Percy Jackson Tập 4: Cuộc Chiến Chốn Mê Cung
Chương 19
Có quá nhiều lời tiễn biệt.
Đêm đó là lần đầu tiên tôi thực sự chứng kiến những tấm vải liệm được dùng trên thi thể người như thế nào, và đó là điều không bao giờ tôi muốn trông thấy lần thứ hai.
Trong số những người chết, Lee Fletcher ở nhà thần Apollo bị đánh gục bởi cây côn của một gã khổng lồ. Cậu ấy được cuộn trong vải liệm màu vàng và không có hoa văn trang trí. Con trai của thần Dionysus, người đã gục ngã khi chiến đấu với một á thần được bọc trong một tấm vải liệm màu tím sẫm được thêu những thân cây nho. Tên cậu ấy là Castor. Tôi thấy xấu hổ bởi ba năm ở chung trại với nhau mà tôi còn không thèm nhớ tên cậu ấy. Cậu ấy mười bảy tuổi. Người anh em sinh đôi của Castor, Pollux, đã cố nói một vài lời, nhưng cổ họng cậu ta nghẹn lại nên chỉ cầm đuốc đứng một bên. Cậu ta châm lửa giàn thiêu giữa đấu trường, và chỉ trong vài giây, đống vải liệm đã chìm trong lửa, làm khói và tia lửa bay lên tới tận các vì sao.
Chúng tôi dành hết cả ngày hôm sau chữa trị cho những người bị thương, tức là gần như tất cả mọi người. Các thần rừng và các nữ thần cây cũng làm việc vất vả để khôi phục lại khu rừng.
Vào buổi trưa, Hội đồng Trưởng Lão Cloven tổ chức một cuộc họp khẩn cấp trong bụi cây thánh. Ba vị thần rừng già ở đó với bác Chiron. Bác ấy đang ngồi trên chiếc xe lăn. Một chân ngựa bị gãy của bác ấy vẫn đang được chữa trị, vậy nên chắc bác ấy sẽ dính với cái ghế thêm vài tháng nữa, cho đến khi cái chân đủ khỏe để nâng đỡ trọng lượng của bác ấy. Trong bụi cây thánh chật cứng với các thần rừng, nữ thần cây và các nữ thủy thần từ dưới nước ngoi lên – có hàng trăm nữ thần như vậy, họ nóng lòng muốn nghe xem chuyện gì sẽ diễn ra. Juniper, Annabeth và tôi đang đứng ngay bên cạnh Grover.
Silenos muốn tống Grover đi đày ngay lập tức, nhưng bác Chiron đã thuyết phục ông ta ít nhất thì cũng cần nghe chứng cứ. Sau đó chúng tôi kể cho mọi người chuyện xảy ra trong hang động tinh thể và những gì thần Pan đã nói. Sau đó một số nhân chứng của trận đánh mô tả những âm thanh kỳ lạ mà Grover đã tạo ra, thứ âm thanh đã đẩy quân đội của Titan trở lại bên trong đường hầm.
“Đó là sự hoảng sợ,” Juniper nhấn mạnh. “Grover đã triệu tập sức mạnh của thần tự nhiên.”
“Hoảng sợ?” tôi hỏi.
“Percy,” bác Chiron giải thích, “trong cuộc chiến đầu tiên giữa các vị thần các Titan, thần Pan đã hét lên một tiếng kinh hoàng và đẩy lui đội quân của địch. Đó – đó là sức mạnh lớn nhất của ông ấy – một làn sóng sợ hãi khổng lồ đã giúp các vị thần chiến thắng trong trận đó. Từ hoảng sợ được đặt theo tên của thần Pan, như cháu thấy đấy. Và Grover đã sử dụng sức mạnh đó, triệu hồi nó từ bên trong cậu ấy.”
“Phi lý!” Silenos gầm lên. “Báng bổ! Có thể thần tự nhiên lúc đó đã thương tình giúp đỡ chúng ta. Hoặc có thể thứ nhạc của Grover kinh khủng quá đến nỗi quân thù cũng phải bỏ chạy!”
“Không phải đâu, thưa ngài,” Grover nói. Nếu tôi bị xúc phạm đến vậy thì chắc chắn tôi chẳng thể bình tĩnh như cậu ấy. “Ông ấy đã để linh hồn của mình xâm nhập vào tất cả chúng ta. Chúng ta phải hành động. Mỗi người trong chúng ta phải hành động để cải tạo lại thiên nhiên, để bảo vệ những gì còn sót lại. Chúng ta phải loan truyền điều đó. Thần Pan đã chết rồi. Chẳng còn ai ngoài chúng ta đâu.”
“Sau hai nghìn năm tìm kiếm, đây là những gì cậu muốn chúng ta tin sao?” Silenus giận dữ. “Không bao giờ! Chúng ta phải tiếp tục tìm kiếm. Tống kẻ phản bội đi đày đi!”
Một số thần rừng già lẩm bẩm tán thành.
“Chúng ta sẽ bỏ phiếu!” Silenos yêu cầu. “Ai sẽ tin gã thần rừng trẻ tuổi lố bịch này nhỉ?”
“Tôi tin,” một giọng nói quen thuộc vang lên.
Mọi người quay lại nhìn. Thần Dionysus đang sải bước tiến vào. Ông ấy mặc một bộ com lê đen trang trọng, đến nỗi tôi suýt nữa thì không nhận ra ông ấy, một chiếc cà vạt tía sẫm, áo sơ mi tím nhạt và mái tóc đen quăn được chải chuốt rất cẩn thận. Mắt ông vẫn đỏ ngầu như thường lệ, khuôn mặt béo tròn mang đầy vẻ xúc động, nhưng có vẻ đó là do nỗi đau buồn chứ không phải do say rượu.
