Quỷ Cái Vận Đồ Prada (The Devil Wears Prada)
Chương 18
“Jill, đừng làm ầm lên như thế!” Mẹ tôi la lên bất lực. “Mẹ nghĩ là nó còn ngủ.” Rồi một giọng quang quác gọi từ tầng dưới.
“Andy? Còn ngủ à?” Jill gọi lên pphía thang gác.
Tôi hé một bên mắt và xem đồng hồ. 8 giờ 15 sáng. Lạy Chúa, mọi người làm trò gì thế này?
Tôi lăn người lấy đà mấy lần mới ngồi dậy được. Cơ thể tôi cầu xin được ngủ thêm một lát, chỉ một lát nữa thôi.
“Chào cậu,” Lily mỉm cười quay về phía tôi, mặt cô cách mặt tôi vài phân. “Chuẩn bị ca sáng rồi hay sao ấy.” Jill, Kyle và cháu bé đến chơi nhân dịp lễ Tạ ơn, vì vậy Lily phải dọn khỏi phòng của Jill ngày xưa. Mấy hôm nay cô ngủ trên chiếc giường con ghép cạnh giường tôi.
“Có gì mà kêu ca dữ vậy? Tớ không rõ tại sao, nhưng mới sớm tinh mơ mà cậu trông rất tỉnh táo.” Lily nằm chống cùi tay trên giường, đọc báo, thỉnh thoảng làm một ngụm từ tách cafê đặt sát chân giường.
“Tớ nằm nghe Isaac khóc từ lâu rôi.”
“Nó khóc à?”
“Cậu không nghe thấy gì thật à? Từ sáu rưỡi đến giờ nó cứ khóc suốt. Thằng bé thật đáng yêu, nhưng mình phải chấm dứt ngay kiểu khủng bố sáng sớm này.”
“Này các cô!” Mẹ tôi lại gọi từ chân cầu thang. “Đã có ai trên đó dậy chưa? Thức hay ngủ nữa cũng được, nhưng nói để mẹ biết cần làm tan đá bao nhiêu bánh quế!”
“Thức hay ngủ cũng được? Thế này thì sao mà sống nổi hả Lily?” Tôi hét qua cửa: “Chúng con còn ngủ, mẹ không thấy à? Ngủ say như chết, vài tiếng nữa, không nghe trẻ con khóc hay mẹ gọi gì cả!” Lily cười phá lên khi tôi lại lăn ra giường.
“Bình tĩnh nào,” cô nói với vẻ nghiêm trang hiếm thấy. “Đơn giản là mọi người vui khi lại thấy cậu ở nhà, và chính tớ cũng vui mừng khi được về đây. Vài tuần thôi mà, và ít nhất là bọn mình có nhau. Ổn cả đấy chứ.”
“Chỉ vài tuần thôi à? Ngay lúc này tớ đã đủ để đi trại điên rôi.” Tôi thay chiếc áo mặc ở nhà của Alex mà tôi vẫn dùng làm áo ngủ. Chiếc quần bò mà tôi mặc suốt mấy tuần qua nằm nhàu nhĩ một đống cạnh chân tủe, dạo này đã bó khá căng quanh vòng hông. Sau thời kỳ chỉ sống bằng cafê, thuốc lá và xúp ăn vội ăn vàng, cơ thể tôi tận dụng cơ hội này và gỡ lại năm kilô mà tôi đã mất đi trong thời gian làm việc ở Runway . Và quan trọng nhất là tôi không hề thấy áy náy gì hết; theo Lily và bố mẹ tôi thì trông tôi không béo phì, mà xinh hơn, và tôi tin ngay là họ nói thực lòng.
Lily xỏ chân vào cái quần thể thao và trùm một chiếc khăn sặc sỡ lên mái tóc quăn. Mớ tóc buộc hất ra sau để lộ ra những vết đỏ trên trán từ vụ đụng phải tấm kính chắn gió, nhưng bác sĩ đã tháo chỉ và cam đoan là sẹo sẽ rất nhỏ. “Nào dậy đi,” cô nó và vớ lấy đôi nạng luôn để gần. “Hôm nay mọi người đi rồi, mai có thể mình lại có dịp ngủ cho đã.”
“Đằng nào mẹ tớ cũng không để yên cho đến khi mình xuống nhà cơ mà.” Tôi làu bàu và giúp Lily ngồi dậy. Cả nhà tôi đã vẽ hình đầy lên chỗ thạch cao bó quanh mắt cá cô.
“Đúng thế.”
Chị tôi hiện ra trong khung cửa, bế thằng cu đầy mũi dãi trên tay. Nó vui mừng cất tiếng bập bẹ khi thấy chúng tôi. “Trông kìa, ai đây?” Jill nựng nịu và để nó nhún nhẩy. “Isaac, nói với cô Andy là không được càu nhàu nhăn nhó với chúng mình, vì mình sắp phải đi rồi. Nào, cục vàng, nói hộ mẹ đi!”
Isaac khịt mũi rất dễ thương, Jill sung sướng như nhìn một thần đồng vừa ngâm một bản xô nê của Shakespeare. “Thấy chứ, Andy! Đã nghe thấy gì chưa? Con trai yêu của mẹ, cục vàng của mẹ.”
“Chào!” Tôi lầm bầm và hôn lên má Jill. “Em không thích mọi người hôm nay đã phải đi rồi đâu. Và Isaac thì muốn ở đây bao lâu cũng được, với điều kiện là phải nghiêm chỉnh ngủ say từ nửa đêm đến mười giờ sáng. Kể cả Kyle, nếu thich thì cứ ở đây, nhưng phải hứa là không hé miệng nói một câu. Chị thấy bọn em có dễ tính không?”
Lily đã tập tễnh xuống thang, tới chỗ bố mẹ tôi đang chia tay với Kyle trước khi đi làm. Tôi dọn giường cho cả hai.
Lily tỉnh hôn mê từ lúc tôi còn ngồi trên máy bay. Tôi là người thứ hai gặp cô lúc tỉnh, sau Alex. Ở bệnh viện người ta đã khám cô hàng triệu lần từ chân lên đầu, nhưng ngoại trừ mấy vết xước trên mặt, cổ và ngực và gãy xương bàn chân thì cô không bị thương thêm chỗ nào cả. Tất nhiên trông cô rất đáng sợ, nhưng cũng không có gì lạ sau cú đùa rỡ với tử thần. Giờ này thì cô đã hoạt bát trở lại, thậm chí còn quá sinh động đối với một người vừa thoát khỏi một thảm họa.
Bố tôi là người nêu sáng kiến đem cho thuê căn hộ của chúng tôi cả tháng Mười một đến hết tháng Chạp và trong thời gian đó chúng tôi về đây ở. Tôi không phấn khởi lắm, nhưng sau khi xem xét mức thu nhập tụt xuống con số không thì không còn sự lựa chọn nào khác. Ngoài ra, có vẻ như Lily cũng thích quay lưng lại một thời gian với khung cảnh đàm tiếu ngoài thành phố, đợi cho mọi sóng gió qua đi. Chúng tôi quảng cáo trên một “căn hộ nghỉ hè” tuyệt vời ở chính giữa trung tâm New York và thực sự kinh ngạc khi một đôi vợ chồng Thụy Điẻn già đến thăm các con sống ở đây sẵn sàng chấp nhận giá do chúng tôi đặt ra – cao hơn tiền nhà hằng tháng đến 600 dollar. Với chỗ dư này chúng tôi sống trên mức thoải mái, nhất là khi bố mẹ tôi cung cấp miễn phí đồ ăn, giặt giũ và chiếc Camry móp méo. Hai vợ chồng Thụy Điển già ở lại đến tuần đầu tháng Giêng, lúc đó Lily vào học kỳ mới, còn tôi thì - đợi xem có chuyện gì mới không.
Tin đuổi việc chính thức do Emily đưa đến. Tất nhiên là sau vụ đấu khẩu nho nhỏ nọ thì không có gì phải bàn cãi thêm về chuyện tiếp tục đi làm ở đó, song Miranda nhất định còn muốn bồi thêm một cú nữa. Có nghĩa là: chưa đầy ba hay bốn phút sau, cỗ máy tàn nhẫn Runway vô cùng hiệu quả đã khởi động.
