Resident Evil 0 - Giờ Hành Động
Chương 4
Dịch giả: Lioncoeur
Bóng người cô độc trên ngọn đồi quan sát đoàn tàu tăng tốc và biến mất trong cơn bão, trái tim hòa nhịp theo âm điệu phát ra từ môi, tiếng ngân nga vang vọng không trung, ra lệnh cho lũ tay chân quay về. Chúng đã làm mọi thứ rất tốt, từ việc chuẩn bị một cuộc thanh lọc đám nhân viên lúc mặt trời ngả bóng, cho đến việc dẫn những vật chủ bị nhiễm đi qua khu rừng, khóa trái cửa, nạp năng lượng động cơ tàu; hắn muốn vỗ béo bầy đỉa không chỉ bằng những vật chủ virus, thành thử không một người nào của Umbrella trên tàu thoát được. Cơn mưa đã gột rửa đi nhiều thứ trong lúc chúng trườn lên đồi theo lệnh của bài hát, đúng như hắn muốn.
Hắn đón nhận chúng với một nụ cười khi đã chấm dứt bài hát. Mọi chuyện tiến triển theo đúng mong đợi. Sau khi đã mất quá lâu để chờ đợi, giờ đây sẽ không còn phải chờ lâu nữa. Hắn sẽ hoàn tất giấc mơ của mình, sẽ trở thành cơn ác mộng của Umbrella, và của cả thế giới.
..oOo..
”Trước tiên, chúng ta phải dừng đoàn tàu lại.” Rebecca nói.
Billy gật đầu. ”Bằng cách nào?”
”Phải chia ra,” cô bình tĩnh đáp. Bình tĩnh đến kinh ngạc, nếu xét đến những gì đã trải qua. ”Toa tàu phía trước bị khóa – cái chỗ mà chúng ta đã gặp nhau ấy. Phải mở cái cửa đó để tới khoang động cơ.”
”Vậy thì cứ bắn lỗ khóa là xong,” Billy nói.
Rebecca lắc đầu. ”Nó có khe đọc thẻ. Chúng ta phải tìm cho ra thẻ đọc.”
”Tôi có thấy phòng trưởng tàu –“
”Cũng bị khóa,” Rebecca ngắt lời. ”Chúng ta sẽ phải lục tung lên thôi.”
”Việc đó mất không ít thời gian,” Billy nói. ”Chúng ta nên đi chung thì hơn.”
”Làm vậy sẽ lâu gấp đôi. Mà tốt hơn thì nên rời khỏi chỗ này trước khi nó chấm dứt cuộc hành trình.”
Mặc dù anh không muốn đi long nhong trên tàu một mình, không muốn cô ta đi một mình, nhưng phải thừa nhận là cô có lý.
”Tôi sẽ bắt đầu phía cuối tàu, tìm ngược lên,” cô nói. ”Anh tìm tầng trên. Chúng ta sẽ gặp nhau đằng trước.”
Hơi hách đấy nhé? anh nghĩ thầm nhưng không nói ra miệng. Biết đâu vào một lúc nào đó trong tương lai không xa, cô ta sẽ là người duy nhất giúp anh khỏi trở thành bữa trưa của kẻ khác.
”Và tôi sẽ bắn anh đấy, nếu anh còn giở trò trêu ngươi nữa,” cô đế thêm. Billy trố mắt nhìn Rebecca, và thấy mắt cô hấp háy. Cô ta không định nghiêm trọng hóa vấn đề. Không hoàn toàn.
Cô nhìn vũ khí của anh. ”Anh cần thêm đạn không?”
”Tôi đủ rồi,” anh nói. Còn cô?”
Thêm một cái gật đầu, và cô ta bắt đầu tiến về phía cánh cửa. Lúc đến nơi, cô quay lại.
”Cám ơn,” có nói trong khi ngó bâng quơ về phía cuối toa. ”Tôi nợ anh.”
Trước khi anh kịp trả lời, cô ta đã biến mất. Billy nhìn chằm chằm theo một chốc, không hiểu tại sao mà cô lại có vẻ hứng thú trong việc đơn phương đối diện hiểm nguy. Không biết anh có can đảm như thế hồi bằng tuổi cô ta?
Hồi trẻ, cái đó gọi là “ngựa non háu đá” anh nghĩ vậy. Phải, anh cho là mình cũng đã từng như vậy. Bị tuyên án tử thật sự có thể khiến người ta có cách nhìn khác biệt đôi chút về mọi thứ.
Billy bỏ ra một lát để kiểm tra toa ăn, hết sức bực bội với những phần thân và chất lỏng còn sót lại của lũ đỉa trong lúc lục soát nhanh phía sau quầy bar và dưới bàn. Có một cánh cửa bị khóa ở đầu toa, nhưng sau khi tông nó ra và liếc nhanh một lượt, anh thấy đó chỉ một khoang dịch vụ trống không với một lỗ hổng trên nóc. Billy không nấn ná lại lâu, vì biết rằng lựa chọn tốt nhất lúc này là lục tìm thi thể của các nhân viên trên tàu.
Anh leo xuống cầu thang, dừng lại ở bục cuối một chút để quan sát phía ngoài rìa đoàn tàu. Rebecca Chambers có vẻ đủ sức tự xoay sở, nên tốt nhất là anh cũng tự lo lấy thân.
Tiếp tục đi qua hai cánh cửa, xuyên qua toa hành khách trống rỗng, rồi hít một hơi sâu trước khi chuyển sang toa kế tiếp. Sau khi nhìn quanh xem có ai đang lê lết bên trong không, anh leo lên cầu thang, không dám nhìn tới cái thây mà mình đã bắn. Anh đã giết nó, nhưng chuyện đó chẳng có gì đáng xem cả nếu còn lương tâm.
Một thứ mùi ập đến trước khi Billy lên hết cầu thang, anh bước đi rón rén và thở thật nhẹ. Nghe như mùi nước biển và mùi thối. Khi tới bục cuối cùng, anh nhận ra nguồn gốc của nó và thiếu điều muốn mửa.
Bây giờ thì đã rõ chúng chui từ đâu ra.
Anh đặt chân lên đỉnh cầu thang, nơi này dẫn ra một hành lang ngay bên phải, rồi lại tiếp tục rẽ phải cách đó vài mét – và từ sàn cho tới nóc, từ cái góc anh đang đặt chân kéo dài sang bên trái, giăng đầy hàng trăm cái kén rỗng, nhìn y như tổ nhện - chỉ khác ở chỗ là chúng đen, ướt, và lấp lánh dưới ánh sáng nhàn nhạt của những chỏm đèn treo tường bị phá hỏng gần hết. Chúng lắc lư nhẹ theo nhịp va đập của đoàn tàu trên đường ray, nhìn cứ như hãy còn sống. Ít nhất thì giờ chúng cũng đã trống không. Billy cầu mong cho mình không phải chạm trán với cái thứ đã tạo ra đống kén này.
Anh bước tránh ra xa cái ổ, chân đạp lên một dãy chất phát sáng trải khắp tấm thảm lót dọc hành lang, ngờ rằng vụ tai nạn xe jeep chưa chắc đã là may mắn cho mình. Chẳng ai muốn chết cả, nhưng thà bị xử bắn gọn lẹ còn hơn bị ăn ngấu nghiến bởi một lũ đỉa biết biến đổi hình dạng.
Tỉnh lại đi, anh lính. Nên nhớ mày đang ở đâu.
Anh rảo bước theo hành lang, thở phào nhẹ nhõm khi thấy nó vắng vẻ. Có hai cửa phòng nhỏ đóng kín, nằm hai bên của lối đi nhỏ hẹp, mỗi cái đều có đánh số. Căn cứ theo cách bài trí sang trọng trên này, anh đoán đây là phòng cá nhân.
