Resident Evil 0 - Giờ Hành Động
Chương 8
Dịch giả: Lioncoeur
Rebecca trườn trong lỗ thông gió, không để ý tới hàng lớp bụi bặm và mạng nhện bám đầy tóc và quần áo, cũng như cảm giác ngột ngạt của những tấm vách hẹp làm bằng kim loại mỏng. Tấm bản đồ chỉ thể hiện đường thông nhau giữa hai căn phòng dưới tầng hầm thứ nhất, nhưng có những khoảng trống ở phòng thứ hai, phần nền dưới nó dường như cũng là một phần của hệ thống. Rất có thể một trong số các ống thông có lối ra ngoài. Billy không mặn mà lắm với giả thiết này – rất có thể không có nghĩa là chắc chắn, anh nói vậy – nhưng cả hai đồng ý là nên thử xem sao.
Ít nhất nó cũng không quá dài, cô nghĩ thầm, chuyển mình về phía ô vuông có ánh đèn đằng trước. Có một tấm lưới kim loại mỏng đậy lên trên, nhưng nó đã văng ra sau vài cú dộng, kêu loảng xoảng lúc rơi xuống dưới.
Cô liếc sơ qua căn phòng lớn, ẩm ướt và vắng vẻ trong ánh sáng lập lòe của những ngọn đèn gần tắt, rồi chui ra, hai tay vịn lấy bên thành lỗ thông và lộn mình xuống. Cô đứng lên, phủi sạch người và quan sát căn phòng.
Ồ. Trông nó giống như một hầm ngục thời Trung cổ, rộng lớn, ảm đạm, một kiểu hang đá. Bức tường đá giăng đầy dây xích, dây xích gắn liền với cùm tay. Có nhiều thiết bị nằm rải rác mà cô không biết tên, nhưng công dụng của nó hiển nhiên là để tra tấn. Kế bên một cái giếng bị bể vách nổi đầy váng là một thùng đứng khá rộng, trông giống máy chém. Có những vệt màu tối nhạt trong mấy đường nứt của vách tường đẽo gọt thô sơ, mà cô tin chắc đó là máu.
”Mọi chuyện ổn chứ? Hết”
Cô nhấc bộ đàm lên. ”Tôi không nghĩ có thể dùng từ ‘ổn’ ở chỗ này,” cô nói. ”Nhưng tôi không sao, hết”
”Có cái lỗ thông gió nào khác không, hết?”
Cô quay người, tìm một lỗ trống trên vách – và thấy nó, cách hai mươi feet trên đầu.
”Có, nhưng nó nằm trên trần,” cô nói. Cho dù có thang thì họ cũng không thể leo thẳng lên. Rebecca chợt phát hiện thấy có một cánh cửa phía tây nam. ”Cái cửa ở đây dẫn đi đâu thế?”
Yên lặng một lát. ”Có vẻ nó dẫn tới một phòng nhỏ rồi quay lại hành lang mà chúng ta đã đi qua,” anh nói. ”Có cần tôi quay lại hành lang đón cô không? Hết”
Rebecca nhìn cánh cửa. ”E là vậy. Chúng ta có thể thử -“
Trước khi cô nói hết câu, một âm thanh khủng khiếp tràn ngập căn phòng, nó vừa không giống bất cứ thứ gì cô đã từng nghe, lại vừa có cảm giác quen thuộc. Giống như tiếng hú của loài khỉ -
- chính là nó. Chỗ nhốt động vật. Trong sở thú.
- tiếng hú vang dội khắp cả hang động, phát ra từ mọi chỗ cùng lúc. Rebecca nhìn lên, vừa lúc trông thấy một sinh vật xám nhạt có tay dài nhìn cô săm soi từ cái lỗ trên trần. Nó nhe hàm răng sắc nhọn và bự chảng, mấy ngón tay quơ quào vào khoảng không trước bộ ngực lực lưỡng, rít lên một tiếng kinh khủng.
Trước khi cô kịp nhấc chân, nó đã tuột khỏi lỗ trống, chân đạp lên vách đá trước khi buông mình ngồi xổm xuống đất, ngay bên trên mấy tấm ván mỏng vung vãi giữa phòng. Nó nhìn cô chằm chằm, cặp môi thu sát miệng để lộ mấy cái răng vàng khè. Có vẻ nó thuộc giống khỉ đầu chó với bộ lông ngắn màu trắng, có điều trên bộ lông ấy xuất hiện những vệt rách to tướng, để lộ những thớ thịt đỏ ối bên trong. Những vệt rách đó không giống như dấu tích bị tấn công, mà giống như cơ bắp của nó lớn nhanh tới mức làm da toạc ra. Hai bàn tay nó to vĩ đại, móng vuốt mọc rất dài, chúng kéo lê trên mặt đá khi nó nhổm dậy khỏi cái bàn đổ, đi về phía cô, với một nụ cười đểu cáng.
Chậm thôi… Rebecca khẽ lôi súng ra từ bên hông, thấy sợ hãi chẳng khác gì những lần trước. Một con khỉ đầu chó bình thường đã có thể xé toạc một người rồi, huống gì một con bị nhiễm độc.
Con khỉ đầu chó lại gần hơn – và trên đầu cô vang lên tiếng hú khác, có ít nhất hai con nữa đang hú, âm thanh nghe lớn dần, hiển nhiên là có thêm nhìều sinh vật nữa đang đến. Nó sấn tới đủ gần để cô ngửi thấy mùi, thứ mùi hăng nồng của nước tiểu, của phân, của sự man rợ, của sự nhiễm độc rành rành.
”Rebecca! Có chuyện gì vậy?”
Rebecca vẫn đang cầm bộ đàm trên tay trái. Cô thả nút nhấn, không dám lên tiếng nhưng lại sợ tiếng la của Billy sẽ kích động con vật, làm nó tấn công.
”Suỵt,” cô nói khẽ, đủ để không đánh động con vật và nhắc Billy im lặng. Cô lùi lại một bước, cài bộ đàm vào cổ áo rồi nâng súng lên. Con khỉ đầu chó rùn mình xuống, choãi chân ra –
- và nhảy tới, cùng lúc cô nổ súng, đồng thời có thêm hai thân hình uyển chuyển phóng qua lỗ thông gió, miệng kêu the thé, một con quạt thẳng vào đầu cô lúc nó phóng qua, móng vuốt tơi tả cào rách cả tóc. Cú đánh đã đẩy cô ra khỏi tầm nhảy của con đầu tiên, nhưng cũng khiến cô mất thăng bằng, phát đạn chệch hướng thẳng vào tường, rồi tất cả cùng rơi xuống chồng ván -
- và nguyên cả sàn nhà sập xuống.
oOo
Mọi thứ vẫn giậm chân tại chỗ. Gã thanh niên, không biết gã là ai – mà Wesker có một mối nghi ngờ giữ riêng trong lòng – đã không xuất hiện trở lại, hình bóng James Marcus cũng không thấy đâu nữa. Nhất định máy quay đã gặp trục trặc, khi cho lên hình toàn những thứ gì đó giống như một mớ bòng bong. Các thực thể chuyển hết sang một màu đen, khiến cả hai chẳng thấy được gì, chẳng biết phải làm gì.
Sau một hồi ngán ngẩm lắng nghe Birkin nói về loại virus mới của lão, Wesker quay trở lại dãy màn hình và đứng dậy, vươn vai. Thật nực cười – nếu là vài năm trước, hắn nhất định sẽ rất quan tâm đến công việc của ông bạn già. Còn bây giờ, dưới cái bóng che chắn của Umbrella, hắn thậm chí còn không buồn che dấu thái độ của mình nữa.
”Vậy là xong một ngày,” Wesker chen ngang bài độc thoại của William, nhân lúc lão lấy hơi. ”Đi thôi.”
Brikin ngó hắn trân trân, khuôn mặt xanh xao hốc hác của lão nhìn như ma quỷ dưới ánh sáng trắng phát ra từ màn hình. ”Sao? Anh tính đi đâu?”
”Về nhà. Ở đây chẳng còn gì cho chúng ta làm nữa.”
”Nhưng mà – anh đã nói – còn chuyện dọn dẹp thì sao?”
