muốn để Steve ở một mình quá lâu, nói cách khác là cô rất lo lắng cho cậu ta. Cậu ấy đã phải giết chính cha mình; và cô không thể tưởng tượng nổi còn có sự đả kích tinh thần nào lớn hơn thế nữa…
Claire lắc đầu, tự trách mình đã lãng phí thì giờ. Điều đó có gì quan trọng đâu khi cô đang ở một nơi vắng vẻ đến ghê rợn, với hàng tá người tưởng như đã chết, một nơi có thể cảm nhận được nỗi khiếp sợ tỏa ra từ những bức tường lạnh giá, quẩn quyện quanh người cô như một tấm vải liệm tử thi…
“Có gì quan trọng đâu,” cô nói và mở toang cánh cửa.
Ngay lập tức, có ba vật chủ nhiễm virus lắc lư tiến đến, thu hút toàn bộ sự chú ý của cô, khiến cô không thể quan sát được đầy đủ căn phòng rộng lớn bên trong. Cả ba đứa đều đã biến dạng tồi tệ, tứ chi tàn khuyết, da dẻ tả tơi, các thớ thịt thối rữa bong ra nhuốm đầy máu. Chúng di chuyển chậm chạp, lê mình đến chỗ cô một cách khó khăn, và cô có thể trông thấy những vết sẹo đã cũ trên lớp mô trần trụi mục rữa. Cho dù đã chuẩn bị tinh thần từ trước, ruột gan cô vẫn cứ cồn lên phát ói.
Ít nhất thì mọi chuyện cũng qua rất nhanh – nhưng một sự nghi ngại kinh khủng đang lớn dần trong óc cô, rằng những gì cô hy vọng đều vô nghĩa, khi nhìn quanh một lượt.
Lạy Chúa.
Căn phòng trang nhã đến lạ thường dưới ánh sáng lặng lẽ tuôn ra từ chúc đèn treo. Mặt sàn được lát đá và trang trí bằng một tấm thảm dệt tinh xảo, kéo dài từ cửa đến tận khu đặt chỗ ngồi phía bên kia phòng. Đằng đó có một chiếc ghế bọc nhung cầu kỳ và một cái bàn màu đỏ anh đào, mặt ghế quay ra cho phép người ngồi quan sát được toàn bộ phòng… mọi thứ có thể nói là tệ hơn cô tưởng, tệ hơn cả cái lãnh địa bí mật dưới lòng Raccoon của lão Irons điên khùng.
Có hai giếng nước xây theo đường lối riêng, một cái có giàn gông đóng cứng quanh tay vịn, cái kia có một cái lồng thép treo bên trên. Trên tường treo lủng lẳng những dây xích, một số có gắn theo những cái cùm còn tốt, một số có vòng cổ bằng da, một số nữa có lưỡi móc. Còn vài thiết bị tinh vi khác mà cô đã không nhìn kỹ, những thứ có bánh răng và đinh kim loại.
Claire đè nén nỗi ghê tởm xuống, tập trung vào khu vực ghế ngồi. Cách bài trí thanh nhã của căn phòng không biết sao chỉ càng khiến mọi thứ tệ hại đi, chẳng khác nào tô đậm thêm nhận thức lệnh lạc của một tay chủ nhân bị rối loạn tâm thần. Thưởng thức việc tra tấn người ta dường như vẫn chưa đủ, hắn ta - hay ả ta - còn muốn chiêm ngưỡng trong một khung cảnh tráng lệ, y như một kẻ quý tộc loạn trí.
Cô thấy một quyển sách ở cuối bàn và bước đến gần để cầm lên, ánh mắt vẫn nhìn đăm đăm tới trước. Virus, zombie, rồi quái vật, những cái chết vô nghĩa, tất cả những điều đó thật kinh tởm, vừa bi thảm vừa khủng khiếp – nhưng sự bệnh hoạn thể hiện bởi những dây xích và thiết bị chung quanh mới thật sự làm cô khiếp đảm đến tận xương tủy, nó khiến cô hầu như mất hẳn niềm tin vào cái gọi là nhân tính.
Quyến sách thật ra là một cuốn nhật ký, được bao da và làm bằng giấy chất lượng cao dày cộp. Bìa trong cho thấy nó là sở hữu của Tiến sĩ Enoch Stoker, ngoài ra không có thêm tựa đề hay lời chú gì cả.
