Percy Jackson Tập 2: Biển Quái Vật
Chương 13: Annabeth cố bơi về nhà
Cuối cùng tôi cũng tìm được thứ mà tôi thực sự thấy giỏi.
Con tàu Queen Anne’s Revenge đã đáp lại từng mệnh lệnh của tôi. Tôi biết dây thừng nào để tời, cánh buồm nào cần được kéo lên, hướng nào để lái. Chúng tôi rẽ sóng với vận tốc mà tôi đoán là khoảng mười hải lý. Thậm chí tôi hiểu được nó nhanh như thể nào. Đối với một con thuyền buồm, đi với vận tốc như thế này là cực kỳ nhanh.
Tất cả đều có cảm giác hoàn hảo – gió vương trên mặt, những con sóng vỡ tung trước mũi thuyền.
Bây giờ chúng tôi đã thoát được khỏi nguy hiểm, tất cả những gì tôi có thể nghĩ được là tôi nhớ Tyson nhiều như thế nào và tôi lo lắng về Grover như thế nào.
Tôi không thể vượt qua được việc tôi đã bị cư xử tệ như thể nào ở đảo Circe. Nếu không có Annabeth, tôi vẫn là một loài gặm nhắm, trốn trong một chiếc xuồng với một bầy cướp biển lông thú xinh xắn. Tôi nghĩ về điều mà Circe đã nói: Thấy chưa, Percy? Ngươi lộ ra con người thật của chính mình!
Tôi cảm thấy có chút thay đổi. Không chỉ vì tôi đột nhiên thèm được ăn rau diếp. Tôi cảm thấy hốt hoảng, như thể bản năng là một động vật nhỏ bé sợ hãi giờ đây đã là một phần trong tôi. Hoặc có thể nó đã luôn ở đó. Đây mới là điều khiến tôi thực sự lo lắng.
Chúng tôi đi suốt cả đêm.
Annabeth cố gắng giúp tôi trong việc canh gác, nhưng con thuyền không đồng ý với cô ấy. Sau vài tiếng đồng hồ đung đưa lên xuống, gương mặt cô ấy chuyển sang màu xanh của xốt guacamole(1) và cô ấy buộc phải leo xuống nằm trên võng.
(1) Một loại xốt làm từ trái bơ có nguồn gốc từ Mexico. Tên guacamole bắt nguồn từ tiếng Aztec Nahuatl – ahuacatl (trái bơ) và malli (nước sốt). Mẹo để làm được một guacamole cực ngon là chọn bơ ngon và đủ độ chín.(ND)
Tôi nhìn về đường chân trời. Lại hơn một lần, tôi phát hiện ra lũ quái vật. Một chùm nước cao như một tòa nhà chọc trời phun tung tóe trong ánh trăng. Một dây gai xanh trượt trên những con sóng – có thứ gì đó như động vật bò sát, có lẽ phải dài tới ba mươi mét. Tôi thực sự không muốn biết về nó.
Có lúc tôi nhìn thấy nữ thần biển – các vị tiên nữ rực rỡ của biển cả. Tôi cố gắng vẫy tay về phía họ nhưng họ đã biến mất trong vực thẳm, bỏ lại tôi với ngờ vực không rõ họ đã nhìn thấy tôi chưa.
Quãng sau nửa đêm, Annabeth leo lên boong tàu. Chúng tôi vừa đi qua một hòn đảo có núi lửa đang phun khói. Biển sôi lên sùng sục và bốc hơi quanh bờ biển.
“Một trong những lò rèn của Hephaestus,” Annabeth nói. “Nơi ông ta tạo nên những con quái vật kim loại.”
“Giống như lũ bò rừng ư?”
Cô ấy gật đầu. “Đi vòng qua nó, vòng ra xa vào.”
Tôi không cần được nhắc nhở lần thứ hai. Chúng tôi tránh xa hòn đảo và chẳng mấy chốc nó chỉ là một khoảnh đất đỏ mù sương phía sau chúng tôi.
Tôi nhìn Annabeth. “Nguyên do khiến cậu ghét người Cyclops nhiều như vậy… câu chuyện về việc Thalia thực sự bị chết ra sao. Chuyện gì đã xảy ra?”
Rất khó để nhìn nét biểu cảm của cô ấy trong bóng tối.
“Tớ nghĩ là cậu đáng được biết,” cuối cùng cô ấy kết luận. “Cái đêm Grover hộ tống bọn tớ về trại, cậu ấy bị bối rối và dẫn sai đường. Cậu có nhớ rằng cậu ấy đã từng kể cho cậu nghe về chuyện này không?”
Tôi gật đầu.
“Ừ, con đường sai lầm tệ hại nhất đó dẫn thẳng tới một cái hang của Cyclops ở Brooklyn.”
“Có người Cyclops ở Brooklyn sao?” Tôi hỏi.
“Cậu sẽ không thể tin người Cyclops có nhiều như thế nào đâu, nhưng đó không phải là vấn đề. Tên Cyclops này, hắn đã lừa bọn tớ. Hắn sắp xếp tách bọn tớ ra ở dãy hàng lang mê cung trong một căn nhà cũ ở Flatbush. Và hắn có thể giả được giọng của bất kỳ ai, Percy à. Giống kiểu Tyson đã làm khi ở trên tàu Công chúa Andromeda. Hắn nhử bọn tớ cùng lúc. Thalia nghĩ rằng cô ấy đang chạy tới cứu Luke. Luke lại nghĩ rằng anh ấy nghe thấy tớ kêu cứu. Và tớ… tớ chỉ đang đứng một mình trong bóng tối. Tớ mới bảy tuổi và thậm chí không thể tìm thấy vị trí của cánh cửa.”
Cô ấy đẩy một ít tóc ra khỏi mặt mình. “Tớ nhớ ra cách tìm tới căn phòng chính. Có rất nhiều xương trên sàn nhà. Và rồi, Thalía, Luke, Grover bị trói và bịt miệng, bị treo trên trần nhà như những súc giăm bông hun khói. Tên Cyclops đó bắt đầu nhóm lửa lên ở giữa phòng. Tớ rút con dao ra nhưng hắn đã nghe thấy tiếng của tớ. Hắn quay lại và mỉm cười. Hắn nói và không biết bằng cách nào đó, hắn biết giọng của bố tớ. Tớ đoán rằng hắn đã lấy nó ra từ trí nhớ của tớ. Hắn nói. “Nào, Annabeth, con đừng lo lắng. Cha yêu con. Con có thể ở đây với cha. Con có thể ở đây mãi mãi.”
Tôi rùng mình. Cái cách mà cô ấy kể ra chuyện này – thậm chí tới giờ, đã sáu năm rồi – vẫn làm tôi khiếp hãi hơn bất kỳ câu chuyện ma nào mà tôi từng nghe. “Thế cậu đã làm gì?”
“Tớ đã đâm vào bàn chân hắn.”
Tôi nhìn cô ta chằm chằm. “Cậu đùa đấy à? Cậu mới bảy tuổi và cậu đâm vào chân một gã Cyclops đã trưởng thành sao?”
“Ừ, hắn suýt giết tớ. Nhưng tớ đã làm hắn ngạc nhiên. Điều đó giúp tớ đủ thời gian để chạy tới chỗ Thalia và cắt dây trói cho cô ấy. Và cô ấy làm tiếp những việc còn lại.”
“Ừ… nhưng vẫn… cực kỳ gan dạ, Annabeth à.”
Cô ấy lắc đầu: “Bọn tớ chỉ đủ sống sót thôi. Tớ vẫn còn gặp những cơn ác mộng, Percy à. Cái cách mà tên Cyclops đó nói bằng giọng của bố tớ. Hắn ta đã khiến bọn tớ mất rất nhiều thời gian để về trại. Tất cả lũ quái vật đang đuổi theo bọn tớ đã có đủ thời gian để theo kịp. Đó là lý do thực sự khiến Thalia bị chết. Nếu không gặp phải tên Cyclops đó, cô ấy vẫn còn sống tới tận ngày nay.”