Tôi vừa vào đến taxi và rút được chân trái ra khỏi chiếc bốt tra tấn thì nghe chuông điện thoại. Tôi bất giác giật thót mình, nhưng chợt nhớ lại cú chạm trán vừa xảy ra. Không thể là bà ấy được. Lập tức tôi vẽ trong đầu một trình tự sự việc: MIranda cần một phút để ngậm miệng lại và trấn tĩnh, không cho lũ nhòm ngó xung quanh biết chuyện gì; một phút nữa, đủ để tìm ra điện thoại và gọi về nhà cho Emily; phút thứ ba để thong báo chi tiết cho cô biết mọi chi tiết về sự kiện lịch sử nọ; phút cuối cùng dành cho câu thề thốt của Emily là cô sẽ “tự tay lo liệu cho mọi việc diễn ra đúng ý muốn”. Chính thế. Ngay cả khi số điện của người gọi từ nước ngòai không hiẹn ra trên màn hình thì tôi cũng chẳng mảy may nghi ngờ.
“Xin chào Emily, khỏe không?” Tôi vừa véo von hỏi vừa xoa bóp bàn chân trần, cố không để chạm xuống nền thảm bẩn thỉu.
Rõ ràng là Emily không được chuẩn bị tinh thần để nghe giọng tôi tươi vui như vậy. “Andrea đấy à?”
“Vâng, tôi đây, có chuyện gì mới không? Tôi đang vội...” Tôi có nên hỏi thẳng tuột là có phải cô gọi để báo tin sa thải tôi? Mà thôi, lần duy nhất này cũng nên cho cô có thì giờ lấy hơi, và tôi sẵn sàng nghe một bài ca cẩm tất yếu xảy ra – tại sao chị có thể để tôi và Runway và cả giới thời trang phải thất vọng và bẽ mặt - đại loại như vậy; song không phải thế.
“Vâng, à, tất nhiên. Tôi vừa nói chuyện với Miranda xong...” cô bỏ lửng câu, tựa như mong muốn tôi sẽ nói hết phần cuối và giải thích rằng tất cả chỉ là một sơ xuất và tôi đã hàn gắn xong xuôi trong bốn phút vừa qua.
“Và chị đã nghe nói chuyện gì xảy ra, tôi đoán vậy?”
“À, vâng. Andy, sao lại thế?”
“Tôi phải hỏi chị mới đúng chứ?”
Im lặng.
“Emily, chị nghe nhé, tôi không loại bỏ được linh cảm là chị gọi để báo tin sa thải tôi. Chị làm thế cũng được thôi, tôi biết đây không phải là quyết định của chị. Vậy là bà ấy bảo chị báo tin cho tôi?” Mặc dù lòng thanh thản như chưa từng có trong mấy tháng qua, tôi vẫn bất giác nín thở; biết đâu số phận chơi trò nghịch ngợm và Miranda không coi thái độ của tôi là xấc xược, mà lại lấy làm ấn tượng.
“Vâng, tôi có nhiệm vụ báo là chị bị sa thải và chị phải dọn khỏi phòng ở Ritz trước khi bà ấy từ chỗ trình diễn thời trang về.” Cô nói khẽ, có chút tiếc nuối trong giọng. Có thể cô đã mườgn tượng ra những giờ, những ngày và tuần lễ sắp tới sẽ phỉa bỏ ra để tìm và huấn luyện người kế nhiệm tôi. Nhưng nghe có vẻ như còn ẩn chứa điều gì sâu xa hơn.
“Chị sẽ nhớ tôi phải không, Emily? Nào thú nhận đi, tôi không kể cho ai đâu mà ngại. Cứ coi nhu cuộc chuyện trò này không hề diễn ra. Chị không muốn tôi đi, đúng không?”
Lại một điều kỳ diệu nữa xảy ra: cô cười. “Chị nói gì với bà ấy thế? Bà ấy chỉ nói lại là chị xử sự thô thiển và thiếu lịch sự. Tôi không thể gợi ý cho bà ấy kể rõ hơn.”
“Có gì đâu, chắc là tôi đã nói là biến đi cho khuất ắmt tôi.”
“Không thể thế được!”
“Thế chị nghĩ tại sao bà ấy đuổi tôi? Chuyện xảy ra đúng như thế đấy.”
“Trời đất ơi!”
“Tôi sẽ không giấu chị rằng đó là khoảnh khắc hoành tráng nhất trong cuộc đời thảm hại của tôi. Nhưng bây giờ thì tôi đang trong tình thế khốn cùng là bị người đàn bà quyền lực nhất trong làng xuất bản sa thải. Không hy vọng gì lấp lại chỗ trống trong tài khoản đã kiệt quệ, và kiếm việc mới trong ngành báo chí chắc cũng khó. Có thể tôi đào ngũ sang bên kia chiến tuyến chăng? Họ sẽ chào đón nồng nhiệt lắm đấy.”
“Dĩ nhiên. Chị gửi đơn xin việc đến nn Wintour xem sao, bà ấy và Miranda vốn không ưa nhau.”
“Ừ, tôi sẽ nghĩ kỹ. Emily, giữa tôi và chị không vì thế mà có vấn đề gì chứ?” Tâtá nhien là cả hai chúng tôi đều rõ là ngoài Miranda ra tuyệt đối không có đề tài nào được cả hai cùng quan tâm cả, nhưng tôi không muốn bỏ qua lợi thế của khoảnh khắc này.
“Không, sao chị lại nghĩ thế.” Cô nói khách sáo – rõ ràng cũng biết từ nay tôi vĩnh viễn bị tống khỏi thiên đường, và cô sẽ bắt buộc phải lờ tôi đi như chưa quen biết. Đối với tôi không là vấn đề. Mười ănm nữa, khi cô ngồi ở dãy ghế đầu trong show thời trang của Michael Kors còn tôi vẫn đi chợ và ăn uống ở những địa chỉ rẻ tiền, có thể chúng tôi sẽ thỏa sức lấy chuyện này ra làm trò cười. Cũng có thể không.
“Tôi cũng muốn tán chuyện với chị thêm ít phút, nhưng hiện tại đang lắm chuyện quá. Tôi phỉa về nhà càng sớm càng tốt. Tôi vẫn dùng vé khứ hồi được chứ? Bà ấy không thể sa thải tôi rồi để tôi bơ vơ ở nước ngoài được.”
“Nếu bà ấy làm vậy thì cũng dễ hiểu, Andrea ạ.” A, thêm một cú móc cuối cùng nữa! Kể ra cũng thú vị khi biết là chẳng có gì thay đổi cả. “Nói cho cùng thì chị đã bỏe rơi bà ấy, hay đúng hơn là qua hành vi của mình đã buộc bà ấy phải cho chị thôi việc. Nhưng bà ấy không thù dai thế đâu. Chị cứ gửi hóa đơn lệ phí đặt vé về đây, tôi sẽ cố gắng thu xếp.”
“Cám ơn Emily, chị rất tốt. Chúc chị nhiều may mắn. Chị sẽ là một biên tập viên thời trang rất tốt đấy.”
“Thật hả? Chị nghĩ thế hả?” Cô hăng hái bập ngay vào. Tôi không hiểu nổi tại sao cô ta lại tin vào một đứa mù tịt về mốt như tôi, song giọng cô đầy cảm kích.
“Nhất định rồi. Tôi không hề nghi ngờ một giây.”
Tôi vừa dứt chuyện với Emily thì Christian gọi đến – và tất nhiên đã thông tỏ mọi chuyện. Lạ thật. Anh thích thú bắt tôi thuật lại từng chi tiết thú vị và hứa hẹn mời mọc đủ mọi thứ trên đời, nghe mà ngán tận cổ. Tôi lạnh lùng thông báo là hiện nay tôi có một đống việc phải làm, tôi phải chấm dứt cuộc gọi và sẽ gọi lại cho anh vào lúc thích hợp.
Ông Renaud và đội quân hầu, lạ quá, chưa biết gì về cú kết ngoạn mục của tôi. Họ càng cần mẫn đon đả hơn khi nghe nói là tôi có việc gia đình mà phải bay về ngay, và chưa đầy nửa giờ sau đã đặt được vé cho chuyến bay sớm nhất về New York, gói ghém đồ đạc của tôi và cử một chiếc Limousin kèm ngăn lạnh đựng đủ thứ rượu hảo hạng đưa ra sân bay Charles de Gaulle. Tài xế có vẻ muốn bắt chuyện, nhưng tôi chỉ trả lời nhát gừng chiếu lệ vì còn tập trung tận hưởng những phút cuối cùng trong sự nghiệp của một trợ lý bị trả lương tồi tệ nhất nhưng được ưu tiên cao nhất. Một ngụm ngon lành cuối cùng từ ly sâm banh đế cao. Mười một tháng trời, bốn mươi tư tuần lễ, tính ra là ba nghìn tám mươi giờ làm việc – đó là thời gian mà tôi đã phải trải qua để rốt cuộc tỉnh ngộ ra rằng sẽ không bao giờ trở thành hình ảnh trong gương của Miranda Priestly.