Wesker nhún vai. ”Thể nào Umbrella cũng sẽ gởi tới một đội khác.”
”Tôi tưởng điều quan trọng nhất là phải bưng bít thông tin. Không phải anh đã nói đó là vấn đề sống còn hay sao?”
”Tôi có nói à?”
”Có!” Birkin nổi cáu. ”Tôi không muốn ai khác trong Umbrella vào đây. Bọn họ sẽ đặt vấn đề về công việc của tôi. Tôi cần thêm thời gian.”
Wesker lại nhún vai. ”Nếu vậy, chỉ việc phát động hệ thống tự hủy là xong, và báo cáo với người liên lạc của chúng ta là mọi thứ đã được giải quyết.”
Birkin gật gù, mặc dù Wesker thấy có chút khó chịu thoáng qua trong mắt lão. Hắn cười thầm. Birkin rất e sợ người liên lạc mới đây, người giữ mối liên kết giữa bọn họ với mấy ông lớn ở Tổng hành dinh, và luôn tránh tiếp xúc nếu có thể. Wesker không trách được lão. Có điều gì đó ở Trent, một kẻ luôn bình tĩnh trong mọi tình huống –
”Vậy còn – gã đó?” Birkin hất đầu về phía màn hình. Wesker cảm thấy rất băn khoăn, nhưng vẫn tỏ vẻ bình thản.
”Chỉ là một tên cuồng tín nuôi chí báo thù. Một đoạn phim bịp bợm ra trò, nhưng tôi cá là hắn cũng sẽ chết cháy như bất kỳ ai.” Wesker không thực sự tin tưởng lắm, nhưng hắn không mấy hứng thú với việc khám phá bí mật. Hắn đâu phải là một thám tử như trong mấy cuốn tiểu thuyết trinh thám rẻ tiền, sẵn sàng đào sâu tận gốc rễ chỉ vì ý thích. Theo kinh nghiệm bản thân hắn, thứ gì bí mật cũng đều có khuynh hướng tự nó bật mí, không cách này thì cách khác.
”Rủi mà những chuyện thật sự xảy ra với Tiến sĩ Marcus lọt ra ngoài –“
”Không bao giờ,” Wesker ngắt lời.
Birkin vẫn chưa chịu thua. ”Còn khu nghiên cứu ở biệt thự Spencer thì sao?”
Wesker đi ra cửa, đôi giày ủng nện rầm rầm lên tấm sàn lưới. Birkin lẽo đẽo theo sau như một con chó bất trị.
”Để tôi lo,” hắn nói. ”Umbrella muốn có dữ liệu cận chiến, tôi sẽ cho họ thấy. Chỉ việc đưa đội S.T.A.R.S. vào, chứng kiến họ đương đầu với những vũ khí sinh học.” Hắn mỉm cười, nghĩ đến năng lực của nhóm Alpha. Barry mạnh mẽ, Chris thiện xạ, Jill phóng khoáng, con gái của một tay trộm vô song… một cuộc chiến vô cùng hấp dẫn. Với việc Rebecca Chambers bé nhỏ vào đây, hiển nhiên đã có chuyện không hay xảy đến với nhóm của Enrico; Wesker có thể dựa vào đó để yêu cầu đội Alpha “tìm kiếm” những người còn lại.
Cho dù nhóm Bravo có đưa được họ trở lại, thì vẫn phải đi tìm thêm một Rebecca mất tích. Cô bé này rất thông minh, nhưng chỉ đầu óc không thì chưa đủ để chiến đấu. Thật sự là con bé xem như chết chắc.
Cả hai rời phòng, Wesker sải bước dọc hành lang, Birkin lóc cóc chạy theo. Họ đến bên thang máy, vẫn còn mở đó từ lúc Wesker đến, và hắn bước vào trong. Birkin đứng đối diện với hắn, và dưới ánh đèn sáng sủa trong thang máy, Wesker thấy vẻ điên loạn hiện rõ trên khuôn mặt nhà khoa học. Hai mắt lão có quầng thâm, còn khóe miệng thì giật giật không ngừng. Wesker bâng quơ nghĩ thầm, không rõ Annette có chú ý thấy ông chồng của mình đang lún sâu vào chứng hoang tưởng, chắc là không rồi. Bà ta chẳng thấy bất cứ cái gì khác ngoài công việc “vĩ đại” của ông chồng. Khổ thân cho đứa bé gái của bọn họ, có cha mẹ thế này cũng như không.
”Tôi sẽ thiết lập chuỗi tự hủy,” Birkin nói.
”Hẹn giờ tới sáng nhé,” Wesker nói, miệng cười toe toét. ”Bình minh cho một ngày mới.”
Của thang máy đóng lại với vẻ quả quyết của Birkin, kiểu vẻ mặt thỏa mãn của một con cừu, và Wesker toét miệng cười, thấy hào hứng khi nghĩ tới những việc sắp đến. Mọi thứ sẽ thay đổi, với tất cả bọn họ.
oOo
”Billy, cứu với!”
Billy chạy ào đi ngay khi nghe tiếng hú của con vật, rồi đến tiếng va chạm, lúc đến hành lang thì tiếng thét kinh hãi của Rebecca vang lên trong bộ đàm. Anh chạy nhanh hơn nữa, bản đồ nhét trong túi sau, súng cầm trên tay, tự nguyền rủa mình vì đã để cô chui vào lỗ thông gió.
Cánh cửa đã xuất hiện ngay trước mặt, cách mấy cái xác nhện khổng lồ một khoảng không xa. Anh lao thẳng tới, dộng vai vào cửa đồng thời kéo chốt. Cánh cửa bật tung ra, anh xông vào. Ngọn đèn huỳnh quang gần hỏng nhấp nháy trên đầu, tạo cho căn phòng một không khí hư ảo, nhìn giống như trong phòng thí nghiệm, ngoại trừ việc có một cái cũi mốc trong góc phòng. Thây kệ nó, mau!
Billy vọt ngang căn phòng tới cửa kế tiếp. Tiếng Rebecca lại thét lên khiến anh càng thêm khẩn trương và cảnh giác. Ngay khi đẩy chốt, anh phát hiện có chuyển động ở gần bên, liền quay người và thấy một con zombie thối rữa đứng trong góc. Ngọn đèn cứ bật rồi lại tắt, trong lúc kẻ đã chết ấy lặng lẽ nhìn anh, hình thù tàn tạ của nó biến mất trong bóng tối sau mỗi lần chớp đèn. Nó bắt đầu mon men tới chỗ anh.
Để mày sau. Billy đẩy cửa, lao vào trong.
Một thứ gì đó nhảy xổ vào anh gần như lập tức, kêu the thé. Anh cúi rạp xuống, nhận ra một cái bóng mờ màu đỏ trắng mang theo mùi hôi động vật, rồi sinh vật đó - một con khỉ, không biết thuộc giống nào – lao qua anh, kêu rít không ngừng. Nó nhập bọn với hai con nữa, cả ba nhanh chóng bao vây theo hình vòng cung, mười hai cái chân lực lưỡng dài ngoẵng không ngừng đung đua, quơ quào về phía anh, cơ thể rách rưới của chúng áp lại gần anh rồi lại lùi ra. Billy lùi lại, lách vào trong góc, nơi cánh cửa tỳ sát vách tường đá. Không phải anh muốn lui vào ngõ cụt, mà là vì ngán cái cảm giác trống trải sau lưng. Mấy con khỉ tiếp tục xáp vào rồi lui ra, miệng kêu the thé.
”Rebecca!” anh la lớn.
”Dưới này!”
Cô la lên đâu đó xa xa. Rồi anh nhìn thấy cái hố cách đó vài mét. Từng mảnh ván gãy nằm rải rác quanh sàn. Anh không thấy bóng dáng cô đâu cả.
”Tôi tới đây,” anh đáp lại và hướng sự chú ý đến bầy khỉ, cùng lúc một con tiến đến đủ gần để tấn công.