Tất cả các thần rừng đều đứng lên kính cẩn cúi chào khi ông ấy đi tới. Thần Dionysus vẫy tay, và một cái ghế mới mọc lên từ mặt đất ngay bên cạnh Silenus – một cái ngai làm bằng các thân dây nho.
Thần Dionysus ngồi xuống và bắt chéo chân. Ông ấy búng tay và một thần rừng hối hả bước tới với một đĩa pho mát, bánh quy giòn và một lon Coca dành cho người ăn kiêng.
Vị thần rượu nho nhìn đám đông tụ tập. “Nhớ ta chứ?”
Các thần rừng tranh nhau gật đầu và cúi chào. “Ôi, có chứ! Rất nhiều thưa ngài!”
“Ừ, ta thì lại chẳng nhớ nơi này!” thần Dionysus đáp lại. “Ta đem đến cho các bạn tin xấu đây. Tin dữ. Các tiểu thần đang thay đổi. Morpheus đã chuyển qua phe địch. Hecate, Janus và Nemesis cũng vậy. Thần Zeus còn biết nhiều người như vậy nữa kia.”
Sấm rền vang phía xa.
“Quên điều đó đi,” thần Dionysus nói. “Ngay cả thần Zeus cũng không biết. Giờ ta muốn nghe câu chuyện của Grover. Kể lại từ đầu nào.”
“Nhưng thưa ngài,” Silenus phản đối. “Câu chuyện đó thật nhảm nhí!”
Đôi mắt thần Dionysus bừng lên ngọn lửa màu tía. “Ta vừa biết tin con trai ta, Castor đã chết, Silenus ạ. Tâm trạng ta đang không tốt. Ngươi mua vui cho ta có lẽ hay hơn đấy.”
Silenus nuốt nước miếng và vẫy tay ra hiệu cho Grover kể lại câu chuyện một lần nữa.
Khi Grover kể xong câu chuyện, Ngài D gật đầu. “Đúng là thần Pan thường làm những việc như thế này. Grover nói đúng đấy. Cuộc tìm kiếm thật mệt mỏi. Các người cần nghĩ cho bản thân mình một chút.” Ông quay sang một thần rừng. “Đem cho ta vài quả nho đã bóc vỏ, nhanh nào!”
“Vâng thưa ngài!” thần rừng đó luống cuống chạy đi.
“Chúng ta phải tống kẻ phản bội đó đi đày!” Silenus khăng khăng.
“Ta nói Không,” thần Dionysus phản bác. “Đó là ý kiến của ta.”
“Ta cũng bầu là Không,” bác Chiron chen vào.
Silenus vẫn cứng đầu phản kháng. “Mọi người đều đồng ý cho hắn đi đày chứ?”
Ông ta và hai thần rừng già nữa giơ tay.
“Ba thắng hai,” Silenus nói.
“À đúng,” thần Dionysus nói. “Nhưng rất tiếc, một phiếu của thần được tính bằng hai phiếu. Và vì ta bỏ phiếu chống nên chúng ta quyết định như vậy nhé.”
Silenus đứng lên tức tối. “Thế này là vi phạm! Hội đồng không thể đi vào ngõ cụt như vậy được.”
“Vậy thì để nó giải tán đi!” Ngài D nói. “Ta không quan tâm.”
Silenus và thần rừng nữa miễn cưỡng cúi chào, rồi họ rời bụi cây. Khoảng hai mươi thần rừng khác đi cùng họ. Số còn lại đứng chung quanh và thì thầm đầy lo lắng.
“Đừng lo,” Grover nói với họ. “Chúng ta không cần một Hội Đồng để bảo chúng ta phải làm gì. Tự chúng ta cũng tìm ra được cơ mà.”
Rồi cậu ấy kể lại cho họ từng lời của thần Pan – rằng mọi người cần nỗ lực từng chút một để bảo vệ thiên nhiên như thế nào. Cậu ấy bắt đầu chia các thần rừng thành các nhóm – một số nhóm sẽ đến các công viên quốc gia, một số nhóm đi tìm những nơi nguyên sinh còn sót lại, và vài nhóm khác đi bảo vệ những công viên trong các thành phố lớn.
“Cuối cùng,” Annabeth nói với tôi, “Grover có vẻ trưởng thành hơn rồi đấy.”
Vào buổi chiều muộn của ngày hôm đó, tôi gặp Tyson đang nói chuyện với Briares bên bãi biển. Briares đang dùng khoảng năm mươi bàn tay để xây một lâu đài cát. Dường như anh ta không tập trung vào công việc đó, nhưng anh ta đã tạo được một tác phẩm rất ấn tượng: một tòa nhà ba tầng với những bức tường vững chắc, một cái hào bao quanh và một chiếc cầu kéo bắc qua.
Tyson đang vẽ một bản đồ trên cát.
“Rẽ trái ở rặng đá ngầm,” cậu ấy bảo Briares. “Đi thẳng xuống đến chỗ thuyền bị chìm, rồi khoảng một dặm về phía đông, rồi băng qua nghĩa địa của các nàng tiên cá, anh sẽ thấy có rất nhiều lửa cháy.”
“Em đang chỉ đường cho anh ta tới lò rèn à?” tôi hỏi.
Tyson gật đầu. “Anh Briares muốn giúp. Anh ấy sẽ dạy các Cyclops những kỹ thuật mà họ đã lãng quên, cách làm những bộ giáp và vũ khí tối tân hơn.”
“Anh muốn gặp các Cyclops,” Briares đồng tình. “Anh không muốn phải sống cô đơn nữa.”