Qua bàn hải quan, lần này không có lái xe nào mặc đồng phục giơ biển ghi tên tôi mà là bố mẹ tôi đứng đợi và sung sướng gặp lại con gái. Chúng tôi ôm chầm lấy nhau, và sau khi hai phụ huynh tiêu xong cú sốc bởi bộ dạng của tôi (quần jean bạc phếch bó chẽn của Dolce & Gabbana, giày cao gót nhọn hoắt, sơ mi trong suốt – ơ kìa, tôi đã chọnn đúng như hướng dẫ trong mục “Các dip khác”, gạch đầu dòng “Đi từ sân bay hoặc đến sân bay,” do đội tư vấn của Runway gửi theo chuyến công du này) họ mới tiết lộ tin sốt dẻo nhất: Lily đã hồi tỉnh và nhận biết xung quanh. Chúng tôi đi thẳng đến bệnh viện, vừa chạy qua cửa phòng tôi đã được nghe cô bạn mới thoát khỏi cơn hôn mê yếu ớt gọi tên mình.
Rời bệnh viện, tất nhiên Lily còn bù đầu với tòa án; chẳng gì thì cô cũng đã lái xe trong lúc xay sỉn, phóng quá tốc độ vào đường ngược chiều. CHỉ may mắn nhờ những người liên quan không bị gì ănngj mà thẩm phán đã cực kỳ rộng lượng khi tuyên án Lily phải đi lao động công ích - khoảng một trăm năm gì đó. Tiền sự lái xe say rượu thì tất nhiên bị ghi vào hồ sơ. Chúng tôi ít khi nhắc lại vụ này – cho đến giờ Lily vẫn không thích thú nhận là cô có vấn đề vì quá chén – nhưng một lần tôi đã đến đón cô ở buổi điều trị tập thể tại East Village và được nghe kể là ở đó rất hay, không nhấn mạnh quá mức chuyện luân lý, tuy nhiên cũng khá “sốt ruột”. Tôi lườm cô sắc lẹm kiểu Emily khi nghe câu cuôi, lập tức Lily nói thêm là ở đó có vài chàng khá hấp dẫn, và cũng không có hại gì nếu cả một buổi tối không uống giọt nào. Thế là ổn. Bố mẹ tôi đã thuyết phục cô đến nói chuyện thẳng thắn với ông chủ nhiệm khoa ở trường Columbia. Thoạt tiên cô chối đây đẩy, nhưng rồi cũng nhận ra đó là một việc có lợi: ông ta cho nghỉ đến hết học kỳ chứ không bắt học lại và thống nhất với bộ phận tài chính là đầu năm sau cô được quay lại nhận học bổng.
Dần dần cuộc sống của Lily và tình bạn giữa hai chúng tôi lại đâu vào đấy, nhưng với Alex thì không. Lúc tôi chạy ùa vào phòng bệnh của Lily thì anh ngồi cạnh giường. Thú thật là lúc đó nếu bố mẹ tôi không lánh vào quán cafê thì hơn. Sau câu chào hỏi gượng gạo, tất nhiên tiếp đến là tôi vồ vập với Lily, nhưng trong nửa tiếng đồng hồ cho đến lúc Alex mặc áo khoác và vẫy tay tạm biệt mọi người, chúng tôi không trao đổi với nhau một câu nào ra đầu ra đũa. Về đến nhà tôi gọi điện cho anh, nhưng chỉ nghe được máy trả lời tự động.. Sau vài lần thử nữa thì tôi cũng gặp anh trước khi đi ngủ.
“Chào anh!” Tôi cố nói thật lấy lòng và tự chủ như có thể.
“Em đấy à,” mọi au yếm của tôi như nước đổ đầu vịt.
“Anh này, Lily cũng là bạn của anh, em biết, và những gì anh làm đều là đương nhiên, nhưng thật lòng đúng là em không biết làm gì để cảm ơn anh: anh đã tìm ra em, đã giúp bố mẹ em, đã ngồi hàng giờ bên cạnh giường bệnh...”
“Không có gì. Giúp đỡ bạn bè trong hoạn nạn là chuyện bình thường thôi. Không có vấn đề gì đâu.” Chuyện bình thường, tất nhiên, nhưng không hẳn bình thường đối với một người tự cho mình là cái rốn của vũ trụ và có những tiêu chí lệch lạc, và tình cờ đang nói chuyện với anh!
“Alex, em xin anh, chúng ta có thể nói chuyện với nhau một cách...”
“Không. Hiện giờ không có gì để nói cả. Cả một năm nay anh đã đợi dịp ấy, đôi khi cầu xin dịp ấy, nhưng không có tín hiệu nào từ phía em. Một lúc nào đó anh đã bị mất cô gái Andy mà anh đã từng si mê. Anh cũng không biết chính xác chuyện đó chính xác xảy ra bao giờ và như thế nào, nhưng nhất định là em không còn là Andy của ngày xưa, trước khi bắt tay vào công việc này. Andy của anh sẽ không bao giờ có ý nghĩ là một show thời trang hay cuộc liên hoan hay bất cứ gì đó lại quan trọng hơn người bạn đang cần mình, đang thực sự cần mình. Tất nhiên anh vui mừng khi em đã quay về và nhận ra đó là hành động duy nhất đúng, nhưng bây giờ anh cần thời gian đã, thời gian để suy nghĩ xem em và anh, và hai chúng ta, đang đứng ở vị trí nào. Andy, chuyện này không phải mới mẻ gì với anh. Chuyện đã kéo dài lắm rồi - chỉ có mình em là quá bận bịu nên không nhận ra.”
“Alex, anh chưa bao giờ cho em một dịp may cỏn con nào để chúng mình ngồi với nhau, để em giải thích cho anh chuyện gì xảy ra. Có thể anh có lý, và em không còn là em ngày xưa nữa. Em thì không tin, và ngay cả khi em có thay đổi chăng nữa thì cũng không nhất định chỉ thay đổi theo hướng xấu đi. Anh và em đã xa cách nhau đến mức ấy rồi sao?”
Alex là người bạn thân nhất của tôi, hơn cả Lily, đó là chuyện tôi biết chắc, nhưng cũng chỉ là người bạn thân từ nhiều tháng nay. Những gì anh nói đều đúng, đã đến lúc tôi nên thú nhận với anh điều đó, cho dù không đơn giản. Tôi lấy hơi thật sâu.
“Anh nói đúng.”
“Em nghĩ thế à?”
“Vâng. Em đã đối xử thực sự ích kỷ và bất công với anh.”
“Vậy bây giờ thì sao?” Nghe giọng anh như không cảm động, mà chán nản.
“Em cũng không biết. Mình không nói chuyện với nhau nữa? Không gặp nhau nữa? Em không rõ như thế có tốt không. Em muốn anh tiếp tục là một phần của đời em, và chẳng hề tưởng tượng được là em sẽ biến ra khỏi cuộc đời anh.”
“Anh cũng thế. Nhưng anh không chắc chắn là mình có giữ được lâu không. Trước khi yêu nhau mình không là bạn bè, bây giờ khó tưởng tượng chỉ có thể làm bạn với nhau mà thôi. Nhưng ai biết được trước mọi sự? Nếu mình có nhiều thời gian để suy nghĩ...”
Tôi cúp máy. Đó là tối hôm đầu tiên sau khi trở về, tôi đã khóc hết nước mắt, không phải vì Alex mà vì nhiều chuyện đã biến đổi trong năm qua. Một cô Lọ lem ngơ ngác bước vào vương quốc Elias Clark, rồi lảo đảo ra khỏi đó với một chút kình nghiệm sống và nhận thức ra rằng mình vẫn là Lọ Lem. Nhưng trong khoảng thời gian đó tôi đã trải nghiệm nhiều hơn so với một trăm công việc khởi nghiệp khác. Kể cả khi trong lý lịch có dòng chữ “sa thải” xấu xa, bị bạn trai từ bỏ và trong tay không có gì ngoài một va li (nói cho công bằng là bốn va li Louis Vuitton) ních đầy quần áo hàng hiệu - biết đâu tất cả đều có ý nghĩa của nó?
Tôi tắt chế độ chuông điện thoại, lôi một cuốn sổ ghi chép cũ từ ngăn kéo dưới cùng và bắt đầu viết.
Bố tôi đã tránh vào phòng làm việc, và khi khó nhọc lần cầu thang xuống tầng dưới tôi chỉ kịp thấy mẹ tôi đang trên đường ra nhà để xe.