Nó quật cái chân to bè vào anh, móng vuốt cào ngang trên bắp đùi. Tuy chưa phạm vào da, nhưng nếu nó cào lần nữa thì thế nào cũng trúng. Billy không kịp ngắm nữa, chỉ chĩa súng và bắn-
- con khỉ lui lại, tru lên dữ tợn, một tia máu đen vọt ra từ ngực nó, nhưng nó vẫn chưa chết. Nó lắc lắc đầu rồi lại sấn tới, và Billy nghĩ chắc mình tiêu quá, bọn khỉ rất khỏe, rất có tổ chức. Anh không thể hạ được con nào mà không bị hở sườn -
- bỗng hai con kia chồm lên con bị thương, cấu xé nó bằng những cánh tay tham lam. Con vật bị thương rú lên, giãy giụa, nhưng máu của nó đã khiến mấy con kia phát cuồng, chúng xé xác nó ra chỉ trong có vài giây, nhồi từng mảng thịt to tướng đẫm máu vào miệng.
Billy giờ có đủ thời gian để ngắm và siết cò. Một, hai, ba phát, và lũ khỉ ngã xuống, chết hoặc hấp hối.
Anh lao tới cái hố, khụyu gối xuống và cúi rạp mình bên mép, tim đập mạnh – và điếng người khi thấy Rebecca cách khá xa. Cô đang bám cả hai tay vào một mảnh ống dẫn bằng kim loại, cách chỗ anh đứng cả một tầng hầm. Phía dưới là bóng tối sâu thẳm. Khó nói được là cô ta sẽ rơi bao xa nếu buông tay.
”Billy,” Rebecca thở dốc, nhìn anh bằng đôi mắt hoảng sợ.
”Đừng có buông tay,” anh la lớn và lôi bản đồ trong túi ra, tìm vị trí của cô, tìm con đường nhanh nhất để đến đó. Không có đường tắt nào từ đây dẫn đến tầng hầm thứ hai cả. Anh phải quay lại tiền sảnh, thông qua phòng ăn nơi có mấy con zombie. Cầu thang xuống tầng hầm nằm phía đông của tòa nhà.
”Tôi không biết giữ được bao lâu nữa,” cô thở hổn hển. Giọng cô khuyếch đại lên qua máy bộ đàm của cả hai người. Cô đã để ngỏ một kênh liên lạc hồi nào không biết.
”Cô không được phép buông,” anh nói. ”Đây là lệnh khẩn, cô bé, hiểu chưa?”
Cô không đáp, nhưng anh thấy hàm răng cô nghiến lại. Tốt, có lẽ kích động một chút sẽ khiến cô ta mạnh mẽ hơn. Anh đứng bật dậy.
”Tôi đến đây,” anh nói, rồi quay người chạy thật nhanh, xuyên qua cánh cửa vào phòng thí nghiệm có đèn nhấp nháy. Con zombie ở đó đã di chuyển, đứng chắn giữa anh và lối ra hành lang, nhưng Billy không tính sử dụng vũ khí, vì e là Rebecca không giữ được đủ lâu. Anh cung tay lên giống như động tác của tiền vệ trong trò chơi điện tử, tông thẳng vào nó, xô mạnh hết mức có thể, rồi chạy tiếp mặc cho con zombie té đổ kềnh dưới sàn. Billy thoát qua và chạy mất trước cả khi tiếng rên đói khát của nó vang lên bên tai.
Billy vòng ra hành lang, bỏ lại sau lưng những con nhện không tưởng, leo lên cầu thang. Anh nhả băng đạn ra, lấy cái mới lắp vào trong lúc đâm bổ đến tiền sảnh. Cố lên, cố lên…
Anh mở tung cửa phòng ăn không chút do dự, lao thẳng vào trong. Hai con zombie đang ở ngoài đường đi của anh, bị chắn bởi cái bàn ăn. Con thứ ba đứng gần cánh cửa mà anh nghĩ nó dẫn tới chỗ Rebecca, chính là tên lính với cái nĩa còn cắm trên vai. Billy dừng lại một thoáng để ngắm bắn, hai phát đạn nối đuôi nhau nhắm vào cái đầu vốn đã ri rỉ nước. Viên thứ nhất đi chệch, nhưng viên thứ hai đã lấy đi một mẩu xương sau đầu của nó, ghim luôn vào tường thành một vệt xám bốc mùi thối. Cái thây lảo đảo một hồi và ngã nhào xuống sàn, sau khi Billy vừa chạy vượt qua.
Anh lao qua cửa, đến một hành lang ngắn. Trái hay phải? Anh không biết vì không có bản đồ tầng hầm thứ nhất, nhưng căn cứ vào vị trí cầu thang của dãy tầng hầm thì chắc là bên trái. Không đủ thì giờ để cân nhắc nữa, anh tiến nhanh theo hướng đó, súng lăm lăm trong tay, đi qua vài bậc thềm và một cái nồi hơi rất lớn đang kêu rin rít. Hơi nước tỏa mù mịt khắp phòng bảo trì, nhưng anh đã thấy được đường đi ở chỗ mấy cái cầu thang kim loại rỉ sét.
Phía dưới cùng là một cánh cửa. Anh xông vào đồng thời nhớ lại vị trí của nó trên bản đồ, một căn phòng rộng có thứ gì đó giống như đài phun nước ở giữa, hoặc đại loại là một thứ lớn và tròn. Có hai căn phòng nhỏ nữa phía tây, nằm trong nhánh rẽ của một hành lang ngắn khác, tin chắc một trong số đó có Rebecca bên trong, có lẽ là cái mà không có lối đi nào khác –
Căn phòng lớn vừa lạnh lẽo vừa ẩm thấp, vách tường và sàn nhà làm bằng đá.Anh chạy ngang qua, liếc nhìn cái tượng đài bên trái, thứ mà khi xem bản đồ anh đã nghĩ là đài phun nước. Ánh mắt chết trân của con vật được tạc tượng đang nhìn anh chằm chặp, dõi theo bước chạy của anh
- và một tiếng tru vang lên từ cái góc khuất của hành lang trước mặt, thứ âm thanh mà anh đã nghe chỉ một phút trước: Còn một con khỉ nữa. Khốn kiếp! Anh phải dụ nó ra chứ không thể liều mạng quay lưng về phía nó được.
”Billy – làm ơn –“
Giọng nói qua máy bộ đàm đầy vẻ tuyệt vọng. Billy tăng tốc, mặc kệ phần ý thức trong mình đang ra lệnh phải dừng lại, phải chờ con vật hiện thân để giải quyết nó trong cự ly an toàn. Anh lao tới trước, vòng qua góc, và trông thấy con khỉ đang kêu the thé, hình dáng tơi tả đến ghê rợn –
- và Billy, vốn quen với trò rượt đuổi hồi còn đi học, nhảy chồm lên. Anh vọt qua nó và hạ xuống cách một cánh cửa chừng hai bước, là cánh cửa đó, con khỉ rít lên giận dữ ngay sát sau lưng. Nếu cửa mà khóa thì anh gặp rắc rối to, nhưng may là không. Billy nhảy bổ qua, đóng sầm nó lại, cúi người và quỵ gối xuống cái hố trên sàn.
Rebecca vẫn còn đó, lúc này chỉ còn giữ bằng một tay, và anh thấy cô đang tuột dần. Anh liệng khẩu súng đi và vươn dài cánh tay, chụp được cổ tay Rebecca ngay khi mấy ngón tay trắng bệch của cô buông ra.
”Được rồi,” anh thở hổn hển. ”Túm đuợc cô rồi.”
Rebecca bắt đầu khóc trong lúc anh tỳ chân xuống, kéo cô lên khỏi cái hố, cảm thấy một sự hài lòng mà anh hầu như đã quên hẳn sau nhiều tháng trong tù - rốt cuộc thì anh cũng đã làm một điều tốt, và làm được trọn vẹn.
oOo
Billy kéo cô ra khỏi cái hố, lấy thân mình làm đòn bẩy, rồi ôm chặt lấy cô và đẩy cô lên trên. Cô không đẩy ra mà để mặc cho anh ôm lấy, đồng thời bám chặt vào anh, nước mắt không ngừng tuôn rơi vì biết ơn, vì nhẹ nhõm. Anh dường như cũng hiểu điều đó nên giữ cô thật chặt. Cô đã tưởng mình sẽ rơi, sẽ chết, bị mất tích và bỏ quên trong căn hầm khủng khiếp, bị xé xác bởi những con vật nhiễm bệnh…
Sau một lúc, cô buông anh ra, quệt nước mắt bằng bàn tay còn run rẩy. Cả hai ngồi bệt dưới sàn, Billy đang nhìn quanh vách tường đá ảm đạm của gian phòng, còn Rebecca đang nhìn Billy. Sau một hồi im lặng khá lâu, cô đưa tay ra vịn vào anh.