“Có thể ở dưới đó anh cũng sẽ vẫn cô đơn thì sao?” tôi nói với vẻ đăm chiêu, bởi tôi chưa bao giờ ở vương quốc của thần Poseidon. “Anh sẽ phải làm việc bận rộn đấy.”
Mặt Briares chuyển sang sắc thái vui vẻ. “Bận là tốt mà! Anh chỉ ước Tyson có thể đi cùng.”
Tyson đỏ mặt. “Em phải ở đây với anh Percy, anh Briares ạ. Anh sẽ ổn thôi, anh Briares. Cảm ơn anh.”
Người Trăm Tay bắt tay tôi – khoảng một trăm lần. “Chúng ta sẽ còn gặp lại, Percy à. Chắc chắn như vậy!”Rồi anh ta cho Tyson một cái ôm của một con bạch tuộc khổng lồ, rồi sau đó Briares đi ra biển. Chúng tôi đứng trông theo cho đến khi cái đầu khổng lồ của anh ấy biến mất dưới những con sóng.
Tôi vỗ vai Tyson. “Em đã giúp anh ấy rất nhiều đấy.”
“Em chỉ nói chuyện thôi mà.”
“Em đã tin anh ấy. Nếu không có Briares, chúng ta sẽ không bao giờ hạ được Kampê.”
Tyson nhăn răng cười. “Anh ấy giỏi ném đá nhỉ!”
Tôi cũng phá lên cười. “Đúng vậy, tay ném đá cừ khôi! Đi thôi, chúng ta ăn tối nào.”
Tôi thấy thật thoải mái khi lại có được một bữa ăn tối bình thường như bao ngày ở trại. Tyson ngồi cùng tôi ở bàn dành cho nhà thần Poseidon. Cảnh hoàng hôn ở Long Island Sound thật đẹp. Mọi thứ không trở lại bình thường ngay lập tức, nhưng khi tôi tới chỗ lò than và trút một phần thức ăn của mình vào ngọn lửa như một chút lễ vật cho thần Poseidon, tôi cảm thấy thực sự biết ơn về rất nhiều điều. Tôi và các bạn vẫn còn sống. Trại đã được an toàn. Kronos cũng đã phải lui về, ít nhất là trong thời gian sắp tới.
Thứ duy nhất làm tôi bận lòng là Nico, cậu nhóc ngồi trong bóng tối ở một góc nhà ăn. Cậu ta được một chỗ ở nhà thần Hermes, và thậm chí được đề nghị ngồi mâm trên với bác Chiron, nhưng cậu ta từ chối.
Sau bữa tối, các trại viên cùng tới nhà hát vòng tròn, nơi các trại viên nhà thần Apollo hứa sẽ biểu diễn một màn ca nhạc tuyệt vời, nhưng Nico không tham gia mà đi thẳng vào rừng. Tôi quyết định đi theo cậu ta.
Khi băng qua bóng râm của những thân cây tôi mới nhận ra trời đã tối thế nào. Tôi chưa bao giờ thấy sợ hãi khi ở trong rừng, mặc dù biết rằng ở đó có bao nhiêu là quái vật. Tôi vẫn nghĩ về trận chiến ngay hôm qua và tự hỏi liệu tôi có thể đi bộ thong dong trong rừng mà không nhớ đến cuộc chiến khốc liệt vừa rồi.
Tôi không nhìn thấy Nico, nhưng sau vài phút đi bộ, tôi thấy một đốm sáng ở phía trước. Ban đầu tôi nghĩ đó là Nico đang cầm đuốc. Nhưng khi đến gần, tôi nhận ra đốm sáng đó là một con ma. Bóng ma của Bianca di Angelo đứng ở khoảng rừng trống và mỉm cười với cậu em trai. Cô ấy nói điều gì đó và chạm tay vào mặt Nico. Rồi sau đó hình ảnh cô ấy mờ dần.
Nico quay lại và nhìn thấy tôi, nhưng cậu ta không nổi
“Đang nói lời tạm biệt,” cậu nhóc nói với giọng khàn khàn.
“Em không ăn tối à?” tôi nói. “Em có thể ngồi với anh mà.”
“Nico, em không thể bỏ bữa mãi như vậy được. Nếu em không muốn ở nhà thần Hermes, có thể họ sẽ có ngoại lệ và cho em ở trong Nhà Lớn. Ở đó có nhiều phòng lắm.”
“Em sẽ không ở lại đâu, Percy ạ.”
“Nhưng... em không thể đi được. Ở ngoài kia quá nguy hiểm cho một á thần đơn độc. Em cần phải được rèn luyện.”
“Em có thể tập luyện với người chết,” Nico nói dứt khoát. “Trại này không dành cho em. Đó là lý do tại sao ở đây không có nhà dành cho thần Hades, anh Percy ạ. Ông ấy không được chào đón, cũng như khi ông ấy ở trên đỉnh Olympus vậy. Em không thuộc về nơi này. Em phải đi thôi.”
Tôi muốn tranh luận, nhưng một phần trong tôi hiểu rằng cậu ta nói đúng. Tôi không muốn thế, nhưng Nico sẽ phải tìm ra con đường của chính mình – con đường đen tối. Tôi vẫn còn nhớ khi ở trong động của thần Pan, vị chúa tể của tự nhiên đã kể tên chúng tôi từng người một... trừ Nico.
“Khi nào em đi?” Tôi hỏi.