“Con gái đấy à, mẹ không biết là con đã thức rồi. Mẹ phải đi đây. Jill bay lúc mười hai giờ, các con phải nhớ khởi hành sớm. Nếu có chuyện gì thì gọi vào di động cho mẹ. À, tối nay con và Lily có ăn ở nhà không?”
“Mẹ đừng hỏi con, con vừa ra khỏi giường và chưa được ngụm cafê nào. Liệu có được phép lùi quyết định chuyện ăn tối được mấy phút không?”
Câu trả lời nhấm nhẳng của tôi chẳng có ích gì vì mẹ tôi đã ra khỏi cửa trước khi tôi mở mồm. Lily, Jill, Kyle và thằng cu im lặng ngồi quanh bàn bếp, mỗi người cầm mấy trnag của tờ Times. Giữa bàn là một đĩa bánh quế đã ỉu, trông hết cả muốn ăn, cạnh đó là chai xi rô loại rẻ tiền vừa lấy từ tủ lạnh ra và một cục bơ cứng như đá. Thứ duy nhất được mọi người hưởng ứng chỉ có cafê mà bố tôi, theo đúng truyền thống, sáng nào cũng mua cùng bánh hiệu từ hiệu Donkin Donut về, vì ông nghi ngờ (rất có lý) chất lượng của mọi thứ do tay mẹ tôi làm ra. Tôi lấy dĩa khêu một chiếc bánh quế, chưa kịp cắt nhỏ ra trên đĩa giấy thì nó đã chảy ra nhão nhoét.
“Ai ăn cái thứ này? Hôm nay bố không mua bánh Donut à?”
“Có chứ, nhưng bố giấu trong tủ trước phòng làm việc.” Kyle làu bàu. “Bố không muốn mẹ nhìn thấy. Em lấy bánh ra đi.”
Tiếng chuông điện thoại vang lên trong khi tôi đang đi tìm đảo giấu vàng. “A lô?” Ít nhất thì bây giờ tôi cũng không nói “văn phòng Miranda Priestly,” nhưng giọng của tôi vẫn cực kỳ chán chường như cũ.
“A lô. Cho tôi nói chuyện với Andrea Sachs.”
“Tôi đây. Tôi đang nói chuyện với ai đấy ạ?”
“Chào Andrea, tôi là Loretta Andriano của tạp chí Tuổi mười bảy.”
Tim tôi đập rộn. Tôi đã nặn óc ra một tác phẩm “hư cấu” dài 2000 từ nói về một cô bé mới lớn, mải học hành ôn thi đại học mà sao nhãng bạn bè và gia đình. Chuyện ngớ ngẩn, ngoáy ra trong hai tiếng, nhưng tôi tin là đã nói đúng giọng khôi hài pha lẫn xúc động.
“Xin chào, chị có khỏe không?”
“Cảm ơn chị, tôi khỏe. Bài viết của chị đang nằm trên bàn tôi, và tôi phải nó là không tồi. Tất nhiên còn phải biên tập lại, và còn sửa nhiều trong ngôn ngữ vì đa số độc giả của chúng tôi dưới tuổi mười ba, nhưng tôi muốn đăng nó trong số tháng Hai.”
“Thật ạ?” Không thể tin nổi. Chuyện này tôi đã gửi đến chục tạp chí dành cho tuổi mới lớn và hai bản già dặn hơn cho hai tạp chí phụ nữ, nhưng cho đến nay chưa nhận được một câu trả lời nào.
“Thật mà. Chúng tôi trả 1.5 dollar cho mỗi từ và chị phải điền vào một số biểu thuế của chúng tôi. Chị đã có kinh nghiệm làm cây bút tự do đấy chứ?”
“Nói cho đúng thì chưa, nhưng trước đây tôi có làm việc ở Runway .” Tôi cung không rõ nói thêm câu ấy làm gì, trong toàn bộ thời gian ở đó công việc khó khăn nhất của tôi chỉ là giả mạo vài ghi chép để hù dọa người khác, nhưng có vẻ Loretta không để ý đến sự sơ hở này.
“Thật hả? Sau khi tốt nghiệp tôi cũng làmủtợ lý thời trang ở Runway. Trong mộtnăm trời ở đó, tôi học hỏi được nhiều hơn năm năm tiếp theo.”
“Thật sự là một kinh nghiệm không gì sánh nổi. Một dịp may lớn cho tôi.”
“Chị làm gì ở đó?”
“Tôi là trợ lý riêng cho Miranda Priestly.”
“THật à? THật tội nghiệp cho chị, thế mà tôi không biết gì cả. À, có phải chị là người bị Miranda sa thải ở Paris mới đây không?”
Lạy chúa, làm sao tôi lại phạm phải lỗi lớn này. Mấy ngày sau khi tôi quay về, mục xã hội của tờ TImes đăng một tin khá dài về vụ bê bối ấy, trích từ “những nguồn thạo tin” - chắc là một trong mấy búp bê thời trang đứng gần đó và mục kích hành vi kỳ quái của tôi. Không thể là nguồn nào khác được, vì những câu trích dẫn rất chính xác. Và tất nhiên tôi không phải là người duy nhất đọc bài báo này. Tôi đã ngờ ngợ cho răng sự phấn khích của Loretta dành cho câu chuyện của mình đột ngột tan biến, nhưng bây giờ không thể lùi bước được nữa.
“À, vâng. Nhưng thật ra mọi chuyện không đến nỗi tồi tệ như vậy. Bài báo đã cường điệu quá đáng.”
“Tôi lại hy vọng là họ không cường điệu. Phải có ai đó làm cho mụ già này mở mắt ra, và nếu đó là chị thì tôi xin bái phục! Bà ta đã biến một năm của tôi ở Runway thành địa ngục, ấy là tôi chưa làm việc trực tiếp với bà ấy đấy. À, bây giờ tôi phải đến một cuộc tiếp khách buổi trưa cho nhà báo, nhưng có lẽ mình thống nhất một lịch hẹn luôn đi. Chị sẽ có dịp hoàn tất các giấy tờ cần thiết và đằng nào tôi cũng muốn làm quen với chị. Nếu còn các bài viết khác mà chị thấy phù hợp với báo của chúng tôi thì mang đến luôn.”
“Vâng, nhất định rồi.” Chúng tôi thống nhất gặp nhau lúc ba giờ chiều thứ Sáu tới rồi tôi đặt máy, chưa hết bàng hoàng. Kyle và Jill đã đưa thằng bé cho Lily trông để đi thay quần áo và gói đồ đạc. Tôi đặt nó lên vai và xoa lưng qua lần vải cho đến khi nó hết khóc.
“Cậu sẽ không bao giờ đoán ra ai vừa gọi tớ,” tôi vừa véo von vừa cõng Isaac chạy khắp phòng. “Một biên tập viên của tạp chí Tuổi mười bảy, họ muốn tớ viết bài!”
“Từ từ đã nào! Họ in chuyện đời cậu à?”
“Không, không phải chuyện đời tớ, mà chuyện đời của Jennifer. Chỉ có 2000 từ thôi, chẳng có gì ghê gớm, nhưng ít nhất cũng là một sự khởi đầu.”
“Thôi được, để tớ kể tiép nhé. Một cô bé trở nên kiêu ngạo vi đã đạt được gì đó, làm mếch lòng tất cả mọi cá nhân quan trọng trong cuộc đời mình. Chuyện Jennifer. Rõ rồi.” Lily vừa nhếch mép cười vừa đảo mắt.
“Thì đã sao? Toàn chi tiết vụn vặt thôi. Quan trọng nhất là họ in truyện này trong số tháng Hai, và trả 3.000 dollar nhuận bút. CÓ kinh khủng không?”
“Chúc mừng cậu, Andy. Quả là tin tốt lành, tớ nói nghiêm chỉnh đấy. Bây giờ cậu có thể dùng nó như một biển quảng cáo, đúng không?”
“Chính xác. Thôi thì không phải The New Yorker, nhưng bước đầu thế là tốt. Một khi tớ được đăng nhiều truyện loậinỳ, có thể tại nhiều tạp chí khcá nữa, thì tương lai cũng hkông đến nỗi nào. Thứ Sáu tớ sẽ gặp biên tạp viên và phải đem theo tất cả nnhững gì đã viết. Chị ấy cũng chẳng hỏi tớ có biết tiếng Pháp không. Lại là gnười rất ghét Miranda. Tớ tin là sẽ cộng tác được với chị ấy.”
Tôi đưa bầu đoàn thê tử Texas ra sân bay, trên đường về mua hai gói ăn trưa to tướng cho mình và Lily để mấy cái bánh ăn sáng Donut không bị cô độc trong dạ dày. Phần còn lại trong ngày cũng như hai hôm tiếp theo tôi chỉ ngồi bên bàn viết để có gì đó cho hôm ra mắt Loretta, chiến sĩ đồng mình mới của tôi trên mặt trận chống Miranda.
