Percy Jackson Tập 2: Biển Quái Vật
Chương 19: Cuộc đua ngựa kết thúc bằng một vụ nổ
Chúng tôi về đến Long Island chỉ ngay sau Clarisse, nhờ vào sức mạnh di chuyển của các nhân mã. Tôi cưỡi trên lưng bác Chiron, nhưng chúng tôi không nói chuyện nhiều, đặc biệt không nói gì về Kronos. Tôi biết rất khó cho bác Chiron để nói với tôi. Tôi không muốn ép bác bằng nhiều câu hỏi. Ý tôi là, tôi từng gặp nhiều bậc phụ huynh đáng xấu hổ, nhưng Kronos – vị thần Titan xấu xa, kẻ muốn phá hủy cả nền Văn Minh Phương Tây thì sao? Đây không phải là loại ông bố mà bạn có thể mời tới trường trong ngày hội hướng nghiệp.
Khi chúng tôi về trại, các nhân mã nóng lòng muốn gặp thần Dionysus. Họ nghe được rằng ông ấy đã chuẩn bị một buổi tiệc đầy cuồng nhiệt nhưng họ đã thất vọng. Thần rượu không có hứng để tiệc tùng khi toàn bộ trại viên đều tập trung trên đỉnh Đồi Con Lai.
Trại đã phải trải qua hai tuần khó khăn. Khu nhà chứa các tác phẩm nghệ thuật và đồ trang trí đã bị thiêu rụi bởi sự tấn công của Draco Aionius (thứ mà gần như tôi có thể đoán bằng tiếng Latinh là "một con thằn lằn cực lớn, thở và thổi ra những thứ rác rưởi.) Các phòng trong khu Nhà Lớn tràn ngập người bị thương. Những đứa trẻ trong khu nhà thần Apollo – những người chữa bệnh tốt nhất – đang làm việc ngoài giờ để thực hiện sơ cứu. Tất cả mọi người trông kiệt sức và đầy thương tích khi chúng tôi vây quanh cái cây Thalia.
Khi Clarisse phủ Bộ Lông Cừu Vàng lên cành cây thấp nhất, ánh trăng như sáng hơn và chuyển từ màu xám sang màu bạc. Một luồng gió mát xuyên các cành lá kêu xào xạc, lay động mặt cỏ khẽ, sau đó lan tỏa ra khắp thung lũng. Tất cả mọi thứ trở nên sắc nét hơn – ánh sáng rực rỡ của những con đom đóm trong các khu rừng, mùi thơm của cánh đồng dâu tây, tiếng sóng biển.
Dần dần, những chiếc lá kim trên cây thông bắt đầu chuyển từ màu nâu sang màu xanh lá cây.
Tất cả mọi người đều vui mừng hớn hở. Sự chuyển biến diễn ra một cách chậm chạp nhưng không thể nghi ngờ được gì nữa – phép thuật của Bộ Lông Cừu Vàng đang thấm vào cây, phủ lên nó một sức mạnh mới và cũng giải luôn chất độc bên trong.
Bác Chiron yêu cầu một đội bảy người canh gác hai mươi tư giờ trên đỉnh đồi, ít nhất cho tới khi bác có thể tìm được một quái vật phù hợp để bảo vệ nó. Bác ấy bảo rằng bác sẽ cho đăng ngay quảng cáo trên tờ Olympus Weekly.
Trong lúc đó, Clarisse được công kênh trên vai những người bạn cùng khu nhà xuống tới khu sân khấu ngoài trời – nơi cô được vinh danh bằng một vòng hoa nguyệt quế và vô số những lời tán tụng quanh lửa trại.
Không ai nhìn tôi và Annabeth lấy một giây. Nó như thể chúng tôi chưa từng rời khỏi trại. Tôi cho rằng đây là lời cảm ơn tốt nhất của bất kỳ người nào dành cho chúng tôi. Vì nếu họ thừa nhận chúng tôi rời trại để tham gia cuộc tìm kiếm, họ phải trục xuất chúng tôi đi. Và thực sự là tôi không muốn có thêm bất kì sự chú ý nào khác nữa. Thật tuyệt khi chỉ là một thành viên bình thường của trại.
Sau tôi đó, khi chúng tôi đang nướng kẹo dẻo và nghe anh em nhà Stoll kể chuyện ma về một ông vua xấu xa – kẻ bị ăn thịt còn sống sót bởi cái bánh bao buổi sáng ma quái, thì Clarisse xô tôi từ phía sau và thì thầm vào tai tôi, “Đừng nghĩ chỉ vì cậu cư xử thật tuyệt trong lần này, Jackson, mà cậu thoát khỏi nhà thần Ares nhé. Tớ vẫn đang chờ cơ hội để nghiền nát cậu.”
Tôi nở nụ cười miễn cưỡng với cô ta.
“Sao nào?” cô ta hỏi gặng.
“Không có gì,” tôi dáp. “Chỉ là thật tốt khi trở về nhà.”
Sáng hôm sau, khi bầy nhân mã quay về lại Florida, bác Chiron đã ra một thông báo đầy kinh ngạc rằng: Cuộc đua ngựa sẽ được tiến hành đúng theo kế hoạch. Tất cả chúng tôi cho rằng giờ đây mọi thứ đã trở thành lịch sử khi Tantalus đi rồi, nhưng hoàn thành chúng có cảm giác như làm một việc gì đúng đắn, đặc biệt khi giờ đây bác Chiron đã quay lại và trại đã an toàn.
Tyson không còn hớn hở với ý tưởng quay lại làm cỗ xe ngựa đua nữa kể từ lần thử nghiệm đầu tiên của chúng tôi. Nhưng cậu ấy rất vui vẻ để tôi thành lập đội cùng Annabeth. Tôi sẽ lái xe, Annabeth sẽ phòng ngự và Tyson sẽ làm hoa tiêu. Khi tôi làm việc với lũ ngựa, Tyson sẽ hoàn thiện cỗ xe của Athena và thêm vào một mớ những thay đổi đặc biệt.
Chúng tôi mất hai ngày tiếp theo để luyện tập như điên. Annabeth và tôi nhất trí rằng nếu chúng tôi thắng, giải thưởng không cần làm việc trong suốt một tháng sẽ được cưa đôi cho hai khu nhà. Vì khi nhà Athena có nhiều trại viên, họ sẽ có được nhiều thời gian hơn, và tôi hoàn toàn đồng ý với điều đó. Tôi không quan tâm tới giải thưởng. Tôi chỉ muốn chiến thắng.
Vào đêm trước cuộc đua, tôi ở lại rất lâu bên khu chuồng ngựa. Tôi đang trò chuyện với lũ ngựa, chải lông cho nó lần cuối, thì ai đó đứng ngay sau tôi cất tiếng, “Ngựa, những con vật tốt bụng. Ước gì ta nghĩ được như chúng.”
Một người đàn ông trung niên trong trang phục nhân viên bưu tá đang đứng tựa vào cửa chuồng. Ông ấy trông gầy gò với mái tóc đen loăn xoăn dưới chiếc mũ bấc màu trắng, khoác trên vai một cái túi đưa thư.
“Thần Hermes?” tôi lắp bắp.
“Chào Percy. Không thể nhận ra ta khi không có quần áo chạy bộ phải không?”
“Dạ...” Tôi không chắc tôi có ý định quỳ xuống hay mua ít tem thư từ ông ấy hay không. Rồi trong đầu tôi lóe lên ý nghĩ tại sao ông ấy lại ở đây. “Ồ, thần Hermes, xin hãy nghe, về việc Luke thì...”
Thần Hermes cau lông mày.
“Ừm, chúng cháu có gặp anh ấy, đúng vậy,” tôi kể, “nhưng...”
“Cháu không thể nói thẳng về nó sao?”
“Dạ, chúng cháu đã cố giết lẫn nhau trong cuộc đọ kiếm chết người.”
“Ta biết. Cháu đã cố dùng cách tiếp cận khôn khéo.”
“Cháu thực sự xin lỗi. Ý cháu là, thần đã cho chúng cháu những món quà có phép thuật đó và tất cả mọi thứ. Và cháu biết thần muốn Luke trở về. Nhưng... anh ấy đã trở thành người xấu. Cực kì xấu. Anh ấy nói anh ấy cảm thấy thần từ bỏ anh ấy.”
Tôi chờ đợi thần Hermes nổi cơn thịnh nộ. Tôi đoán rằng thần sẽ biến tôi thành một chú chuột hamster hoặc thứ gì đó, và tôi không muốn mất thêm tí thời gian nào trở thành loài gặm nhấm.
Nhưng thay vào đó, ông chỉ thở dài. “Cháu có bao giờ cảm thấy cha cháu ruồng bỏ mình chưa, Percy ?”