Chúng tôi ngồi trên boong tàu, ngắm nhìn chòm sao Heracles đang dần hiện lên trên bầu trời đêm.
“Cậu xuống bên dưới đi,” cuối cùng Annabeth nói với tôi. “Cậu cần được nghỉ ngơi.”
Tôi gật đầu. Mắt tôi nặng trĩu. Nhưng khi tôi xuống dưới và tìm thấy chiếc võng, tôi phải mất khá lâu mới có thể ngủ thiếp đi. Tôi vẫn tiếp tục nghĩ về câu chuyện của Annabeth. Tôi tự hỏi nếu mình là cô ấy, liệu tôi có đủ dũng cảm để thực hiện cuộc tìm kiếm này, chèo thẳng tới cái hang của một tên Cyclops khác?
Tôi không mơ thấy Grover.
Thay vào đó, tôi tìm thấy mình quay trở lại cabin của Luke trên con tàu Công chúa Andromeda. Những bức màn đã được mở toang. Giờ đang vào ban đêm. Bầu không khí cứ xoay tít cùng những chiếc bóng. Những giọng nói thì thầm quanh tôi – những linh hồn chết.
Hãy cẩn thận, họ thì thầm. Những cái bẫy. Lừa đảo.
Chiếc quan tài bằng vàng của Kronos tỏa ánh sáng mờ nhạt – nguồn ánh sáng duy nhất trong căn phòng.
Một tràng cười lạnh lẽo khiến tôi giật mình. Nó như thể đến từ hàng dặm bên dưới con tàu. Ngươi có lòng gan dạ, chàng trai trẻ à. Ngươi không thể ngăn được ta.
Tôi biết điều tôi phải làm. Tôi phải mở chiếc quan tài ra.
Tôi mở nắp cây Thủy Triều. Những bóng ma xoay vòng quanh tôi như một cơn lốc xoáy. Hãy cẩn thận!
Trái tim tôi đập thình thịch. Tôi không thể di chuyển được bước chân mình, nhưng tôi phải chặn đứng Kronos lại. Tôi phải phá hủy thứ để trong chiếc quan tài đó.
Rồi một cô gái nói ngay sát bên tôi, “Này, Óc Tảo Biển?”
Tôi nhìn sang, hy vọng được nhìn thấy Annabeth nhưng cô gái đó lại không phải là Annabeth. Cô ta mặc bộ đồ kiểu punk-style[11] với xích bạc ở cổ tay. Cô ta có mái tóc đen bóng, đường viền mắt màu đen quanh đôi mắt xanh và tàn nhang trên mũi. Nom cô ta khá thân thiện nhưng tôi không dám chắc tại sao.
“Thế nào?” cô ta hỏi. “Chúng ta sẽ đi ngăn chặn hắn lại hay không nào?”
Tôi không thể trả lời. Tôi không thể di chuyển.
Cô gái đảo mắt. “Thôi được. Để chuyện đó cho tớ và Aegis.”
Cô ta vỗ nhẹ vào cổ tay và sợi xích bạc của cô ta biến hình – phẳng ra và giãn ra thành một cái khiên lớn. Đó là một cái khiên làm bằng bạc và đồng với những gương mặt gớm guốc của Medusa lồi ra ở chính giữa. Nó giống như một mặt nạ của thần chết, cứ như thể chiếc đầu thật của nữ thần tóc rắn đã bị ấn vào kim loại. Tôi không biết liệu đây có phải đầu thật hoặc chiếc khiên có thể khiến tôi hóa đá ở đây không nhưng tôi vẫn nhìn ra nơi khác. Tôi có cảm giác rằng một cuộc chiến thực sự, người mang chiếc khiên này hầu như chẳng phải động tay động chân. Bất cứ kẻ thù nào còn tỉnh táo cũng sẽ quay đầu lại và bỏ chạy.
Cô gái rút thanh kiếm của mình ra và tiến về phía chiếc quan tài. Bóng của những con ma tự động rẽ ra nhường đường cho cô ta, chạy tán loạn trước luồng khí khủng khiếp tỏa ra từ chiếc khiên của cô ta.
“Đừng làm thế,” tôi cố cảnh báo cô ta,
Nhưng cô ta không nghe được tiếng tôi. Cô ta tiến thẳng đến chiếc quan tài và đẩy nắp quan tài vàng sang một bên.
Cô ta đứng đó trong giây lát, nhìn chằm chằm xuống vật trong quan tài.
Chiếc quan tài bắt đầu rực sáng lên.
“Không.” Giọng cô gái run rẩy. “Nó không thể là ...”
Từ sâu dưới đáy đại dương, Knonos cười to đến mức cả con tàu rung lên.
“Không!” Cô gái hét lên khi chiếc quan tài như nuốt chửng cô ta vào trong một luồng ánh sáng vàng.
“Ah!” Tôi ngồi bật dậy thẳng đứng trên chiếc võng.
Annabeth đang ra sức lay tôi. “Percy, cậu đang gặp một cơn ác mộng đấy. Cậu cần phải tỉnh dậy ngay thôi.”
“C-cái gì cơ?” Tôi dụi mắt. “Có chuyện gì không ổn à?”
“Đất liền,” cô ấy dõng dạc nói. “Chúng ra đang tiến tới hòn đảo của Ba chị em nhà Siren
(12).”
Tôi khó có thể nhận ra hòn đảo này ngày phía trước chúng tôi – nó chỉ là một cái chấm đen nhỏ trong sương mù.
“Tớ muốn nhờ cậu giúp một việc,” Annabeth nói. “Ba chị em nhà Siren... chúng ta đi vào khu vực có thể nghe rõ tiếng hát của họ.”
Tôi nhớ đến những câu chuyện về Ba chị em nhà Siren. Giọng hát của họ quá ngọt ngào đến nỗi đã làm các thủy thủ mê mẩn và cám dỗ họ tới chết.
“Không sao đâu,” tôi quả quyết. “Chúng ta có thể bịt chặt tai chúng ta lại. Có một bình lớn sáp nến ở dưới boong...”
“Tớ muốn nghe họ hát cơ.”
Tôi chớp mắt kinh ngạc. “Tại sao?”
“Mọi người đều nói rằng Ba chị em nhà Siren hát lên sự thật về điều mà cậu khao khát. Họ nói cho cậu biết mọi thứ về bản thân cậu, những điều mà thậm chí chính cậu cũng không thể nhận ra. Điều đó quá hấp dẫn. Nếu cậu còn sống sót...cậu sẽ trở thành một nhà thông thái. Tớ muốn nghe họ hát. Cách bao lâu tớ mới có được một cơ hội như vậy?”
Đối với phần lớn mọi người, điều này không có ý nghĩa gì. Nhưng Annabeth đúng như con người cô ấy - ừm, nếu cô ấy có thể chiến đấu với những cuốn sách kiến trúc Hy Lạp cổ đại và thưởng thức những bộ phim tài liệu trên Kênh History, thì tôi đoán rằng ba chị em nhà Siren cũng hấp dẫn cô ấy.
Cô ấy nói cho tôi về kế hoạch của mình. Tôi miễn cưỡng giúp cô ấy chuẩn bị.
Ngay khi bờ biển bằng đá của hòn đảo hiện ra tầm mắt, tôi ra lệnh cho một trong những sợi dây thừng quấn quanh vòng eo của Annabeth, rồi buộc chặt cô ấy vào cột buồm mũi.
“Đừng có thả tớ ra nhé,” cô ấy kêu lên, “cho dù có xảy ra việc gì hoặc tớ cầu xin nhiều như thế nào. Tớ sẽ muốn trực tiếp chịu đựng sự hành hạ về tinh thần và lao mình xuống.”