”Cám ơn anh,” cô nói. ”Anh lại cứu mạng tôi lần nữa.”
Anh nhìn thoáng qua cô, rồi lại nhìn đi chỗ khác. ”Phải. Vì chúng ta có hiệp ước đình chiến mà, cô chưa quên đó chứ?”
”Tôi biết,” cô đáp. ”Và tôi cũng biết anh không phải là kẻ giết người, Billy à. Tại sao anh lại bị đưa tới Ragithon? Có phải – có thật là anh dính líu tới những vụ án mạng?”
Anh nhìn thẳng vào mắt cô. ”Có thể nói vậy,” anh nói. ”Dù sao đi nữa, tôi đã ở đó.”
Tôi đã ở đó… Điều này không có nghĩa là đã giết ai đó. ”Tôi đã nghĩ rằng anh không hề giết những người lính áp tải hồi lúc tối; tôi cho là những sinh vật này đã gây ra vụ tai nạn, và anh bỏ chạy,” cô nói. ”Và mặc dù biết anh chưa được bao lâu, nhưng tôi không tin rằng anh đã giết hai mươi người.”
”Chẳng có tác dụng gì,” Billy nói, mắt nhìn xuống đôi giày. ”Người ta chỉ tin vào thứ muốn tin.”
”Với tôi thì có tác dụng,” Rebecca nhẹ nhàng nói. ”Tôi không phải là quan tòa. Tôi chỉ muốn biết chuyện gì đã xảy ra?”
Anh vẫn nhìn xuống đôi giày, nhưng đôi mắt bỗng trở nên xa xăm, như thể đang nhìn về một thời điểm khác, với những người khác. ”Năm ngoái, đơn vị của tôi được cử tới châu Phi, để can thiệp vào một cuộc nội chiến,” anh nói. ”Tối mật, kiểu như không dính líu tới nước Mỹ, cô biết đó. Chúng tôi được chỉ định đánh úp vào sào huyệt một nhóm du kích. Lúc đó là mùa hè, thời điểm nóng nhất trong mùa, tất cả chúng tôi đổ bộ an toàn ngoài vùng tấn công, nằm giữa một khu rừng rậm. Chúng tôi phải hành quân theo đường bộ…”
Anh ngưng một lát trong lúc lục tìm cái thẻ bài và nắm chặt trong tay. Khi nói tiếp, giọng anh thậm chí còn nhỏ hơn. ”Trời nóng đã tiêu diệt một nửa số chúng tôi. Đối phương tiêu diệt phần lớn số còn lại, hạ gục chúng tôi từng người một. Lúc đến được nơi ấn náu, chúng tôi chỉ còn bốn người. Tất cả kiệt sức, gần như phát điên, bị đổ bệnh bởi sức nóng, bởi – chán nản, theo tôi đoán, vì phải chứng kiến đồng đội lần lượt ra đi.
”Nên khi tiếp cận mục tiêu, chúng tôi chỉ muốn thổi bay tất cả bọn họ. Phải có ai đó trả giá chứ, cô hiểu không? Cho tất cả những mất mát. Chỉ là, chẳng có sào huyệt nào cả. Tin tức chỉ điểm đã sai lầm. Nơi đó là một ngôi làng nhỏ buồn tẻ, với một nhúm nông dân. Những gia đình. Người già và phụ nữ. Trẻ em.”
Rebecca gật đầu khích lệ anh, nhưng ruột gan đã bắt đầu cồn lên. Câu chuyện hướng tới một kết cuộc mà cô có thể thấy trước, một kết cuộc bi thảm.
”Trưởng nhóm ra lệnh cho chúng tôi bao vây họ lại, và chúng tôi đã làm,” Billy nói. ”Rồi anh ta bảo bọn tôi –“
Giọng anh nghẹn lại. Anh đưa tay nhặt khẩu súng đang nằm dưới đất, nhét nó vào thắt lưng, cơn giận bùng lên khi anh đứng dậy quay ra chỗ khác. Rebecca cũng đứng dậy.
”Có phải anh?” cô hỏi. ”Anh có giết họ không?”
Billy quay lại nhìn cô, môi cong lên. ”Nếu tôi nói với cô rằng tôi đã làm thì sao? Cô sẽ thực thi công lý với tôi chứ?”
”Anh có làm không?” cô hỏi lại, đồng thời quan sát khuôn mặt anh, đôi mắt của anh, cố gắng đoán ra câu trả lời từ đó. Anh cũng có thể thấy điều đó trong mắt cô, thấy được cô đang khát khao muốn biết sự thật. Billy nhìn cô một chặp rồi lắc đầu.
”Tôi đã cố ngăn cản,” anh nói. ”Nhưng họ đánh tôi. Tôi gần như bất tỉnh, nhưng đã thấy điều đó, thấy tất cả… và chẳng làm được gì.” Anh nhìn ra chỗ khác trước khi tiếp tục. ”Khi đã xong chuyện, được trở về, có những lời buộc tội chống lại tôi. Rồi phiên tòa, lời tuyên án, và - đến lượt những chuyện này.”
Anh dang rộng hai tay, biểu thị tình hình của họ. ”Nên nếu chúng ta thoát khỏi đây, tôi thế nào cũng chết. Chết hoặc chạy trốn, chạy trốn không ngừng.”
Sự thật là vậy. Phải trao giải Oscar cho anh ta nếu những lời này là dối trá… Mà cô không nghĩ vậy. Cô cố nghĩ xem nên nói gì đó để trấn an, để làm tình hình sáng sủa hơn, nhưng chẳng nghĩ được gì cả. Anh ta nói đúng về tình thế của họ.
”Này,” anh nói, mắt nhìn về phía sau vai cô. ”Kiểm tra nó xem.”
Cô quay lại trong lúc anh tiến tới, thấy một chồng kim loại phế liệu xếp dựa vào vách tường – và có một thứ giấu hờ ngoài tầm mắt của họ, hình như khẩu súng săn.
”Có phải thứ mà tôi đang nghĩ không nhỉ?” cô hỏi.
Billy nhặt nó lên, cười toe toét trong khi kiểm tra. ”Vâng, thưa sếp, chính nó.”
”Nó có sẵn đạn chứ?”
”Không có, nhưng tôi còn vài viên lấy được trên tàu đây. Cỡ đạn mười hai.” Anh lại cười. “Mọi việc coi bộ có tiến triển. Không phải chúng ta muốn, nhưng mà có một con khỉ ngoài hành lang đang van nài được nếm thử món này đây.”
”Thật ra, tôi nghĩ nó là khỉ đầu chó,” cô chỉnh lại, và ngạc nhiên thấy mình đang cười. Rồi cả hai cùng cười khi thấy điều cô vừa nói chẳng có ý nghĩa gì cả. Họ đang mắc kẹt trong một tầng hầm cô lập, bị săn đuổi bởi cơ man nào là quái vật, vậy mà vẫn còn dư hơi để biết con vật ngoài hành lang là khỉ đầu chó. Chuyện này khiến họ cười càng lớn hơn.
Cô nhìn anh cười, thấy tất cả những vẻ ngạo nghễ và cộc cằn trước đây đều đã biến mất, lần đầu tiên cảm nhận được anh ta là Billy Coen thật sự. Giờ đây, cô nghĩ có lẽ nhiệm vụ đầu tiên của mình đã thất bại. Anh ta không còn là tù nhân của cô nữa. Giả sử họ sống sót, thì cô sẽ không thể buộc mình ngăn anh chạy trốn.
Trong khi chức nghiệp của mình là thực thi luật pháp.