Ôi, trời ơi.
Tôi muốn nói rằng, “Chỉ vài trăm lần một ngày thôi.” Tôi đã không hề trò chuyện với thần Poseidon kể từ mùa hè năm ngoái. Thậm chí tôi chưa từng được tới cung điện dưới đại dương của người. Và rồi toàn bộ mọi chuyện với Tyson – không lời cảnh báo, không lời giải thích. Chỉ bùm một cái, tôi có một người anh em. Bạn có nghĩ rằng tôi đáng ra cũng phải có được một cú điện thoại hoặc thứ gì đó giải thích cho việc ấy không.
Càng nghĩ về điều này, tôi càng bực mình. Tôi nhận ra rằng tôi muốn được thừa nhận trong cuộc tìm kiếm mà tôi đã hoàn tất, nhưng không phải từ phía các trại viên khác. Tôi muốn cha tôi nói gì đó, chú ý tới tôi.
Thần Hermes chỉnh lại cái túi đưa thư trên vai. “Percy này, phần khó khăn nhất trong việc là một vị thần là cháu là phải thường xuyên hành động gián tiếp, đặc biệt khi có điều gì đó xảy ra với con cái mình. Nếu chúng ta can thiệp mọi lúc khi con cái có vấn đề... thì, điều này chỉ tạo thêm nhiều vấn đề hơn và nhiều sự oán hận hơn. Nhưng ta tin rằng nếu cháu suy nghĩ một chút, cháu sẽ nhận thấy rằng thần Poseidon có chú ý tới cháu. Thần đã đáp lại những lời nguyện cầu của cháu. Ta chỉ hy vọng rằng một ngày nào đó, Luke có thể nhận ra điều tương tự về ta. Dù cháu cảm thấy cháu thành công hay không trong việc Luke, thì cháu đã nhắc nhở Luke nhớ tới việc nó là ai. Cháu đã nói với nó.”
“Cháu đã cố giết anh ấy.”
Thần Hermes nhún vai. “Gia đình thật là một đống lộn xộn. Những gia đình bất tử lại càng mãi mãi rối tinh. Đôi khi thứ mà chúng ta cố gắng làm nhất là nhắc nhở lẫn nhau rằng chúng ta có mối quan hệ với nhau, bất chấp hậu quả ra sao... và cố gắng giữ cho việc gây thương tích và chém giết nhau ở mức thấp nhất.”
Điều này nghe không giống như công thức cho một gia đình hoàn hảo. Rồi lại lần nữa, khi tôi nghĩ về cuộc tìm kiếm của tôi, tôi nhận ra rằng có lẽ thần Hermes đã đúng. Thần Poseidon đã gửi lũ cá ngựa tới giúp chúng tôi. Thần đã cho tôi sức mạnh đối với biển cả mà tôi chưa bao giờ biết tới trước đó. Và rồi cả Tyson nữa. Phải chăng thần Poseidon đưa chúng tôi quen biết nhau là có mục đích? Đã bao nhiêu lần Tyson cứu tôi trong mùa hè này?
Ở phía xa, tiếng tù và bằng xà cừ báo hiệu giờ giới nghiêm vang lên.
“Cháu nên đi ngủ đi,” thần Hermes nói. “Ta đã giúp cháu đủ rắc rối trong mùa hè này rồi. Ta thực sự chỉ tới để giao gói hàng này.”
“Giao hàng ư?”
“Ta là người đưa thư của các vị thần mà Percy.” Thần lôi ra một tập giáy chữ kí điện tử từ túi đưa thư của mình và đưa nó cho tôi, “Cháu kí vào đây.”
Tôi cầm lấy cây bút trâm trước khi nhận ra nó được bện bằng hai con rắn xanh bé tí. “Ối!” tôi đánh rơi cây bút.
Oái, Geogre kêu toáng lên.
Percy, cậu thật là, Martha rầy la. Cậu có muốn được thả phịch xuống mặt đất của chuồng ngựa như vậy không?
“Ồ, ừ, xin lỗi.” Tôi không thích chạm vào lũ rắn tí nào nhưng tôi vẫn phải nhặt tập giấy và cái bút lên. Martha và Geogre uốn éo dưới những ngón tay tôi, tạo dáng thành kiểu đuôi bút chì giống hệt cái mà giáo viên giáo dục đặc biệt của tôi dạy sử dụng khi tôi học lớp hai.
Cậu có mang cho tôi một con chuột không? Geogre thèm khát hỏi.
“Không...” tôi đáp. “Ừ, chúng tôi chẳng tìm thấy con nào.”
Thế còn chuột lang thì sao?
Geogre! Martha quở trách. Đừng có trêu chọc cậu bé như thế.
Tôi kí tên mình và đưa trả lại tập giấy cho thần Hermes.
Đổi lại, thần đưa cho tôi một phong bì màu xanh nước biển.
Ngón tay tôi run rẩy. Thậm chí trước khi mở nó ra, tôi có thể nói rằng nó được gửi đến từ chỗ cha tôi. Tôi có thể cảm nhận được sức mạnh của ông qua lớp giấy màu xanh lạnh lẽo này, cứ như thể phong bì này được gập nên từ một con sóng đại dương.
“Chúc cậu may mắn vào ngày mai nhé,” thần Hermes nói. “Cháu có những con ngựa tốt ở đây, nhưng đừng trách nếu ta cổ vũ cho khu nhà thần Hermes nhé.”
Và đừng có nản lòng khi đọc nó nhé, cậu bé thân yêu, Martha dặn dò. Ông ấy thực sự quan tâm đến cháu đấy.
“Ý cô là gì ạ?” tôi thắc mắc.
Mặc kệ cô ta đi, Geogre gạt đi. Và lần tới, hãy nhớ là lũ rắn làm việc vì tiền quà đấy nhé.
“Đủ rồi đấy hai đứa,” thần Hermes quát. “Tạm biệt, Percy. Ta phải đi ngay.”
Cặp cánh nhỏ màu trắng nhú lên từ chiếc mũ bấc của ông. Ông bắt đầu tỏa sáng và tôi đủ biết về các vị thần để tránh ánh mắt đi nơi khác trước khi thần để lộ hình dáng thần thánh thực sự của mình. Với một ánh sáng trắng lòa lóe lên, ông ấy đã biến mất và tôi lại đơn độc cũng lũ ngựa.
Tôi nhìn chằm chằm vào phong bì màu xanh nước biển trong tay. Địa chỉ được viết bằng kiểu chữ viết tay rõ ràng nhưng tao nhã mà tôi đã từng nhìn thấy một lần trước đây, trên một gói bưu phẩm mà thần Poseidon gửi cho tôi vào hè năm ngoái.
Percy Jackson
Nhờ Trại Con Lai chuyển hộ
3.141, Đường Trang Trại
Long Island, New York 11954
Một lá thư có thật từ cha tôi. Có thể ông sẽ khen tôi đã làm tốt khi lấy được Bộ Lông Cừu Vàng. Ông sẽ giải thích về Tyson, hoặc xin lỗi đã không sớm nói chuyện với tôi. Có quá nhiều thứ mà tôi muốn trong lá thư này.
Tôi bóc chiếc phong bì và mở tờ giấy bên trong.
Mấy từ thật đơn giản được viết chính giữa tờ giây:
Gắng hết sức mình.
Sáng hôm sau, tất cả mọi người tíu tít về cuộc đua ngựa, dẫu họ vẫn nhìn về phía bầu trời đầy lo lắng như thể họ cho rằng lũ chim Stymphalian đang tụ tập lại. Nhưng không có gì. Một ngày mùa hè tuyệt đẹp với bầu trời xanh và nhiều nắng vàng. Trại bắt đầu trở lại với vẻ như nó nên có: những bãi cỏ xanh mướt và tràn đầy nhựa sống; những đụn khói trắng le lói trong các tòa nhà Hy Lạp; những nữ thần cây chơi đùa vui vẻ trong các khu rừng.
Và tôi thật đáng thương. Tôi nằm thao thức suốt cả tối, nghĩ về lời cảnh báo của thần Poseidon.
Gắng hết sức mình.
Ý tôi là, ông ấy đã mất công viết thư cho tôi, thế tại sao ông lại chỉ viết có mấy chữ như vậy?
Cô rắn Martha từng báo trước với tôi là đừng thất vọng. Có lẽ thần Poseidon có lý do để trở nên mập mờ như vậy. Có lẽ cha tôi không biết chính xác rằng ông đang cảnh báo với tôi về việc gì, nhưng ông cảm nhận được có gì đó ghê gớm sắp xảy ra – một thứ gì đó có thể hoàn toàn làm tôi ngã quỵ trừ phi tôi có chuẩn bị trước. Điều này thật là khó nhưng tôi cố gắng chuyển suy nghĩ của mình về với cuộc đua.