Quả là không sai. Khi mở cánh cửa đầu tiên, số 102, anh thấy một cái giường ngủ tiện nghi, thật may là không có máu hay thi thể nào. Tuy nhiên, nó không có gì nhiều để lục soát, mặc dù anh cũng tìm thấy một ít đồ dùng cá nhân trong buồng vệ sinh. Có giấy, vài bức ảnh, một hộp đồ trang sức. Anh mở hộp, trông thấy một cái nhẫn có kiểu dáng khác lạ; có vẻ nó được lấy ra từ một bộ sưu tập nhẫn, dược chạm khắc và bẻ cong theo một khuôn mẫu dặc biệt… Và bởi vì không phải là nhà buôn nhẫn, nên anh bỏ nó lại đó để chuyển sang căn phòng bên kia.
Khi mở cánh cửa số 101, anh thấy có chút hy vọng. Nằm dưới sàn là một món quà từ trên trời rơi xuống, một khẩu súng săn. Billy nhặt nó lên và kiểm tra, niềm hy vọng chuyển sang đôi chút vui sướng. Đây là loại súng Western, nòng đôi, đã nạp sẵn đạn cỡ mười hai. Anh còn tìm được một ít đạn nữa sau khi lùng kiếm thêm, mặc dù chẳng có cái thẻ đọc nào hết.
Khóa kiểu gì đi nữa thì khẩu này cũng thổi bay hết, anh nghĩ thầm, cảm thấy hài lòng với trọng lượng khẩu súng trong lúc nhét đạn vào túi. Anh định tìm Rebecca ngay lập tức, nhưng dù sao cũng nên chờ xong việc ở đây đã. Còn một cánh cửa ở phía cuối toa – xong sớm thì gặp sớm thôi. Không phải anh sợ hành động một mình, hoàn toàn không, cũng không phải vì lo lắng cho Rebecca, mặc dù anh có lo thật – mà là vì sau nhiều năm phục vụ trong quân ngũ, anh hiểu rõ rằng không gì tệ hại cho bằng việc phải chiến đấu đơn độc.
Cửa không khóa, nó dẫn vào một phòng chờ vắng vẻ, một nơi cực kỳ hợp mốt. Có một quầy bar bằng gỗ láng bóng phía bên phải, chứa đủ thứ vật dụng, và những cái bàn nho nhỏ thanh mảnh kê dọc sát tường, chừa lại khoảng không rộng rãi cho mặt sàn lót thảm đắt tiền và những chúc đèn treo lủng lẳng. Giống như toa vừa rồi, không có máu hay cái xác nào cả. Billy kiểm tra quầy thu tiền, rồi hướng đến cánh cửa đằng cuối phòng, thấy hơi ơn ớn khi băng ngang khoảng không giữa phòng. Anh khẽ siết chặt lấy khẩu súng nặng nề trong tay.
Khi anh sắp băng qua hết phòng, có thứ gì đó rơi ầm xuống nóc tàu. Tiếng rơi dữ dội, vang rền như sấm, lực va chạm mạnh đến nỗi làm chúc đèn treo phía sau rớt xuống sàn, thủy tinh văng tứ phía. Đoàn tàu rung chuyển theo đà lăn bánh, khiến anh lảo đảo suýt té.
Anh gượng đứng vững lại trước khi quay đầu để ngó. Ngay chỗ chúc đèn rơi, nóc toa đã bị lõm xuống thấy rõ, lớp kim loại dày cộm hoàn toàn biến dạng – và trong khi anh đang quan sát, hai vật thể to đùng đâm xuyên qua nóc, cách nhau chừng hai mét, cái này theo sau cái kia.
Billy nhìn mà không biết mình đang nhìn cái gì. Chúng có dạng hình trụ, to lớn và sắc nhọn, mỗi cái nhìn giống như bị tách đôi từ đoạn giữa. Hình như là… càng?
Bụng anh thót lên một cái. Chính xác, chúng trông y như càng cua hoặc bò cạp, và khi mà anh còn đang quan sát, chúng đã tách ra, để lộ những mấu răng cưa. Những cái càng khổng lồ bắt đầu nhấp, bắt đầu cứa qua cứa lại nóc tàu, tiếng kim loại bị xé nghe như tiếng gào thét.
Thấy nhiêu đó đủ rồi. Billy quay gót và chạy nốt vài mét cuối cùng tới cửa ra, cảm thấy toát mồ hôi lạnh. Phía sau anh, tiếng gào rú của kim loại không ngừng gia tăng, rồi anh chộp lấy tay nắm cửa, đẩy –
- và thấy nó bị khóa trái. Đương nhiên.
Anh quay phắt người lại, vừa kịp thấy chủ nhân của bộ càng khổng lồ đang nhảy xuống cái lỗ thủng trên nóc, chặn đứng lối thoát duy nhất.
oOo
Rebecca vừa nghĩ rằng toa tàu cuối an toàn, thì bị con chó tấn công.
Sau khi chia tay Billy, cô đã rà soát qua khu vực bếp ăn ở toa cuối, nơi nhuốm đầy máu và nguyên liệu làm bếp bị đổ, nhưng ngoài chuyện đó ra thì nơi đây trống không. Cô đang bắt đầu tự hỏi, phải chăng các hành khách và nhân viên đã thoát khỏi đây khi đoàn tàu vừa mới bị tấn công. Có quá nhiều máu nhưng quá ít thi thể. Căn cứ vào tình trạng của những hành khách mà cô đụng độ, có lẽ đây là giả thiết tốt nhất có thể.
Cô bị trượt chân trên vũng dầu ăn lúc lục soát cái bếp, nhưng không tìm thấy gì đáng kể cả. Cánh cửa trong góc toa – có lẽ là một kiểu kho chứa đồ - đã bị khóa, nhưng có một lối trườn chạy dọc dưới sàn, được phủ một lớp đậy mà cô cạy ra không mấy khó khăn. Cô chẳng thích chút nào cái việc chui vào trong hốc tối, nhưng đường hầm này không dài lắm, chỉ có vài mét. Với lại cô đã nói với Billy là sẽ kiểm tra từ toa cuối lên, nên phải chui thôi. Làm trọn vẹn nhiệm vụ là điều duy nhất có thể kiểm soát được, giữa một mớ bòng bong những chuyện điên rồ. Những nạn nhân nhiễm virus đã quá đủ tệ rồi, lại còn thêm cái gã làm bằng bầy đỉa…
…Đừng nghĩ nữa. Tìm tấm thẻ đọc, dừng đoàn tàu, tìm người trợ giúp. Ai đó khác hơn là một kẻ giết người mang án tử, dù rằng phải cảm ơn anh ta. Billy là chỗ dựa duy nhất của cô trong lúc này, và đã cứu mạng cô, nhưng thật ngu ngốc nếu tin tưởng gã ta hoàn toàn.
Kết quả của việc chui vào đường hầm là cô thấy mình đang ở khoang bên cạnh. Sau khi thở phào vì chỉ phải bò một quãng ngắn, cô đứng dậy trong một kho chứa đồ, được soi sáng bởi một bóng đèn treo duy nhất. Dọc tường chất đầy những thùng và hộp, hầu hết khuất trong bóng tối. Cô rà quét xung quanh bằng khẩu súng. Không có gì dịch chuyển, ngoại trừ chính đoàn tàu đang lắc lư theo nhịp đập trên đường ray.