Nghĩ đến đó, cô lại cười càng lớn hơn.
Rebecca trườn trong lỗ thông gió, không để ý tới hàng lớp bụi bặm và mạng nhện bám đầy tóc và quần áo, cũng như cảm giác ngột ngạt của những tấm vách hẹp làm bằng kim loại mỏng. Tấm bản đồ chỉ thể hiện đường thông nhau giữa hai căn phòng dưới tầng hầm thứ nhất, nhưng có những khoảng trống ở phòng thứ hai, phần nền dưới nó dường như cũng là một phần của hệ thống. Rất có thể một trong số các ống thông có lối ra ngoài. Billy không mặn mà lắm với giả thiết này – rất có thể không có nghĩa là chắc chắn, anh nói vậy – nhưng cả hai đồng ý là nên thử xem sao.
Ít nhất nó cũng không quá dài, cô nghĩ thầm, chuyển mình về phía ô vuông có ánh đèn đằng trước. Có một tấm lưới kim loại mỏng đậy lên trên, nhưng nó đã văng ra sau vài cú dộng, kêu loảng xoảng lúc rơi xuống dưới.
Cô liếc sơ qua căn phòng lớn, ẩm ướt và vắng vẻ trong ánh sáng lập lòe của những ngọn đèn gần tắt, rồi chui ra, hai tay vịn lấy bên thành lỗ thông và lộn mình xuống. Cô đứng lên, phủi sạch người và quan sát căn phòng.
Ồ. Trông nó giống như một hầm ngục thời Trung cổ, rộng lớn, ảm đạm, một kiểu hang đá. Bức tường đá giăng đầy dây xích, dây xích gắn liền với cùm tay. Có nhiều thiết bị nằm rải rác mà cô không biết tên, nhưng công dụng của nó hiển nhiên là để tra tấn. Kế bên một cái giếng bị bể vách nổi đầy váng là một thùng đứng khá rộng, trông giống máy chém. Có những vệt màu tối nhạt trong mấy đường nứt của vách tường đẽo gọt thô sơ, mà cô tin chắc đó là máu.
”Mọi chuyện ổn chứ? Hết”
Cô nhấc bộ đàm lên. ”Tôi không nghĩ có thể dùng từ ‘ổn’ ở chỗ này,” cô nói. ”Nhưng tôi không sao, hết”
”Có cái lỗ thông gió nào khác không, hết?”
Cô quay người, tìm một lỗ trống trên vách – và thấy nó, cách hai mươi feet trên đầu.
”Có, nhưng nó nằm trên trần,” cô nói. Cho dù có thang thì họ cũng không thể leo thẳng lên. Rebecca chợt phát hiện thấy có một cánh cửa phía tây nam. ”Cái cửa ở đây dẫn đi đâu thế?”
Yên lặng một lát. ”Có vẻ nó dẫn tới một phòng nhỏ rồi quay lại hành lang mà chúng ta đã đi qua,” anh nói. ”Có cần tôi quay lại hành lang đón cô không? Hết”
Rebecca nhìn cánh cửa. ”E là vậy. Chúng ta có thể thử -“
Trước khi cô nói hết câu, một âm thanh khủng khiếp tràn ngập căn phòng, nó vừa không giống bất cứ thứ gì cô đã từng nghe, lại vừa có cảm giác quen thuộc. Giống như tiếng hú của loài khỉ -
- chính là nó. Chỗ nhốt động vật. Trong sở thú.
- tiếng hú vang dội khắp cả hang động, phát ra từ mọi chỗ cùng lúc. Rebecca nhìn lên, vừa lúc trông thấy một sinh vật xám nhạt có tay dài nhìn cô săm soi từ cái lỗ trên trần. Nó nhe hàm răng sắc nhọn và bự chảng, mấy ngón tay quơ quào vào khoảng không trước bộ ngực lực lưỡng, rít lên một tiếng kinh khủng.
Trước khi cô kịp nhấc chân, nó đã tuột khỏi lỗ trống, chân đạp lên vách đá trước khi buông mình ngồi xổm xuống đất, ngay bên trên mấy tấm ván mỏng vung vãi giữa phòng. Nó nhìn cô chằm chằm, cặp môi thu sát miệng để lộ mấy cái răng vàng khè. Có vẻ nó thuộc giống khỉ đầu chó với bộ lông ngắn màu trắng, có điều trên bộ lông ấy xuất hiện những vệt rách to tướng, để lộ những thớ thịt đỏ ối bên trong. Những vệt rách đó không giống như dấu tích bị tấn công, mà giống như cơ bắp của nó lớn nhanh tới mức làm da toạc ra. Hai bàn tay nó to vĩ đại, móng vuốt mọc rất dài, chúng kéo lê trên mặt đá khi nó nhổm dậy khỏi cái bàn đổ, đi về phía cô, với một nụ cười đểu cáng.
Chậm thôi… Rebecca khẽ lôi súng ra từ bên hông, thấy sợ hãi chẳng khác gì những lần trước. Một con khỉ đầu chó bình thường đã có thể xé toạc một người rồi, huống gì một con bị nhiễm độc.
Con khỉ đầu chó lại gần hơn – và trên đầu cô vang lên tiếng hú khác, có ít nhất hai con nữa đang hú, âm thanh nghe lớn dần, hiển nhiên là có thêm nhìều sinh vật nữa đang đến. Nó sấn tới đủ gần để cô ngửi thấy mùi, thứ mùi hăng nồng của nước tiểu, của phân, của sự man rợ, của sự nhiễm độc rành rành.
”Rebecca! Có chuyện gì vậy?”
Rebecca vẫn đang cầm bộ đàm trên tay trái. Cô thả nút nhấn, không dám lên tiếng nhưng lại sợ tiếng la của Billy sẽ kích động con vật, làm nó tấn công.
”Suỵt,” cô nói khẽ, đủ để không đánh động con vật và nhắc Billy im lặng. Cô lùi lại một bước, cài bộ đàm vào cổ áo rồi nâng súng lên. Con khỉ đầu chó rùn mình xuống, choãi chân ra –
- và nhảy tới, cùng lúc cô nổ súng, đồng thời có thêm hai thân hình uyển chuyển phóng qua lỗ thông gió, miệng kêu the thé, một con quạt thẳng vào đầu cô lúc nó phóng qua, móng vuốt tơi tả cào rách cả tóc. Cú đánh đã đẩy cô ra khỏi tầm nhảy của con đầu tiên, nhưng cũng khiến cô mất thăng bằng, phát đạn chệch hướng thẳng vào tường, rồi tất cả cùng rơi xuống chồng ván -
- và nguyên cả sàn nhà sập xuống.
oOo
Mọi thứ vẫn giậm chân tại chỗ. Gã thanh niên, không biết gã là ai – mà Wesker có một mối nghi ngờ giữ riêng trong lòng – đã không xuất hiện trở lại, hình bóng James Marcus cũng không thấy đâu nữa. Nhất định máy quay đã gặp trục trặc, khi cho lên hình toàn những thứ gì đó giống như một mớ bòng bong. Các thực thể chuyển hết sang một màu đen, khiến cả hai chẳng thấy được gì, chẳng biết phải làm gì.
Sau một hồi ngán ngẩm lắng nghe Birkin nói về loại virus mới của lão, Wesker quay trở lại dãy màn hình và đứng dậy, vươn vai. Thật nực cười – nếu là vài năm trước, hắn nhất định sẽ rất quan tâm đến công việc của ông bạn già. Còn bây giờ, dưới cái bóng che chắn của Umbrella, hắn thậm chí còn không buồn che dấu thái độ của mình nữa.
”Vậy là xong một ngày,” Wesker chen ngang bài độc thoại của William, nhân lúc lão lấy hơi. ”Đi thôi.”
Brikin ngó hắn trân trân, khuôn mặt xanh xao hốc hác của lão nhìn như ma quỷ dưới ánh sáng trắng phát ra từ màn hình. ”Sao? Anh tính đi đâu?”
”Về nhà. Ở đây chẳng còn gì cho chúng ta làm nữa.”
”Nhưng mà – anh đã nói – còn chuyện dọn dẹp thì sao?”