“Ngay bây giờ. Em còn có một tấn câu hỏi chờ được trả lời. Ví dụ mẹ em là ai? Ai trả tiền cho Bianca và em đi học? Ai là vị luật sư đưa bọn em ra khỏi Khách sạn Hoa Sen? Em chẳng biết gì về quá khứ của mình. Và em phải tìm hiểu nó.”
“Có lý đấy,” tôi đồng ý. “Nhưng hy vọng rằng chúng ta sẽ không trở thành kẻ thù.”
Cậu ta nhìn xuống đất. “Em xin lỗi. Em đúng là đứa trẻ hỗn xược. Đáng lẽ em phải nghe anh về chuyện của Bianca.”
“Nhân tiện...” tôi rút từ trong túi ra một thứ. “Tyson tìm thấy thứ này khi bọn anh đang dọn dẹp nhà. Anh nghĩ có thể em cần nó.” Tôi lôi ra một bức tượng bằng chì nhỏ – hình của thần Hades – bức tượng Ma thuật nhỏ mà Nico đã bỏ lại khi rời trại vào mùa đông năm ngoái.
Nico ngần ngại. “Em không chơi trò đó nữa rồi. Trò đó là cho trẻ con.”
“Nó có bốn nghìn điểm tấn công đấy,” tôi dỗ dành.
“Năm nghìn,” Nico chữa lại. “Nhưng đó là khi đối thủ tấn công trước
Tôi mỉm cười. “Vậy thì thỉnh thoảng làm trẻ con cũng chẳng sao mà.” Tôi ném cho cậu ta bức tượng.
Nico tần ngần vài giây nhìn bức tượng trong tay, rồi sau đó nhét nó vào túi. “Cảm ơn.”
Tôi đưa tay ra. Nico ngần ngại bắt tay tôi. Tay cậu bé lạnh như băng vậy.
“Em còn phải điều tra nhiều thứ lắm,” cậu bé nói. “Một vài điều trong số chúng... Ừm, nếu có tin gì hay em sẽ báo cho anh ngay.”
Tôi không hiểu rõ ý cậu ta, nhưng vẫn gật đầu. “Giữ liên lạc nhé, Nico.”
Cậu bé quay đầu và đi thẳng vào rừng. Những cái bóng dường như ngả về đằng trước khi cậu bé bước đi, như thể đang thu hút sự chú ý của cậu.
Một giọng nói ở ngay đằng sau tôi cất lên, “Vậy là một cậu bé vô cùng rắc rối đã bỏ đi.”
Tôi quay lại và thấy thần Dionysus đang đứng đó, vẫn trong bộ lễ phục đen.
“Đi dạo với ta,” ông ấy nói.
“Đi đâu?” Tôi hỏi đầy ngờ vực.
“Đến chỗ lửa trại thôi mà,” vị thần trả lời. “Ta bắt đầu cảm thấy khá hơn, nên ta sẽ nói chuyện với cậu một chút. Cậu luôn cố chọc tức ta.”
“Vâng, cảm ơn.”
Chúng tôi đi bộ xuyên rừng trong im lặng. Tôi để ý thấy thần Dionysus đang bước đi trên không khí, đôi giày đen bóng của ông cách mặt đất vài xăng ti mét. Có lẽ ông không muốn làm bẩn chúng.
“Chúng ta đã có quá nhiều kẻ phản bội,” ông nói. “Mọi thứ trở nên bất lợi cho đỉnh Olympus. Nhưng chính cậu và Annabeth đã cứu lấy trại này. Ta phải cảm ơn hai người vì điều đó.”
“Đó là nỗ lực của cả nhóm mà.”
Ông nhún vai. “Nhưng những gì hai người làm rất đáng khâm phục. Cậu biết đấy – chúng ta không mất mát hoàn toàn mà.”
Khi chúng tôi tới hội trường, thần Dionysus chỉ tay về phía đống lửa. Ở đó, Clarisse đang ngồi vai kề vai nghe một gã Tây Ban Nha to lớn, người đang kể chuyện cười cho cô ta. Đó là Chris Rodriguez, một á thần bị hóa điên sau khi lạc trong Mê Cung.
T quay sang thần Dionysus. “Ngài đã chữa trị cho cậu ta?”
“Chữa bệnh điên là chuyên môn của ta mà. Thực ra cũng khá đơn giản.”
“Nhưng... ngài đã vừa làm một điều tốt. Tại sao?”
Ông ấy nhướn một bên mày. “Ta là người tốt mà! Chỉ là ta ít khi thể hiện thôi, Perry Johansson. Cậu không thấy sao?”
“Vâng...”
“Có lẽ ta thấy đau lòng vì cái chết của con trai ta. Có thể ta nghĩ cậu bé Chris đó xứng đáng được một cơ hội nữa. Và dù sao thì nó cũng giúp Clarisse phấn chấn hơn.”
“Sao ngài lại nói với tôi điều này?”
Vị thần rượu trả lời. “Ồ, ta cũng chẳng biết. Nhưng cậu bé ạ, hãy nhớ rằng một hành động tử tế đôi khi có sức mạnh như một thanh kiếm. Khi còn là một người bình thường, ta chưa bao giờ là một nhà thơ, một vận động viên hay một chiến binh vĩ đại. Ta chỉ làm rượu. Mọi người trong làng đều cười ta. Họ nói ta sẽ chẳng làm được gì nên hồn. Nhưng giờ hãy nhìn ta xem. Thỉnh thoảng những thứ cực nhỏ cũng có thể trở nên to lớn đấy.”
Ông ấy để tôi lại một mình suy nghĩ về những điều đó. Và tôi đã phải mỉm cười khi thấy Clarisse và Chris cùng nhau hát một bài ngớ ngẩn quanh lửa trại, nắm chặt tay nhau trong bóng tối vì nghĩ chẳng ai nhìn thấy điều đó.