“Hắn biết rõ tình hình, những mảnh ghép của câu đố…”
Claire chẳng muốn chạm vào một thứ đang nằm trơ trọi như mời mọc người ta đọc nó, nhưng Rodrigo có vẻ nghĩ rằng nó có ích. Cô lật qua vài trang, thấy chẳng có ghi ngày tháng gì cả, và bắt đầu đọc lướt những dòng chữ khẳng khiu khít rịt để tìm kiếm từ khóa hoặc tên gọi thân mật, hay thứ gì đó về câu đố, biết đâu đấy… và kia rồi, có một mục ghi nhận nhiều sự kiện liên quan tới Alfred Ashford. Cô hít một hơi sâu và bắt đầu đọc từ trên xuống.
Hôm nay, cuối cùng chúng tôi đã trò chuyện một cách chi tiết về sở thích và khoái lạc của tôi. Ngài Ashford không bộc bạch gì ngoài việc khích lệ tôi, giống như gã ta đã làm từ lúc tôi đến đây hồi sáu tuần trước. Gã cho tôi biết, rằng những nhu cầu của tôi hồi ban đầu khá là khác thường, nhưng đến giờ thì gã ta đã nắm vững hết mọi thứ, đến từng chi tiết. Thoạt tiên tôi thấy khó chịu, nhưng ngài Ashford – Alfred, gã ta yêu cầu tôi gọi là Alfred – chứng tỏ mình là một thính giả đầy háo hức. Gã nói mình và bà chị nhiệt liệt ủng hộ việc nghiên cứu trong giới hạn kinh nghiệm. Gã bảo, tôi nên coi họ như những người bạn tri âm, và tại đây, tôi có thể giảỉ bày một cách thoải mái.
Thật kỳ quặc, khi lớn tiếng diễn tả những cảm xúc, những cảm nhận và suy nghĩ mà tôi chưa từng nói ra. Tôi đã kể về việc đó bắt đầu như thế nào lúc tôi còn nhỏ. Về những con thú mà tôi đã trải qua hồi đầu, và sau đó là tới những đứa trẻ khác. Tôi không biết có phải mình có khả năng giết chóc hay không, nhưng cứ nhìn thấy máu là tôi lại kích động lên, chỉ có gây ra đau đớn mới giúp tôi lấp đầy được khoảng không trống trải cô độc trong nội tâm, tạo nên những cảm xúc sâu sắc về sức mạnh và quyền năng.
Tôi nghĩ gã ta rất hiểu về những tiếng thét, về tầm quan trọng của tiếng thét đối với tôi và…
Đủ rồi. Đây không phải thứ cô muốn tìm, nó chỉ khiến cô thấy muốn ói thôi. Cô lật qua vài trang, tìm được một mục khác nói về Alfred và cô chị, liếc thấy vài điểm về chỗ ở riêng và lùi lại, cau mày.
Alfred quan tâm đến một trong những cuộc mổ xác của tôi hôm nay, sau đó nói rằng Alexia hỏi thăm sức khỏe của tôi, rằng cô ấy muốn biết liệu tôi đã có đủ mọi thứ cần thiết chưa. Alfred vốn tôn sùng Alexia, và sẽ không cho phép một ai đến gần cô ấy, nên tôi chưa từng yêu cầu và cũng không có ý định được gặp cô ta; Alfred muốn nhà riêng của họ được giữ kín, mục đích chẳng qua là bảo vệ cô ta cho riêng mình. Gã nói chỗ đó nằm sau lâu đài, phần lớn mọi người không hề biết tới sự tồn tại của nó. Alfred bảo rằng không một ai khác được biết cả. Tôi nghĩ gã ta hiểu rõ giá trị của việc có một người quen cùng chung sở thích.
Gã nói Rockfort có nhiều chỗ cần dùng tới các chìa khóa khác lạ - kiểu như con mắt mà gã ta đưa cho tôi – một số còn mới, một số đã rất cũ. Edward Ashford, ông nội của Alfred Ashford, có vẻ bị ám ảnh về những bí mật, một sự ám ảnh do chịu ảnh hưởng từ những sáng lập viên khác của Umbrella, và Alfred thừa hưởng điều đó. Gã nói mình và Alexia là những kẻ sống sót duy nhất biết mọi khu vực bí ẩn ở Rockfort. Alfred có trong tay đầy đủ các chìa khóa lúc tiếp quản vị trí của ông nội, chúng được làm cho cả hai người họ. Tôi đùa rằng tốt hơn nên có một bộ nữa đề phòng trường hợp gã ta tự nhốt mình bên ngoài, và gã cười khẩy. Gã nói Alexia sẽ luôn luôn để gã ta vào trong.