Phía cuối kho là một cánh cửa với cửa sổ bên trong. Rebecca đến gần, súng lăm lăm đề phòng bất cứ chuyển động nào từ phía bên kia. Tiếng tàu chạy nghe lớn hơn, và cô nhận ra mình đang ở toa cuối cùng, khi nhìn thấy đường ray. Một cảm giác nhẹ nhõm thoáng qua, vì cô biết rằng ngoài kia thế giới vẫn tồn tại - nếu mọi chuyện chuyển biến xấu hơn, chỉ việc nhảy ra ngoài là xong. Đoàn tàu đang chạy rất nhanh, nhưng không phải là không thể nhảy ra được.
Click.
Cô quay ngoắt người về phía phát ra tiếng động yếu ớt đó, tim đập thình thịch, không biết nên chĩa súng vào cái gì. Đoàn tàu vẫn lăn bánh, bóng tối nhấp nhô và lắc lư, nhưng tiếng động đó không lặp lại nữa. Sau một hồi căng thẳng, cô thở phào và buông lỏng người. Có lẽ một trong số mấy cái hộp đã dịch chuyển. Giống như phần còn lại của toa tàu – thậm chí nguyên cả tầng trệt – kho chứa đồ này có vẻ an toàn. Cô ngờ là khó mà tìm thấy tấm thẻ đọc nào quanh đây, nhưng ít nhất thì cô cũng đã kiểm tra nó –
- click. Click. Click-click-click.
Rebecca chết điếng. Tiếng động đó ngay sát bên cạnh, và cô biết nó là gì, bất cứ ai từng nuôi chó đều phải biết: Tiếng miết móng chân trên bề mặt cứng. Cô chậm rãi quay đầu sang phải, nhìn thấy vài chuồng nhốt chó, cả hai cái đều để cửa mở, nổi bật lên trong bóng tối –
Tất cả diễn ra thật nhanh. Con chó chồm lên với một tiếng gừ dữ tợn. Cô chỉ đủ thời gian để nhận ra nó cùng một loại với những con đã gặp – to lớn, bị nhiễm, bị hủy hoại - trước khi chân phải vung lên. Một cú ra chân cực mạnh, gót giày nện trúng vào bên ngực của nó. Với một âm thanh ươn ướt nghe phát ớn, phần ngực con chó bị thổi bay mất một mảng, lớp da bị lột ra khỏi phần cơ xám xịt, bám vào dưới giày của cô thành một lớp nhầy nhụa.
Thật không thể tin nổi, con chó vẫn mặc kệ vết thương và cứ tiến tới, hàm răng nhe ra nhễu đầy nước dãi. Cô biết mình sẽ bị nó vồ trước khi kịp giương súng, cô có thể cảm thấy răng của nó đang chạm vào tay mình, và chỉ cần một cú cắn thôi là cô sẽ đi đời, sẽ trở thành một trong những cái xác biết đi –
- và trước khi bị nó cắn, cái chân kia của cô, vốn đã bị dính đầy dầu ăn, trượt dài ra. Rebecca té nện hông xuống sàn, và con chó bay ngang qua đầu, một thứ mùi thối rữa lướt qua. Nó thậm chí đã đạp trúng cô, để lại trên vai trái của cô một dấu chân sau bẩn thỉu khi lao qua, đà lao đã khiến nó văng ra xa.
Cú té may mắn giúp cô có thêm thời gian. Cô lăn một vòng, cánh tay vung lên và siết cò, nhắm thẳng vào con vật khi nó quay lại chuẩn bị tấn công tiếp. Phát thứ nhất trượt mục tiêu, nhưng phát thứ hai đã đi đúng hướng, cắm thẳng vào dưới mắt trái của con vật khát máu kinh tởm.
Con chó ngã gục xuống sàn, chết ngay lập tức. Máu loang ra xung quanh chỗ nó nằm, và Rebecca nhổm tránh ra xa. Về cơ bản, vi khuẩn học không phải là chuyên môn của cô, nhưng cô đoan chắc rằng máu của nó chứa đầy nhóc virus, nên tốt nhất là đừng để bị dính vào bất cứ thứ gì. Không cần quá thông minh mới nhận ra điều đó.
Cứ coi như đó là virus, cô nghĩ thầm trong lúc nhìn chăm chú cái đống bầy hầy vốn đã từng là chó, trong đầu dậy lên những thắc mắc về T-Virus mà Billy đã đề cập. Nó lan tỏa như thế nào? Mức độ độc hại, mất bao lâu để nó thâm nhập vào cơ thể vật chủ?
Cô chùi đế giày vào cái chuồng, hy vọng có thể mau chóng quên đi thứ âm thanh nhèm nhẹp đó – và chợt thấy có một vật phát sáng trong bóng tối – Cô cúi xuống, nhặt lên một cái nhẫn vàng, được chạm khắc theo một khuôn mẫu khác lạ. Trông nó không giống vàng thật, có vẻ vô giá trị, nhưng cũng khá đẹp. Dù gì đi nữa thì cô cũng khá may mắn khi có thể đứng đây mà dòm nó.
”Coi như là một cái nhẫn may mắn,” cô nói, và đeo vào ngón trỏ trái. Thật vừa vặn.
Rebecca chỉ tìm được nhiêu đó. Chẳng có tấm thẻ đọc nào cả, cũng chẳng có gì hữu dụng. Cô bước chân ra ngoài tấm bục phía đuôi tàu, và nhanh chóng bị nước mưa làm ướt sũng. Cơn bão thật dữ dội, và đoàn tàu đang chạy quá nhanh để có thể nhảy xuống. Niềm hy vọng của cô bừng lên đôi chút khi thấy một tấm biển ghi chữ DÂY PHANH KHẨN CẤP, nhưng khi cô ấn thử vài nút trên bảng điều khiển thì thấy không có điện. Cũng như không.
Rebecca quay lại vào trong, gỡ cái mũ ướt sũng xuống khỏi trán. Đã đến lúc quay trở lên, thử lục soát mấy cái xác mà cô và Billy đã bắn hạ. Thật khó chịu khi chẳng còn cách nào khác. Không biết có ai đang lái tàu chăng, hay là nó chỉ đang chạy không phanh; dù thế nào thì cũng phải tìm cách để điều khiển đoàn tàu.
Cô nhìn lại con chó một lần nữa trước khi đi - thầm nghĩ mình đã quá may mắn khi mém tí nữa đã bị cắn xé tới chết. Từ bây giờ cô phải luôn luôn đề cao cảnh giác mới được; hy vọng rằng Billy có thể may mắn hơn cô.
oOo
Lạy Chúa nhân từ.
Billy ngó trân trân, mồm há hốc, đầu óc mụ đi trước cái thứ đáng lẽ không thể tồn tại đang đứng cách mình không đầy mười mét.
Trông nó giống một con bò cạp, có điều to cỡ một cái xe thể thao. Con quái vật đã rơi xuống nóc tàu dài chừng ba mét, cặp càng khổng lồ sắc nhọn đang nhắp nhắp quanh bộ mặt phẳng lì, cái đuôi dài ngoằng uốn cong lên đằng sau lưng, phần chóp đuôi quắn lại thành một cục còn to hơn đầu của Billy. Có khá nhiều chân xung quanh, nhưng Billy chẳng rỗi hơi để đếm – nhất là khi cái thứ ấy đang di chuyển tới chỗ anh, phát ra một tiếng kêu nghe như động cơ quá tải, mấy cái cẳng đồ sộ gập khúc nện thình thình xuống sàn. Mưa đang trút xuống từ cái lỗ trên nóc, khiến cho khung cảnh chẳng khác gì dưới địa ngục, con quái vật nổi bật lên giữa làn mưa mờ ảo như một cơn ác mộng.
Không còn thời gian để nghĩ ngợi nữa. Billy nâng khẩu súng săn lên và ngắm vào cái đầu phẳng phiu thấp chủm của nó. Giữa tiếng xình xịch của đoàn tàu và tiếng cào bới sột soạt của con vật, Billy mất vài giây để ngắm cho chuẩn, chỉ vài giây thôi mà tưởng chừng như kéo dài vĩnh viễn. Con vật bò đến gần hơn, mấy cái chân lởm chởm xoi lủng lỗ trên tấm thảm đắt tiền theo từng bước tiến.