Đêm đó là lần đầu tiên tôi thực sự chứng kiến những tấm vải liệm được dùng trên thi thể người như thế nào, và đó là điều không bao giờ tôi muốn trông thấy lần thứ hai.
Trong số những người chết, Lee Fletcher ở nhà thần Apollo bị đánh gục bởi cây côn của một gã khổng lồ. Cậu ấy được cuộn trong vải liệm màu vàng và không có hoa văn trang trí. Con trai của thần Dionysus, người đã gục ngã khi chiến đấu với một á thần được bọc trong một tấm vải liệm màu tím sẫm được thêu những thân cây nho. Tên cậu ấy là Castor. Tôi thấy xấu hổ bởi ba năm ở chung trại với nhau mà tôi còn không thèm nhớ tên cậu ấy. Cậu ấy mười bảy tuổi. Người anh em sinh đôi của Castor, Pollux, đã cố nói một vài lời, nhưng cổ họng cậu ta nghẹn lại nên chỉ cầm đuốc đứng một bên. Cậu ta châm lửa giàn thiêu giữa đấu trường, và chỉ trong vài giây, đống vải liệm đã chìm trong lửa, làm khói và tia lửa bay lên tới tận các vì sao.
Chúng tôi dành hết cả ngày hôm sau chữa trị cho những người bị thương, tức là gần như tất cả mọi người. Các thần rừng và các nữ thần cây cũng làm việc vất vả để khôi phục lại khu rừng.
Vào buổi trưa, Hội đồng Trưởng Lão Cloven tổ chức một cuộc họp khẩn cấp trong bụi cây thánh. Ba vị thần rừng già ở đó với bác Chiron. Bác ấy đang ngồi trên chiếc xe lăn. Một chân ngựa bị gãy của bác ấy vẫn đang được chữa trị, vậy nên chắc bác ấy sẽ dính với cái ghế thêm vài tháng nữa, cho đến khi cái chân đủ khỏe để nâng đỡ trọng lượng của bác ấy. Trong bụi cây thánh chật cứng với các thần rừng, nữ thần cây và các nữ thủy thần từ dưới nước ngoi lên – có hàng trăm nữ thần như vậy, họ nóng lòng muốn nghe xem chuyện gì sẽ diễn ra. Juniper, Annabeth và tôi đang đứng ngay bên cạnh Grover.
Silenos muốn tống Grover đi đày ngay lập tức, nhưng bác Chiron đã thuyết phục ông ta ít nhất thì cũng cần nghe chứng cứ. Sau đó chúng tôi kể cho mọi người chuyện xảy ra trong hang động tinh thể và những gì thần Pan đã nói. Sau đó một số nhân chứng của trận đánh mô tả những âm thanh kỳ lạ mà Grover đã tạo ra, thứ âm thanh đã đẩy quân đội của Titan trở lại bên trong đường hầm.
“Đó là sự hoảng sợ,” Juniper nhấn mạnh. “Grover đã triệu tập sức mạnh của thần tự nhiên.”
“Hoảng sợ?” tôi hỏi.
“Percy,” bác Chiron giải thích, “trong cuộc chiến đầu tiên giữa các vị thần các Titan, thần Pan đã hét lên một tiếng kinh hoàng và đẩy lui đội quân của địch. Đó – đó là sức mạnh lớn nhất của ông ấy – một làn sóng sợ hãi khổng lồ đã giúp các vị thần chiến thắng trong trận đó. Từ hoảng sợ được đặt theo tên của thần Pan, như cháu thấy đấy. Và Grover đã sử dụng sức mạnh đó, triệu hồi nó từ bên trong cậu ấy.”
“Phi lý!” Silenos gầm lên. “Báng bổ! Có thể thần tự nhiên lúc đó đã thương tình giúp đỡ chúng ta. Hoặc có thể thứ nhạc của Grover kinh khủng quá đến nỗi quân thù cũng phải bỏ chạy!”
“Không phải đâu, thưa ngài,” Grover nói. Nếu tôi bị xúc phạm đến vậy thì chắc chắn tôi chẳng thể bình tĩnh như cậu ấy. “Ông ấy đã để linh hồn của mình xâm nhập vào tất cả chúng ta. Chúng ta phải hành động. Mỗi người trong chúng ta phải hành động để cải tạo lại thiên nhiên, để bảo vệ những gì còn sót lại. Chúng ta phải loan truyền điều đó. Thần Pan đã chết rồi. Chẳng còn ai ngoài chúng ta đâu.”
“Sau hai nghìn năm tìm kiếm, đây là những gì cậu muốn chúng ta tin sao?” Silenus giận dữ. “Không bao giờ! Chúng ta phải tiếp tục tìm kiếm. Tống kẻ phản bội đi đày đi!”
Một số thần rừng già lẩm bẩm tán thành.
“Chúng ta sẽ bỏ phiếu!” Silenos yêu cầu. “Ai sẽ tin gã thần rừng trẻ tuổi lố bịch này nhỉ?”
“Tôi tin,” một giọng nói quen thuộc vang lên.
Mọi người quay lại nhìn. Thần Dionysus đang sải bước tiến vào. Ông ấy mặc một bộ com lê đen trang trọng, đến nỗi tôi suýt nữa thì không nhận ra ông ấy, một chiếc cà vạt tía sẫm, áo sơ mi tím nhạt và mái tóc đen quăn được chải chuốt rất cẩn thận. Mắt ông vẫn đỏ ngầu như thường lệ, khuôn mặt béo tròn mang đầy vẻ xúc động, nhưng có vẻ đó là do nỗi đau buồn chứ không phải do say rượu.