“Andy? Còn ngủ à?” Jill gọi lên pphía thang gác.
Tôi hé một bên mắt và xem đồng hồ. 8 giờ 15 sáng. Lạy Chúa, mọi người làm trò gì thế này?
Tôi lăn người lấy đà mấy lần mới ngồi dậy được. Cơ thể tôi cầu xin được ngủ thêm một lát, chỉ một lát nữa thôi.
“Chào cậu,” Lily mỉm cười quay về phía tôi, mặt cô cách mặt tôi vài phân. “Chuẩn bị ca sáng rồi hay sao ấy.” Jill, Kyle và cháu bé đến chơi nhân dịp lễ Tạ ơn, vì vậy Lily phải dọn khỏi phòng của Jill ngày xưa. Mấy hôm nay cô ngủ trên chiếc giường con ghép cạnh giường tôi.
“Có gì mà kêu ca dữ vậy? Tớ không rõ tại sao, nhưng mới sớm tinh mơ mà cậu trông rất tỉnh táo.” Lily nằm chống cùi tay trên giường, đọc báo, thỉnh thoảng làm một ngụm từ tách cafê đặt sát chân giường.
“Tớ nằm nghe Isaac khóc từ lâu rôi.”
“Nó khóc à?”
“Cậu không nghe thấy gì thật à? Từ sáu rưỡi đến giờ nó cứ khóc suốt. Thằng bé thật đáng yêu, nhưng mình phải chấm dứt ngay kiểu khủng bố sáng sớm này.”
“Này các cô!” Mẹ tôi lại gọi từ chân cầu thang. “Đã có ai trên đó dậy chưa? Thức hay ngủ nữa cũng được, nhưng nói để mẹ biết cần làm tan đá bao nhiêu bánh quế!”
“Thức hay ngủ cũng được? Thế này thì sao mà sống nổi hả Lily?” Tôi hét qua cửa: “Chúng con còn ngủ, mẹ không thấy à? Ngủ say như chết, vài tiếng nữa, không nghe trẻ con khóc hay mẹ gọi gì cả!” Lily cười phá lên khi tôi lại lăn ra giường.
“Bình tĩnh nào,” cô nói với vẻ nghiêm trang hiếm thấy. “Đơn giản là mọi người vui khi lại thấy cậu ở nhà, và chính tớ cũng vui mừng khi được về đây. Vài tuần thôi mà, và ít nhất là bọn mình có nhau. Ổn cả đấy chứ.”
“Chỉ vài tuần thôi à? Ngay lúc này tớ đã đủ để đi trại điên rôi.” Tôi thay chiếc áo mặc ở nhà của Alex mà tôi vẫn dùng làm áo ngủ. Chiếc quần bò mà tôi mặc suốt mấy tuần qua nằm nhàu nhĩ một đống cạnh chân tủe, dạo này đã bó khá căng quanh vòng hông. Sau thời kỳ chỉ sống bằng cafê, thuốc lá và xúp ăn vội ăn vàng, cơ thể tôi tận dụng cơ hội này và gỡ lại năm kilô mà tôi đã mất đi trong thời gian làm việc ở Runway . Và quan trọng nhất là tôi không hề thấy áy náy gì hết; theo Lily và bố mẹ tôi thì trông tôi không béo phì, mà xinh hơn, và tôi tin ngay là họ nói thực lòng.
Lily xỏ chân vào cái quần thể thao và trùm một chiếc khăn sặc sỡ lên mái tóc quăn. Mớ tóc buộc hất ra sau để lộ ra những vết đỏ trên trán từ vụ đụng phải tấm kính chắn gió, nhưng bác sĩ đã tháo chỉ và cam đoan là sẹo sẽ rất nhỏ. “Nào dậy đi,” cô nó và vớ lấy đôi nạng luôn để gần. “Hôm nay mọi người đi rồi, mai có thể mình lại có dịp ngủ cho đã.”
“Đằng nào mẹ tớ cũng không để yên cho đến khi mình xuống nhà cơ mà.” Tôi làu bàu và giúp Lily ngồi dậy. Cả nhà tôi đã vẽ hình đầy lên chỗ thạch cao bó quanh mắt cá cô.
“Đúng thế.”
Chị tôi hiện ra trong khung cửa, bế thằng cu đầy mũi dãi trên tay. Nó vui mừng cất tiếng bập bẹ khi thấy chúng tôi. “Trông kìa, ai đây?” Jill nựng nịu và để nó nhún nhẩy. “Isaac, nói với cô Andy là không được càu nhàu nhăn nhó với chúng mình, vì mình sắp phải đi rồi. Nào, cục vàng, nói hộ mẹ đi!”
Isaac khịt mũi rất dễ thương, Jill sung sướng như nhìn một thần đồng vừa ngâm một bản xô nê của Shakespeare. “Thấy chứ, Andy! Đã nghe thấy gì chưa? Con trai yêu của mẹ, cục vàng của mẹ.”
“Chào!” Tôi lầm bầm và hôn lên má Jill. “Em không thích mọi người hôm nay đã phải đi rồi đâu. Và Isaac thì muốn ở đây bao lâu cũng được, với điều kiện là phải nghiêm chỉnh ngủ say từ nửa đêm đến mười giờ sáng. Kể cả Kyle, nếu thich thì cứ ở đây, nhưng phải hứa là không hé miệng nói một câu. Chị thấy bọn em có dễ tính không?”
Lily đã tập tễnh xuống thang, tới chỗ bố mẹ tôi đang chia tay với Kyle trước khi đi làm. Tôi dọn giường cho cả hai.
Lily tỉnh hôn mê từ lúc tôi còn ngồi trên máy bay. Tôi là người thứ hai gặp cô lúc tỉnh, sau Alex. Ở bệnh viện người ta đã khám cô hàng triệu lần từ chân lên đầu, nhưng ngoại trừ mấy vết xước trên mặt, cổ và ngực và gãy xương bàn chân thì cô không bị thương thêm chỗ nào cả. Tất nhiên trông cô rất đáng sợ, nhưng cũng không có gì lạ sau cú đùa rỡ với tử thần. Giờ này thì cô đã hoạt bát trở lại, thậm chí còn quá sinh động đối với một người vừa thoát khỏi một thảm họa.
Bố tôi là người nêu sáng kiến đem cho thuê căn hộ của chúng tôi cả tháng Mười một đến hết tháng Chạp và trong thời gian đó chúng tôi về đây ở. Tôi không phấn khởi lắm, nhưng sau khi xem xét mức thu nhập tụt xuống con số không thì không còn sự lựa chọn nào khác. Ngoài ra, có vẻ như Lily cũng thích quay lưng lại một thời gian với khung cảnh đàm tiếu ngoài thành phố, đợi cho mọi sóng gió qua đi. Chúng tôi quảng cáo trên một “căn hộ nghỉ hè” tuyệt vời ở chính giữa trung tâm New York và thực sự kinh ngạc khi một đôi vợ chồng Thụy Điẻn già đến thăm các con sống ở đây sẵn sàng chấp nhận giá do chúng tôi đặt ra – cao hơn tiền nhà hằng tháng đến 600 dollar. Với chỗ dư này chúng tôi sống trên mức thoải mái, nhất là khi bố mẹ tôi cung cấp miễn phí đồ ăn, giặt giũ và chiếc Camry móp méo. Hai vợ chồng Thụy Điển già ở lại đến tuần đầu tháng Giêng, lúc đó Lily vào học kỳ mới, còn tôi thì - đợi xem có chuyện gì mới không.
Tin đuổi việc chính thức do Emily đưa đến. Tất nhiên là sau vụ đấu khẩu nho nhỏ nọ thì không có gì phải bàn cãi thêm về chuyện tiếp tục đi làm ở đó, song Miranda nhất định còn muốn bồi thêm một cú nữa. Có nghĩa là: chưa đầy ba hay bốn phút sau, cỗ máy tàn nhẫn Runway vô cùng hiệu quả đã khởi động.
Tôi vừa vào đến taxi và rút được chân trái ra khỏi chiếc bốt tra tấn thì nghe chuông điện thoại. Tôi bất giác giật thót mình, nhưng chợt nhớ lại cú chạm trán vừa xảy ra. Không thể là bà ấy được. Lập tức tôi vẽ trong đầu một trình tự sự việc: MIranda cần một phút để ngậm miệng lại và trấn tĩnh, không cho lũ nhòm ngó xung quanh biết chuyện gì; một phút nữa, đủ để tìm ra điện thoại và gọi về nhà cho Emily; phút thứ ba để thong báo chi tiết cho cô biết mọi chi tiết về sự kiện lịch sử nọ; phút cuối cùng dành cho câu thề thốt của Emily là cô sẽ “tự tay lo liệu cho mọi việc diễn ra đúng ý muốn”. Chính thế. Ngay cả khi số điện của người gọi từ nước ngòai không hiẹn ra trên màn hình thì tôi cũng chẳng mảy may nghi ngờ.