Tôi tin rằng cặp chị em này có một mối liên hệ sâu sắc hơn hẳn những bộ đôi khác – nói theo kiểu ẩn dụ, nếu bạn cắt người này thì người kia sẽ chảy máu. Tôi rất muốn thử nghiệm giả thiết này theo đúng nghĩa đen về mức độ đau đớn. Tôi đã khám phá ra rằng, nhét đầy thủy tinh cắt vụn vào một vết thương mới và khâu nó lại là một…
Đồ bệnh hoạn. Claire liệng cuốn sách sang bên và chùi tay vào quần jean, tự nhủ mình biết nhiêu đó là quá đủ. Cô hy vọng một cách chân thành rằng cái thây chỗ bậc thang là của Tiến sĩ Stoker, rằng quả tim đen tối của hắn đã chịu đựng hết nổi, và ý nghĩ phải xuống địa ngục đã khiến bộ mặt hắn nhuốm đầy khiếp đảm – rồi cô đột ngột nhận thấy mình đã hít thở quá nhiều không khí ở đây, nhiều đến nỗi sẽ nôn oẹ ra nếu còn ở lại cái bệnh xá này thêm một phút giây nào nữa. Cô quay mình bước nhanh ra cửa, chạy như điên đến bên những bậc thang. Cô nhảy vọt lên hai bậc một, rồi chạy ào qua căn phòng bên trên mà không hề nhìn lại cái xác, không nghĩ đến bất cứ chuyện gì khác ngoài việc biến ra ngoài. Lúc đã ra được bên ngoài, chỗ lối đi dẫn vào cái máy chém, cô tựa người vào vách tường và thở hào hển, ra sức đè nén cơn buồn nôn xuống. Mất vài phút cô mới trở lại được bình thường.
Khi đã trấn tĩnh, Claire nạp một băng đạn mới và quay lại hướng khu huấn luyện. Cô phát hiện thấy mình bị mất khẩu súng thứ hai mà Steve đã đưa, có lẽ đâu đó giữa phòng tra tấn và cửa trước, nhưng giờ có cho vàng cô cũng không muốn chui vào đó nữa. Cô sẽ tìm Steve, rồi họ sẽ cùng tìm mấy cái khóa chết tiệt, cùng tránh xa cái nhà thương điên mà Umbrella dựng nên tại Rockfort.
o0o
Steve khóc lóc một hồi, lắc lư người từ sau ra trước một hồi, lờ mờ cảm thấy mình vừa làm một Việc Lớn. Có những thứ làm thay đổi con người ta vĩnh viễn, và đây là một việc như thế. Cậu đã phải giết chính cha mình. Cả hai người cha của cậu, những người tốt chẳng biết hại ai, đều đã chết. Sẽ không còn ai trên đời này yêu thương cậu nữa, và ý nghĩ đó lặp lại không ngừng, khiến cậu cứ khóc rồi lắc lư người từ sau ra trước.
Chính ý nghĩ về những khẩu Luger đã lôi cậu ra khỏi mớ cảm xúc bùng nhùng, nhắc cho cậu nhớ mình đang ở đâu và chuyện gì đang xảy ra. Cậu vẫn cảm thấy đau đớn kinh khủng cả về thể xác lẫn tinh thần, nhưng đã phần nào trở về với thực tại, cậu ước gì có Claire bên cạnh, ước gì có được một cốc nước. Những khẩu Luger. Đôi mắt mọng nước của Steve bắt gặp chúng, và cậu lôi cả hai ra khỏi thắt lưng, nhìn chúng chằm chằm. Cứ cho là ngu ngốc và vô nghĩa, nhưng từ sâu thẳm đâu đó trong trí óc, thấp thoáng cái khoảnh khắc mà cậu đã lấy những khẩu súng từ trên tường xuống, rồi đến cái lúc mà cậu bị nhốt trong lò nướng. Một cái bẫy… và điều hiển nhiên nhất mà cậu có thể tưởng tượng ra, đó là một cái bẫy như vậy dĩ nhiên dùng để ngăn ngừa kẻ khác ăn trộm súng.
Nghĩa là công dụng chúng không phải chỉ để bắn. Đúng rồi, chúng có hình dáng tuyệt hảo, được mạ vàng và hiển nhiên rất đắt, nhưng nhà Ashford đâu đếm xỉa gì tới tiền bạc chứ… và nếu chúng có giá trị tình cảm gì đó, thì đâu thể được đem ra làm bẫy như vậy?
Cậu quyết định nên quay lại và quan sát kỹ hơn nơi treo hai khẩu súng, để xem có gì xảy ra nếu đặt chúng về chỗ cũ không. Từ đây đến đó mất chừng hai phút là cùng, cậu có thể đi rồi về trong khoảng năm phút; Claire chắc sẽ chờ cậu nếu có về đây trước.