Khi Annabeth và tôi đánh xe vào trường đua, tôi không thể không tán thưởng công trình mà Tyson hoàn tất trên cỗ xe ngựa của nhà thần Athena. Cỗ xe sáng lấp lánh với phần trang bị thêm bằng kim loại. Những chiếc bánh xe được sắp xếp lại với hệ thống giảm xóc có phép thuật nên chúng tôi chỉ trượt đi khi bị đâm vào. Chằng buộc dành cho lũ ngựa cân bằng một cách hoàn hảo giúp đàn ngựa đổi hướng chỉ với một cái giật dây cương nhẹ nhất.
Tyson còn làm cho chúng tôi hai cái lao, mỗi cái có ba nút bấm ở cán. Nút thứ nhất mồi cho cái lao phát nổ khi va chạm, phóng ra dây kim loại sắc bén khiến nó có thể quấn vào và cắt bánh xe của đối thủ thành nhiều mảnh nhỏ. Nút thứ hai tạo ra đầu mũi lao bằng đồng bị cùn (nhưng vẫn đủ gây đau đớn) được thiết kế để đánh bật người lái xe ra khỏi cỗ xe ngựa. Nút thứ ba cung cấp một cái móc hàm có thể sử dụng để khóa vào cổ xe của kẻ thù hoặc đẩy nó ra xa.
Tôi đoán chúng tôi đang ở trạng thái rất tốt cho cuộc đua nhưng Tyson vẫn cảnh báo tôi nên cẩn thận. Những đội đua khác cũng đầy rẫy trò bịp bợm.
“Đây,” cậu ấy nói, chỉ trước khi cuộc đua bắt đầu.
Cậu ấy đưa cho tôi một chiếc đồng hồ đeo tay. Trông nó chả có gì đặc biệt cả - chỉ là một mặt đồng hồ màu trắng bạc, đeo dây bằng da màu đen – nhưng ngay khi nhìn thấy nó, tôi nhận ra đó chính là thứ mà tôi đã thấy cậu ấy mày mò suốt mùa hè vừa qua.
Tôi thường không thích đeo đồng hồ. Ai quan tâm đến giờ là mấy giờ cơ chứ? Nhưng tôi không thể nói không với Tyson.
“Cảm ơn người anh em,” tôi đeo nó trên tay và phát hiện ra nó cực kì nhẹ và dễ chịu. Tôi khó có thể nhận ra mình đang đeo đồng hồ.
“Không hoàn thành kịp trong chuyến tìm kiếm,” Tyson lầm bầm. “Xin lỗi, xin lỗi.”
“Này người anh em, không có chuyện gì to tát đâu.”
“Nếu cậu cần bảo vệ trong cuộc đua,” Tyson khuyên, “thì bấm cái nút này.”
“Ừ. Được” Tôi không nhìn kĩ cách giữ thời gian như thế nào để giúp đỡ được nhiều, nhưng tôi cảm động vì được Tyson quan tâm. Tôi hứa với cậu ấy là sẽ lưu ý về cái đồng hồ này. “Và, ừm, Tyson này...”
Cậu ấy nhìn tôi.
“Tớ muốn nói rằng , ừ...” Tôi nghĩ ra cách để xin lỗi vì đã xấu hổ về cậu ấy trước khi diễn ra cuộc tìm kiếm, về việc nói với mọi người rằng cậu ấy không phải là anh em ruột của tôi. Thật không dễ dàng gì lựa chọn từ ngữ.
“Tớ biết điều mà cậu định nói,” Tyson lí nhí, nhìn cậu ấy rất ngượng ngùng. “Thần Poseidon rốt cuộc cũng quan tâm tới tớ.”
“Ừ, ờ...”
“Ông ấy gửi cậu tới giúp tớ. Đó là những gì tớ đã yêu cầu.”
Tôi chớp mắt. “Cậu cầu xin thần Poseidon về... tớ ư?”
“Một người bạn,” Tyson đáp, xoắn chặt áo trong đôi tay của mình. “Các Cyclops nhỏ tuổi lớn lên đơn độc trên đường phố, học cách tạo nên nhiều thứ từ những đồ phế liệu. Học cách để tồn tại.”
“Nhưng điều đó quá tàn khốc!”
Cậu ấy lắc đầu một cách nghiêm túc. “Điều đó chỉ khiến bọn tớ trân trọng sự hạnh phúc, không tham lam, ích kỉ và béo phị giống như Polyphemus. Nhưng tớ sợ hãi. Lũ quái vật truy lùng tớ rất nhiều, đôi khi còn cào xé tớ...”
“Các vết sẹo sau lưng cậu ư?”
Một giọt nước mắt tuôn ra từ khóe mắt Tyson. “Con Sphinx ở Phố 72. Một gã to lớn chuyên bắt nạt. Tớ đã cầu xin cha giúp đỡ. Rồi không bao lâu sau người của trường Meriwether tìm thấy tớ. Được gặp cậu. May mắn lớn nhất tớ từng có. Xin lỗi vì tớ từng trách thần Poseidon rất ích kỉ. Thần đã gửi tới cho tớ một người anh em.”
Tôi nhìn chằm chằm vào cái đồng hồ Tyson làm tặng tôi.
“Percy,” Annabeth gọi ầm lên. “Đi thôi!”
Bác Chiron đứng ở vạch xuất phát, sẵn sằng thổi ốc xà cừ.
“Tyson...” Tôi lúng búng.
“Đi đi,” Tyson giục. “Cậu sẽ chiến thắng!”
“Tớ... ừ, được rồi, người anh em to lớn à. Chúng tớ sẽ thắng trận này cho cậu.” Tôi trèo lên cỗ xe và vào vị trí vừa đúng lúc bác Chiron thổi báo hiệu cuộc đua bắt đầu.
Lũ ngựa biết phải làm gì. Chúng tôi lao ra đường đua nhanh tới mức tôi có thể ngã nhào nếu cánh tay tôi không được quấn chặt vào các dây cương bằng da. Annabeth cũng bám chặt vào tay vịn. Những bánh xe ngựa lướt đi một cách suôn sẻ. Chúng tôi thực hiện vòng cua đầu tiên với khoảng cách một cỗ xe ngựa so với người đang dẫn đầu là Clarisse – người đang bận rộn chống trả cuộc tấn công bằng lao từ anh em nhà Stoll trên cỗ xe nhà thần Hermes.
“Chúng ta đuổi kịp họ rồi!” Tôi hét lên nhưng tôi nói quá sớm.
“Có người tấn công!” Annabeth kêu lên. Cô ấy chuyển cây lao đầu tiên của mình sang chế độ móc hàm, đánh bật đi chiếc lưới bọc chì sắp chụp vào cả hai chúng tôi. Cỗ xe nhà thần Apollo đang lao tới bên hông chúng tôi. Trước khi Annabeth có thể tự vũ trang lại thì chiến binh trên cỗ xe nhà thần Apollo đã ném một cây lao vào ngay bánh xe bên phải của chúng tôi. Cây lao nát vụn ngay sau khi nó làm gãy vài cái nan hoa. Cỗ xe của chúng tôi lảo đảo và loạng choạng. Tôi chắc chắn rằng bánh xe bên phải đã hoàn toàn gãy vụn nhưng bằng cách nào đó cỗ xe của chúng tôi vẫn tiếp tục chạy.
Tôi thuyết phục lũ ngựa giữ tốc độ. Giờ chúng tôi chạy ngang bằng với cỗ xe nhà thần Apollo. Cỗ xe nhà thần Hephaestus đang lao sát bên cạnh. Cỗ xe nhà thần Ares và Hermes đang rơi lại phía sau, hai xe cùng chạy song song với nhau khi Clarisse chiến đấu với Connor Stoll.
Nếu chúng tôi nhận thêm một lao nữa vào bánh xe, tôi biết rằng chúng tôi sẽ bị lật úp.
“Ngươi là của ta!” Người điều khiển cỗ xe nhà thần Apollo hét vang. Đó là một trại viên năm thứ đầu tiên. Tôi không nhớ tên cậu ấy nhưng cậu ấy khá tự tin.
“Ừm, đúng đấy!” Annabeth đốp lại.
Cô ấy rút cây lao thứ hai – một việc rất mạo hiểm vì chúng tôi vẫn còn một vòng đua nữa – và ném nó về phía người đánh xe nhà thần Apollo.