Billy siết cò, bùm, khẩu súng săn dội ngược lại, đập vào vai anh đến thâm tím. Một phát trúng đích, và con vật kêu rít lên, một thứ chất lỏng trắng đục phụt ra khỏi cái đầu bọc giáp. Anh không hề dừng lại để xem xét, mà tiếp tục lên đạn và bắn, bùm.
Nó rít lên còn lớn hơn nữa, nhưng vẫn cứ tiến tới. Billy gập súng, xóc cho vỏ đạn rơi ra trước khi lục tìm đạn mới. Giữa lúc anh đang sờ soạng và vỏ đạn rơi xuống thảm, con quái vật đã thu ngắn khoảng cách trong tiếng rít chói tai, nhanh cực kỳ.
Chỉ có một viên đạn trong túi. Anh lôi ra, nhét vào nòng và xóc súng lên ngang hông…, Cơ hội duy nhất đây.
Phát đạn ghim ngay giữa cái mặt tối thui xấu xí của con quái vật, lúc này chỉ cách Billy có một mét, gần đến nỗi anh cảm thấy hơi nóng thuốc súng phả dính vào da. Tiếng rú im bặt khi một mảng xương lớn đầy góc cạnh văng khỏi cái đầu của nó, máu lẫn não rơi lộp bộp xuống cái đuôi đang co giật. Con vật run lẩy bẩy toàn thân, cặp càng vĩ đại quơ quào tứ phía, hết khép lại đến mở ra, chóp đuôi chích loạn xạ vào không khí. Sau một tiếng kêu òng ọc, nó đổ vật xuống sàn, cả cặp càng lẫn phần thân lặng lẽ nằm bẹp xuống.
Một thứ mùi bốc lên, nghe thum thủm, nóng hổi và chua ngoét, nhưng Billy vẫn đứng yên đó cả phút đồng hồ để bảo đảm rằng nó đã chết. Có thể thấy dấu vết của hai viên đạn đầu tiên - khẩu súng săn đã nhắm hơi lệch sang trái, may mà phát đạn cuối thì trúng ngay giữa – một phần lớp giáp ngay vị trí mắt đã vỡ toác ra.
Nó là cái gì? Anh nhìn lại nỗi kinh hoàng đó, không chắc mình đã biết được điều gì. Ắt là có quan hệ tới lũ chó và mấy cái thây biết đi, và T-Virus. Cuốn nhật ký có ghi chép về việc những liều thuốc nhỏ tạo ra sự biến đổi kích thước và gia tăng tính hung hăng…
Nghĩa là con quỷ này phải hấp thụ có đến hàng lít thuốc. Tai nạn chăng? Không thể nào. Cuốn nhật ký đã nói về phòng thí nghiệm. Và việc kiểm soát hiệu ứng của virus, rằng một khi chưa kiểm soát được thì công ty đang “đùa với lửa.”
Mối liên hệ là quá rõ ràng. Có lẽ T-Virus đã bị lan truyền do tai nạn, nhưng công ty này hiển nhiên biết trước virus có thể làm gì. Và đã thí nghiệm nó.
Vấn đề là tất cả đều đã chết – và anh đã xong việc tìm kiếm tấm thẻ đọc. Đi một mình vậy là đủ rồi. Nếu tên vua bò cạp này có anh em đi kèm, Billy sẽ phải cần thêm người để hỗ trợ.
Anh nhặt mấy viên đạn mình làm rớt lên, nạp vào súng. Rồi cẩn thận bước qua cái xác hôi hám khổng lồ để đi tìm Rebecca. Hy vọng cô ta may mắn hơn anh.
..oOo..
Lúc vừa bước tới toa trước, Rebecca nghĩ mình nghe thấy tiếng súng phát ra từ chỗ cô vừa lục soát xong. Cô đứng giữa ô cửa, vịn tay vào khung, nhìn chăm chăm xác con chó trước tầm mắt trong lúc căng tai lên nghe ngóng. Sấm nổ vang bên ngoài. Sau một lúc, cô thôi không nghe ngóng nữa và rảo bước đi tới.
Rebecca di chuyển thật chậm, tự trấn an mình khi nghĩ tới việc sắp nhìn thấy xác Edward. Cô ước gì đã nghĩ đến việc kiếm một thứ đại loại như chăn mền lúc ở khoang hành khách. Áo khoác của một cái xác nào đó chẳng hạn; khổ nỗi lúc đó cô đang rất phẫn nộ khi nghĩ tới kẻ đã phóng thích T-Virus, và lại quá căng thẳng tập trung. Không có chìa khóa, không một sự trợ giúp nào. Tuy nhiên, có lẽ cái chìa tìm thấy trong bàn tay xác chết của nhân viên tàu ở toa trước, nơi cô gặp Billy - sẽ có lúc hữu dụng.
Cô đến góc quẹo nơi hành lang, cố gắng ép mình đi ngang qua đó, tránh xa bãi chất lỏng tuôn ra từ con chó – và không thấy Edward đâu cả.
Rebecca dừng lại, nhìn đăm đăm. Con chó thứ hai vẫn nằm đó – nhưng chỗ Edward ngã xuống giờ đây chỉ còn một nắm băng gạc đỏ thẫm và vài vệt máu. Không khí lành lạnh ẩm ướt thổi qua cửa sổ, nhưng không đủ sức át đi cái mùi nặng nề.
Mọi thứ dường như quay chậm lại khi cô nhìn xuống, trông thấy vết máu kéo dài. Ánh mắt cô lần theo đó, nhìn ra phía trước, thấy những dấu chân liêu xiêu đỏ lòm, dường như người đã để lại dấu chân này đang say rượu, hoặc… đang… bệnh…
Ôi không. Rebecca thấy tim mình thót lên một cái.
Thời gian như ngừng trôi, ánh mắt cô rốt cuộc cũng rời khỏi mặt sàn. Cô thấy một phần của cánh tay trần, ai đó đang đứng khuất khỏi tầm nhìn nơi cuối hành lang. Ai đó cao lớn. Ai đó mang giày ủng.
”Không,” cô nói, và Edward rời khỏi bức tường, xuất hiện trong tầm nhìn. Khi thấy cô, cặp môi ướt máu của anh ta phát ra một tiếng rên rỉ. Anh ta khật khưỡng bước tới, bộ mặt xám ngoét, tròng mắt trắng dã.
”Edward?”
Anh ta vẫn tiến tới, lảo đảo, cái vai đẫm máu lê dọc theo tường, cánh tay rũ xuống một bên, khuôn mặt vô hồn đờ đẫn. Đó là Edward, bạn đồng đội của cô, và cô nâng súng lên, lùi lại một bước, ngắm bắn.
”Đừng ép em,” cô nói, trong đầu tự hỏi virus đã làm thế nào khiến cho các nạn nhân trông như đã chết. chắc là làm chậm nhịp tim-
Edward rên lên. tiếng rên đầy đói khát, và mặc dù đôi mắt của anh vẫn còn hiện ra sau một lớp màng trắng, nhưng cô biết đây không phải là Edward nữa. Anh ta lại tiến tới gần hơn.
”Xin hãy ra đi thanh thản,” cô thì thầm rồi siết cò, viên đạn khoan một lỗ nơi thái dương trái. Anh ta vẫn đứng vững sau phát súng, vẫn còn nguyên vẻ đói khát uể oải, và rồi đổ ập xuống.
Rebecca đứng yên đó, súng vẫn chĩa vào cái xác của người bạn, cho đến khi Billy tìm thấy cô vài phút sau.