“Xin chào Emily, khỏe không?” Tôi vừa véo von hỏi vừa xoa bóp bàn chân trần, cố không để chạm xuống nền thảm bẩn thỉu.
Rõ ràng là Emily không được chuẩn bị tinh thần để nghe giọng tôi tươi vui như vậy. “Andrea đấy à?”
“Vâng, tôi đây, có chuyện gì mới không? Tôi đang vội...” Tôi có nên hỏi thẳng tuột là có phải cô gọi để báo tin sa thải tôi? Mà thôi, lần duy nhất này cũng nên cho cô có thì giờ lấy hơi, và tôi sẵn sàng nghe một bài ca cẩm tất yếu xảy ra – tại sao chị có thể để tôi và Runway và cả giới thời trang phải thất vọng và bẽ mặt - đại loại như vậy; song không phải thế.
“Vâng, à, tất nhiên. Tôi vừa nói chuyện với Miranda xong...” cô bỏ lửng câu, tựa như mong muốn tôi sẽ nói hết phần cuối và giải thích rằng tất cả chỉ là một sơ xuất và tôi đã hàn gắn xong xuôi trong bốn phút vừa qua.
“Và chị đã nghe nói chuyện gì xảy ra, tôi đoán vậy?”
“À, vâng. Andy, sao lại thế?”
“Tôi phải hỏi chị mới đúng chứ?”
Im lặng.
“Emily, chị nghe nhé, tôi không loại bỏ được linh cảm là chị gọi để báo tin sa thải tôi. Chị làm thế cũng được thôi, tôi biết đây không phải là quyết định của chị. Vậy là bà ấy bảo chị báo tin cho tôi?” Mặc dù lòng thanh thản như chưa từng có trong mấy tháng qua, tôi vẫn bất giác nín thở; biết đâu số phận chơi trò nghịch ngợm và Miranda không coi thái độ của tôi là xấc xược, mà lại lấy làm ấn tượng.
“Vâng, tôi có nhiệm vụ báo là chị bị sa thải và chị phải dọn khỏi phòng ở Ritz trước khi bà ấy từ chỗ trình diễn thời trang về.” Cô nói khẽ, có chút tiếc nuối trong giọng. Có thể cô đã mườgn tượng ra những giờ, những ngày và tuần lễ sắp tới sẽ phỉa bỏ ra để tìm và huấn luyện người kế nhiệm tôi. Nhưng nghe có vẻ như còn ẩn chứa điều gì sâu xa hơn.
“Chị sẽ nhớ tôi phải không, Emily? Nào thú nhận đi, tôi không kể cho ai đâu mà ngại. Cứ coi nhu cuộc chuyện trò này không hề diễn ra. Chị không muốn tôi đi, đúng không?”
Lại một điều kỳ diệu nữa xảy ra: cô cười. “Chị nói gì với bà ấy thế? Bà ấy chỉ nói lại là chị xử sự thô thiển và thiếu lịch sự. Tôi không thể gợi ý cho bà ấy kể rõ hơn.”
“Có gì đâu, chắc là tôi đã nói là biến đi cho khuất ắmt tôi.”
“Không thể thế được!”
“Thế chị nghĩ tại sao bà ấy đuổi tôi? Chuyện xảy ra đúng như thế đấy.”
“Trời đất ơi!”
“Tôi sẽ không giấu chị rằng đó là khoảnh khắc hoành tráng nhất trong cuộc đời thảm hại của tôi. Nhưng bây giờ thì tôi đang trong tình thế khốn cùng là bị người đàn bà quyền lực nhất trong làng xuất bản sa thải. Không hy vọng gì lấp lại chỗ trống trong tài khoản đã kiệt quệ, và kiếm việc mới trong ngành báo chí chắc cũng khó. Có thể tôi đào ngũ sang bên kia chiến tuyến chăng? Họ sẽ chào đón nồng nhiệt lắm đấy.”
“Dĩ nhiên. Chị gửi đơn xin việc đến nn Wintour xem sao, bà ấy và Miranda vốn không ưa nhau.”
“Ừ, tôi sẽ nghĩ kỹ. Emily, giữa tôi và chị không vì thế mà có vấn đề gì chứ?” Tâtá nhien là cả hai chúng tôi đều rõ là ngoài Miranda ra tuyệt đối không có đề tài nào được cả hai cùng quan tâm cả, nhưng tôi không muốn bỏ qua lợi thế của khoảnh khắc này.
“Không, sao chị lại nghĩ thế.” Cô nói khách sáo – rõ ràng cũng biết từ nay tôi vĩnh viễn bị tống khỏi thiên đường, và cô sẽ bắt buộc phải lờ tôi đi như chưa quen biết. Đối với tôi không là vấn đề. Mười ănm nữa, khi cô ngồi ở dãy ghế đầu trong show thời trang của Michael Kors còn tôi vẫn đi chợ và ăn uống ở những địa chỉ rẻ tiền, có thể chúng tôi sẽ thỏa sức lấy chuyện này ra làm trò cười. Cũng có thể không.
“Tôi cũng muốn tán chuyện với chị thêm ít phút, nhưng hiện tại đang lắm chuyện quá. Tôi phỉa về nhà càng sớm càng tốt. Tôi vẫn dùng vé khứ hồi được chứ? Bà ấy không thể sa thải tôi rồi để tôi bơ vơ ở nước ngoài được.”
“Nếu bà ấy làm vậy thì cũng dễ hiểu, Andrea ạ.” A, thêm một cú móc cuối cùng nữa! Kể ra cũng thú vị khi biết là chẳng có gì thay đổi cả. “Nói cho cùng thì chị đã bỏe rơi bà ấy, hay đúng hơn là qua hành vi của mình đã buộc bà ấy phải cho chị thôi việc. Nhưng bà ấy không thù dai thế đâu. Chị cứ gửi hóa đơn lệ phí đặt vé về đây, tôi sẽ cố gắng thu xếp.”
“Cám ơn Emily, chị rất tốt. Chúc chị nhiều may mắn. Chị sẽ là một biên tập viên thời trang rất tốt đấy.”
“Thật hả? Chị nghĩ thế hả?” Cô hăng hái bập ngay vào. Tôi không hiểu nổi tại sao cô ta lại tin vào một đứa mù tịt về mốt như tôi, song giọng cô đầy cảm kích.
“Nhất định rồi. Tôi không hề nghi ngờ một giây.”
Tôi vừa dứt chuyện với Emily thì Christian gọi đến – và tất nhiên đã thông tỏ mọi chuyện. Lạ thật. Anh thích thú bắt tôi thuật lại từng chi tiết thú vị và hứa hẹn mời mọc đủ mọi thứ trên đời, nghe mà ngán tận cổ. Tôi lạnh lùng thông báo là hiện nay tôi có một đống việc phải làm, tôi phải chấm dứt cuộc gọi và sẽ gọi lại cho anh vào lúc thích hợp.
Ông Renaud và đội quân hầu, lạ quá, chưa biết gì về cú kết ngoạn mục của tôi. Họ càng cần mẫn đon đả hơn khi nghe nói là tôi có việc gia đình mà phải bay về ngay, và chưa đầy nửa giờ sau đã đặt được vé cho chuyến bay sớm nhất về New York, gói ghém đồ đạc của tôi và cử một chiếc Limousin kèm ngăn lạnh đựng đủ thứ rượu hảo hạng đưa ra sân bay Charles de Gaulle. Tài xế có vẻ muốn bắt chuyện, nhưng tôi chỉ trả lời nhát gừng chiếu lệ vì còn tập trung tận hưởng những phút cuối cùng trong sự nghiệp của một trợ lý bị trả lương tồi tệ nhất nhưng được ưu tiên cao nhất. Một ngụm ngon lành cuối cùng từ ly sâm banh đế cao. Mười một tháng trời, bốn mươi tư tuần lễ, tính ra là ba nghìn tám mươi giờ làm việc – đó là thời gian mà tôi đã phải trải qua để rốt cuộc tỉnh ngộ ra rằng sẽ không bao giờ trở thành hình ảnh trong gương của Miranda Priestly.