Cô ấy nhắm thật hoàn hảo. Mũi ngọn lao biến thành mũi của cây thương nặng khi nó chạm ngực người đánh xe, làm cậu ấy ngã nhào vào người đồng đội của mình. Sau đó cả hai cùng ngã khỏi xe ngựa bằng cú lộn nhào ra phía sau. Cảm thấy dây cương chùng đi, lũ ngựa trở nên điên cuồng, chạy như bay lao thẳng vào đám đông. Các trại viên tranh nhau tìm chỗ ẩn nấp khi lũ ngựa lao vào góc khán đài với cỗ xe bằng vàng hất lên hất xuống phía sau. Lũ ngựa chạy lại về phía chuồng, kéo lê cỗ xe đã bị lật úp đằng sau chúng.
Tôi giữ cho cỗ xe của chúng tôi tiếp tục vòng đua thứ hai, bất chấp tiếng kĩu kịt của bánh xe bên phải. Chúng tôi băng qua vạch xuất phát và tiến vào vòng đua cuối cùng.
Trục xe kêu cót két và rên rỉ. Cái bánh xe lắc lư khiến chúng tôi giảm tốc độ, bất chấp lũ ngựa đang hưởng ứng nhiệt tình từng mệnh lệnh của tôi, chạy như một cỗ máy được bôi trơn dầu mỡ.
Đội nhà thần Hephaestus vẫn đang tăng tốc.
Beckendorf nhe răng cười khi ấn một nút trên bảng điều khiển chỉ huy. Những dây cáp bằng thép bắn vọt ra từ phía trước lũ ngựa máy của cậu ta, quấn lấy tay vịn phía sau của chúng tôi. Cỗ xe của chúng tôi rung lên khi hệ thống dây tời của Beckendorf bắt đầu hoạt động – kéo chúng tôi lùi lại phía sau trong khi Beckendorf đẩy cậu ta về phía trước.
Annabeth nguyền rủa và rút dao ra. Cô ấy chặt mạnh vào đám dây nhưng chúng quá dày.
“Không cắt được chúng!” Cô ấy hoảng hốt la lên.
Cỗ xe nhà thần Hephaestus giờ đây đang tiến sát chúng tôi. Lũ ngựa của cậu ta định dẫm nát chúng tôi.
“Thay cho tớ!” tôi nói với Annabeth. “Cầm lấy dây cương!”
“Nhưng...”
“Cứ tin ở tớ!”
Cô ấy đẩy người lên phía trước và tóm lấy dây cương. Tôi xoay lại, cố gắng giữ thăng bằng và rút cây Thủy Triều ra.
Tôi chém mạnh xuống và đám dây cáp đứt phựt như những sợi dây diều. Chúng tôi lắc lư tiến về phía trước nhưng anh chàng đánh xe của đội Beckendorf vừa bẻ ngoặt cỗ xe của cậu ta qua bên trái chúng tôi và đưa nó vào sát cạnh xe chúng tôi. Beckendorf rút kiếm ra. Cậu ta chém về phía Annabeth nhưng tôi gạt lưỡi kiếm sang một bên.
Chúng tôi đang dẫn đầu trong vòng đua cuối cùng. Chúng tôi chưa bao giờ làm điều này. Tôi cần phá hỏng cỗ xe nhà thần Hephaestus và tống nó khỏi đường đua nhưng tôi cũng phải bảo vệ cả Annabeth nữa. Chỉ vì Beckendorf là một người tốt không có nghĩa là anh ta sẽ không đưa cả hai chúng tôi tới bệnh xá nếu chúng tôi mất cảnh giác.
Giờ đây chúng tôi lại đi song song bên nhau. Clarisse đang tiến lên từ phía sau, tranh thủ bù lại thời gian đã mất.
“Gặp lại sau nhé, Percy!” Beckendorf kêu lên. “Đây là món quà chia tay nho nhỏ!”
Cậu ta ném một túi đạn bằng da vào cỗ xe chúng tôi. Nó cắm vào sàn xe và bắt đầu nổi khói xanh lè.
“Lửa Hy Lạp đấy!” Annabeth kêu toáng lên.
Tôi nguyền rủa. Tôi đã từng nghe nhiều câu chuyện về “lửa Hy Lạp” có thể làm được nhũng gì. Tôi đoán chúng tôi có thẻ chỉ còn mười giây trước khi nó nổ.
(*)Lửa Hy Lạp (Greek fire): là phát minh của người Hy Lạp cổ đại từ thế kỉ thứ 7 trước Công Nguyên (Chính xác là của một hàng binh người Syria năm 673 trước Công Nguyên). Đấy là một hỗn hợp gồm dầu lửa, diêm sinh và dầu thực vật – được người Byzantine dùng để đốt thuyền bè của đối phương mà dùng nước không thể dập tắt được.
“Vứt nó đi!” Annabeth gào to, nhưng tôi không thể. Cỗ xe nhà thần Hephaestus vẫn bám sát bên cạnh, chờ đợi tới giây phút cuối để chắc chắn rằng món quà nhỏ của họ sẽ nổ tung. Beckendorf khiến tôi phải bận rộn với thanh kiếm của cậu ta. Nếu tôi chỉ cần lơ là đủ để xử lý “lửa Hy Lạp”, Annabeth sẽ bị chém và chúng tôi sẽ bị hủy diệt. Tôi cố gắng đá cái túi đạn bằng da văng đi nhưng không thể. Nó như chết dí ở đó.
Rồi tôi chớ tới cái đồng hồ.
Tôi không biết nó có thể giúp được gì, nhưng tôi quyết định nhấn vào nút bấm giờ. Ngay lập tức, cái đồng hồ thay đổi. Nó mở rộng ra. Vành kim loại của nó từ từ nho ra phía ngoài như cửa trập của một chiếc máy chụp hình kiểu cổ. Dây đeo bằng da quấn quanh cổ tay tôi cho tới khi tôi cần một cái khiên chiến đấu tròn rộng một mét, bên trong là da mềm, bên ngoài được bọc bằng đồng đã được đánh bóng và chạm trổ những hình vẽ mà tôi không có thời gian để nghiên cứu.
Tất cả những gì mà tôi biết là: Tyson đã đoán trước được. Tôi nâng cái khiên lên và kiếm của Beckendorf chạm vào nó kêu lanh lảnh. Lưỡi kiếm của cậu ta gãy tan.
“Cái gì thế này?” Cậu ta gào to. “Làm sao...”
Cậu ta không có nhiều thời gian để nói thêm vì tôi dùng cái khiên mới tống mạnh vào ngực Beckendorf và hất cậu ta bắn ra khỏi cỗ xe, ngã nhào xuống đất.
Khi tôi định dùng cây Thủy Triều để chém người đánh xe thì Annabeth hét lên “Percy!”
“Lửa Hy Lạp” đang bắn ra các tia sáng. Tôi xọc đầu kiếm xuống dưới cái túi đạn bằng da và hất nó lên như một cái xẻng. Quả bom lửa bật khỏi nơi nó bám trụ và bay vèo vào cỗ xe nhà thần Hephaestus ngay dưới chân người đánh xe. Cậu ta kêu oai oái.
Trong vòng một phần giây, người lái xe đã đưa ra một quyết định đúng đắn: nhảy vọt ra khỏi cỗ xe khi nó vẫn lao về phía trước và nổ tung trong đám lửa màu xanh lá cây. Những con ngựa kim loại như bị chập mạch. Chúng quay lại và kéo theo phần đuôi vỡ vụn đang bốc cháy lao về phía Clarisse và anh em nhà Stoll – những người phải đổi hướng để tránh nó.
Annabeth kéo dây cương cho lần rẽ cuối. Tôi vẫn bám chặt vào thành xe, vì tin rằng chúng tôi sẽ bị lật úp. Nhưng bằng cách nào đó, cô ấy đã đưa chúng tôi vượt qua được và thúc lũ ngựa tiến thẳng tới đích đến. Đám đông reo hò cuồng loạn.
Khi cỗ xe dừng lại, các bạn của chúng tôi kéo ùa tới. Họ bắt đầu reo tên chúng tôi nhưng Annabeth kêu lên
bằng giọng mũi, “Trật tự! Hãy nghe đây. Chiến thắng này không chỉ có riêng bọn tớ!”
Đám đông nom không muốn im lặng tí nào nhưng tiếng nói của Annabeth vẫn lảnh lót: “Bọn tớ không thể làm được điều này nếu thiếu một người! Chúng tôi không thể chiến thắng cuộc đua này hoặc lấy được Bộ Lông Cừu Vàng, hoặc cứu được Grover hay bất kì cái gì! Bọn tớ nợ cậu mạng sống của bọn tớ, Tyson, Percy...”
“Em trai!” tôi nói, giọng đủ lớn để tất cả mọi người nghe thấy. “Tyson, người em trai bé bỏng của tớ.”