Wesker nhún vai. ”Thể nào Umbrella cũng sẽ gởi tới một đội khác.”
”Tôi tưởng điều quan trọng nhất là phải bưng bít thông tin. Không phải anh đã nói đó là vấn đề sống còn hay sao?”
”Tôi có nói à?”
”Có!” Birkin nổi cáu. ”Tôi không muốn ai khác trong Umbrella vào đây. Bọn họ sẽ đặt vấn đề về công việc của tôi. Tôi cần thêm thời gian.”
Wesker lại nhún vai. ”Nếu vậy, chỉ việc phát động hệ thống tự hủy là xong, và báo cáo với người liên lạc của chúng ta là mọi thứ đã được giải quyết.”
Birkin gật gù, mặc dù Wesker thấy có chút khó chịu thoáng qua trong mắt lão. Hắn cười thầm. Birkin rất e sợ người liên lạc mới đây, người giữ mối liên kết giữa bọn họ với mấy ông lớn ở Tổng hành dinh, và luôn tránh tiếp xúc nếu có thể. Wesker không trách được lão. Có điều gì đó ở Trent, một kẻ luôn bình tĩnh trong mọi tình huống –
”Vậy còn – gã đó?” Birkin hất đầu về phía màn hình. Wesker cảm thấy rất băn khoăn, nhưng vẫn tỏ vẻ bình thản.
”Chỉ là một tên cuồng tín nuôi chí báo thù. Một đoạn phim bịp bợm ra trò, nhưng tôi cá là hắn cũng sẽ chết cháy như bất kỳ ai.” Wesker không thực sự tin tưởng lắm, nhưng hắn không mấy hứng thú với việc khám phá bí mật. Hắn đâu phải là một thám tử như trong mấy cuốn tiểu thuyết trinh thám rẻ tiền, sẵn sàng đào sâu tận gốc rễ chỉ vì ý thích. Theo kinh nghiệm bản thân hắn, thứ gì bí mật cũng đều có khuynh hướng tự nó bật mí, không cách này thì cách khác.
”Rủi mà những chuyện thật sự xảy ra với Tiến sĩ Marcus lọt ra ngoài –“
”Không bao giờ,” Wesker ngắt lời.
Birkin vẫn chưa chịu thua. ”Còn khu nghiên cứu ở biệt thự Spencer thì sao?”
Wesker đi ra cửa, đôi giày ủng nện rầm rầm lên tấm sàn lưới. Birkin lẽo đẽo theo sau như một con chó bất trị.
”Để tôi lo,” hắn nói. ”Umbrella muốn có dữ liệu cận chiến, tôi sẽ cho họ thấy. Chỉ việc đưa đội S.T.A.R.S. vào, chứng kiến họ đương đầu với những vũ khí sinh học.” Hắn mỉm cười, nghĩ đến năng lực của nhóm Alpha. Barry mạnh mẽ, Chris thiện xạ, Jill phóng khoáng, con gái của một tay trộm vô song… một cuộc chiến vô cùng hấp dẫn. Với việc Rebecca Chambers bé nhỏ vào đây, hiển nhiên đã có chuyện không hay xảy đến với nhóm của Enrico; Wesker có thể dựa vào đó để yêu cầu đội Alpha “tìm kiếm” những người còn lại.
Cho dù nhóm Bravo có đưa được họ trở lại, thì vẫn phải đi tìm thêm một Rebecca mất tích. Cô bé này rất thông minh, nhưng chỉ đầu óc không thì chưa đủ để chiến đấu. Thật sự là con bé xem như chết chắc.
Cả hai rời phòng, Wesker sải bước dọc hành lang, Birkin lóc cóc chạy theo. Họ đến bên thang máy, vẫn còn mở đó từ lúc Wesker đến, và hắn bước vào trong. Birkin đứng đối diện với hắn, và dưới ánh đèn sáng sủa trong thang máy, Wesker thấy vẻ điên loạn hiện rõ trên khuôn mặt nhà khoa học. Hai mắt lão có quầng thâm, còn khóe miệng thì giật giật không ngừng. Wesker bâng quơ nghĩ thầm, không rõ Annette có chú ý thấy ông chồng của mình đang lún sâu vào chứng hoang tưởng, chắc là không rồi. Bà ta chẳng thấy bất cứ cái gì khác ngoài công việc “vĩ đại” của ông chồng. Khổ thân cho đứa bé gái của bọn họ, có cha mẹ thế này cũng như không.
”Tôi sẽ thiết lập chuỗi tự hủy,” Birkin nói.
”Hẹn giờ tới sáng nhé,” Wesker nói, miệng cười toe toét. ”Bình minh cho một ngày mới.”
Của thang máy đóng lại với vẻ quả quyết của Birkin, kiểu vẻ mặt thỏa mãn của một con cừu, và Wesker toét miệng cười, thấy hào hứng khi nghĩ tới những việc sắp đến. Mọi thứ sẽ thay đổi, với tất cả bọn họ.
oOo
”Billy, cứu với!”
Billy chạy ào đi ngay khi nghe tiếng hú của con vật, rồi đến tiếng va chạm, lúc đến hành lang thì tiếng thét kinh hãi của Rebecca vang lên trong bộ đàm. Anh chạy nhanh hơn nữa, bản đồ nhét trong túi sau, súng cầm trên tay, tự nguyền rủa mình vì đã để cô chui vào lỗ thông gió.
Cánh cửa đã xuất hiện ngay trước mặt, cách mấy cái xác nhện khổng lồ một khoảng không xa. Anh lao thẳng tới, dộng vai vào cửa đồng thời kéo chốt. Cánh cửa bật tung ra, anh xông vào. Ngọn đèn huỳnh quang gần hỏng nhấp nháy trên đầu, tạo cho căn phòng một không khí hư ảo, nhìn giống như trong phòng thí nghiệm, ngoại trừ việc có một cái cũi mốc trong góc phòng. Thây kệ nó, mau!
Billy vọt ngang căn phòng tới cửa kế tiếp. Tiếng Rebecca lại thét lên khiến anh càng thêm khẩn trương và cảnh giác. Ngay khi đẩy chốt, anh phát hiện có chuyển động ở gần bên, liền quay người và thấy một con zombie thối rữa đứng trong góc. Ngọn đèn cứ bật rồi lại tắt, trong lúc kẻ đã chết ấy lặng lẽ nhìn anh, hình thù tàn tạ của nó biến mất trong bóng tối sau mỗi lần chớp đèn. Nó bắt đầu mon men tới chỗ anh.
Để mày sau. Billy đẩy cửa, lao vào trong.
Một thứ gì đó nhảy xổ vào anh gần như lập tức, kêu the thé. Anh cúi rạp xuống, nhận ra một cái bóng mờ màu đỏ trắng mang theo mùi hôi động vật, rồi sinh vật đó - một con khỉ, không biết thuộc giống nào – lao qua anh, kêu rít không ngừng. Nó nhập bọn với hai con nữa, cả ba nhanh chóng bao vây theo hình vòng cung, mười hai cái chân lực lưỡng dài ngoẵng không ngừng đung đua, quơ quào về phía anh, cơ thể rách rưới của chúng áp lại gần anh rồi lại lùi ra. Billy lùi lại, lách vào trong góc, nơi cánh cửa tỳ sát vách tường đá. Không phải anh muốn lui vào ngõ cụt, mà là vì ngán cái cảm giác trống trải sau lưng. Mấy con khỉ tiếp tục xáp vào rồi lui ra, miệng kêu the thé.
”Rebecca!” anh la lớn.
”Dưới này!”
Cô la lên đâu đó xa xa. Rồi anh nhìn thấy cái hố cách đó vài mét. Từng mảnh ván gãy nằm rải rác quanh sàn. Anh không thấy bóng dáng cô đâu cả.
”Tôi tới đây,” anh đáp lại và hướng sự chú ý đến bầy khỉ, cùng lúc một con tiến đến đủ gần để tấn công.