Qua bàn hải quan, lần này không có lái xe nào mặc đồng phục giơ biển ghi tên tôi mà là bố mẹ tôi đứng đợi và sung sướng gặp lại con gái. Chúng tôi ôm chầm lấy nhau, và sau khi hai phụ huynh tiêu xong cú sốc bởi bộ dạng của tôi (quần jean bạc phếch bó chẽn của Dolce & Gabbana, giày cao gót nhọn hoắt, sơ mi trong suốt – ơ kìa, tôi đã chọnn đúng như hướng dẫ trong mục “Các dip khác”, gạch đầu dòng “Đi từ sân bay hoặc đến sân bay,” do đội tư vấn của Runway gửi theo chuyến công du này) họ mới tiết lộ tin sốt dẻo nhất: Lily đã hồi tỉnh và nhận biết xung quanh. Chúng tôi đi thẳng đến bệnh viện, vừa chạy qua cửa phòng tôi đã được nghe cô bạn mới thoát khỏi cơn hôn mê yếu ớt gọi tên mình.
Rời bệnh viện, tất nhiên Lily còn bù đầu với tòa án; chẳng gì thì cô cũng đã lái xe trong lúc xay sỉn, phóng quá tốc độ vào đường ngược chiều. CHỉ may mắn nhờ những người liên quan không bị gì ănngj mà thẩm phán đã cực kỳ rộng lượng khi tuyên án Lily phải đi lao động công ích - khoảng một trăm năm gì đó. Tiền sự lái xe say rượu thì tất nhiên bị ghi vào hồ sơ. Chúng tôi ít khi nhắc lại vụ này – cho đến giờ Lily vẫn không thích thú nhận là cô có vấn đề vì quá chén – nhưng một lần tôi đã đến đón cô ở buổi điều trị tập thể tại East Village và được nghe kể là ở đó rất hay, không nhấn mạnh quá mức chuyện luân lý, tuy nhiên cũng khá “sốt ruột”. Tôi lườm cô sắc lẹm kiểu Emily khi nghe câu cuôi, lập tức Lily nói thêm là ở đó có vài chàng khá hấp dẫn, và cũng không có hại gì nếu cả một buổi tối không uống giọt nào. Thế là ổn. Bố mẹ tôi đã thuyết phục cô đến nói chuyện thẳng thắn với ông chủ nhiệm khoa ở trường Columbia. Thoạt tiên cô chối đây đẩy, nhưng rồi cũng nhận ra đó là một việc có lợi: ông ta cho nghỉ đến hết học kỳ chứ không bắt học lại và thống nhất với bộ phận tài chính là đầu năm sau cô được quay lại nhận học bổng.
Dần dần cuộc sống của Lily và tình bạn giữa hai chúng tôi lại đâu vào đấy, nhưng với Alex thì không. Lúc tôi chạy ùa vào phòng bệnh của Lily thì anh ngồi cạnh giường. Thú thật là lúc đó nếu bố mẹ tôi không lánh vào quán cafê thì hơn. Sau câu chào hỏi gượng gạo, tất nhiên tiếp đến là tôi vồ vập với Lily, nhưng trong nửa tiếng đồng hồ cho đến lúc Alex mặc áo khoác và vẫy tay tạm biệt mọi người, chúng tôi không trao đổi với nhau một câu nào ra đầu ra đũa. Về đến nhà tôi gọi điện cho anh, nhưng chỉ nghe được máy trả lời tự động.. Sau vài lần thử nữa thì tôi cũng gặp anh trước khi đi ngủ.
“Chào anh!” Tôi cố nói thật lấy lòng và tự chủ như có thể.
“Em đấy à,” mọi au yếm của tôi như nước đổ đầu vịt.
“Anh này, Lily cũng là bạn của anh, em biết, và những gì anh làm đều là đương nhiên, nhưng thật lòng đúng là em không biết làm gì để cảm ơn anh: anh đã tìm ra em, đã giúp bố mẹ em, đã ngồi hàng giờ bên cạnh giường bệnh...”
“Không có gì. Giúp đỡ bạn bè trong hoạn nạn là chuyện bình thường thôi. Không có vấn đề gì đâu.” Chuyện bình thường, tất nhiên, nhưng không hẳn bình thường đối với một người tự cho mình là cái rốn của vũ trụ và có những tiêu chí lệch lạc, và tình cờ đang nói chuyện với anh!
“Alex, em xin anh, chúng ta có thể nói chuyện với nhau một cách...”
“Không. Hiện giờ không có gì để nói cả. Cả một năm nay anh đã đợi dịp ấy, đôi khi cầu xin dịp ấy, nhưng không có tín hiệu nào từ phía em. Một lúc nào đó anh đã bị mất cô gái Andy mà anh đã từng si mê. Anh cũng không biết chính xác chuyện đó chính xác xảy ra bao giờ và như thế nào, nhưng nhất định là em không còn là Andy của ngày xưa, trước khi bắt tay vào công việc này. Andy của anh sẽ không bao giờ có ý nghĩ là một show thời trang hay cuộc liên hoan hay bất cứ gì đó lại quan trọng hơn người bạn đang cần mình, đang thực sự cần mình. Tất nhiên anh vui mừng khi em đã quay về và nhận ra đó là hành động duy nhất đúng, nhưng bây giờ anh cần thời gian đã, thời gian để suy nghĩ xem em và anh, và hai chúng ta, đang đứng ở vị trí nào. Andy, chuyện này không phải mới mẻ gì với anh. Chuyện đã kéo dài lắm rồi - chỉ có mình em là quá bận bịu nên không nhận ra.”
“Alex, anh chưa bao giờ cho em một dịp may cỏn con nào để chúng mình ngồi với nhau, để em giải thích cho anh chuyện gì xảy ra. Có thể anh có lý, và em không còn là em ngày xưa nữa. Em thì không tin, và ngay cả khi em có thay đổi chăng nữa thì cũng không nhất định chỉ thay đổi theo hướng xấu đi. Anh và em đã xa cách nhau đến mức ấy rồi sao?”
Alex là người bạn thân nhất của tôi, hơn cả Lily, đó là chuyện tôi biết chắc, nhưng cũng chỉ là người bạn thân từ nhiều tháng nay. Những gì anh nói đều đúng, đã đến lúc tôi nên thú nhận với anh điều đó, cho dù không đơn giản. Tôi lấy hơi thật sâu.
“Anh nói đúng.”
“Em nghĩ thế à?”
“Vâng. Em đã đối xử thực sự ích kỷ và bất công với anh.”
“Vậy bây giờ thì sao?” Nghe giọng anh như không cảm động, mà chán nản.
“Em cũng không biết. Mình không nói chuyện với nhau nữa? Không gặp nhau nữa? Em không rõ như thế có tốt không. Em muốn anh tiếp tục là một phần của đời em, và chẳng hề tưởng tượng được là em sẽ biến ra khỏi cuộc đời anh.”
“Anh cũng thế. Nhưng anh không chắc chắn là mình có giữ được lâu không. Trước khi yêu nhau mình không là bạn bè, bây giờ khó tưởng tượng chỉ có thể làm bạn với nhau mà thôi. Nhưng ai biết được trước mọi sự? Nếu mình có nhiều thời gian để suy nghĩ...”
Tôi cúp máy. Đó là tối hôm đầu tiên sau khi trở về, tôi đã khóc hết nước mắt, không phải vì Alex mà vì nhiều chuyện đã biến đổi trong năm qua. Một cô Lọ lem ngơ ngác bước vào vương quốc Elias Clark, rồi lảo đảo ra khỏi đó với một chút kình nghiệm sống và nhận thức ra rằng mình vẫn là Lọ Lem. Nhưng trong khoảng thời gian đó tôi đã trải nghiệm nhiều hơn so với một trăm công việc khởi nghiệp khác. Kể cả khi trong lý lịch có dòng chữ “sa thải” xấu xa, bị bạn trai từ bỏ và trong tay không có gì ngoài một va li (nói cho công bằng là bốn va li Louis Vuitton) ních đầy quần áo hàng hiệu - biết đâu tất cả đều có ý nghĩa của nó?
Tôi tắt chế độ chuông điện thoại, lôi một cuốn sổ ghi chép cũ từ ngăn kéo dưới cùng và bắt đầu viết.
Bố tôi đã tránh vào phòng làm việc, và khi khó nhọc lần cầu thang xuống tầng dưới tôi chỉ kịp thấy mẹ tôi đang trên đường ra nhà để xe.
“Con gái đấy à, mẹ không biết là con đã thức rồi. Mẹ phải đi đây. Jill bay lúc mười hai giờ, các con phải nhớ khởi hành sớm. Nếu có chuyện gì thì gọi vào di động cho mẹ. À, tối nay con và Lily có ăn ở nhà không?”