Bóng người cô độc trên ngọn đồi quan sát đoàn tàu tăng tốc và biến mất trong cơn bão, trái tim hòa nhịp theo âm điệu phát ra từ môi, tiếng ngân nga vang vọng không trung, ra lệnh cho lũ tay chân quay về. Chúng đã làm mọi thứ rất tốt, từ việc chuẩn bị một cuộc thanh lọc đám nhân viên lúc mặt trời ngả bóng, cho đến việc dẫn những vật chủ bị nhiễm đi qua khu rừng, khóa trái cửa, nạp năng lượng động cơ tàu; hắn muốn vỗ béo bầy đỉa không chỉ bằng những vật chủ virus, thành thử không một người nào của Umbrella trên tàu thoát được. Cơn mưa đã gột rửa đi nhiều thứ trong lúc chúng trườn lên đồi theo lệnh của bài hát, đúng như hắn muốn.
Hắn đón nhận chúng với một nụ cười khi đã chấm dứt bài hát. Mọi chuyện tiến triển theo đúng mong đợi. Sau khi đã mất quá lâu để chờ đợi, giờ đây sẽ không còn phải chờ lâu nữa. Hắn sẽ hoàn tất giấc mơ của mình, sẽ trở thành cơn ác mộng của Umbrella, và của cả thế giới.
..oOo..
”Trước tiên, chúng ta phải dừng đoàn tàu lại.” Rebecca nói.
Billy gật đầu. ”Bằng cách nào?”
”Phải chia ra,” cô bình tĩnh đáp. Bình tĩnh đến kinh ngạc, nếu xét đến những gì đã trải qua. ”Toa tàu phía trước bị khóa – cái chỗ mà chúng ta đã gặp nhau ấy. Phải mở cái cửa đó để tới khoang động cơ.”
”Vậy thì cứ bắn lỗ khóa là xong,” Billy nói.
Rebecca lắc đầu. ”Nó có khe đọc thẻ. Chúng ta phải tìm cho ra thẻ đọc.”
”Tôi có thấy phòng trưởng tàu –“
”Cũng bị khóa,” Rebecca ngắt lời. ”Chúng ta sẽ phải lục tung lên thôi.”
”Việc đó mất không ít thời gian,” Billy nói. ”Chúng ta nên đi chung thì hơn.”
”Làm vậy sẽ lâu gấp đôi. Mà tốt hơn thì nên rời khỏi chỗ này trước khi nó chấm dứt cuộc hành trình.”
Mặc dù anh không muốn đi long nhong trên tàu một mình, không muốn cô ta đi một mình, nhưng phải thừa nhận là cô có lý.
”Tôi sẽ bắt đầu phía cuối tàu, tìm ngược lên,” cô nói. ”Anh tìm tầng trên. Chúng ta sẽ gặp nhau đằng trước.”
Hơi hách đấy nhé? anh nghĩ thầm nhưng không nói ra miệng. Biết đâu vào một lúc nào đó trong tương lai không xa, cô ta sẽ là người duy nhất giúp anh khỏi trở thành bữa trưa của kẻ khác.
”Và tôi sẽ bắn anh đấy, nếu anh còn giở trò trêu ngươi nữa,” cô đế thêm. Billy trố mắt nhìn Rebecca, và thấy mắt cô hấp háy. Cô ta không định nghiêm trọng hóa vấn đề. Không hoàn toàn.
Cô nhìn vũ khí của anh. ”Anh cần thêm đạn không?”
”Tôi đủ rồi,” anh nói. Còn cô?”
Thêm một cái gật đầu, và cô ta bắt đầu tiến về phía cánh cửa. Lúc đến nơi, cô quay lại.
”Cám ơn,” có nói trong khi ngó bâng quơ về phía cuối toa. ”Tôi nợ anh.”
Trước khi anh kịp trả lời, cô ta đã biến mất. Billy nhìn chằm chằm theo một chốc, không hiểu tại sao mà cô lại có vẻ hứng thú trong việc đơn phương đối diện hiểm nguy. Không biết anh có can đảm như thế hồi bằng tuổi cô ta?
Hồi trẻ, cái đó gọi là “ngựa non háu đá” anh nghĩ vậy. Phải, anh cho là mình cũng đã từng như vậy. Bị tuyên án tử thật sự có thể khiến người ta có cách nhìn khác biệt đôi chút về mọi thứ.
Billy bỏ ra một lát để kiểm tra toa ăn, hết sức bực bội với những phần thân và chất lỏng còn sót lại của lũ đỉa trong lúc lục soát nhanh phía sau quầy bar và dưới bàn. Có một cánh cửa bị khóa ở đầu toa, nhưng sau khi tông nó ra và liếc nhanh một lượt, anh thấy đó chỉ một khoang dịch vụ trống không với một lỗ hổng trên nóc. Billy không nấn ná lại lâu, vì biết rằng lựa chọn tốt nhất lúc này là lục tìm thi thể của các nhân viên trên tàu.
Anh leo xuống cầu thang, dừng lại ở bục cuối một chút để quan sát phía ngoài rìa đoàn tàu. Rebecca Chambers có vẻ đủ sức tự xoay sở, nên tốt nhất là anh cũng tự lo lấy thân.
Tiếp tục đi qua hai cánh cửa, xuyên qua toa hành khách trống rỗng, rồi hít một hơi sâu trước khi chuyển sang toa kế tiếp. Sau khi nhìn quanh xem có ai đang lê lết bên trong không, anh leo lên cầu thang, không dám nhìn tới cái thây mà mình đã bắn. Anh đã giết nó, nhưng chuyện đó chẳng có gì đáng xem cả nếu còn lương tâm.
Một thứ mùi ập đến trước khi Billy lên hết cầu thang, anh bước đi rón rén và thở thật nhẹ. Nghe như mùi nước biển và mùi thối. Khi tới bục cuối cùng, anh nhận ra nguồn gốc của nó và thiếu điều muốn mửa.
Bây giờ thì đã rõ chúng chui từ đâu ra.
Anh đặt chân lên đỉnh cầu thang, nơi này dẫn ra một hành lang ngay bên phải, rồi lại tiếp tục rẽ phải cách đó vài mét – và từ sàn cho tới nóc, từ cái góc anh đang đặt chân kéo dài sang bên trái, giăng đầy hàng trăm cái kén rỗng, nhìn y như tổ nhện - chỉ khác ở chỗ là chúng đen, ướt, và lấp lánh dưới ánh sáng nhàn nhạt của những chỏm đèn treo tường bị phá hỏng gần hết. Chúng lắc lư nhẹ theo nhịp va đập của đoàn tàu trên đường ray, nhìn cứ như hãy còn sống. Ít nhất thì giờ chúng cũng đã trống không. Billy cầu mong cho mình không phải chạm trán với cái thứ đã tạo ra đống kén này.
Anh bước tránh ra xa cái ổ, chân đạp lên một dãy chất phát sáng trải khắp tấm thảm lót dọc hành lang, ngờ rằng vụ tai nạn xe jeep chưa chắc đã là may mắn cho mình. Chẳng ai muốn chết cả, nhưng thà bị xử bắn gọn lẹ còn hơn bị ăn ngấu nghiến bởi một lũ đỉa biết biến đổi hình dạng.
Tỉnh lại đi, anh lính. Nên nhớ mày đang ở đâu.
Anh rảo bước theo hành lang, thở phào nhẹ nhõm khi thấy nó vắng vẻ. Có hai cửa phòng nhỏ đóng kín, nằm hai bên của lối đi nhỏ hẹp, mỗi cái đều có đánh số. Căn cứ theo cách bài trí sang trọng trên này, anh đoán đây là phòng cá nhân.