“Cậu đang cố lôi kéo tớ đấy à?”
“Ha ha...”
Tôi hứa sẽ đảm bảo an toàn cho cô ấy. Rồi tôi lôi ra miếng sáp nến thật to, nặn chúng lại thành nút nhét tai và nhét ngay vào tai.
Annabeth gục gục đầu đầy châm biếm, để tôi biết bằng nút nhét tai của tôi giờ đây là một lời tuyên bố chân chính về thời trang. Tôi nhăn mặt làm trò cười với cô ấy và quay trở lại với bánh lái tàu.
Sự im lặng thật kỳ quái. Tôi không thể nghe thấy thứ gì ngoại trừ tiếng đập gấp gáp của dòng máu vang lên trong đầu tôi. Khi chúng tôi tới được đảo, những khối đá lởm chởm đã hiện ra lờ mờ khỏi màn sương. Tôi buộc chiếc Queen Anne’s Revenge đi vòng quanh chúng. Nếu chúng tôi đến gần chúng hơn, những tảng hòn đá sẽ xé vụn thân tàu của chúng tôi như những lưỡi dao của máy xay sinh tố.
Tôi liếc nhìn về phía sau. Thoạt đầu, Annabeth nom vẫn hoàn toàn bình thường. Rồi cô ấy có một cái nhìn bối rối trên mặt. Mắt cô mở lớn.
Cô ấy căng thẳng như muốn thoát khỏi sợ dây thừng. Cô ấy gọi tên tôi – tôi có thể nói điều đó nhờ việc đọc đôi môi cô ấy. Nét mặt cô ấy quá rõ ràng: cô ấy phải thoát khỏi điều đó. Đó là cuộc sống hay cái chết. Tôi phải giải thoát cô ấy ra khỏi đám dây thừng ngay bây giờ.
Cô ấy dường như quá khổ sở khiến tôi không thể cắt dây giải thoát cho cô ấy.
Tôi buộc mình phải nhìn đi nơi khác. Tôi giục chiếc tàu Queen Anne’s Revenge phải đi nhanh hơn.
Tôi vẫn không thể nhìn thấy gì nhiều về hòn đảo – chỉ toàn sương mù và đá – nhưng dập dờn trên mặt nước là những mảnh gỗ và sợi thủy tinh, các mảnh vụn của những chiếc tàu cũ kĩ, thậm chí là vài chiếc nệm máy bay nổi bồng bềnh.
Làm thế nào mà âm nhạc có thể khiến bao nhiêu sinh mạng phải xoay chuyển nhỉ? Ý tôi là, tôi thừa nhận có một số ca khúc trong bảng xếp hạng Top Forty khiến tôi muốn nhảy bổ nhào ra khỏi máy bay, nhưng vẫn chỉ là ... Ba chị em nhà Siren có thể hát về điều gì?
Trong một khoảnh khắc cực kì nguy hiểm, tôi hiểu được tính hiếu kỳ của Annabeth. Tôi muốn được tháo nút nhét tai ra khỏi tai, chỉ để thưởng thức ca khúc. Tôi có thể cảm nhận được tiếng hát của Ba chị em nhà Siren ngân lên trong những thớ gỗ của con tàu, dao động cùng với tiếng gào thét của máu trong tai tôi.
Annabeth đang nài nỉ tôi. Những dòng nước mắt tuôn rơi trên gò má cô ấy. Cô ấy giẫy dụa với đám dây thừng như thể chúng đang giữ cô ấy khỏi mọi thứ mà cô ấy quan tâm.
Sao cậu có thể tàn nhẫn như vậy? cô ấy như thể đang cầu xin tôi. Tớ biết cậu là bạn tớ mà.
Tôi nhìn chằm chằm vào hòn đảo đầy sương mù. Tôi muốn mở nắp cây kiếm của mình, nhưng chẳng có gì để chiến đấu. Bạn có thể tấn công một bài hát như thế nào?
Tôi cố gắng hết sức để không nhìn Annabeth. Tôi cố làm điều đó trong khoảng thời gian năm phút.
Đó là sai lầm lớn của tôi.
Khi tôi không thể chịu đựng được lâu hơn, tôi quay đầu nhìn lại và thấy... một đống dây thừng đã bị cắt. Cột buồm trống trơn. Con dao đồng của Annabeth nằm trên sàn. Không biết bằng cách nào, cô ấy đã tuồn được nó vào tay mình. Tôi đã quên mất không tước hẳn vũ khí của cô ấy.
Tôi vội lao về phía một mạn tàu và nhìn cô ấy đang bơi điên cuồng về phía đảo. Những cơn sóng đưa cô ấy lao thẳng tới những tảng đá lởm chởm.
Tôi hét lên gọi tên cô ấy. Nhưng dẫu cô ấy có nghe thấy tôi, cũng chả có tác dụng gì tốt đẹp. Cô ấy đã bị mê hoặc và đang bơi tới cái chết.
Tôi nhìn về chỗ bánh lái và kêu lên: “Đứng yên ở đây!”
Rồi tôi nhảy vào biển từ mạn thuyền.
Tôi xé mặt nước và lao sâu xuống và buộc những dòng nước quấn quanh người tôi, tạo nên một dòng nước phun bắn vọt tôi về phía trước.
Tôi vọt lên mặt nước và phát hiện thấy Annabeth, những một cơn sóng đã túm chặt lấy và cuốn cô ấy về phía giữa hai tảng đá có cạnh sắc như dao cạo.
Tôi không có lựa chọn nào khác. Tôi lao theo sau cô ấy.
Tôi lặn xuống dưới thân một chiếc du thuyền bị đắm, len lỏi qua một bộ sưu tầm những quả bóng kim loại trôi nổi trên dây xích mà sau đó tôi nhận ra là những trái mìn. Tôi phải dùng tất cả sức mạnh của mình đối với nước để tránh không bị va đập vào các tảng đá hoặc bị mắc vào những cuộn dây thép gai được căng ra chỉ bên dưới mặt nước.
Tôi được phun vọt giữa hai lớp răng cửa nhọn vắt của hai tảng đá và phát hiện thấy mình đang ở trong một cái vịnh hình bán nguyệt. Nước bị giữ lại bởi rất nhiều khối đá, các mảnh vụn của các con tàu và những quả mìn đang nổi trên mặt nước. Trên bãi biển đầy cát đen núi lửa.
Tôi nhìn quanh để tìm kiếm Annabeth.
Cô ấy ở kia.
Không biết may mắn hay không, cô ấy bơi rất giỏi. Cô ấy vượt qua lớp mìn và những tảng đá. Cô ấy đã gần tới được bãi biển đen kia.
Rồi màn sương mù tan ra và tôi nhìn thấy họ - Ba chị em nhà Siren.
Hãy tưởng tượng một bầy kền kền có kích thước bằng con người – với bộ lông chim bẩn thỉu đen đúa, những móng vuốt màu xám và những chiếc cổ màu hồng nhăn nhúm lại. Giờ hãy tưởng tượng những chiếc đầu người được gắn vào phía trên chiếc cổ đó, nhưng những chiếc đầu đó lại liên tục biến đổi.
Tôi không thể nghe rõ họ nói gì, nhưng tôi có thể nhìn thấy họ đang hát. Khi miệng họ chuyển động, gương mặt họ biến thành những người mà tôi biết – mẹ tôi, thần Poseidon, Grover, Tyson, bác Chiron. Tất cả những người mà tôi đều muốn gặp. Họ cười động viên, bảo tôi tiến lên phía trước. Nhưng dù họ biến thành hình gì đi nữa, mồm miệng họ cũng trơn trơn đầy mỡ và đóng kết lại bởi thức ăn thừa còn sót lại. Giống như lũ chim kền kền, họ ăn bằng cách vục cả khuôn mặt của mình vào đồ ăn và nom không hề giống như họ vừa mới dự tiệc ở của tiệm bánh Donut Quái vật tí nào.