“Mẹ đừng hỏi con, con vừa ra khỏi giường và chưa được ngụm cafê nào. Liệu có được phép lùi quyết định chuyện ăn tối được mấy phút không?”
Câu trả lời nhấm nhẳng của tôi chẳng có ích gì vì mẹ tôi đã ra khỏi cửa trước khi tôi mở mồm. Lily, Jill, Kyle và thằng cu im lặng ngồi quanh bàn bếp, mỗi người cầm mấy trnag của tờ Times. Giữa bàn là một đĩa bánh quế đã ỉu, trông hết cả muốn ăn, cạnh đó là chai xi rô loại rẻ tiền vừa lấy từ tủ lạnh ra và một cục bơ cứng như đá. Thứ duy nhất được mọi người hưởng ứng chỉ có cafê mà bố tôi, theo đúng truyền thống, sáng nào cũng mua cùng bánh hiệu từ hiệu Donkin Donut về, vì ông nghi ngờ (rất có lý) chất lượng của mọi thứ do tay mẹ tôi làm ra. Tôi lấy dĩa khêu một chiếc bánh quế, chưa kịp cắt nhỏ ra trên đĩa giấy thì nó đã chảy ra nhão nhoét.
“Ai ăn cái thứ này? Hôm nay bố không mua bánh Donut à?”
“Có chứ, nhưng bố giấu trong tủ trước phòng làm việc.” Kyle làu bàu. “Bố không muốn mẹ nhìn thấy. Em lấy bánh ra đi.”
Tiếng chuông điện thoại vang lên trong khi tôi đang đi tìm đảo giấu vàng. “A lô?” Ít nhất thì bây giờ tôi cũng không nói “văn phòng Miranda Priestly,” nhưng giọng của tôi vẫn cực kỳ chán chường như cũ.
“A lô. Cho tôi nói chuyện với Andrea Sachs.”
“Tôi đây. Tôi đang nói chuyện với ai đấy ạ?”
“Chào Andrea, tôi là Loretta Andriano của tạp chí Tuổi mười bảy.”
Tim tôi đập rộn. Tôi đã nặn óc ra một tác phẩm “hư cấu” dài 2000 từ nói về một cô bé mới lớn, mải học hành ôn thi đại học mà sao nhãng bạn bè và gia đình. Chuyện ngớ ngẩn, ngoáy ra trong hai tiếng, nhưng tôi tin là đã nói đúng giọng khôi hài pha lẫn xúc động.
“Xin chào, chị có khỏe không?”
“Cảm ơn chị, tôi khỏe. Bài viết của chị đang nằm trên bàn tôi, và tôi phải nó là không tồi. Tất nhiên còn phải biên tập lại, và còn sửa nhiều trong ngôn ngữ vì đa số độc giả của chúng tôi dưới tuổi mười ba, nhưng tôi muốn đăng nó trong số tháng Hai.”
“Thật ạ?” Không thể tin nổi. Chuyện này tôi đã gửi đến chục tạp chí dành cho tuổi mới lớn và hai bản già dặn hơn cho hai tạp chí phụ nữ, nhưng cho đến nay chưa nhận được một câu trả lời nào.
“Thật mà. Chúng tôi trả 1.5 dollar cho mỗi từ và chị phải điền vào một số biểu thuế của chúng tôi. Chị đã có kinh nghiệm làm cây bút tự do đấy chứ?”
“Nói cho đúng thì chưa, nhưng trước đây tôi có làm việc ở Runway .” Tôi cung không rõ nói thêm câu ấy làm gì, trong toàn bộ thời gian ở đó công việc khó khăn nhất của tôi chỉ là giả mạo vài ghi chép để hù dọa người khác, nhưng có vẻ Loretta không để ý đến sự sơ hở này.
“Thật hả? Sau khi tốt nghiệp tôi cũng làmủtợ lý thời trang ở Runway. Trong mộtnăm trời ở đó, tôi học hỏi được nhiều hơn năm năm tiếp theo.”
“Thật sự là một kinh nghiệm không gì sánh nổi. Một dịp may lớn cho tôi.”
“Chị làm gì ở đó?”
“Tôi là trợ lý riêng cho Miranda Priestly.”
“THật à? THật tội nghiệp cho chị, thế mà tôi không biết gì cả. À, có phải chị là người bị Miranda sa thải ở Paris mới đây không?”
Lạy chúa, làm sao tôi lại phạm phải lỗi lớn này. Mấy ngày sau khi tôi quay về, mục xã hội của tờ TImes đăng một tin khá dài về vụ bê bối ấy, trích từ “những nguồn thạo tin” - chắc là một trong mấy búp bê thời trang đứng gần đó và mục kích hành vi kỳ quái của tôi. Không thể là nguồn nào khác được, vì những câu trích dẫn rất chính xác. Và tất nhiên tôi không phải là người duy nhất đọc bài báo này. Tôi đã ngờ ngợ cho răng sự phấn khích của Loretta dành cho câu chuyện của mình đột ngột tan biến, nhưng bây giờ không thể lùi bước được nữa.
“À, vâng. Nhưng thật ra mọi chuyện không đến nỗi tồi tệ như vậy. Bài báo đã cường điệu quá đáng.”
“Tôi lại hy vọng là họ không cường điệu. Phải có ai đó làm cho mụ già này mở mắt ra, và nếu đó là chị thì tôi xin bái phục! Bà ta đã biến một năm của tôi ở Runway thành địa ngục, ấy là tôi chưa làm việc trực tiếp với bà ấy đấy. À, bây giờ tôi phải đến một cuộc tiếp khách buổi trưa cho nhà báo, nhưng có lẽ mình thống nhất một lịch hẹn luôn đi. Chị sẽ có dịp hoàn tất các giấy tờ cần thiết và đằng nào tôi cũng muốn làm quen với chị. Nếu còn các bài viết khác mà chị thấy phù hợp với báo của chúng tôi thì mang đến luôn.”
“Vâng, nhất định rồi.” Chúng tôi thống nhất gặp nhau lúc ba giờ chiều thứ Sáu tới rồi tôi đặt máy, chưa hết bàng hoàng. Kyle và Jill đã đưa thằng bé cho Lily trông để đi thay quần áo và gói đồ đạc. Tôi đặt nó lên vai và xoa lưng qua lần vải cho đến khi nó hết khóc.
“Cậu sẽ không bao giờ đoán ra ai vừa gọi tớ,” tôi vừa véo von vừa cõng Isaac chạy khắp phòng. “Một biên tập viên của tạp chí Tuổi mười bảy, họ muốn tớ viết bài!”
“Từ từ đã nào! Họ in chuyện đời cậu à?”
“Không, không phải chuyện đời tớ, mà chuyện đời của Jennifer. Chỉ có 2000 từ thôi, chẳng có gì ghê gớm, nhưng ít nhất cũng là một sự khởi đầu.”
“Thôi được, để tớ kể tiép nhé. Một cô bé trở nên kiêu ngạo vi đã đạt được gì đó, làm mếch lòng tất cả mọi cá nhân quan trọng trong cuộc đời mình. Chuyện Jennifer. Rõ rồi.” Lily vừa nhếch mép cười vừa đảo mắt.
“Thì đã sao? Toàn chi tiết vụn vặt thôi. Quan trọng nhất là họ in truyện này trong số tháng Hai, và trả 3.000 dollar nhuận bút. CÓ kinh khủng không?”
“Chúc mừng cậu, Andy. Quả là tin tốt lành, tớ nói nghiêm chỉnh đấy. Bây giờ cậu có thể dùng nó như một biển quảng cáo, đúng không?”
“Chính xác. Thôi thì không phải The New Yorker, nhưng bước đầu thế là tốt. Một khi tớ được đăng nhiều truyện loậinỳ, có thể tại nhiều tạp chí khcá nữa, thì tương lai cũng hkông đến nỗi nào. Thứ Sáu tớ sẽ gặp biên tạp viên và phải đem theo tất cả nnhững gì đã viết. Chị ấy cũng chẳng hỏi tớ có biết tiếng Pháp không. Lại là gnười rất ghét Miranda. Tớ tin là sẽ cộng tác được với chị ấy.”
Tôi đưa bầu đoàn thê tử Texas ra sân bay, trên đường về mua hai gói ăn trưa to tướng cho mình và Lily để mấy cái bánh ăn sáng Donut không bị cô độc trong dạ dày. Phần còn lại trong ngày cũng như hai hôm tiếp theo tôi chỉ ngồi bên bàn viết để có gì đó cho hôm ra mắt Loretta, chiến sĩ đồng mình mới của tôi trên mặt trận chống Miranda.
Tác giả :
Lauren Weisberger