Nếu ở lại đây thì mình chỉ biết có khóc thôi. Cậu rất cần cái gì đó để làm.
Steve đứng dậy, cảm giác run rẩy và trống vắng khi phủi bụi dính trên quần, không sao tránh được việc liếc nhìn lại nơi cha mình đã chết. Cậu thấy dễ chịu hẳn khi nhận ra Claire đã che phủ ông bằng một tấm vải nhựa. Cô ấy thật cừ khôi… mặc dù vì một lý do nào đó, cậu cứ cảm thấy không được tự nhiên khi thuật lại cho cô mọi chi tiết. Cậu cũng không biết mình cảm thấy thế nào nữa.
Cậu bước ra ngoài, hơi ngạc nhiên khi thấy mình không đứng trong sân trước của khu huấn luyện. Cũng khá ngạc nhiên khi chứng kiến một chiếc xe tăng Đức từ thời Thế chiến II, đang nằm trong góc quanh chỗ cậu đã đi qua. Những bánh xích to tướng lấm len bùn, tháp pháo xoay vòng với một khẩu súng vĩ đại, toàn bộ đều nguyên vẹn.
Đáng lẽ cậu phải chú tâm tới nó từ trước mới đúng, ít nhất cũng phải ở mức độ cao hơn là hơi ngạc nhiên – chẳng có lý do gì mà một chiếc tăng lại hiện diện trong khu nghiên cứu Rockfort – nhưng lúc này, tất cả những gì cậu cần làm là xem lại cái bẫy của khẩu Luger, để xem có thể làm được gì đó để rời khỏi hòn đảo này. Cậu có một linh cảm tồi tệ, rằng Claire đang sa lầy với việc hỏi han gã Umbrella bị thương, mà cậu là người đã khơi mào chuyện đó.
Mặt bên kia chiếc tăng là một cánh cửa mở ra sân huấn luyện. Ít nhất thì cảm giác của cậu còn chưa bị hỏng. Có vẻ trời đã tối hơn; Steve nhìn lên và thấy mây đã che phủ cả trăng lẫn sao. Lúc băng qua sân được nửa đường thì có tiếng sấm, lớn đến nỗi mặt đất hình như rung chuyển dưới chân cậu. Đến khi cậu tới được đầu bên kia thì trời tiếp tục đổ mưa.
Steve gia tăng nhịp chân, đảo người sang phải và hướng tới lâu đài. Trời mưa nặng hạt và lạnh giá, nhưng cậu đón nhận nó không chút ngần ngại, bằng cách há lớn miệng và ngửng mặt lên trời, mặc cho nước mưa gột rửa khắp mình. Chỉ vài giây sau là cậu đã ướt đầm đìa.
“Steve!”
Claire.
Cậu có cảm giác bao tử thót lên một cái, trong lúc quay lại nhìn cô chạy đến. Cô bắt kịp cậu bên ngoài cánh cửa dẫn vào lâu đài, dáng vẻ đầy lo lắng.
“Cậu ổn chứ?” cô vừa hỏi vừa ngập ngừng quan sát cậu, những hạt mưa long lanh rủ xuống từ đôi mắt.
Steve định nói rằng mình cừ lắm chứ bộ, rằng cậu đã gạt bỏ mọi điều tồi tệ nhất và sẵn sàng tiếp tục cuộc săn zombie, nhưng khi cậu mở miệng ra thì không nói được chữ nào.
“Tôi chẳng biết nữa. Chắc là ổn,” cậu nói một cách thật thà, cố nặn một nụ cười nửa miệng. Cậu không muốn làm cô ấy lo lắng, nhưng cũng không muốn gợi lại việc đó chút nào.
Có vẻ Claire cũng hiểu, nên lập tức đổi chủ đề.
“Tôi phát giác ra chị em sinh đôi nhà Ashford có một chỗ trú ẩn bí mật phía sau lâu đài,” cô nói. “Không hoàn toàn chắc chắn, nhưng những chìa khóa mà chúng ta tìm có lẽ nằm ở đó. Tôi nghĩ rất có thể lắm.”
“Chắc cô nhận ra điều đó từ, ừm, Rodrigo?” Steve ngờ vực hỏi. Thật khó tưởng tượng nổi một tên nhân viên Umbrella lại tiết lộ bí mật cho kẻ thù.
Claire do dự, rồi gật đầu. “Ở chỗ lối đi vòng cung,” cô đáp, và cậu thình lình có cảm giác cô đang che dấu điều gì đó. Nhưng cậu không hỏi gì mà chỉ chờ.