Annabeth bơi về phía họ.
Tôi biết mình không thể để cô ấy rời khỏi mặt nước. Đại dương là lợi thế duy nhất của tôi. Nó luôn luôn bảo vệ tôi bằng cách này hay cách khác. Tôi đẩy người về phía trước và chộp lấy mắt cá chân của cô ấy.
Đúng lúc chạm vào cô ấy, một cơn sốc nhẹ lan khắp cơ thể tôi. Và tôi nhìn Ba chị em nhà Siren theo cách mà Annabeth ắt phải đang nhìn họ.
Ba người ngồi trên một chiếc khăn trải picnic ở Central Park. Một bữa tiệc đã trải dài trước mặt họ. Tôi nhận ra cha của Annabeth từ những bức hình mà cô ấy đã cho tôi xem – đó là người đàn ông nom khá thể thao, với mái tóc màu vàng nhạt ở tuổi bốn mươi. Ông đang cầm tay một người phụ nữ xinh đẹp nom rất giống Annabeth. Bà ta ăn bận giản dị - quần jeans xanh, áo sơ mi bằng vải denim và giày leo núi – nhưng có thứ gì đó phát ra sức mạnh từ người phụ nữ này. Tôi biết mình đang nhìn thấy nữ thần Athena. Ngồi kế bên họ là một chàng trai trẻ... Luke.
Toàn bộ cảnh này tỏa trong một thứ ánh sáng ấm áp và ngọt ngào. Ba người họ đang nói chuyện và cười vui vẻ. Và khi họ nhìn thấy Annabeth, gương mặt họ tươi cười vui sướng. Bố mẹ Annabeth đưa tay ra chào đón. Luke cười toe toét và ra hiệu cho Annabeth tới ngồi cạnh anh ấy – như thể anh ấy chưa bao giờ phản bội cô, như thể anh ấy vẫn còn là bạn của cô ấy.
Phía sau những hàng cây của Central Park, cảnh quan thành phố xuất hiện. Tôi nín thở vì đó là Manhattan, nhưng không phải là Manhattan. Nó đã được xây dựng lại hầu như toàn bộ bằng đá cẩm thạch trắng sáng chói, thậm chí còn lớn hơn, đồ sộ hơn với những cửa sổ bằng vàng và những khu vườn trên mái nhà. Nó tuyệt vời hơn New York. Tuyệt vời hơn cả đỉnh Olympus.
Tôi lập tức hiểu ngay rằng Annabeth đã thiết kế nên tất cả. Cô ấy là kiến trúc sư cho cả thế giới mới. Cô ấy đã cứu được Luke. Cô ấy đã làm tất cả những gì mà cô ấy từng mong muốn.
Tôi nhắm chặt mắt lại. Khi tôi mở mắt ra, tất cả những gì tôi nhìn thấy là Ba chị em nhà Siren – những con kền kền tả tơi với bộ mặt người, đang chuẩn bị xơi tái thêm một nạn nhân nữa.
Tôi kéo Annabeth quay trở lại con sóng. Tôi không thể nghe thấy, nhưng tôi có thể nói rằng cô ấy đang la hét. Cô ấy đạp vào mặt tôi nhưng tôi cứ giữ chặt.
Tôi bắt các dòng nước đưa chúng tôi ra khỏi vịnh. Annabeth đấm thùm thụp và đá vào người tôi, làm tôi khó tập trung được. Cô ấy quẫy đạp nhiều tới mức tôi suýt đụng phải một quả mìn đang trôi. Tôi không biết phải làm gì. Tôi sẽ không thể trở về con tàu còn nguyên lành nếu cô ấy cứ tiếp tục đánh tôi như vậy.
Chúng tôi lặn xuống dưới và Annabeth ngừng vật lộn. Vẻ mặt cô ấy trông bối rối. Nhưng khi đầu chúng tôi vừa thò lên khỏi mặt nước, cô ấy lại bắt đầu đánh tôi.
Nước! m thanh truyền đi không được tốt dưới nước. Nếu tôi có thể dìm cô ấy đủ lâu, tôi có thể phá bỏ sự ảnh hưởng của nó với Annabeth. Tất nhiên Annabeth sẽ không thở được, nhưng vào lúc này, việc đó dường như không còn quan trọng.
Tôi túm chặt lấy eo cô ấy và yêu cầu sóng đẩy chúng tôi xuống bên dưới.
Chúng tôi được bắn thẳng xuống vực – ba mét, rồi sáu mét. Tôi biết tôi phải rất cẩn thận vì tôi có thể chịu đựng được nhiều áp lực hơn so với Annabeth. Cô ấy chống trả và cựa quậy để thở khi bong bóng nổi lên quanh chúng tôi.
Bong bóng.
Tôi tuyệt vọng. Tôi phải giữ cho Annabeth được sống. Tôi tưởng tượng ra tất cả những bong bóng trong đại dương – luôn luôn nổi sóng, trào dâng. Tôi tưởng tượng chúng đang cùng nhau tiến về phía tôi.
Biển cả nghe theo lời tôi. Có một cơn gió mạnh màu trắng, một cảm giác mơn trớn vây quanh lấy tôi. Và khi tầm nhìn của tôi rõ ràng, Annabeth và tôi có được một bong bóng khí lớn vây quanh. Chỉ có chân chúng tôi vẫn ở dưới nước.
Cô ấy thở hổn hển và ho khan. Toàn thân cô ấy run bắn nhưng khi cô ấy nhìn tôi, tôi biết bùa mê đã bị phá tan.
Cô ấy bắt đầu khóc nức nở - ý tôi là tiếng nức nở thảm thiết, xé ruột. Cô ấy tựa đầu lên vai tôi và tôi ôm cô ấy.
Lũ cá tụ tập nhìn chúng tôi – đó là một bầy cá nhồng và một vài con cá maclin tò mò.
Biến! Tôi nói với chúng.
Chúng bơi đi, nhưng tôi có thể nói rằng chúng rất miễn cưỡng khi bỏ đi. Tôi thề rằng tôi hiểu được ý định của chúng. Chúng định bắt đầu đi loan tin khắp đại dương rằng con trai của thần Poseidon và cô gái nào đó ở bên dưới đáy của Vịnh Siren.
“Tớ phải đưa chúng ta quay về tàu,” tôi nói với cô ấy. “Ổn thôi, cậu chỉ cần bám vào nhé.”
Annabeth gật đầu để tôi biết giờ đây cô ấy đã khá hơn. Nhưng cô ấy lẩm bẩm điều gì đó mà tôi không thể nghe được vì sáp nến vẫn còn trong tai tôi.
Tôi bảo dòng nước lái chiếc tàu ngầm không khí nhỏ bé kỳ lạ của chúng tôi qua những tảng đá và dây thép gai, quay lại thân tàu chiếc Queen Anne’s Revenge – chiếc đang duy trì tốc độ chạy chậm và ổn định rời khỏi hòn đảo.
Chúng tôi ở dưới nước, theo sau con tàu, mãi cho tới khi tôi đoán rằng chúng tôi đã ra khỏi tầm nghe của Ba chị em nhà Siren. Sau đó tôi nổi trên mặt nước và bong bóng không khí của chúng tôi nổ tung.
Tôi yêu cầu một cái thang dây rơi xuống từ một bên hông chiếc thuyền và chúng tôi trèo lên.
Tôi vẫn giữ nút nhét tai, chỉ là để cho chắc chắn. Chúng tôi lái tàu đi cho tới khi hòn đảo hoàn toàn thoát khỏi tầm nhìn. Annabeth ngồi co người lại trong một tấm chăn ở phía mũi tàu. Cuối cùng cô ấy nhìn lên, bàng hoàng và buồn bã, nói to, An toàn rồi.