Tyson đỏ mặt. Đám đông reo hò hớn hở. Annabeth hôn lên má tôi. Ngay sau đó, tiếng reo hò ngày càng lớn hơn. Tất cả mọi người ở khu nhà thần Annabeth công kênh tôi, Annabeth và Tyson lên vai, mang chúng tôi đi về phía bục người chiến thắng – nơi bác Chiron đang chờ để trao những vòng nguyệt quế.
Khi chúng tôi về trại, các nhân mã nóng lòng muốn gặp thần Dionysus. Họ nghe được rằng ông ấy đã chuẩn bị một buổi tiệc đầy cuồng nhiệt nhưng họ đã thất vọng. Thần rượu không có hứng để tiệc tùng khi toàn bộ trại viên đều tập trung trên đỉnh Đồi Con Lai.
Trại đã phải trải qua hai tuần khó khăn. Khu nhà chứa các tác phẩm nghệ thuật và đồ trang trí đã bị thiêu rụi bởi sự tấn công của Draco Aionius (thứ mà gần như tôi có thể đoán bằng tiếng Latinh là "một con thằn lằn cực lớn, thở và thổi ra những thứ rác rưởi.) Các phòng trong khu Nhà Lớn tràn ngập người bị thương. Những đứa trẻ trong khu nhà thần Apollo – những người chữa bệnh tốt nhất – đang làm việc ngoài giờ để thực hiện sơ cứu. Tất cả mọi người trông kiệt sức và đầy thương tích khi chúng tôi vây quanh cái cây Thalia.
Khi Clarisse phủ Bộ Lông Cừu Vàng lên cành cây thấp nhất, ánh trăng như sáng hơn và chuyển từ màu xám sang màu bạc. Một luồng gió mát xuyên các cành lá kêu xào xạc, lay động mặt cỏ khẽ, sau đó lan tỏa ra khắp thung lũng. Tất cả mọi thứ trở nên sắc nét hơn – ánh sáng rực rỡ của những con đom đóm trong các khu rừng, mùi thơm của cánh đồng dâu tây, tiếng sóng biển.
Dần dần, những chiếc lá kim trên cây thông bắt đầu chuyển từ màu nâu sang màu xanh lá cây.
Tất cả mọi người đều vui mừng hớn hở. Sự chuyển biến diễn ra một cách chậm chạp nhưng không thể nghi ngờ được gì nữa – phép thuật của Bộ Lông Cừu Vàng đang thấm vào cây, phủ lên nó một sức mạnh mới và cũng giải luôn chất độc bên trong.
Bác Chiron yêu cầu một đội bảy người canh gác hai mươi tư giờ trên đỉnh đồi, ít nhất cho tới khi bác có thể tìm được một quái vật phù hợp để bảo vệ nó. Bác ấy bảo rằng bác sẽ cho đăng ngay quảng cáo trên tờ Olympus Weekly.
Trong lúc đó, Clarisse được công kênh trên vai những người bạn cùng khu nhà xuống tới khu sân khấu ngoài trời – nơi cô được vinh danh bằng một vòng hoa nguyệt quế và vô số những lời tán tụng quanh lửa trại.
Không ai nhìn tôi và Annabeth lấy một giây. Nó như thể chúng tôi chưa từng rời khỏi trại. Tôi cho rằng đây là lời cảm ơn tốt nhất của bất kỳ người nào dành cho chúng tôi. Vì nếu họ thừa nhận chúng tôi rời trại để tham gia cuộc tìm kiếm, họ phải trục xuất chúng tôi đi. Và thực sự là tôi không muốn có thêm bất kì sự chú ý nào khác nữa. Thật tuyệt khi chỉ là một thành viên bình thường của trại.
Sau tôi đó, khi chúng tôi đang nướng kẹo dẻo và nghe anh em nhà Stoll kể chuyện ma về một ông vua xấu xa – kẻ bị ăn thịt còn sống sót bởi cái bánh bao buổi sáng ma quái, thì Clarisse xô tôi từ phía sau và thì thầm vào tai tôi, “Đừng nghĩ chỉ vì cậu cư xử thật tuyệt trong lần này, Jackson, mà cậu thoát khỏi nhà thần Ares nhé. Tớ vẫn đang chờ cơ hội để nghiền nát cậu.”
Tôi nở nụ cười miễn cưỡng với cô ta.
“Sao nào?” cô ta hỏi gặng.
“Không có gì,” tôi dáp. “Chỉ là thật tốt khi trở về nhà.”
Sáng hôm sau, khi bầy nhân mã quay về lại Florida, bác Chiron đã ra một thông báo đầy kinh ngạc rằng: Cuộc đua ngựa sẽ được tiến hành đúng theo kế hoạch. Tất cả chúng tôi cho rằng giờ đây mọi thứ đã trở thành lịch sử khi Tantalus đi rồi, nhưng hoàn thành chúng có cảm giác như làm một việc gì đúng đắn, đặc biệt khi giờ đây bác Chiron đã quay lại và trại đã an toàn.
Tyson không còn hớn hở với ý tưởng quay lại làm cỗ xe ngựa đua nữa kể từ lần thử nghiệm đầu tiên của chúng tôi. Nhưng cậu ấy rất vui vẻ để tôi thành lập đội cùng Annabeth. Tôi sẽ lái xe, Annabeth sẽ phòng ngự và Tyson sẽ làm hoa tiêu. Khi tôi làm việc với lũ ngựa, Tyson sẽ hoàn thiện cỗ xe của Athena và thêm vào một mớ những thay đổi đặc biệt.
Chúng tôi mất hai ngày tiếp theo để luyện tập như điên. Annabeth và tôi nhất trí rằng nếu chúng tôi thắng, giải thưởng không cần làm việc trong suốt một tháng sẽ được cưa đôi cho hai khu nhà. Vì khi nhà Athena có nhiều trại viên, họ sẽ có được nhiều thời gian hơn, và tôi hoàn toàn đồng ý với điều đó. Tôi không quan tâm tới giải thưởng. Tôi chỉ muốn chiến thắng.
Vào đêm trước cuộc đua, tôi ở lại rất lâu bên khu chuồng ngựa. Tôi đang trò chuyện với lũ ngựa, chải lông cho nó lần cuối, thì ai đó đứng ngay sau tôi cất tiếng, “Ngựa, những con vật tốt bụng. Ước gì ta nghĩ được như chúng.”
Một người đàn ông trung niên trong trang phục nhân viên bưu tá đang đứng tựa vào cửa chuồng. Ông ấy trông gầy gò với mái tóc đen loăn xoăn dưới chiếc mũ bấc màu trắng, khoác trên vai một cái túi đưa thư.
“Thần Hermes?” tôi lắp bắp.
“Chào Percy. Không thể nhận ra ta khi không có quần áo chạy bộ phải không?”
“Dạ...” Tôi không chắc tôi có ý định quỳ xuống hay mua ít tem thư từ ông ấy hay không. Rồi trong đầu tôi lóe lên ý nghĩ tại sao ông ấy lại ở đây. “Ồ, thần Hermes, xin hãy nghe, về việc Luke thì...”
Thần Hermes cau lông mày.
“Ừm, chúng cháu có gặp anh ấy, đúng vậy,” tôi kể, “nhưng...”
“Cháu không thể nói thẳng về nó sao?”
“Dạ, chúng cháu đã cố giết lẫn nhau trong cuộc đọ kiếm chết người.”
“Ta biết. Cháu đã cố dùng cách tiếp cận khôn khéo.”
“Cháu thực sự xin lỗi. Ý cháu là, thần đã cho chúng cháu những món quà có phép thuật đó và tất cả mọi thứ. Và cháu biết thần muốn Luke trở về. Nhưng... anh ấy đã trở thành người xấu. Cực kì xấu. Anh ấy nói anh ấy cảm thấy thần từ bỏ anh ấy.”
Tôi chờ đợi thần Hermes nổi cơn thịnh nộ. Tôi đoán rằng thần sẽ biến tôi thành một chú chuột hamster hoặc thứ gì đó, và tôi không muốn mất thêm tí thời gian nào trở thành loài gặm nhấm.
Nhưng thay vào đó, ông chỉ thở dài. “Cháu có bao giờ cảm thấy cha cháu ruồng bỏ mình chưa, Percy ?”
Ôi, trời ơi.
Tôi muốn nói rằng, “Chỉ vài trăm lần một ngày thôi.” Tôi đã không hề trò chuyện với thần Poseidon kể từ mùa hè năm ngoái. Thậm chí tôi chưa từng được tới cung điện dưới đại dương của người. Và rồi toàn bộ mọi chuyện với Tyson – không lời cảnh báo, không lời giải thích. Chỉ bùm một cái, tôi có một người anh em. Bạn có nghĩ rằng tôi đáng ra cũng phải có được một cú điện thoại hoặc thứ gì đó giải thích cho việc ấy không.