Quả là không sai. Khi mở cánh cửa đầu tiên, số 102, anh thấy một cái giường ngủ tiện nghi, thật may là không có máu hay thi thể nào. Tuy nhiên, nó không có gì nhiều để lục soát, mặc dù anh cũng tìm thấy một ít đồ dùng cá nhân trong buồng vệ sinh. Có giấy, vài bức ảnh, một hộp đồ trang sức. Anh mở hộp, trông thấy một cái nhẫn có kiểu dáng khác lạ; có vẻ nó được lấy ra từ một bộ sưu tập nhẫn, dược chạm khắc và bẻ cong theo một khuôn mẫu dặc biệt… Và bởi vì không phải là nhà buôn nhẫn, nên anh bỏ nó lại đó để chuyển sang căn phòng bên kia.
Khi mở cánh cửa số 101, anh thấy có chút hy vọng. Nằm dưới sàn là một món quà từ trên trời rơi xuống, một khẩu súng săn. Billy nhặt nó lên và kiểm tra, niềm hy vọng chuyển sang đôi chút vui sướng. Đây là loại súng Western, nòng đôi, đã nạp sẵn đạn cỡ mười hai. Anh còn tìm được một ít đạn nữa sau khi lùng kiếm thêm, mặc dù chẳng có cái thẻ đọc nào hết.
Khóa kiểu gì đi nữa thì khẩu này cũng thổi bay hết, anh nghĩ thầm, cảm thấy hài lòng với trọng lượng khẩu súng trong lúc nhét đạn vào túi. Anh định tìm Rebecca ngay lập tức, nhưng dù sao cũng nên chờ xong việc ở đây đã. Còn một cánh cửa ở phía cuối toa – xong sớm thì gặp sớm thôi. Không phải anh sợ hành động một mình, hoàn toàn không, cũng không phải vì lo lắng cho Rebecca, mặc dù anh có lo thật – mà là vì sau nhiều năm phục vụ trong quân ngũ, anh hiểu rõ rằng không gì tệ hại cho bằng việc phải chiến đấu đơn độc.
Cửa không khóa, nó dẫn vào một phòng chờ vắng vẻ, một nơi cực kỳ hợp mốt. Có một quầy bar bằng gỗ láng bóng phía bên phải, chứa đủ thứ vật dụng, và những cái bàn nho nhỏ thanh mảnh kê dọc sát tường, chừa lại khoảng không rộng rãi cho mặt sàn lót thảm đắt tiền và những chúc đèn treo lủng lẳng. Giống như toa vừa rồi, không có máu hay cái xác nào cả. Billy kiểm tra quầy thu tiền, rồi hướng đến cánh cửa đằng cuối phòng, thấy hơi ơn ớn khi băng ngang khoảng không giữa phòng. Anh khẽ siết chặt lấy khẩu súng nặng nề trong tay.
Khi anh sắp băng qua hết phòng, có thứ gì đó rơi ầm xuống nóc tàu. Tiếng rơi dữ dội, vang rền như sấm, lực va chạm mạnh đến nỗi làm chúc đèn treo phía sau rớt xuống sàn, thủy tinh văng tứ phía. Đoàn tàu rung chuyển theo đà lăn bánh, khiến anh lảo đảo suýt té.
Anh gượng đứng vững lại trước khi quay đầu để ngó. Ngay chỗ chúc đèn rơi, nóc toa đã bị lõm xuống thấy rõ, lớp kim loại dày cộm hoàn toàn biến dạng – và trong khi anh đang quan sát, hai vật thể to đùng đâm xuyên qua nóc, cách nhau chừng hai mét, cái này theo sau cái kia.
Billy nhìn mà không biết mình đang nhìn cái gì. Chúng có dạng hình trụ, to lớn và sắc nhọn, mỗi cái nhìn giống như bị tách đôi từ đoạn giữa. Hình như là… càng?
Bụng anh thót lên một cái. Chính xác, chúng trông y như càng cua hoặc bò cạp, và khi mà anh còn đang quan sát, chúng đã tách ra, để lộ những mấu răng cưa. Những cái càng khổng lồ bắt đầu nhấp, bắt đầu cứa qua cứa lại nóc tàu, tiếng kim loại bị xé nghe như tiếng gào thét.
Thấy nhiêu đó đủ rồi. Billy quay gót và chạy nốt vài mét cuối cùng tới cửa ra, cảm thấy toát mồ hôi lạnh. Phía sau anh, tiếng gào rú của kim loại không ngừng gia tăng, rồi anh chộp lấy tay nắm cửa, đẩy –
- và thấy nó bị khóa trái. Đương nhiên.
Anh quay phắt người lại, vừa kịp thấy chủ nhân của bộ càng khổng lồ đang nhảy xuống cái lỗ thủng trên nóc, chặn đứng lối thoát duy nhất.
oOo
Rebecca vừa nghĩ rằng toa tàu cuối an toàn, thì bị con chó tấn công.
Sau khi chia tay Billy, cô đã rà soát qua khu vực bếp ăn ở toa cuối, nơi nhuốm đầy máu và nguyên liệu làm bếp bị đổ, nhưng ngoài chuyện đó ra thì nơi đây trống không. Cô đang bắt đầu tự hỏi, phải chăng các hành khách và nhân viên đã thoát khỏi đây khi đoàn tàu vừa mới bị tấn công. Có quá nhiều máu nhưng quá ít thi thể. Căn cứ vào tình trạng của những hành khách mà cô đụng độ, có lẽ đây là giả thiết tốt nhất có thể.
Cô bị trượt chân trên vũng dầu ăn lúc lục soát cái bếp, nhưng không tìm thấy gì đáng kể cả. Cánh cửa trong góc toa – có lẽ là một kiểu kho chứa đồ - đã bị khóa, nhưng có một lối trườn chạy dọc dưới sàn, được phủ một lớp đậy mà cô cạy ra không mấy khó khăn. Cô chẳng thích chút nào cái việc chui vào trong hốc tối, nhưng đường hầm này không dài lắm, chỉ có vài mét. Với lại cô đã nói với Billy là sẽ kiểm tra từ toa cuối lên, nên phải chui thôi. Làm trọn vẹn nhiệm vụ là điều duy nhất có thể kiểm soát được, giữa một mớ bòng bong những chuyện điên rồ. Những nạn nhân nhiễm virus đã quá đủ tệ rồi, lại còn thêm cái gã làm bằng bầy đỉa…
…Đừng nghĩ nữa. Tìm tấm thẻ đọc, dừng đoàn tàu, tìm người trợ giúp. Ai đó khác hơn là một kẻ giết người mang án tử, dù rằng phải cảm ơn anh ta. Billy là chỗ dựa duy nhất của cô trong lúc này, và đã cứu mạng cô, nhưng thật ngu ngốc nếu tin tưởng gã ta hoàn toàn.
Kết quả của việc chui vào đường hầm là cô thấy mình đang ở khoang bên cạnh. Sau khi thở phào vì chỉ phải bò một quãng ngắn, cô đứng dậy trong một kho chứa đồ, được soi sáng bởi một bóng đèn treo duy nhất. Dọc tường chất đầy những thùng và hộp, hầu hết khuất trong bóng tối. Cô rà quét xung quanh bằng khẩu súng. Không có gì dịch chuyển, ngoại trừ chính đoàn tàu đang lắc lư theo nhịp đập trên đường ray.
Phía cuối kho là một cánh cửa với cửa sổ bên trong. Rebecca đến gần, súng lăm lăm đề phòng bất cứ chuyển động nào từ phía bên kia. Tiếng tàu chạy nghe lớn hơn, và cô nhận ra mình đang ở toa cuối cùng, khi nhìn thấy đường ray. Một cảm giác nhẹ nhõm thoáng qua, vì cô biết rằng ngoài kia thế giới vẫn tồn tại - nếu mọi chuyện chuyển biến xấu hơn, chỉ việc nhảy ra ngoài là xong. Đoàn tàu đang chạy rất nhanh, nhưng không phải là không thể nhảy ra được.