Tôi bỏ nút nhét tai ra. Không còn tiếng hát nữa. Buổi chiều hoàn toàn yên bình trừ tiếng sóng vỗ vào mạn tàu. Sương mù tan biến đi lộ ra bầu trời xanh ngắt, như thể hòn đảo của Ba chị em nhà Siren chưa bao giờ tồn tại.
“Cậu có sao không?” tôi hỏi. Vừa nói ra, tôi nhận thấy câu hỏi đó nghe mới khập khiễng làm sao. Tất nhiên cô ấy không ổn.
“Tớ đã không nhận ra,” cô ấy thì thầm.
“Cái gì cơ?”
Đôi mắt cô ấy có cùng màu như khi sương mù bao phủ lên khắp hòn đảo của Ba chị em nhà Siren. “Sự cám dỗ có sức mạnh lớn như thế nào.”
Tôi không muốn thú nhận rằng tôi đã nhìn thấy điều mà Ba chị em nhà Siren đã hứa hẹn với cô ấy. Tôi có cảm giác như một kẻ phạm tội. Nhưng tôi nghĩ rằng tôi phải nói với Annabeth về điều này.
“Tớ đã nhìn thấy cách cậu xây dựng lại Manhattan,” tôi nói với cô ấy. “Cả Luke và bố mẹ cậu nữa.”
Cô ấy đỏ mặt. “Cậu đã thấy điều đó à?”
“Điều mà Luke đã nói với cậu trước đây trên con tàu Công chúa Andromeda, về việc bắt đầu thế giới lại từ con số không... nó thực sự đúng với cậu, nhỉ?”
Cô ấy kéo chăn lên quanh mình. “Sai lầm chí tử của mình. Đó là những thứ mà Ba chị em nhà Siren đã chỉ ra cho mình. Sai lầm chí tử của mình chính là quá ngạo mạn.”
Tôi chớp chớp mắt. “Cái đống nâu nâu mà họ rải trên bánh sanwiches toàn rau à?”
Cô ấy đảo mắt. “Không phải. Óc Tảo Biển. Cái đó gọi là hummus – một thứ sền sệt được làm bằng đậu xanh, hạt vừng và tỏi. Còn từ mà tớ nói thì tệ hơn rất nhiều.”
“Còn có thứ gì tồi tệ hơn cả hummus nhỉ?”
“Từ tớ nói đến có nghĩa là hết sức kiêu ngạo, Percy à. Nghĩ rằng cậu có thể làm được những việc còn tốt hơn người khác... thậm chí tốt hơn cả thần thánh.”
“Cậu nghĩ vậy sao?”
Cô ấy nhìn xuống. “Thế cậu đã bao giờ nghĩ, cái gì sẽ xảy ra nếu thế giới này thực sự bị phá hủy? Cái gì sẽ xảy ra nếu chúng ta có thể xây dựng lại nó từ đầu? Không còn chiến tranh nữa. Không có ai bị vô gia cư. Không có bài tập đọc trong mùa hè nữa.”
“Tớ đang nghe đây.”
“Ý tớ là, phương Tây đại diện cho rất nhiều thứ tốt đẹp mà loài người từng làm – đó là lý do tại sao lửa vẫn đang cháy. Đó là lý do tại sao đỉnh Olympus vẫn còn ở quanh đây. Nhưng đôi khi cậu chỉ có thể nhìn thấy những thứ tồi tệ, cậu hiểu không? Và cậu bắt đầu nghĩ theo cách của Luke: ‘Nếu tôi có thể giật đổ nó, rồi sẽ làm cho nó tốt hơn.’ Cậu chưa bao giờ nghĩ như vậy sao? Như thể cậu có thể làm được một việc tốt hơn nếu cậu điều khiển cả thế giới?”
“Ừm... không. Tớ mà điều hành cả thế giới thì có khác gì cơn ác mộng.”
“Thế thì cậu may mắn. Sự ngạo mạn không phải là sai lầm chí tử của cậu.”
“Đó là cái gì?”
“Tớ không biết, Percy à. Nhưng tất cả anh hùng đều có một cái như thế. Nếu cậu không phát hiện ra và học cách chế ngự nó... ừm, họ sẽ không gọi nó là “chí tử” mà không có ý gì đó.”
Tôi nghĩ về điều đó. Chính xác thì nó không làm tôi vui lên nổi.
Tôi chú ý thấy Annabeth không nói nhiều về những điều riêng tư mà cô ấy sẽ thay đổi – như giúp bố mẹ quay lại với nhau, hoặc cứu Luke chẳng hạn. Tôi hiểu điều này. Tôi không muốn thú nhận rằng không biết bao nhiêu lần tôi đã mơ thấy bố mẹ mình quay lại với nhau.
Tôi đã hình dung ra mẹ tôi cô độc trong căn hộ nhỏ xíu của chúng tôi ở Upper East Site như thế nào. Tôi cố gắng nhớ lại cái mùi những chiếc bánh quế màu xanh của bà trong bếp. Chúng dường như đã xa vời.
“Thế nó có đáng giá không?” tôi hỏi Annabeth. “Cậu có cảm thấy... thông thái hơn không?”
Cô ấy nhìn xa xăm. “Tớ không chắc nữa. Nhưng chúng ta phải cứu trại. Nếu chúng ta không chặn được Luke...”
Cô ấy không cần phải nói hết. Nếu cách nghĩ của Luke thậm chí có thể lôi kéo được Annabeth thì chẳng thể nói được có bao nhiêu đứa con lai khác sẽ gia nhập cùng hội của anh ta.
Tôi nghĩ về giấc mơ của mình liên quan tới cô gái lạ và chiếc quan tài vàng. Tôi không dám chắc nó mang ý nghĩa gì nhưng tôi có cảm giác rằng tôi đang bỏ lỡ điều gì đó. Điều gì thật kinh khủng mà Kronos đang lên kế hoạch. Cô gái đó đã nhìn thấy gì khi mở nắp quan tài nhỉ?
Đột nhiên mắt Annabeth mở to ra. “Percy.”
Tôi quay lại.
Phía trước là một gò đất khác – một hòn đảo hình yên ngựa với những đồi rừng và những bờ biển trắng, những bãi cỏ xanh mướt – giống hệt như tôi từng nhìn thấy trong các giấc mơ.
Những giác quan hàng hải của tôi đã khẳng định chúng. Ba mươi độ, ba mươi mốt phút Bắc, bảy mươi lăm độ, mười hai phút Tây.
Chúng tôi đã tới nhà của Cyclops.
Con tàu Queen Anne’s Revenge đã đáp lại từng mệnh lệnh của tôi. Tôi biết dây thừng nào để tời, cánh buồm nào cần được kéo lên, hướng nào để lái. Chúng tôi rẽ sóng với vận tốc mà tôi đoán là khoảng mười hải lý. Thậm chí tôi hiểu được nó nhanh như thể nào. Đối với một con thuyền buồm, đi với vận tốc như thế này là cực kỳ nhanh.
Tất cả đều có cảm giác hoàn hảo – gió vương trên mặt, những con sóng vỡ tung trước mũi thuyền.
Bây giờ chúng tôi đã thoát được khỏi nguy hiểm, tất cả những gì tôi có thể nghĩ được là tôi nhớ Tyson nhiều như thế nào và tôi lo lắng về Grover như thế nào.
Tôi không thể vượt qua được việc tôi đã bị cư xử tệ như thể nào ở đảo Circe. Nếu không có Annabeth, tôi vẫn là một loài gặm nhắm, trốn trong một chiếc xuồng với một bầy cướp biển lông thú xinh xắn. Tôi nghĩ về điều mà Circe đã nói: Thấy chưa, Percy? Ngươi lộ ra con người thật của chính mình!