“Vấn đề là làm sao vào trong tòa nhà,” cô nói tiếp. “Tôi chắc là nó đã bị khóa, nên có lẽ chúng ta phải mò mẫm quanh lâu đài một ít, để coi có kiếm được bản đồ hay lối đi nào không…”
Cô vén mái tóc ướt sũng đang che phủ cặp mắt, mỉm cười. “…và cậu biết đấy, kiếm chỗ tránh mưa trước khi ướt như chuột lột.”
Steve đồng ý. Họ tiến theo lối đi băng ngang khu đất nham nhở, bước qua vài cái xác vất vưởng dọc đường. Cậu thuật lại với cô ý tưởng của mình về những khẩu Luger, một hy vọng mà cô nghĩ họ nhất định phải bám lấy – cho dù Claire vẫn ngờ rằng, những câu đố tinh ranh nho nhỏ của Umbrella chưa chắc đã theo lô gíc, khi mà nhà Ashford đang nắm quyền kiểm soát hòn đảo.
Họ dừng chân ở cổng trước để chỉnh lại quần áo, kẻo lại bị nó làm vướng víu. Cả hai đều ướt mẹt, cho dù đã cố hết sức vắt khô nước mưa. Thật may mắn là mấy đôi giày hãy còn khô; mặc quần áo ướt vốn chẳng dễ chịu gì, nhưng đi lòng vòng trong một đôi giày ì ọp còn tệ hơn gấp bội.
Steve giương súng lên và mở cửa. Cả hai vừa tiến vào vừa run lập cập…
…và nghe có tiếng đóng cửa phát ra trên cầu thang, bên phải.
“Alfred,” Steve hạ thấp giọng. “Dám cá là hắn. Nghĩ coi nếu bọn mình khoét vài cái lỗ lên cái mông thảm thương của hắn thì sao nhỉ?”
Cậu tiến đến cầu thang, bỏ mặc câu hỏi lại đằng sau. Tên điên khùng này phải chết mới đáng tội, vì những lý do mà Steve đến không xuể.
Claire bám theo, đặt tay lên vai cậu. “Nghe này, tôi tìm thấy một số thứ đằng sau nhà tù… nó cho thấy hắn không những điên khùng, mà còn điên khùng trầm trọng. Kiểu một thằng điên giết người hàng loạt.”
“Hiểu rồi,” Steve đáp. “Lại thêm một lý do nữa để xử hắn càng mau càng tốt.”
“Chỉ là… chỉ là nên cẩn thận nhé?”
Claire có vẻ lo lắng, và Steve bất chợt thấy như được che chở tuyệt đối.
Đúng, hắn sẽ phải đền tội, cậu nghĩ dứt khoát, nhưng vẫn gật đầu để Claire yên dạ. “Nhất định rồi.”
Họ di chuyển nhanh chóng lên cầu thang, dừng lại bên ngoài cánh cửa đóng lại hồi nãy. Steve bước chắn ra trước Claire, cô khẽ nhướng mày nhưng không nói gì cả.
“Đến đến ba,” cậu thì thào, xoay tay nắm cửa thật chậm, thấy mừng vì nó không khóa. “Một, hai, ba!”
Cậu xô mạnh cánh cửa, lao vào phòng và quét nhanh khẩu súng, sẵn sàng bắn bất cứ thứ gì di động, nhưng không có gì cả. Đây là một văn phòng nhỏ trống không với ánh sáng dìu dịu, chung quanh dựng đầy các kệ.
Claire cũng đã vào và hướng sang trái, đi qua một cái trường kỷ và một cái bàn thấp chỗ bức tường phía bắc. Steve thất vọng đi theo cô, chờ đợi có thêm một cánh cửa khác dẫn vào một hành lang khác, thấy ngán tới tận cổ với những mê lộ ngớ ngẩn ở khắp mọi nơi, vốn luôn khiến cậu phát bực cả mình…
Cậu dừng bước và nhìn chăm chú, giống y như Claire cũng đang làm. Cách chừng mười bước là một bức tường, một ngõ cụt với hai khuôn trống khoét trên một tấm bảng ngang ngực, hình dáng giống hệt hai khẩu Luger.
Steve rùn mình sung sướng trước chiến thắng. Cậu không có một lý do xác thực nào để tin rằng họ có thể tìm được lối vào chỗ trú ẩn bí mật của nhà Ashford, nhưng dẫu sao cậu vẫn cứ tin. Có lẽ Claire cũng vậy.
“Tôi nghĩ chúng ta tìm ra rồi,” cô khẽ nói. “Dám cá là vậy.”
Tác giả :
S. D. Perry