Click.
Cô quay ngoắt người về phía phát ra tiếng động yếu ớt đó, tim đập thình thịch, không biết nên chĩa súng vào cái gì. Đoàn tàu vẫn lăn bánh, bóng tối nhấp nhô và lắc lư, nhưng tiếng động đó không lặp lại nữa. Sau một hồi căng thẳng, cô thở phào và buông lỏng người. Có lẽ một trong số mấy cái hộp đã dịch chuyển. Giống như phần còn lại của toa tàu – thậm chí nguyên cả tầng trệt – kho chứa đồ này có vẻ an toàn. Cô ngờ là khó mà tìm thấy tấm thẻ đọc nào quanh đây, nhưng ít nhất thì cô cũng đã kiểm tra nó –
- click. Click. Click-click-click.
Rebecca chết điếng. Tiếng động đó ngay sát bên cạnh, và cô biết nó là gì, bất cứ ai từng nuôi chó đều phải biết: Tiếng miết móng chân trên bề mặt cứng. Cô chậm rãi quay đầu sang phải, nhìn thấy vài chuồng nhốt chó, cả hai cái đều để cửa mở, nổi bật lên trong bóng tối –
Tất cả diễn ra thật nhanh. Con chó chồm lên với một tiếng gừ dữ tợn. Cô chỉ đủ thời gian để nhận ra nó cùng một loại với những con đã gặp – to lớn, bị nhiễm, bị hủy hoại - trước khi chân phải vung lên. Một cú ra chân cực mạnh, gót giày nện trúng vào bên ngực của nó. Với một âm thanh ươn ướt nghe phát ớn, phần ngực con chó bị thổi bay mất một mảng, lớp da bị lột ra khỏi phần cơ xám xịt, bám vào dưới giày của cô thành một lớp nhầy nhụa.
Thật không thể tin nổi, con chó vẫn mặc kệ vết thương và cứ tiến tới, hàm răng nhe ra nhễu đầy nước dãi. Cô biết mình sẽ bị nó vồ trước khi kịp giương súng, cô có thể cảm thấy răng của nó đang chạm vào tay mình, và chỉ cần một cú cắn thôi là cô sẽ đi đời, sẽ trở thành một trong những cái xác biết đi –
- và trước khi bị nó cắn, cái chân kia của cô, vốn đã bị dính đầy dầu ăn, trượt dài ra. Rebecca té nện hông xuống sàn, và con chó bay ngang qua đầu, một thứ mùi thối rữa lướt qua. Nó thậm chí đã đạp trúng cô, để lại trên vai trái của cô một dấu chân sau bẩn thỉu khi lao qua, đà lao đã khiến nó văng ra xa.
Cú té may mắn giúp cô có thêm thời gian. Cô lăn một vòng, cánh tay vung lên và siết cò, nhắm thẳng vào con vật khi nó quay lại chuẩn bị tấn công tiếp. Phát thứ nhất trượt mục tiêu, nhưng phát thứ hai đã đi đúng hướng, cắm thẳng vào dưới mắt trái của con vật khát máu kinh tởm.
Con chó ngã gục xuống sàn, chết ngay lập tức. Máu loang ra xung quanh chỗ nó nằm, và Rebecca nhổm tránh ra xa. Về cơ bản, vi khuẩn học không phải là chuyên môn của cô, nhưng cô đoan chắc rằng máu của nó chứa đầy nhóc virus, nên tốt nhất là đừng để bị dính vào bất cứ thứ gì. Không cần quá thông minh mới nhận ra điều đó.
Cứ coi như đó là virus, cô nghĩ thầm trong lúc nhìn chăm chú cái đống bầy hầy vốn đã từng là chó, trong đầu dậy lên những thắc mắc về T-Virus mà Billy đã đề cập. Nó lan tỏa như thế nào? Mức độ độc hại, mất bao lâu để nó thâm nhập vào cơ thể vật chủ?
Cô chùi đế giày vào cái chuồng, hy vọng có thể mau chóng quên đi thứ âm thanh nhèm nhẹp đó – và chợt thấy có một vật phát sáng trong bóng tối – Cô cúi xuống, nhặt lên một cái nhẫn vàng, được chạm khắc theo một khuôn mẫu khác lạ. Trông nó không giống vàng thật, có vẻ vô giá trị, nhưng cũng khá đẹp. Dù gì đi nữa thì cô cũng khá may mắn khi có thể đứng đây mà dòm nó.
”Coi như là một cái nhẫn may mắn,” cô nói, và đeo vào ngón trỏ trái. Thật vừa vặn.
Rebecca chỉ tìm được nhiêu đó. Chẳng có tấm thẻ đọc nào cả, cũng chẳng có gì hữu dụng. Cô bước chân ra ngoài tấm bục phía đuôi tàu, và nhanh chóng bị nước mưa làm ướt sũng. Cơn bão thật dữ dội, và đoàn tàu đang chạy quá nhanh để có thể nhảy xuống. Niềm hy vọng của cô bừng lên đôi chút khi thấy một tấm biển ghi chữ DÂY PHANH KHẨN CẤP, nhưng khi cô ấn thử vài nút trên bảng điều khiển thì thấy không có điện. Cũng như không.
Rebecca quay lại vào trong, gỡ cái mũ ướt sũng xuống khỏi trán. Đã đến lúc quay trở lên, thử lục soát mấy cái xác mà cô và Billy đã bắn hạ. Thật khó chịu khi chẳng còn cách nào khác. Không biết có ai đang lái tàu chăng, hay là nó chỉ đang chạy không phanh; dù thế nào thì cũng phải tìm cách để điều khiển đoàn tàu.
Cô nhìn lại con chó một lần nữa trước khi đi - thầm nghĩ mình đã quá may mắn khi mém tí nữa đã bị cắn xé tới chết. Từ bây giờ cô phải luôn luôn đề cao cảnh giác mới được; hy vọng rằng Billy có thể may mắn hơn cô.
oOo
Lạy Chúa nhân từ.
Billy ngó trân trân, mồm há hốc, đầu óc mụ đi trước cái thứ đáng lẽ không thể tồn tại đang đứng cách mình không đầy mười mét.
Trông nó giống một con bò cạp, có điều to cỡ một cái xe thể thao. Con quái vật đã rơi xuống nóc tàu dài chừng ba mét, cặp càng khổng lồ sắc nhọn đang nhắp nhắp quanh bộ mặt phẳng lì, cái đuôi dài ngoằng uốn cong lên đằng sau lưng, phần chóp đuôi quắn lại thành một cục còn to hơn đầu của Billy. Có khá nhiều chân xung quanh, nhưng Billy chẳng rỗi hơi để đếm – nhất là khi cái thứ ấy đang di chuyển tới chỗ anh, phát ra một tiếng kêu nghe như động cơ quá tải, mấy cái cẳng đồ sộ gập khúc nện thình thình xuống sàn. Mưa đang trút xuống từ cái lỗ trên nóc, khiến cho khung cảnh chẳng khác gì dưới địa ngục, con quái vật nổi bật lên giữa làn mưa mờ ảo như một cơn ác mộng.
Không còn thời gian để nghĩ ngợi nữa. Billy nâng khẩu súng săn lên và ngắm vào cái đầu phẳng phiu thấp chủm của nó. Giữa tiếng xình xịch của đoàn tàu và tiếng cào bới sột soạt của con vật, Billy mất vài giây để ngắm cho chuẩn, chỉ vài giây thôi mà tưởng chừng như kéo dài vĩnh viễn. Con vật bò đến gần hơn, mấy cái chân lởm chởm xoi lủng lỗ trên tấm thảm đắt tiền theo từng bước tiến.