Nó quật cái chân to bè vào anh, móng vuốt cào ngang trên bắp đùi. Tuy chưa phạm vào da, nhưng nếu nó cào lần nữa thì thế nào cũng trúng. Billy không kịp ngắm nữa, chỉ chĩa súng và bắn-
- con khỉ lui lại, tru lên dữ tợn, một tia máu đen vọt ra từ ngực nó, nhưng nó vẫn chưa chết. Nó lắc lắc đầu rồi lại sấn tới, và Billy nghĩ chắc mình tiêu quá, bọn khỉ rất khỏe, rất có tổ chức. Anh không thể hạ được con nào mà không bị hở sườn -
- bỗng hai con kia chồm lên con bị thương, cấu xé nó bằng những cánh tay tham lam. Con vật bị thương rú lên, giãy giụa, nhưng máu của nó đã khiến mấy con kia phát cuồng, chúng xé xác nó ra chỉ trong có vài giây, nhồi từng mảng thịt to tướng đẫm máu vào miệng.
Billy giờ có đủ thời gian để ngắm và siết cò. Một, hai, ba phát, và lũ khỉ ngã xuống, chết hoặc hấp hối.
Anh lao tới cái hố, khụyu gối xuống và cúi rạp mình bên mép, tim đập mạnh – và điếng người khi thấy Rebecca cách khá xa. Cô đang bám cả hai tay vào một mảnh ống dẫn bằng kim loại, cách chỗ anh đứng cả một tầng hầm. Phía dưới là bóng tối sâu thẳm. Khó nói được là cô ta sẽ rơi bao xa nếu buông tay.
”Billy,” Rebecca thở dốc, nhìn anh bằng đôi mắt hoảng sợ.
”Đừng có buông tay,” anh la lớn và lôi bản đồ trong túi ra, tìm vị trí của cô, tìm con đường nhanh nhất để đến đó. Không có đường tắt nào từ đây dẫn đến tầng hầm thứ hai cả. Anh phải quay lại tiền sảnh, thông qua phòng ăn nơi có mấy con zombie. Cầu thang xuống tầng hầm nằm phía đông của tòa nhà.
”Tôi không biết giữ được bao lâu nữa,” cô thở hổn hển. Giọng cô khuyếch đại lên qua máy bộ đàm của cả hai người. Cô đã để ngỏ một kênh liên lạc hồi nào không biết.
”Cô không được phép buông,” anh nói. ”Đây là lệnh khẩn, cô bé, hiểu chưa?”
Cô không đáp, nhưng anh thấy hàm răng cô nghiến lại. Tốt, có lẽ kích động một chút sẽ khiến cô ta mạnh mẽ hơn. Anh đứng bật dậy.
”Tôi đến đây,” anh nói, rồi quay người chạy thật nhanh, xuyên qua cánh cửa vào phòng thí nghiệm có đèn nhấp nháy. Con zombie ở đó đã di chuyển, đứng chắn giữa anh và lối ra hành lang, nhưng Billy không tính sử dụng vũ khí, vì e là Rebecca không giữ được đủ lâu. Anh cung tay lên giống như động tác của tiền vệ trong trò chơi điện tử, tông thẳng vào nó, xô mạnh hết mức có thể, rồi chạy tiếp mặc cho con zombie té đổ kềnh dưới sàn. Billy thoát qua và chạy mất trước cả khi tiếng rên đói khát của nó vang lên bên tai.
Billy vòng ra hành lang, bỏ lại sau lưng những con nhện không tưởng, leo lên cầu thang. Anh nhả băng đạn ra, lấy cái mới lắp vào trong lúc đâm bổ đến tiền sảnh. Cố lên, cố lên…
Anh mở tung cửa phòng ăn không chút do dự, lao thẳng vào trong. Hai con zombie đang ở ngoài đường đi của anh, bị chắn bởi cái bàn ăn. Con thứ ba đứng gần cánh cửa mà anh nghĩ nó dẫn tới chỗ Rebecca, chính là tên lính với cái nĩa còn cắm trên vai. Billy dừng lại một thoáng để ngắm bắn, hai phát đạn nối đuôi nhau nhắm vào cái đầu vốn đã ri rỉ nước. Viên thứ nhất đi chệch, nhưng viên thứ hai đã lấy đi một mẩu xương sau đầu của nó, ghim luôn vào tường thành một vệt xám bốc mùi thối. Cái thây lảo đảo một hồi và ngã nhào xuống sàn, sau khi Billy vừa chạy vượt qua.
Anh lao qua cửa, đến một hành lang ngắn. Trái hay phải? Anh không biết vì không có bản đồ tầng hầm thứ nhất, nhưng căn cứ vào vị trí cầu thang của dãy tầng hầm thì chắc là bên trái. Không đủ thì giờ để cân nhắc nữa, anh tiến nhanh theo hướng đó, súng lăm lăm trong tay, đi qua vài bậc thềm và một cái nồi hơi rất lớn đang kêu rin rít. Hơi nước tỏa mù mịt khắp phòng bảo trì, nhưng anh đã thấy được đường đi ở chỗ mấy cái cầu thang kim loại rỉ sét.
Phía dưới cùng là một cánh cửa. Anh xông vào đồng thời nhớ lại vị trí của nó trên bản đồ, một căn phòng rộng có thứ gì đó giống như đài phun nước ở giữa, hoặc đại loại là một thứ lớn và tròn. Có hai căn phòng nhỏ nữa phía tây, nằm trong nhánh rẽ của một hành lang ngắn khác, tin chắc một trong số đó có Rebecca bên trong, có lẽ là cái mà không có lối đi nào khác –
Căn phòng lớn vừa lạnh lẽo vừa ẩm thấp, vách tường và sàn nhà làm bằng đá.Anh chạy ngang qua, liếc nhìn cái tượng đài bên trái, thứ mà khi xem bản đồ anh đã nghĩ là đài phun nước. Ánh mắt chết trân của con vật được tạc tượng đang nhìn anh chằm chặp, dõi theo bước chạy của anh
- và một tiếng tru vang lên từ cái góc khuất của hành lang trước mặt, thứ âm thanh mà anh đã nghe chỉ một phút trước: Còn một con khỉ nữa. Khốn kiếp! Anh phải dụ nó ra chứ không thể liều mạng quay lưng về phía nó được.
”Billy – làm ơn –“
Giọng nói qua máy bộ đàm đầy vẻ tuyệt vọng. Billy tăng tốc, mặc kệ phần ý thức trong mình đang ra lệnh phải dừng lại, phải chờ con vật hiện thân để giải quyết nó trong cự ly an toàn. Anh lao tới trước, vòng qua góc, và trông thấy con khỉ đang kêu the thé, hình dáng tơi tả đến ghê rợn –
- và Billy, vốn quen với trò rượt đuổi hồi còn đi học, nhảy chồm lên. Anh vọt qua nó và hạ xuống cách một cánh cửa chừng hai bước, là cánh cửa đó, con khỉ rít lên giận dữ ngay sát sau lưng. Nếu cửa mà khóa thì anh gặp rắc rối to, nhưng may là không. Billy nhảy bổ qua, đóng sầm nó lại, cúi người và quỵ gối xuống cái hố trên sàn.
Rebecca vẫn còn đó, lúc này chỉ còn giữ bằng một tay, và anh thấy cô đang tuột dần. Anh liệng khẩu súng đi và vươn dài cánh tay, chụp được cổ tay Rebecca ngay khi mấy ngón tay trắng bệch của cô buông ra.
”Được rồi,” anh thở hổn hển. ”Túm đuợc cô rồi.”
Rebecca bắt đầu khóc trong lúc anh tỳ chân xuống, kéo cô lên khỏi cái hố, cảm thấy một sự hài lòng mà anh hầu như đã quên hẳn sau nhiều tháng trong tù - rốt cuộc thì anh cũng đã làm một điều tốt, và làm được trọn vẹn.
oOo
Billy kéo cô ra khỏi cái hố, lấy thân mình làm đòn bẩy, rồi ôm chặt lấy cô và đẩy cô lên trên. Cô không đẩy ra mà để mặc cho anh ôm lấy, đồng thời bám chặt vào anh, nước mắt không ngừng tuôn rơi vì biết ơn, vì nhẹ nhõm. Anh dường như cũng hiểu điều đó nên giữ cô thật chặt. Cô đã tưởng mình sẽ rơi, sẽ chết, bị mất tích và bỏ quên trong căn hầm khủng khiếp, bị xé xác bởi những con vật nhiễm bệnh…
Sau một lúc, cô buông anh ra, quệt nước mắt bằng bàn tay còn run rẩy. Cả hai ngồi bệt dưới sàn, Billy đang nhìn quanh vách tường đá ảm đạm của gian phòng, còn Rebecca đang nhìn Billy. Sau một hồi im lặng khá lâu, cô đưa tay ra vịn vào anh.