Càng nghĩ về điều này, tôi càng bực mình. Tôi nhận ra rằng tôi muốn được thừa nhận trong cuộc tìm kiếm mà tôi đã hoàn tất, nhưng không phải từ phía các trại viên khác. Tôi muốn cha tôi nói gì đó, chú ý tới tôi.
Thần Hermes chỉnh lại cái túi đưa thư trên vai. “Percy này, phần khó khăn nhất trong việc là một vị thần là cháu là phải thường xuyên hành động gián tiếp, đặc biệt khi có điều gì đó xảy ra với con cái mình. Nếu chúng ta can thiệp mọi lúc khi con cái có vấn đề... thì, điều này chỉ tạo thêm nhiều vấn đề hơn và nhiều sự oán hận hơn. Nhưng ta tin rằng nếu cháu suy nghĩ một chút, cháu sẽ nhận thấy rằng thần Poseidon có chú ý tới cháu. Thần đã đáp lại những lời nguyện cầu của cháu. Ta chỉ hy vọng rằng một ngày nào đó, Luke có thể nhận ra điều tương tự về ta. Dù cháu cảm thấy cháu thành công hay không trong việc Luke, thì cháu đã nhắc nhở Luke nhớ tới việc nó là ai. Cháu đã nói với nó.”
“Cháu đã cố giết anh ấy.”
Thần Hermes nhún vai. “Gia đình thật là một đống lộn xộn. Những gia đình bất tử lại càng mãi mãi rối tinh. Đôi khi thứ mà chúng ta cố gắng làm nhất là nhắc nhở lẫn nhau rằng chúng ta có mối quan hệ với nhau, bất chấp hậu quả ra sao... và cố gắng giữ cho việc gây thương tích và chém giết nhau ở mức thấp nhất.”
Điều này nghe không giống như công thức cho một gia đình hoàn hảo. Rồi lại lần nữa, khi tôi nghĩ về cuộc tìm kiếm của tôi, tôi nhận ra rằng có lẽ thần Hermes đã đúng. Thần Poseidon đã gửi lũ cá ngựa tới giúp chúng tôi. Thần đã cho tôi sức mạnh đối với biển cả mà tôi chưa bao giờ biết tới trước đó. Và rồi cả Tyson nữa. Phải chăng thần Poseidon đưa chúng tôi quen biết nhau là có mục đích? Đã bao nhiêu lần Tyson cứu tôi trong mùa hè này?
Ở phía xa, tiếng tù và bằng xà cừ báo hiệu giờ giới nghiêm vang lên.
“Cháu nên đi ngủ đi,” thần Hermes nói. “Ta đã giúp cháu đủ rắc rối trong mùa hè này rồi. Ta thực sự chỉ tới để giao gói hàng này.”
“Giao hàng ư?”
“Ta là người đưa thư của các vị thần mà Percy.” Thần lôi ra một tập giáy chữ kí điện tử từ túi đưa thư của mình và đưa nó cho tôi, “Cháu kí vào đây.”
Tôi cầm lấy cây bút trâm trước khi nhận ra nó được bện bằng hai con rắn xanh bé tí. “Ối!” tôi đánh rơi cây bút.
Oái, Geogre kêu toáng lên.
Percy, cậu thật là, Martha rầy la. Cậu có muốn được thả phịch xuống mặt đất của chuồng ngựa như vậy không?
“Ồ, ừ, xin lỗi.” Tôi không thích chạm vào lũ rắn tí nào nhưng tôi vẫn phải nhặt tập giấy và cái bút lên. Martha và Geogre uốn éo dưới những ngón tay tôi, tạo dáng thành kiểu đuôi bút chì giống hệt cái mà giáo viên giáo dục đặc biệt của tôi dạy sử dụng khi tôi học lớp hai.
Cậu có mang cho tôi một con chuột không? Geogre thèm khát hỏi.
“Không...” tôi đáp. “Ừ, chúng tôi chẳng tìm thấy con nào.”
Thế còn chuột lang thì sao?
Geogre! Martha quở trách. Đừng có trêu chọc cậu bé như thế.
Tôi kí tên mình và đưa trả lại tập giấy cho thần Hermes.
Đổi lại, thần đưa cho tôi một phong bì màu xanh nước biển.
Ngón tay tôi run rẩy. Thậm chí trước khi mở nó ra, tôi có thể nói rằng nó được gửi đến từ chỗ cha tôi. Tôi có thể cảm nhận được sức mạnh của ông qua lớp giấy màu xanh lạnh lẽo này, cứ như thể phong bì này được gập nên từ một con sóng đại dương.
“Chúc cậu may mắn vào ngày mai nhé,” thần Hermes nói. “Cháu có những con ngựa tốt ở đây, nhưng đừng trách nếu ta cổ vũ cho khu nhà thần Hermes nhé.”
Và đừng có nản lòng khi đọc nó nhé, cậu bé thân yêu, Martha dặn dò. Ông ấy thực sự quan tâm đến cháu đấy.
“Ý cô là gì ạ?” tôi thắc mắc.
Mặc kệ cô ta đi, Geogre gạt đi. Và lần tới, hãy nhớ là lũ rắn làm việc vì tiền quà đấy nhé.
“Đủ rồi đấy hai đứa,” thần Hermes quát. “Tạm biệt, Percy. Ta phải đi ngay.”
Cặp cánh nhỏ màu trắng nhú lên từ chiếc mũ bấc của ông. Ông bắt đầu tỏa sáng và tôi đủ biết về các vị thần để tránh ánh mắt đi nơi khác trước khi thần để lộ hình dáng thần thánh thực sự của mình. Với một ánh sáng trắng lòa lóe lên, ông ấy đã biến mất và tôi lại đơn độc cũng lũ ngựa.
Tôi nhìn chằm chằm vào phong bì màu xanh nước biển trong tay. Địa chỉ được viết bằng kiểu chữ viết tay rõ ràng nhưng tao nhã mà tôi đã từng nhìn thấy một lần trước đây, trên một gói bưu phẩm mà thần Poseidon gửi cho tôi vào hè năm ngoái.
Percy Jackson
Nhờ Trại Con Lai chuyển hộ
3.141, Đường Trang Trại
Long Island, New York 11954
Một lá thư có thật từ cha tôi. Có thể ông sẽ khen tôi đã làm tốt khi lấy được Bộ Lông Cừu Vàng. Ông sẽ giải thích về Tyson, hoặc xin lỗi đã không sớm nói chuyện với tôi. Có quá nhiều thứ mà tôi muốn trong lá thư này.
Tôi bóc chiếc phong bì và mở tờ giấy bên trong.
Mấy từ thật đơn giản được viết chính giữa tờ giây:
Gắng hết sức mình.
Sáng hôm sau, tất cả mọi người tíu tít về cuộc đua ngựa, dẫu họ vẫn nhìn về phía bầu trời đầy lo lắng như thể họ cho rằng lũ chim Stymphalian đang tụ tập lại. Nhưng không có gì. Một ngày mùa hè tuyệt đẹp với bầu trời xanh và nhiều nắng vàng. Trại bắt đầu trở lại với vẻ như nó nên có: những bãi cỏ xanh mướt và tràn đầy nhựa sống; những đụn khói trắng le lói trong các tòa nhà Hy Lạp; những nữ thần cây chơi đùa vui vẻ trong các khu rừng.
Và tôi thật đáng thương. Tôi nằm thao thức suốt cả tối, nghĩ về lời cảnh báo của thần Poseidon.
Gắng hết sức mình.
Ý tôi là, ông ấy đã mất công viết thư cho tôi, thế tại sao ông lại chỉ viết có mấy chữ như vậy?
Cô rắn Martha từng báo trước với tôi là đừng thất vọng. Có lẽ thần Poseidon có lý do để trở nên mập mờ như vậy. Có lẽ cha tôi không biết chính xác rằng ông đang cảnh báo với tôi về việc gì, nhưng ông cảm nhận được có gì đó ghê gớm sắp xảy ra – một thứ gì đó có thể hoàn toàn làm tôi ngã quỵ trừ phi tôi có chuẩn bị trước. Điều này thật là khó nhưng tôi cố gắng chuyển suy nghĩ của mình về với cuộc đua.