Tôi cảm thấy có chút thay đổi. Không chỉ vì tôi đột nhiên thèm được ăn rau diếp. Tôi cảm thấy hốt hoảng, như thể bản năng là một động vật nhỏ bé sợ hãi giờ đây đã là một phần trong tôi. Hoặc có thể nó đã luôn ở đó. Đây mới là điều khiến tôi thực sự lo lắng.
Chúng tôi đi suốt cả đêm.
Annabeth cố gắng giúp tôi trong việc canh gác, nhưng con thuyền không đồng ý với cô ấy. Sau vài tiếng đồng hồ đung đưa lên xuống, gương mặt cô ấy chuyển sang màu xanh của xốt guacamole(1) và cô ấy buộc phải leo xuống nằm trên võng.
(1) Một loại xốt làm từ trái bơ có nguồn gốc từ Mexico. Tên guacamole bắt nguồn từ tiếng Aztec Nahuatl – ahuacatl (trái bơ) và malli (nước sốt). Mẹo để làm được một guacamole cực ngon là chọn bơ ngon và đủ độ chín.(ND)
Tôi nhìn về đường chân trời. Lại hơn một lần, tôi phát hiện ra lũ quái vật. Một chùm nước cao như một tòa nhà chọc trời phun tung tóe trong ánh trăng. Một dây gai xanh trượt trên những con sóng – có thứ gì đó như động vật bò sát, có lẽ phải dài tới ba mươi mét. Tôi thực sự không muốn biết về nó.
Có lúc tôi nhìn thấy nữ thần biển – các vị tiên nữ rực rỡ của biển cả. Tôi cố gắng vẫy tay về phía họ nhưng họ đã biến mất trong vực thẳm, bỏ lại tôi với ngờ vực không rõ họ đã nhìn thấy tôi chưa.
Quãng sau nửa đêm, Annabeth leo lên boong tàu. Chúng tôi vừa đi qua một hòn đảo có núi lửa đang phun khói. Biển sôi lên sùng sục và bốc hơi quanh bờ biển.
“Một trong những lò rèn của Hephaestus,” Annabeth nói. “Nơi ông ta tạo nên những con quái vật kim loại.”
“Giống như lũ bò rừng ư?”
Cô ấy gật đầu. “Đi vòng qua nó, vòng ra xa vào.”
Tôi không cần được nhắc nhở lần thứ hai. Chúng tôi tránh xa hòn đảo và chẳng mấy chốc nó chỉ là một khoảnh đất đỏ mù sương phía sau chúng tôi.
Tôi nhìn Annabeth. “Nguyên do khiến cậu ghét người Cyclops nhiều như vậy… câu chuyện về việc Thalia thực sự bị chết ra sao. Chuyện gì đã xảy ra?”
Rất khó để nhìn nét biểu cảm của cô ấy trong bóng tối.
“Tớ nghĩ là cậu đáng được biết,” cuối cùng cô ấy kết luận. “Cái đêm Grover hộ tống bọn tớ về trại, cậu ấy bị bối rối và dẫn sai đường. Cậu có nhớ rằng cậu ấy đã từng kể cho cậu nghe về chuyện này không?”
Tôi gật đầu.
“Ừ, con đường sai lầm tệ hại nhất đó dẫn thẳng tới một cái hang của Cyclops ở Brooklyn.”
“Có người Cyclops ở Brooklyn sao?” Tôi hỏi.
“Cậu sẽ không thể tin người Cyclops có nhiều như thế nào đâu, nhưng đó không phải là vấn đề. Tên Cyclops này, hắn đã lừa bọn tớ. Hắn sắp xếp tách bọn tớ ra ở dãy hàng lang mê cung trong một căn nhà cũ ở Flatbush. Và hắn có thể giả được giọng của bất kỳ ai, Percy à. Giống kiểu Tyson đã làm khi ở trên tàu Công chúa Andromeda. Hắn nhử bọn tớ cùng lúc. Thalia nghĩ rằng cô ấy đang chạy tới cứu Luke. Luke lại nghĩ rằng anh ấy nghe thấy tớ kêu cứu. Và tớ… tớ chỉ đang đứng một mình trong bóng tối. Tớ mới bảy tuổi và thậm chí không thể tìm thấy vị trí của cánh cửa.”
Cô ấy đẩy một ít tóc ra khỏi mặt mình. “Tớ nhớ ra cách tìm tới căn phòng chính. Có rất nhiều xương trên sàn nhà. Và rồi, Thalía, Luke, Grover bị trói và bịt miệng, bị treo trên trần nhà như những súc giăm bông hun khói. Tên Cyclops đó bắt đầu nhóm lửa lên ở giữa phòng. Tớ rút con dao ra nhưng hắn đã nghe thấy tiếng của tớ. Hắn quay lại và mỉm cười. Hắn nói và không biết bằng cách nào đó, hắn biết giọng của bố tớ. Tớ đoán rằng hắn đã lấy nó ra từ trí nhớ của tớ. Hắn nói. “Nào, Annabeth, con đừng lo lắng. Cha yêu con. Con có thể ở đây với cha. Con có thể ở đây mãi mãi.”
Tôi rùng mình. Cái cách mà cô ấy kể ra chuyện này – thậm chí tới giờ, đã sáu năm rồi – vẫn làm tôi khiếp hãi hơn bất kỳ câu chuyện ma nào mà tôi từng nghe. “Thế cậu đã làm gì?”
“Tớ đã đâm vào bàn chân hắn.”
Tôi nhìn cô ta chằm chằm. “Cậu đùa đấy à? Cậu mới bảy tuổi và cậu đâm vào chân một gã Cyclops đã trưởng thành sao?”
“Ừ, hắn suýt giết tớ. Nhưng tớ đã làm hắn ngạc nhiên. Điều đó giúp tớ đủ thời gian để chạy tới chỗ Thalia và cắt dây trói cho cô ấy. Và cô ấy làm tiếp những việc còn lại.”
“Ừ… nhưng vẫn… cực kỳ gan dạ, Annabeth à.”
Cô ấy lắc đầu: “Bọn tớ chỉ đủ sống sót thôi. Tớ vẫn còn gặp những cơn ác mộng, Percy à. Cái cách mà tên Cyclops đó nói bằng giọng của bố tớ. Hắn ta đã khiến bọn tớ mất rất nhiều thời gian để về trại. Tất cả lũ quái vật đang đuổi theo bọn tớ đã có đủ thời gian để theo kịp. Đó là lý do thực sự khiến Thalia bị chết. Nếu không gặp phải tên Cyclops đó, cô ấy vẫn còn sống tới tận ngày nay.”
Chúng tôi ngồi trên boong tàu, ngắm nhìn chòm sao Heracles đang dần hiện lên trên bầu trời đêm.
“Cậu xuống bên dưới đi,” cuối cùng Annabeth nói với tôi. “Cậu cần được nghỉ ngơi.”
Tôi gật đầu. Mắt tôi nặng trĩu. Nhưng khi tôi xuống dưới và tìm thấy chiếc võng, tôi phải mất khá lâu mới có thể ngủ thiếp đi. Tôi vẫn tiếp tục nghĩ về câu chuyện của Annabeth. Tôi tự hỏi nếu mình là cô ấy, liệu tôi có đủ dũng cảm để thực hiện cuộc tìm kiếm này, chèo thẳng tới cái hang của một tên Cyclops khác?
Tôi không mơ thấy Grover.
Thay vào đó, tôi tìm thấy mình quay trở lại cabin của Luke trên con tàu Công chúa Andromeda. Những bức màn đã được mở toang. Giờ đang vào ban đêm. Bầu không khí cứ xoay tít cùng những chiếc bóng. Những giọng nói thì thầm quanh tôi – những linh hồn chết.