Tất cả các thần rừng đều đứng lên kính cẩn cúi chào khi ông ấy đi tới. Thần Dionysus vẫy tay, và một cái ghế mới mọc lên từ mặt đất ngay bên cạnh Silenus – một cái ngai làm bằng các thân dây nho.
Thần Dionysus ngồi xuống và bắt chéo chân. Ông ấy búng tay và một thần rừng hối hả bước tới với một đĩa pho mát, bánh quy giòn và một lon Coca dành cho người ăn kiêng.
Vị thần rượu nho nhìn đám đông tụ tập. “Nhớ ta chứ?”
Các thần rừng tranh nhau gật đầu và cúi chào. “Ôi, có chứ! Rất nhiều thưa ngài!”
“Ừ, ta thì lại chẳng nhớ nơi này!” thần Dionysus đáp lại. “Ta đem đến cho các bạn tin xấu đây. Tin dữ. Các tiểu thần đang thay đổi. Morpheus đã chuyển qua phe địch. Hecate, Janus và Nemesis cũng vậy. Thần Zeus còn biết nhiều người như vậy nữa kia.”
Sấm rền vang phía xa.
“Quên điều đó đi,” thần Dionysus nói. “Ngay cả thần Zeus cũng không biết. Giờ ta muốn nghe câu chuyện của Grover. Kể lại từ đầu nào.”
“Nhưng thưa ngài,” Silenus phản đối. “Câu chuyện đó thật nhảm nhí!”
Đôi mắt thần Dionysus bừng lên ngọn lửa màu tía. “Ta vừa biết tin con trai ta, Castor đã chết, Silenus ạ. Tâm trạng ta đang không tốt. Ngươi mua vui cho ta có lẽ hay hơn đấy.”
Silenus nuốt nước miếng và vẫy tay ra hiệu cho Grover kể lại câu chuyện một lần nữa.
Khi Grover kể xong câu chuyện, Ngài D gật đầu. “Đúng là thần Pan thường làm những việc như thế này. Grover nói đúng đấy. Cuộc tìm kiếm thật mệt mỏi. Các người cần nghĩ cho bản thân mình một chút.” Ông quay sang một thần rừng. “Đem cho ta vài quả nho đã bóc vỏ, nhanh nào!”
“Vâng thưa ngài!” thần rừng đó luống cuống chạy đi.
“Chúng ta phải tống kẻ phản bội đó đi đày!” Silenus khăng khăng.
“Ta nói Không,” thần Dionysus phản bác. “Đó là ý kiến của ta.”
“Ta cũng bầu là Không,” bác Chiron chen vào.
Silenus vẫn cứng đầu phản kháng. “Mọi người đều đồng ý cho hắn đi đày chứ?”
Ông ta và hai thần rừng già nữa giơ tay.
“Ba thắng hai,” Silenus nói.
“À đúng,” thần Dionysus nói. “Nhưng rất tiếc, một phiếu của thần được tính bằng hai phiếu. Và vì ta bỏ phiếu chống nên chúng ta quyết định như vậy nhé.”
Silenus đứng lên tức tối. “Thế này là vi phạm! Hội đồng không thể đi vào ngõ cụt như vậy được.”
“Vậy thì để nó giải tán đi!” Ngài D nói. “Ta không quan tâm.”
Silenus và thần rừng nữa miễn cưỡng cúi chào, rồi họ rời bụi cây. Khoảng hai mươi thần rừng khác đi cùng họ. Số còn lại đứng chung quanh và thì thầm đầy lo lắng.
“Đừng lo,” Grover nói với họ. “Chúng ta không cần một Hội Đồng để bảo chúng ta phải làm gì. Tự chúng ta cũng tìm ra được cơ mà.”
Rồi cậu ấy kể lại cho họ từng lời của thần Pan – rằng mọi người cần nỗ lực từng chút một để bảo vệ thiên nhiên như thế nào. Cậu ấy bắt đầu chia các thần rừng thành các nhóm – một số nhóm sẽ đến các công viên quốc gia, một số nhóm đi tìm những nơi nguyên sinh còn sót lại, và vài nhóm khác đi bảo vệ những công viên trong các thành phố lớn.
“Cuối cùng,” Annabeth nói với tôi, “Grover có vẻ trưởng thành hơn rồi đấy.”
Vào buổi chiều muộn của ngày hôm đó, tôi gặp Tyson đang nói chuyện với Briares bên bãi biển. Briares đang dùng khoảng năm mươi bàn tay để xây một lâu đài cát. Dường như anh ta không tập trung vào công việc đó, nhưng anh ta đã tạo được một tác phẩm rất ấn tượng: một tòa nhà ba tầng với những bức tường vững chắc, một cái hào bao quanh và một chiếc cầu kéo bắc qua.
Tyson đang vẽ một bản đồ trên cát.
“Rẽ trái ở rặng đá ngầm,” cậu ấy bảo Briares. “Đi thẳng xuống đến chỗ thuyền bị chìm, rồi khoảng một dặm về phía đông, rồi băng qua nghĩa địa của các nàng tiên cá, anh sẽ thấy có rất nhiều lửa cháy.”
“Em đang chỉ đường cho anh ta tới lò rèn à?” tôi hỏi.
Tyson gật đầu. “Anh Briares muốn giúp. Anh ấy sẽ dạy các Cyclops những kỹ thuật mà họ đã lãng quên, cách làm những bộ giáp và vũ khí tối tân hơn.”
“Anh muốn gặp các Cyclops,” Briares đồng tình. “Anh không muốn phải sống cô đơn nữa.”