”Cám ơn anh,” cô nói. ”Anh lại cứu mạng tôi lần nữa.”
Anh nhìn thoáng qua cô, rồi lại nhìn đi chỗ khác. ”Phải. Vì chúng ta có hiệp ước đình chiến mà, cô chưa quên đó chứ?”
”Tôi biết,” cô đáp. ”Và tôi cũng biết anh không phải là kẻ giết người, Billy à. Tại sao anh lại bị đưa tới Ragithon? Có phải – có thật là anh dính líu tới những vụ án mạng?”
Anh nhìn thẳng vào mắt cô. ”Có thể nói vậy,” anh nói. ”Dù sao đi nữa, tôi đã ở đó.”
Tôi đã ở đó… Điều này không có nghĩa là đã giết ai đó. ”Tôi đã nghĩ rằng anh không hề giết những người lính áp tải hồi lúc tối; tôi cho là những sinh vật này đã gây ra vụ tai nạn, và anh bỏ chạy,” cô nói. ”Và mặc dù biết anh chưa được bao lâu, nhưng tôi không tin rằng anh đã giết hai mươi người.”
”Chẳng có tác dụng gì,” Billy nói, mắt nhìn xuống đôi giày. ”Người ta chỉ tin vào thứ muốn tin.”
”Với tôi thì có tác dụng,” Rebecca nhẹ nhàng nói. ”Tôi không phải là quan tòa. Tôi chỉ muốn biết chuyện gì đã xảy ra?”
Anh vẫn nhìn xuống đôi giày, nhưng đôi mắt bỗng trở nên xa xăm, như thể đang nhìn về một thời điểm khác, với những người khác. ”Năm ngoái, đơn vị của tôi được cử tới châu Phi, để can thiệp vào một cuộc nội chiến,” anh nói. ”Tối mật, kiểu như không dính líu tới nước Mỹ, cô biết đó. Chúng tôi được chỉ định đánh úp vào sào huyệt một nhóm du kích. Lúc đó là mùa hè, thời điểm nóng nhất trong mùa, tất cả chúng tôi đổ bộ an toàn ngoài vùng tấn công, nằm giữa một khu rừng rậm. Chúng tôi phải hành quân theo đường bộ…”
Anh ngưng một lát trong lúc lục tìm cái thẻ bài và nắm chặt trong tay. Khi nói tiếp, giọng anh thậm chí còn nhỏ hơn. ”Trời nóng đã tiêu diệt một nửa số chúng tôi. Đối phương tiêu diệt phần lớn số còn lại, hạ gục chúng tôi từng người một. Lúc đến được nơi ấn náu, chúng tôi chỉ còn bốn người. Tất cả kiệt sức, gần như phát điên, bị đổ bệnh bởi sức nóng, bởi – chán nản, theo tôi đoán, vì phải chứng kiến đồng đội lần lượt ra đi.
”Nên khi tiếp cận mục tiêu, chúng tôi chỉ muốn thổi bay tất cả bọn họ. Phải có ai đó trả giá chứ, cô hiểu không? Cho tất cả những mất mát. Chỉ là, chẳng có sào huyệt nào cả. Tin tức chỉ điểm đã sai lầm. Nơi đó là một ngôi làng nhỏ buồn tẻ, với một nhúm nông dân. Những gia đình. Người già và phụ nữ. Trẻ em.”
Rebecca gật đầu khích lệ anh, nhưng ruột gan đã bắt đầu cồn lên. Câu chuyện hướng tới một kết cuộc mà cô có thể thấy trước, một kết cuộc bi thảm.
”Trưởng nhóm ra lệnh cho chúng tôi bao vây họ lại, và chúng tôi đã làm,” Billy nói. ”Rồi anh ta bảo bọn tôi –“
Giọng anh nghẹn lại. Anh đưa tay nhặt khẩu súng đang nằm dưới đất, nhét nó vào thắt lưng, cơn giận bùng lên khi anh đứng dậy quay ra chỗ khác. Rebecca cũng đứng dậy.
”Có phải anh?” cô hỏi. ”Anh có giết họ không?”
Billy quay lại nhìn cô, môi cong lên. ”Nếu tôi nói với cô rằng tôi đã làm thì sao? Cô sẽ thực thi công lý với tôi chứ?”
”Anh có làm không?” cô hỏi lại, đồng thời quan sát khuôn mặt anh, đôi mắt của anh, cố gắng đoán ra câu trả lời từ đó. Anh cũng có thể thấy điều đó trong mắt cô, thấy được cô đang khát khao muốn biết sự thật. Billy nhìn cô một chặp rồi lắc đầu.
”Tôi đã cố ngăn cản,” anh nói. ”Nhưng họ đánh tôi. Tôi gần như bất tỉnh, nhưng đã thấy điều đó, thấy tất cả… và chẳng làm được gì.” Anh nhìn ra chỗ khác trước khi tiếp tục. ”Khi đã xong chuyện, được trở về, có những lời buộc tội chống lại tôi. Rồi phiên tòa, lời tuyên án, và - đến lượt những chuyện này.”
Anh dang rộng hai tay, biểu thị tình hình của họ. ”Nên nếu chúng ta thoát khỏi đây, tôi thế nào cũng chết. Chết hoặc chạy trốn, chạy trốn không ngừng.”
Sự thật là vậy. Phải trao giải Oscar cho anh ta nếu những lời này là dối trá… Mà cô không nghĩ vậy. Cô cố nghĩ xem nên nói gì đó để trấn an, để làm tình hình sáng sủa hơn, nhưng chẳng nghĩ được gì cả. Anh ta nói đúng về tình thế của họ.
”Này,” anh nói, mắt nhìn về phía sau vai cô. ”Kiểm tra nó xem.”
Cô quay lại trong lúc anh tiến tới, thấy một chồng kim loại phế liệu xếp dựa vào vách tường – và có một thứ giấu hờ ngoài tầm mắt của họ, hình như khẩu súng săn.
”Có phải thứ mà tôi đang nghĩ không nhỉ?” cô hỏi.
Billy nhặt nó lên, cười toe toét trong khi kiểm tra. ”Vâng, thưa sếp, chính nó.”
”Nó có sẵn đạn chứ?”
”Không có, nhưng tôi còn vài viên lấy được trên tàu đây. Cỡ đạn mười hai.” Anh lại cười. “Mọi việc coi bộ có tiến triển. Không phải chúng ta muốn, nhưng mà có một con khỉ ngoài hành lang đang van nài được nếm thử món này đây.”
”Thật ra, tôi nghĩ nó là khỉ đầu chó,” cô chỉnh lại, và ngạc nhiên thấy mình đang cười. Rồi cả hai cùng cười khi thấy điều cô vừa nói chẳng có ý nghĩa gì cả. Họ đang mắc kẹt trong một tầng hầm cô lập, bị săn đuổi bởi cơ man nào là quái vật, vậy mà vẫn còn dư hơi để biết con vật ngoài hành lang là khỉ đầu chó. Chuyện này khiến họ cười càng lớn hơn.
Cô nhìn anh cười, thấy tất cả những vẻ ngạo nghễ và cộc cằn trước đây đều đã biến mất, lần đầu tiên cảm nhận được anh ta là Billy Coen thật sự. Giờ đây, cô nghĩ có lẽ nhiệm vụ đầu tiên của mình đã thất bại. Anh ta không còn là tù nhân của cô nữa. Giả sử họ sống sót, thì cô sẽ không thể buộc mình ngăn anh chạy trốn.
Trong khi chức nghiệp của mình là thực thi luật pháp.
Nghĩ đến đó, cô lại cười càng lớn hơn.
Tác giả :
S. D. Perry