Hãy cẩn thận, họ thì thầm. Những cái bẫy. Lừa đảo.
Chiếc quan tài bằng vàng của Kronos tỏa ánh sáng mờ nhạt – nguồn ánh sáng duy nhất trong căn phòng.
Một tràng cười lạnh lẽo khiến tôi giật mình. Nó như thể đến từ hàng dặm bên dưới con tàu. Ngươi có lòng gan dạ, chàng trai trẻ à. Ngươi không thể ngăn được ta.
Tôi biết điều tôi phải làm. Tôi phải mở chiếc quan tài ra.
Tôi mở nắp cây Thủy Triều. Những bóng ma xoay vòng quanh tôi như một cơn lốc xoáy. Hãy cẩn thận!
Trái tim tôi đập thình thịch. Tôi không thể di chuyển được bước chân mình, nhưng tôi phải chặn đứng Kronos lại. Tôi phải phá hủy thứ để trong chiếc quan tài đó.
Rồi một cô gái nói ngay sát bên tôi, “Này, Óc Tảo Biển?”
Tôi nhìn sang, hy vọng được nhìn thấy Annabeth nhưng cô gái đó lại không phải là Annabeth. Cô ta mặc bộ đồ kiểu punk-style[11] với xích bạc ở cổ tay. Cô ta có mái tóc đen bóng, đường viền mắt màu đen quanh đôi mắt xanh và tàn nhang trên mũi. Nom cô ta khá thân thiện nhưng tôi không dám chắc tại sao.
“Thế nào?” cô ta hỏi. “Chúng ta sẽ đi ngăn chặn hắn lại hay không nào?”
Tôi không thể trả lời. Tôi không thể di chuyển.
Cô gái đảo mắt. “Thôi được. Để chuyện đó cho tớ và Aegis.”
Cô ta vỗ nhẹ vào cổ tay và sợi xích bạc của cô ta biến hình – phẳng ra và giãn ra thành một cái khiên lớn. Đó là một cái khiên làm bằng bạc và đồng với những gương mặt gớm guốc của Medusa lồi ra ở chính giữa. Nó giống như một mặt nạ của thần chết, cứ như thể chiếc đầu thật của nữ thần tóc rắn đã bị ấn vào kim loại. Tôi không biết liệu đây có phải đầu thật hoặc chiếc khiên có thể khiến tôi hóa đá ở đây không nhưng tôi vẫn nhìn ra nơi khác. Tôi có cảm giác rằng một cuộc chiến thực sự, người mang chiếc khiên này hầu như chẳng phải động tay động chân. Bất cứ kẻ thù nào còn tỉnh táo cũng sẽ quay đầu lại và bỏ chạy.
Cô gái rút thanh kiếm của mình ra và tiến về phía chiếc quan tài. Bóng của những con ma tự động rẽ ra nhường đường cho cô ta, chạy tán loạn trước luồng khí khủng khiếp tỏa ra từ chiếc khiên của cô ta.
“Đừng làm thế,” tôi cố cảnh báo cô ta,
Nhưng cô ta không nghe được tiếng tôi. Cô ta tiến thẳng đến chiếc quan tài và đẩy nắp quan tài vàng sang một bên.
Cô ta đứng đó trong giây lát, nhìn chằm chằm xuống vật trong quan tài.
Chiếc quan tài bắt đầu rực sáng lên.
“Không.” Giọng cô gái run rẩy. “Nó không thể là ...”
Từ sâu dưới đáy đại dương, Knonos cười to đến mức cả con tàu rung lên.
“Không!” Cô gái hét lên khi chiếc quan tài như nuốt chửng cô ta vào trong một luồng ánh sáng vàng.
“Ah!” Tôi ngồi bật dậy thẳng đứng trên chiếc võng.
Annabeth đang ra sức lay tôi. “Percy, cậu đang gặp một cơn ác mộng đấy. Cậu cần phải tỉnh dậy ngay thôi.”
“C-cái gì cơ?” Tôi dụi mắt. “Có chuyện gì không ổn à?”
“Đất liền,” cô ấy dõng dạc nói. “Chúng ra đang tiến tới hòn đảo của Ba chị em nhà Siren
(12).”
Tôi khó có thể nhận ra hòn đảo này ngày phía trước chúng tôi – nó chỉ là một cái chấm đen nhỏ trong sương mù.
“Tớ muốn nhờ cậu giúp một việc,” Annabeth nói. “Ba chị em nhà Siren... chúng ta đi vào khu vực có thể nghe rõ tiếng hát của họ.”
Tôi nhớ đến những câu chuyện về Ba chị em nhà Siren. Giọng hát của họ quá ngọt ngào đến nỗi đã làm các thủy thủ mê mẩn và cám dỗ họ tới chết.
“Không sao đâu,” tôi quả quyết. “Chúng ta có thể bịt chặt tai chúng ta lại. Có một bình lớn sáp nến ở dưới boong...”
“Tớ muốn nghe họ hát cơ.”
Tôi chớp mắt kinh ngạc. “Tại sao?”
“Mọi người đều nói rằng Ba chị em nhà Siren hát lên sự thật về điều mà cậu khao khát. Họ nói cho cậu biết mọi thứ về bản thân cậu, những điều mà thậm chí chính cậu cũng không thể nhận ra. Điều đó quá hấp dẫn. Nếu cậu còn sống sót...cậu sẽ trở thành một nhà thông thái. Tớ muốn nghe họ hát. Cách bao lâu tớ mới có được một cơ hội như vậy?”
Đối với phần lớn mọi người, điều này không có ý nghĩa gì. Nhưng Annabeth đúng như con người cô ấy - ừm, nếu cô ấy có thể chiến đấu với những cuốn sách kiến trúc Hy Lạp cổ đại và thưởng thức những bộ phim tài liệu trên Kênh History, thì tôi đoán rằng ba chị em nhà Siren cũng hấp dẫn cô ấy.
Cô ấy nói cho tôi về kế hoạch của mình. Tôi miễn cưỡng giúp cô ấy chuẩn bị.
Ngay khi bờ biển bằng đá của hòn đảo hiện ra tầm mắt, tôi ra lệnh cho một trong những sợi dây thừng quấn quanh vòng eo của Annabeth, rồi buộc chặt cô ấy vào cột buồm mũi.
“Đừng có thả tớ ra nhé,” cô ấy kêu lên, “cho dù có xảy ra việc gì hoặc tớ cầu xin nhiều như thế nào. Tớ sẽ muốn trực tiếp chịu đựng sự hành hạ về tinh thần và lao mình xuống.”
“Cậu đang cố lôi kéo tớ đấy à?”
“Ha ha...”
Tôi hứa sẽ đảm bảo an toàn cho cô ấy. Rồi tôi lôi ra miếng sáp nến thật to, nặn chúng lại thành nút nhét tai và nhét ngay vào tai.
Annabeth gục gục đầu đầy châm biếm, để tôi biết bằng nút nhét tai của tôi giờ đây là một lời tuyên bố chân chính về thời trang. Tôi nhăn mặt làm trò cười với cô ấy và quay trở lại với bánh lái tàu.
Sự im lặng thật kỳ quái. Tôi không thể nghe thấy thứ gì ngoại trừ tiếng đập gấp gáp của dòng máu vang lên trong đầu tôi. Khi chúng tôi tới được đảo, những khối đá lởm chởm đã hiện ra lờ mờ khỏi màn sương. Tôi buộc chiếc Queen Anne’s Revenge đi vòng quanh chúng. Nếu chúng tôi đến gần chúng hơn, những tảng hòn đá sẽ xé vụn thân tàu của chúng tôi như những lưỡi dao của máy xay sinh tố.
Tôi liếc nhìn về phía sau. Thoạt đầu, Annabeth nom vẫn hoàn toàn bình thường. Rồi cô ấy có một cái nhìn bối rối trên mặt. Mắt cô mở lớn.