Billy siết cò, bùm, khẩu súng săn dội ngược lại, đập vào vai anh đến thâm tím. Một phát trúng đích, và con vật kêu rít lên, một thứ chất lỏng trắng đục phụt ra khỏi cái đầu bọc giáp. Anh không hề dừng lại để xem xét, mà tiếp tục lên đạn và bắn, bùm.
Nó rít lên còn lớn hơn nữa, nhưng vẫn cứ tiến tới. Billy gập súng, xóc cho vỏ đạn rơi ra trước khi lục tìm đạn mới. Giữa lúc anh đang sờ soạng và vỏ đạn rơi xuống thảm, con quái vật đã thu ngắn khoảng cách trong tiếng rít chói tai, nhanh cực kỳ.
Chỉ có một viên đạn trong túi. Anh lôi ra, nhét vào nòng và xóc súng lên ngang hông…, Cơ hội duy nhất đây.
Phát đạn ghim ngay giữa cái mặt tối thui xấu xí của con quái vật, lúc này chỉ cách Billy có một mét, gần đến nỗi anh cảm thấy hơi nóng thuốc súng phả dính vào da. Tiếng rú im bặt khi một mảng xương lớn đầy góc cạnh văng khỏi cái đầu của nó, máu lẫn não rơi lộp bộp xuống cái đuôi đang co giật. Con vật run lẩy bẩy toàn thân, cặp càng vĩ đại quơ quào tứ phía, hết khép lại đến mở ra, chóp đuôi chích loạn xạ vào không khí. Sau một tiếng kêu òng ọc, nó đổ vật xuống sàn, cả cặp càng lẫn phần thân lặng lẽ nằm bẹp xuống.
Một thứ mùi bốc lên, nghe thum thủm, nóng hổi và chua ngoét, nhưng Billy vẫn đứng yên đó cả phút đồng hồ để bảo đảm rằng nó đã chết. Có thể thấy dấu vết của hai viên đạn đầu tiên - khẩu súng săn đã nhắm hơi lệch sang trái, may mà phát đạn cuối thì trúng ngay giữa – một phần lớp giáp ngay vị trí mắt đã vỡ toác ra.
Nó là cái gì? Anh nhìn lại nỗi kinh hoàng đó, không chắc mình đã biết được điều gì. Ắt là có quan hệ tới lũ chó và mấy cái thây biết đi, và T-Virus. Cuốn nhật ký có ghi chép về việc những liều thuốc nhỏ tạo ra sự biến đổi kích thước và gia tăng tính hung hăng…
Nghĩa là con quỷ này phải hấp thụ có đến hàng lít thuốc. Tai nạn chăng? Không thể nào. Cuốn nhật ký đã nói về phòng thí nghiệm. Và việc kiểm soát hiệu ứng của virus, rằng một khi chưa kiểm soát được thì công ty đang “đùa với lửa.”
Mối liên hệ là quá rõ ràng. Có lẽ T-Virus đã bị lan truyền do tai nạn, nhưng công ty này hiển nhiên biết trước virus có thể làm gì. Và đã thí nghiệm nó.
Vấn đề là tất cả đều đã chết – và anh đã xong việc tìm kiếm tấm thẻ đọc. Đi một mình vậy là đủ rồi. Nếu tên vua bò cạp này có anh em đi kèm, Billy sẽ phải cần thêm người để hỗ trợ.
Anh nhặt mấy viên đạn mình làm rớt lên, nạp vào súng. Rồi cẩn thận bước qua cái xác hôi hám khổng lồ để đi tìm Rebecca. Hy vọng cô ta may mắn hơn anh.
..oOo..
Lúc vừa bước tới toa trước, Rebecca nghĩ mình nghe thấy tiếng súng phát ra từ chỗ cô vừa lục soát xong. Cô đứng giữa ô cửa, vịn tay vào khung, nhìn chăm chăm xác con chó trước tầm mắt trong lúc căng tai lên nghe ngóng. Sấm nổ vang bên ngoài. Sau một lúc, cô thôi không nghe ngóng nữa và rảo bước đi tới.
Rebecca di chuyển thật chậm, tự trấn an mình khi nghĩ tới việc sắp nhìn thấy xác Edward. Cô ước gì đã nghĩ đến việc kiếm một thứ đại loại như chăn mền lúc ở khoang hành khách. Áo khoác của một cái xác nào đó chẳng hạn; khổ nỗi lúc đó cô đang rất phẫn nộ khi nghĩ tới kẻ đã phóng thích T-Virus, và lại quá căng thẳng tập trung. Không có chìa khóa, không một sự trợ giúp nào. Tuy nhiên, có lẽ cái chìa tìm thấy trong bàn tay xác chết của nhân viên tàu ở toa trước, nơi cô gặp Billy - sẽ có lúc hữu dụng.
Cô đến góc quẹo nơi hành lang, cố gắng ép mình đi ngang qua đó, tránh xa bãi chất lỏng tuôn ra từ con chó – và không thấy Edward đâu cả.
Rebecca dừng lại, nhìn đăm đăm. Con chó thứ hai vẫn nằm đó – nhưng chỗ Edward ngã xuống giờ đây chỉ còn một nắm băng gạc đỏ thẫm và vài vệt máu. Không khí lành lạnh ẩm ướt thổi qua cửa sổ, nhưng không đủ sức át đi cái mùi nặng nề.
Mọi thứ dường như quay chậm lại khi cô nhìn xuống, trông thấy vết máu kéo dài. Ánh mắt cô lần theo đó, nhìn ra phía trước, thấy những dấu chân liêu xiêu đỏ lòm, dường như người đã để lại dấu chân này đang say rượu, hoặc… đang… bệnh…
Ôi không. Rebecca thấy tim mình thót lên một cái.
Thời gian như ngừng trôi, ánh mắt cô rốt cuộc cũng rời khỏi mặt sàn. Cô thấy một phần của cánh tay trần, ai đó đang đứng khuất khỏi tầm nhìn nơi cuối hành lang. Ai đó cao lớn. Ai đó mang giày ủng.
”Không,” cô nói, và Edward rời khỏi bức tường, xuất hiện trong tầm nhìn. Khi thấy cô, cặp môi ướt máu của anh ta phát ra một tiếng rên rỉ. Anh ta khật khưỡng bước tới, bộ mặt xám ngoét, tròng mắt trắng dã.
”Edward?”
Anh ta vẫn tiến tới, lảo đảo, cái vai đẫm máu lê dọc theo tường, cánh tay rũ xuống một bên, khuôn mặt vô hồn đờ đẫn. Đó là Edward, bạn đồng đội của cô, và cô nâng súng lên, lùi lại một bước, ngắm bắn.
”Đừng ép em,” cô nói, trong đầu tự hỏi virus đã làm thế nào khiến cho các nạn nhân trông như đã chết. chắc là làm chậm nhịp tim-
Edward rên lên. tiếng rên đầy đói khát, và mặc dù đôi mắt của anh vẫn còn hiện ra sau một lớp màng trắng, nhưng cô biết đây không phải là Edward nữa. Anh ta lại tiến tới gần hơn.
”Xin hãy ra đi thanh thản,” cô thì thầm rồi siết cò, viên đạn khoan một lỗ nơi thái dương trái. Anh ta vẫn đứng vững sau phát súng, vẫn còn nguyên vẻ đói khát uể oải, và rồi đổ ập xuống.
Rebecca đứng yên đó, súng vẫn chĩa vào cái xác của người bạn, cho đến khi Billy tìm thấy cô vài phút sau.
Tác giả :
S. D. Perry