“Có thể ở dưới đó anh cũng sẽ vẫn cô đơn thì sao?” tôi nói với vẻ đăm chiêu, bởi tôi chưa bao giờ ở vương quốc của thần Poseidon. “Anh sẽ phải làm việc bận rộn đấy.”
Mặt Briares chuyển sang sắc thái vui vẻ. “Bận là tốt mà! Anh chỉ ước Tyson có thể đi cùng.”
Tyson đỏ mặt. “Em phải ở đây với anh Percy, anh Briares ạ. Anh sẽ ổn thôi, anh Briares. Cảm ơn anh.”
Người Trăm Tay bắt tay tôi – khoảng một trăm lần. “Chúng ta sẽ còn gặp lại, Percy à. Chắc chắn như vậy!”Rồi anh ta cho Tyson một cái ôm của một con bạch tuộc khổng lồ, rồi sau đó Briares đi ra biển. Chúng tôi đứng trông theo cho đến khi cái đầu khổng lồ của anh ấy biến mất dưới những con sóng.
Tôi vỗ vai Tyson. “Em đã giúp anh ấy rất nhiều đấy.”
“Em chỉ nói chuyện thôi mà.”
“Em đã tin anh ấy. Nếu không có Briares, chúng ta sẽ không bao giờ hạ được Kampê.”
Tyson nhăn răng cười. “Anh ấy giỏi ném đá nhỉ!”
Tôi cũng phá lên cười. “Đúng vậy, tay ném đá cừ khôi! Đi thôi, chúng ta ăn tối nào.”
Tôi thấy thật thoải mái khi lại có được một bữa ăn tối bình thường như bao ngày ở trại. Tyson ngồi cùng tôi ở bàn dành cho nhà thần Poseidon. Cảnh hoàng hôn ở Long Island Sound thật đẹp. Mọi thứ không trở lại bình thường ngay lập tức, nhưng khi tôi tới chỗ lò than và trút một phần thức ăn của mình vào ngọn lửa như một chút lễ vật cho thần Poseidon, tôi cảm thấy thực sự biết ơn về rất nhiều điều. Tôi và các bạn vẫn còn sống. Trại đã được an toàn. Kronos cũng đã phải lui về, ít nhất là trong thời gian sắp tới.
Thứ duy nhất làm tôi bận lòng là Nico, cậu nhóc ngồi trong bóng tối ở một góc nhà ăn. Cậu ta được một chỗ ở nhà thần Hermes, và thậm chí được đề nghị ngồi mâm trên với bác Chiron, nhưng cậu ta từ chối.
Sau bữa tối, các trại viên cùng tới nhà hát vòng tròn, nơi các trại viên nhà thần Apollo hứa sẽ biểu diễn một màn ca nhạc tuyệt vời, nhưng Nico không tham gia mà đi thẳng vào rừng. Tôi quyết định đi theo cậu ta.
Khi băng qua bóng râm của những thân cây tôi mới nhận ra trời đã tối thế nào. Tôi chưa bao giờ thấy sợ hãi khi ở trong rừng, mặc dù biết rằng ở đó có bao nhiêu là quái vật. Tôi vẫn nghĩ về trận chiến ngay hôm qua và tự hỏi liệu tôi có thể đi bộ thong dong trong rừng mà không nhớ đến cuộc chiến khốc liệt vừa rồi.
Tôi không nhìn thấy Nico, nhưng sau vài phút đi bộ, tôi thấy một đốm sáng ở phía trước. Ban đầu tôi nghĩ đó là Nico đang cầm đuốc. Nhưng khi đến gần, tôi nhận ra đốm sáng đó là một con ma. Bóng ma của Bianca di Angelo đứng ở khoảng rừng trống và mỉm cười với cậu em trai. Cô ấy nói điều gì đó và chạm tay vào mặt Nico. Rồi sau đó hình ảnh cô ấy mờ dần.
Nico quay lại và nhìn thấy tôi, nhưng cậu ta không nổi
“Đang nói lời tạm biệt,” cậu nhóc nói với giọng khàn khàn.
“Em không ăn tối à?” tôi nói. “Em có thể ngồi với anh mà.”
“Nico, em không thể bỏ bữa mãi như vậy được. Nếu em không muốn ở nhà thần Hermes, có thể họ sẽ có ngoại lệ và cho em ở trong Nhà Lớn. Ở đó có nhiều phòng lắm.”
“Em sẽ không ở lại đâu, Percy ạ.”
“Nhưng... em không thể đi được. Ở ngoài kia quá nguy hiểm cho một á thần đơn độc. Em cần phải được rèn luyện.”
“Em có thể tập luyện với người chết,” Nico nói dứt khoát. “Trại này không dành cho em. Đó là lý do tại sao ở đây không có nhà dành cho thần Hades, anh Percy ạ. Ông ấy không được chào đón, cũng như khi ông ấy ở trên đỉnh Olympus vậy. Em không thuộc về nơi này. Em phải đi thôi.”
Tôi muốn tranh luận, nhưng một phần trong tôi hiểu rằng cậu ta nói đúng. Tôi không muốn thế, nhưng Nico sẽ phải tìm ra con đường của chính mình – con đường đen tối. Tôi vẫn còn nhớ khi ở trong động của thần Pan, vị chúa tể của tự nhiên đã kể tên chúng tôi từng người một... trừ Nico.
“Khi nào em đi?” Tôi hỏi.
“Ngay bây giờ. Em còn có một tấn câu hỏi chờ được trả lời. Ví dụ mẹ em là ai? Ai trả tiền cho Bianca và em đi học? Ai là vị luật sư đưa bọn em ra khỏi Khách sạn Hoa Sen? Em chẳng biết gì về quá khứ của mình. Và em phải tìm hiểu nó.”