Khi Annabeth và tôi đánh xe vào trường đua, tôi không thể không tán thưởng công trình mà Tyson hoàn tất trên cỗ xe ngựa của nhà thần Athena. Cỗ xe sáng lấp lánh với phần trang bị thêm bằng kim loại. Những chiếc bánh xe được sắp xếp lại với hệ thống giảm xóc có phép thuật nên chúng tôi chỉ trượt đi khi bị đâm vào. Chằng buộc dành cho lũ ngựa cân bằng một cách hoàn hảo giúp đàn ngựa đổi hướng chỉ với một cái giật dây cương nhẹ nhất.
Tyson còn làm cho chúng tôi hai cái lao, mỗi cái có ba nút bấm ở cán. Nút thứ nhất mồi cho cái lao phát nổ khi va chạm, phóng ra dây kim loại sắc bén khiến nó có thể quấn vào và cắt bánh xe của đối thủ thành nhiều mảnh nhỏ. Nút thứ hai tạo ra đầu mũi lao bằng đồng bị cùn (nhưng vẫn đủ gây đau đớn) được thiết kế để đánh bật người lái xe ra khỏi cỗ xe ngựa. Nút thứ ba cung cấp một cái móc hàm có thể sử dụng để khóa vào cổ xe của kẻ thù hoặc đẩy nó ra xa.
Tôi đoán chúng tôi đang ở trạng thái rất tốt cho cuộc đua nhưng Tyson vẫn cảnh báo tôi nên cẩn thận. Những đội đua khác cũng đầy rẫy trò bịp bợm.
“Đây,” cậu ấy nói, chỉ trước khi cuộc đua bắt đầu.
Cậu ấy đưa cho tôi một chiếc đồng hồ đeo tay. Trông nó chả có gì đặc biệt cả - chỉ là một mặt đồng hồ màu trắng bạc, đeo dây bằng da màu đen – nhưng ngay khi nhìn thấy nó, tôi nhận ra đó chính là thứ mà tôi đã thấy cậu ấy mày mò suốt mùa hè vừa qua.
Tôi thường không thích đeo đồng hồ. Ai quan tâm đến giờ là mấy giờ cơ chứ? Nhưng tôi không thể nói không với Tyson.
“Cảm ơn người anh em,” tôi đeo nó trên tay và phát hiện ra nó cực kì nhẹ và dễ chịu. Tôi khó có thể nhận ra mình đang đeo đồng hồ.
“Không hoàn thành kịp trong chuyến tìm kiếm,” Tyson lầm bầm. “Xin lỗi, xin lỗi.”
“Này người anh em, không có chuyện gì to tát đâu.”
“Nếu cậu cần bảo vệ trong cuộc đua,” Tyson khuyên, “thì bấm cái nút này.”
“Ừ. Được” Tôi không nhìn kĩ cách giữ thời gian như thế nào để giúp đỡ được nhiều, nhưng tôi cảm động vì được Tyson quan tâm. Tôi hứa với cậu ấy là sẽ lưu ý về cái đồng hồ này. “Và, ừm, Tyson này...”
Cậu ấy nhìn tôi.
“Tớ muốn nói rằng , ừ...” Tôi nghĩ ra cách để xin lỗi vì đã xấu hổ về cậu ấy trước khi diễn ra cuộc tìm kiếm, về việc nói với mọi người rằng cậu ấy không phải là anh em ruột của tôi. Thật không dễ dàng gì lựa chọn từ ngữ.
“Tớ biết điều mà cậu định nói,” Tyson lí nhí, nhìn cậu ấy rất ngượng ngùng. “Thần Poseidon rốt cuộc cũng quan tâm tới tớ.”
“Ừ, ờ...”
“Ông ấy gửi cậu tới giúp tớ. Đó là những gì tớ đã yêu cầu.”
Tôi chớp mắt. “Cậu cầu xin thần Poseidon về... tớ ư?”
“Một người bạn,” Tyson đáp, xoắn chặt áo trong đôi tay của mình. “Các Cyclops nhỏ tuổi lớn lên đơn độc trên đường phố, học cách tạo nên nhiều thứ từ những đồ phế liệu. Học cách để tồn tại.”
“Nhưng điều đó quá tàn khốc!”
Cậu ấy lắc đầu một cách nghiêm túc. “Điều đó chỉ khiến bọn tớ trân trọng sự hạnh phúc, không tham lam, ích kỉ và béo phị giống như Polyphemus. Nhưng tớ sợ hãi. Lũ quái vật truy lùng tớ rất nhiều, đôi khi còn cào xé tớ...”
“Các vết sẹo sau lưng cậu ư?”
Một giọt nước mắt tuôn ra từ khóe mắt Tyson. “Con Sphinx ở Phố 72. Một gã to lớn chuyên bắt nạt. Tớ đã cầu xin cha giúp đỡ. Rồi không bao lâu sau người của trường Meriwether tìm thấy tớ. Được gặp cậu. May mắn lớn nhất tớ từng có. Xin lỗi vì tớ từng trách thần Poseidon rất ích kỉ. Thần đã gửi tới cho tớ một người anh em.”
Tôi nhìn chằm chằm vào cái đồng hồ Tyson làm tặng tôi.
“Percy,” Annabeth gọi ầm lên. “Đi thôi!”
Bác Chiron đứng ở vạch xuất phát, sẵn sằng thổi ốc xà cừ.
“Tyson...” Tôi lúng búng.
“Đi đi,” Tyson giục. “Cậu sẽ chiến thắng!”
“Tớ... ừ, được rồi, người anh em to lớn à. Chúng tớ sẽ thắng trận này cho cậu.” Tôi trèo lên cỗ xe và vào vị trí vừa đúng lúc bác Chiron thổi báo hiệu cuộc đua bắt đầu.
Lũ ngựa biết phải làm gì. Chúng tôi lao ra đường đua nhanh tới mức tôi có thể ngã nhào nếu cánh tay tôi không được quấn chặt vào các dây cương bằng da. Annabeth cũng bám chặt vào tay vịn. Những bánh xe ngựa lướt đi một cách suôn sẻ. Chúng tôi thực hiện vòng cua đầu tiên với khoảng cách một cỗ xe ngựa so với người đang dẫn đầu là Clarisse – người đang bận rộn chống trả cuộc tấn công bằng lao từ anh em nhà Stoll trên cỗ xe nhà thần Hermes.
“Chúng ta đuổi kịp họ rồi!” Tôi hét lên nhưng tôi nói quá sớm.
“Có người tấn công!” Annabeth kêu lên. Cô ấy chuyển cây lao đầu tiên của mình sang chế độ móc hàm, đánh bật đi chiếc lưới bọc chì sắp chụp vào cả hai chúng tôi. Cỗ xe nhà thần Apollo đang lao tới bên hông chúng tôi. Trước khi Annabeth có thể tự vũ trang lại thì chiến binh trên cỗ xe nhà thần Apollo đã ném một cây lao vào ngay bánh xe bên phải của chúng tôi. Cây lao nát vụn ngay sau khi nó làm gãy vài cái nan hoa. Cỗ xe của chúng tôi lảo đảo và loạng choạng. Tôi chắc chắn rằng bánh xe bên phải đã hoàn toàn gãy vụn nhưng bằng cách nào đó cỗ xe của chúng tôi vẫn tiếp tục chạy.
Tôi thuyết phục lũ ngựa giữ tốc độ. Giờ chúng tôi chạy ngang bằng với cỗ xe nhà thần Apollo. Cỗ xe nhà thần Hephaestus đang lao sát bên cạnh. Cỗ xe nhà thần Ares và Hermes đang rơi lại phía sau, hai xe cùng chạy song song với nhau khi Clarisse chiến đấu với Connor Stoll.
Nếu chúng tôi nhận thêm một lao nữa vào bánh xe, tôi biết rằng chúng tôi sẽ bị lật úp.
“Ngươi là của ta!” Người điều khiển cỗ xe nhà thần Apollo hét vang. Đó là một trại viên năm thứ đầu tiên. Tôi không nhớ tên cậu ấy nhưng cậu ấy khá tự tin.
“Ừm, đúng đấy!” Annabeth đốp lại.
Cô ấy rút cây lao thứ hai – một việc rất mạo hiểm vì chúng tôi vẫn còn một vòng đua nữa – và ném nó về phía người đánh xe nhà thần Apollo.
Cô ấy nhắm thật hoàn hảo. Mũi ngọn lao biến thành mũi của cây thương nặng khi nó chạm ngực người đánh xe, làm cậu ấy ngã nhào vào người đồng đội của mình. Sau đó cả hai cùng ngã khỏi xe ngựa bằng cú lộn nhào ra phía sau. Cảm thấy dây cương chùng đi, lũ ngựa trở nên điên cuồng, chạy như bay lao thẳng vào đám đông. Các trại viên tranh nhau tìm chỗ ẩn nấp khi lũ ngựa lao vào góc khán đài với cỗ xe bằng vàng hất lên hất xuống phía sau. Lũ ngựa chạy lại về phía chuồng, kéo lê cỗ xe đã bị lật úp đằng sau chúng.