“Có lý đấy,” tôi đồng ý. “Nhưng hy vọng rằng chúng ta sẽ không trở thành kẻ thù.”
Cậu ta nhìn xuống đất. “Em xin lỗi. Em đúng là đứa trẻ hỗn xược. Đáng lẽ em phải nghe anh về chuyện của Bianca.”
“Nhân tiện...” tôi rút từ trong túi ra một thứ. “Tyson tìm thấy thứ này khi bọn anh đang dọn dẹp nhà. Anh nghĩ có thể em cần nó.” Tôi lôi ra một bức tượng bằng chì nhỏ – hình của thần Hades – bức tượng Ma thuật nhỏ mà Nico đã bỏ lại khi rời trại vào mùa đông năm ngoái.
Nico ngần ngại. “Em không chơi trò đó nữa rồi. Trò đó là cho trẻ con.”
“Nó có bốn nghìn điểm tấn công đấy,” tôi dỗ dành.
“Năm nghìn,” Nico chữa lại. “Nhưng đó là khi đối thủ tấn công trước
Tôi mỉm cười. “Vậy thì thỉnh thoảng làm trẻ con cũng chẳng sao mà.” Tôi ném cho cậu ta bức tượng.
Nico tần ngần vài giây nhìn bức tượng trong tay, rồi sau đó nhét nó vào túi. “Cảm ơn.”
Tôi đưa tay ra. Nico ngần ngại bắt tay tôi. Tay cậu bé lạnh như băng vậy.
“Em còn phải điều tra nhiều thứ lắm,” cậu bé nói. “Một vài điều trong số chúng... Ừm, nếu có tin gì hay em sẽ báo cho anh ngay.”
Tôi không hiểu rõ ý cậu ta, nhưng vẫn gật đầu. “Giữ liên lạc nhé, Nico.”
Cậu bé quay đầu và đi thẳng vào rừng. Những cái bóng dường như ngả về đằng trước khi cậu bé bước đi, như thể đang thu hút sự chú ý của cậu.
Một giọng nói ở ngay đằng sau tôi cất lên, “Vậy là một cậu bé vô cùng rắc rối đã bỏ đi.”
Tôi quay lại và thấy thần Dionysus đang đứng đó, vẫn trong bộ lễ phục đen.
“Đi dạo với ta,” ông ấy nói.
“Đi đâu?” Tôi hỏi đầy ngờ vực.
“Đến chỗ lửa trại thôi mà,” vị thần trả lời. “Ta bắt đầu cảm thấy khá hơn, nên ta sẽ nói chuyện với cậu một chút. Cậu luôn cố chọc tức ta.”
“Vâng, cảm ơn.”
Chúng tôi đi bộ xuyên rừng trong im lặng. Tôi để ý thấy thần Dionysus đang bước đi trên không khí, đôi giày đen bóng của ông cách mặt đất vài xăng ti mét. Có lẽ ông không muốn làm bẩn chúng.
“Chúng ta đã có quá nhiều kẻ phản bội,” ông nói. “Mọi thứ trở nên bất lợi cho đỉnh Olympus. Nhưng chính cậu và Annabeth đã cứu lấy trại này. Ta phải cảm ơn hai người vì điều đó.”
“Đó là nỗ lực của cả nhóm mà.”
Ông nhún vai. “Nhưng những gì hai người làm rất đáng khâm phục. Cậu biết đấy – chúng ta không mất mát hoàn toàn mà.”
Khi chúng tôi tới hội trường, thần Dionysus chỉ tay về phía đống lửa. Ở đó, Clarisse đang ngồi vai kề vai nghe một gã Tây Ban Nha to lớn, người đang kể chuyện cười cho cô ta. Đó là Chris Rodriguez, một á thần bị hóa điên sau khi lạc trong Mê Cung.
T quay sang thần Dionysus. “Ngài đã chữa trị cho cậu ta?”
“Chữa bệnh điên là chuyên môn của ta mà. Thực ra cũng khá đơn giản.”
“Nhưng... ngài đã vừa làm một điều tốt. Tại sao?”
Ông ấy nhướn một bên mày. “Ta là người tốt mà! Chỉ là ta ít khi thể hiện thôi, Perry Johansson. Cậu không thấy sao?”
“Vâng...”
“Có lẽ ta thấy đau lòng vì cái chết của con trai ta. Có thể ta nghĩ cậu bé Chris đó xứng đáng được một cơ hội nữa. Và dù sao thì nó cũng giúp Clarisse phấn chấn hơn.”
“Sao ngài lại nói với tôi điều này?”
Vị thần rượu trả lời. “Ồ, ta cũng chẳng biết. Nhưng cậu bé ạ, hãy nhớ rằng một hành động tử tế đôi khi có sức mạnh như một thanh kiếm. Khi còn là một người bình thường, ta chưa bao giờ là một nhà thơ, một vận động viên hay một chiến binh vĩ đại. Ta chỉ làm rượu. Mọi người trong làng đều cười ta. Họ nói ta sẽ chẳng làm được gì nên hồn. Nhưng giờ hãy nhìn ta xem. Thỉnh thoảng những thứ cực nhỏ cũng có thể trở nên to lớn đấy.”
Ông ấy để tôi lại một mình suy nghĩ về những điều đó. Và tôi đã phải mỉm cười khi thấy Clarisse và Chris cùng nhau hát một bài ngớ ngẩn quanh lửa trại, nắm chặt tay nhau trong bóng tối vì nghĩ chẳng ai nhìn thấy điều đó.
Tác giả :
Rick Riordan