Tôi giữ cho cỗ xe của chúng tôi tiếp tục vòng đua thứ hai, bất chấp tiếng kĩu kịt của bánh xe bên phải. Chúng tôi băng qua vạch xuất phát và tiến vào vòng đua cuối cùng.
Trục xe kêu cót két và rên rỉ. Cái bánh xe lắc lư khiến chúng tôi giảm tốc độ, bất chấp lũ ngựa đang hưởng ứng nhiệt tình từng mệnh lệnh của tôi, chạy như một cỗ máy được bôi trơn dầu mỡ.
Đội nhà thần Hephaestus vẫn đang tăng tốc.
Beckendorf nhe răng cười khi ấn một nút trên bảng điều khiển chỉ huy. Những dây cáp bằng thép bắn vọt ra từ phía trước lũ ngựa máy của cậu ta, quấn lấy tay vịn phía sau của chúng tôi. Cỗ xe của chúng tôi rung lên khi hệ thống dây tời của Beckendorf bắt đầu hoạt động – kéo chúng tôi lùi lại phía sau trong khi Beckendorf đẩy cậu ta về phía trước.
Annabeth nguyền rủa và rút dao ra. Cô ấy chặt mạnh vào đám dây nhưng chúng quá dày.
“Không cắt được chúng!” Cô ấy hoảng hốt la lên.
Cỗ xe nhà thần Hephaestus giờ đây đang tiến sát chúng tôi. Lũ ngựa của cậu ta định dẫm nát chúng tôi.
“Thay cho tớ!” tôi nói với Annabeth. “Cầm lấy dây cương!”
“Nhưng...”
“Cứ tin ở tớ!”
Cô ấy đẩy người lên phía trước và tóm lấy dây cương. Tôi xoay lại, cố gắng giữ thăng bằng và rút cây Thủy Triều ra.
Tôi chém mạnh xuống và đám dây cáp đứt phựt như những sợi dây diều. Chúng tôi lắc lư tiến về phía trước nhưng anh chàng đánh xe của đội Beckendorf vừa bẻ ngoặt cỗ xe của cậu ta qua bên trái chúng tôi và đưa nó vào sát cạnh xe chúng tôi. Beckendorf rút kiếm ra. Cậu ta chém về phía Annabeth nhưng tôi gạt lưỡi kiếm sang một bên.
Chúng tôi đang dẫn đầu trong vòng đua cuối cùng. Chúng tôi chưa bao giờ làm điều này. Tôi cần phá hỏng cỗ xe nhà thần Hephaestus và tống nó khỏi đường đua nhưng tôi cũng phải bảo vệ cả Annabeth nữa. Chỉ vì Beckendorf là một người tốt không có nghĩa là anh ta sẽ không đưa cả hai chúng tôi tới bệnh xá nếu chúng tôi mất cảnh giác.
Giờ đây chúng tôi lại đi song song bên nhau. Clarisse đang tiến lên từ phía sau, tranh thủ bù lại thời gian đã mất.
“Gặp lại sau nhé, Percy!” Beckendorf kêu lên. “Đây là món quà chia tay nho nhỏ!”
Cậu ta ném một túi đạn bằng da vào cỗ xe chúng tôi. Nó cắm vào sàn xe và bắt đầu nổi khói xanh lè.
“Lửa Hy Lạp đấy!” Annabeth kêu toáng lên.
Tôi nguyền rủa. Tôi đã từng nghe nhiều câu chuyện về “lửa Hy Lạp” có thể làm được nhũng gì. Tôi đoán chúng tôi có thẻ chỉ còn mười giây trước khi nó nổ.
(*)Lửa Hy Lạp (Greek fire): là phát minh của người Hy Lạp cổ đại từ thế kỉ thứ 7 trước Công Nguyên (Chính xác là của một hàng binh người Syria năm 673 trước Công Nguyên). Đấy là một hỗn hợp gồm dầu lửa, diêm sinh và dầu thực vật – được người Byzantine dùng để đốt thuyền bè của đối phương mà dùng nước không thể dập tắt được.
“Vứt nó đi!” Annabeth gào to, nhưng tôi không thể. Cỗ xe nhà thần Hephaestus vẫn bám sát bên cạnh, chờ đợi tới giây phút cuối để chắc chắn rằng món quà nhỏ của họ sẽ nổ tung. Beckendorf khiến tôi phải bận rộn với thanh kiếm của cậu ta. Nếu tôi chỉ cần lơ là đủ để xử lý “lửa Hy Lạp”, Annabeth sẽ bị chém và chúng tôi sẽ bị hủy diệt. Tôi cố gắng đá cái túi đạn bằng da văng đi nhưng không thể. Nó như chết dí ở đó.
Rồi tôi chớ tới cái đồng hồ.
Tôi không biết nó có thể giúp được gì, nhưng tôi quyết định nhấn vào nút bấm giờ. Ngay lập tức, cái đồng hồ thay đổi. Nó mở rộng ra. Vành kim loại của nó từ từ nho ra phía ngoài như cửa trập của một chiếc máy chụp hình kiểu cổ. Dây đeo bằng da quấn quanh cổ tay tôi cho tới khi tôi cần một cái khiên chiến đấu tròn rộng một mét, bên trong là da mềm, bên ngoài được bọc bằng đồng đã được đánh bóng và chạm trổ những hình vẽ mà tôi không có thời gian để nghiên cứu.
Tất cả những gì mà tôi biết là: Tyson đã đoán trước được. Tôi nâng cái khiên lên và kiếm của Beckendorf chạm vào nó kêu lanh lảnh. Lưỡi kiếm của cậu ta gãy tan.
“Cái gì thế này?” Cậu ta gào to. “Làm sao...”
Cậu ta không có nhiều thời gian để nói thêm vì tôi dùng cái khiên mới tống mạnh vào ngực Beckendorf và hất cậu ta bắn ra khỏi cỗ xe, ngã nhào xuống đất.
Khi tôi định dùng cây Thủy Triều để chém người đánh xe thì Annabeth hét lên “Percy!”
“Lửa Hy Lạp” đang bắn ra các tia sáng. Tôi xọc đầu kiếm xuống dưới cái túi đạn bằng da và hất nó lên như một cái xẻng. Quả bom lửa bật khỏi nơi nó bám trụ và bay vèo vào cỗ xe nhà thần Hephaestus ngay dưới chân người đánh xe. Cậu ta kêu oai oái.
Trong vòng một phần giây, người lái xe đã đưa ra một quyết định đúng đắn: nhảy vọt ra khỏi cỗ xe khi nó vẫn lao về phía trước và nổ tung trong đám lửa màu xanh lá cây. Những con ngựa kim loại như bị chập mạch. Chúng quay lại và kéo theo phần đuôi vỡ vụn đang bốc cháy lao về phía Clarisse và anh em nhà Stoll – những người phải đổi hướng để tránh nó.
Annabeth kéo dây cương cho lần rẽ cuối. Tôi vẫn bám chặt vào thành xe, vì tin rằng chúng tôi sẽ bị lật úp. Nhưng bằng cách nào đó, cô ấy đã đưa chúng tôi vượt qua được và thúc lũ ngựa tiến thẳng tới đích đến. Đám đông reo hò cuồng loạn.
Khi cỗ xe dừng lại, các bạn của chúng tôi kéo ùa tới. Họ bắt đầu reo tên chúng tôi nhưng Annabeth kêu lên
bằng giọng mũi, “Trật tự! Hãy nghe đây. Chiến thắng này không chỉ có riêng bọn tớ!”
Đám đông nom không muốn im lặng tí nào nhưng tiếng nói của Annabeth vẫn lảnh lót: “Bọn tớ không thể làm được điều này nếu thiếu một người! Chúng tôi không thể chiến thắng cuộc đua này hoặc lấy được Bộ Lông Cừu Vàng, hoặc cứu được Grover hay bất kì cái gì! Bọn tớ nợ cậu mạng sống của bọn tớ, Tyson, Percy...”
“Em trai!” tôi nói, giọng đủ lớn để tất cả mọi người nghe thấy. “Tyson, người em trai bé bỏng của tớ.”
Tyson đỏ mặt. Đám đông reo hò hớn hở. Annabeth hôn lên má tôi. Ngay sau đó, tiếng reo hò ngày càng lớn hơn. Tất cả mọi người ở khu nhà thần Annabeth công kênh tôi, Annabeth và Tyson lên vai, mang chúng tôi đi về phía bục người chiến thắng – nơi bác Chiron đang chờ để trao những vòng nguyệt quế.
Tác giả :
Rick Riordan