Cô ấy căng thẳng như muốn thoát khỏi sợ dây thừng. Cô ấy gọi tên tôi – tôi có thể nói điều đó nhờ việc đọc đôi môi cô ấy. Nét mặt cô ấy quá rõ ràng: cô ấy phải thoát khỏi điều đó. Đó là cuộc sống hay cái chết. Tôi phải giải thoát cô ấy ra khỏi đám dây thừng ngay bây giờ.
Cô ấy dường như quá khổ sở khiến tôi không thể cắt dây giải thoát cho cô ấy.
Tôi buộc mình phải nhìn đi nơi khác. Tôi giục chiếc tàu Queen Anne’s Revenge phải đi nhanh hơn.
Tôi vẫn không thể nhìn thấy gì nhiều về hòn đảo – chỉ toàn sương mù và đá – nhưng dập dờn trên mặt nước là những mảnh gỗ và sợi thủy tinh, các mảnh vụn của những chiếc tàu cũ kĩ, thậm chí là vài chiếc nệm máy bay nổi bồng bềnh.
Làm thế nào mà âm nhạc có thể khiến bao nhiêu sinh mạng phải xoay chuyển nhỉ? Ý tôi là, tôi thừa nhận có một số ca khúc trong bảng xếp hạng Top Forty khiến tôi muốn nhảy bổ nhào ra khỏi máy bay, nhưng vẫn chỉ là ... Ba chị em nhà Siren có thể hát về điều gì?
Trong một khoảnh khắc cực kì nguy hiểm, tôi hiểu được tính hiếu kỳ của Annabeth. Tôi muốn được tháo nút nhét tai ra khỏi tai, chỉ để thưởng thức ca khúc. Tôi có thể cảm nhận được tiếng hát của Ba chị em nhà Siren ngân lên trong những thớ gỗ của con tàu, dao động cùng với tiếng gào thét của máu trong tai tôi.
Annabeth đang nài nỉ tôi. Những dòng nước mắt tuôn rơi trên gò má cô ấy. Cô ấy giẫy dụa với đám dây thừng như thể chúng đang giữ cô ấy khỏi mọi thứ mà cô ấy quan tâm.
Sao cậu có thể tàn nhẫn như vậy? cô ấy như thể đang cầu xin tôi. Tớ biết cậu là bạn tớ mà.
Tôi nhìn chằm chằm vào hòn đảo đầy sương mù. Tôi muốn mở nắp cây kiếm của mình, nhưng chẳng có gì để chiến đấu. Bạn có thể tấn công một bài hát như thế nào?
Tôi cố gắng hết sức để không nhìn Annabeth. Tôi cố làm điều đó trong khoảng thời gian năm phút.
Đó là sai lầm lớn của tôi.
Khi tôi không thể chịu đựng được lâu hơn, tôi quay đầu nhìn lại và thấy... một đống dây thừng đã bị cắt. Cột buồm trống trơn. Con dao đồng của Annabeth nằm trên sàn. Không biết bằng cách nào, cô ấy đã tuồn được nó vào tay mình. Tôi đã quên mất không tước hẳn vũ khí của cô ấy.
Tôi vội lao về phía một mạn tàu và nhìn cô ấy đang bơi điên cuồng về phía đảo. Những cơn sóng đưa cô ấy lao thẳng tới những tảng đá lởm chởm.
Tôi hét lên gọi tên cô ấy. Nhưng dẫu cô ấy có nghe thấy tôi, cũng chả có tác dụng gì tốt đẹp. Cô ấy đã bị mê hoặc và đang bơi tới cái chết.
Tôi nhìn về chỗ bánh lái và kêu lên: “Đứng yên ở đây!”
Rồi tôi nhảy vào biển từ mạn thuyền.
Tôi xé mặt nước và lao sâu xuống và buộc những dòng nước quấn quanh người tôi, tạo nên một dòng nước phun bắn vọt tôi về phía trước.
Tôi vọt lên mặt nước và phát hiện thấy Annabeth, những một cơn sóng đã túm chặt lấy và cuốn cô ấy về phía giữa hai tảng đá có cạnh sắc như dao cạo.
Tôi không có lựa chọn nào khác. Tôi lao theo sau cô ấy.
Tôi lặn xuống dưới thân một chiếc du thuyền bị đắm, len lỏi qua một bộ sưu tầm những quả bóng kim loại trôi nổi trên dây xích mà sau đó tôi nhận ra là những trái mìn. Tôi phải dùng tất cả sức mạnh của mình đối với nước để tránh không bị va đập vào các tảng đá hoặc bị mắc vào những cuộn dây thép gai được căng ra chỉ bên dưới mặt nước.
Tôi được phun vọt giữa hai lớp răng cửa nhọn vắt của hai tảng đá và phát hiện thấy mình đang ở trong một cái vịnh hình bán nguyệt. Nước bị giữ lại bởi rất nhiều khối đá, các mảnh vụn của các con tàu và những quả mìn đang nổi trên mặt nước. Trên bãi biển đầy cát đen núi lửa.
Tôi nhìn quanh để tìm kiếm Annabeth.
Cô ấy ở kia.
Không biết may mắn hay không, cô ấy bơi rất giỏi. Cô ấy vượt qua lớp mìn và những tảng đá. Cô ấy đã gần tới được bãi biển đen kia.
Rồi màn sương mù tan ra và tôi nhìn thấy họ - Ba chị em nhà Siren.
Hãy tưởng tượng một bầy kền kền có kích thước bằng con người – với bộ lông chim bẩn thỉu đen đúa, những móng vuốt màu xám và những chiếc cổ màu hồng nhăn nhúm lại. Giờ hãy tưởng tượng những chiếc đầu người được gắn vào phía trên chiếc cổ đó, nhưng những chiếc đầu đó lại liên tục biến đổi.
Tôi không thể nghe rõ họ nói gì, nhưng tôi có thể nhìn thấy họ đang hát. Khi miệng họ chuyển động, gương mặt họ biến thành những người mà tôi biết – mẹ tôi, thần Poseidon, Grover, Tyson, bác Chiron. Tất cả những người mà tôi đều muốn gặp. Họ cười động viên, bảo tôi tiến lên phía trước. Nhưng dù họ biến thành hình gì đi nữa, mồm miệng họ cũng trơn trơn đầy mỡ và đóng kết lại bởi thức ăn thừa còn sót lại. Giống như lũ chim kền kền, họ ăn bằng cách vục cả khuôn mặt của mình vào đồ ăn và nom không hề giống như họ vừa mới dự tiệc ở của tiệm bánh Donut Quái vật tí nào.
Annabeth bơi về phía họ.
Tôi biết mình không thể để cô ấy rời khỏi mặt nước. Đại dương là lợi thế duy nhất của tôi. Nó luôn luôn bảo vệ tôi bằng cách này hay cách khác. Tôi đẩy người về phía trước và chộp lấy mắt cá chân của cô ấy.
Đúng lúc chạm vào cô ấy, một cơn sốc nhẹ lan khắp cơ thể tôi. Và tôi nhìn Ba chị em nhà Siren theo cách mà Annabeth ắt phải đang nhìn họ.
Ba người ngồi trên một chiếc khăn trải picnic ở Central Park. Một bữa tiệc đã trải dài trước mặt họ. Tôi nhận ra cha của Annabeth từ những bức hình mà cô ấy đã cho tôi xem – đó là người đàn ông nom khá thể thao, với mái tóc màu vàng nhạt ở tuổi bốn mươi. Ông đang cầm tay một người phụ nữ xinh đẹp nom rất giống Annabeth. Bà ta ăn bận giản dị - quần jeans xanh, áo sơ mi bằng vải denim và giày leo núi – nhưng có thứ gì đó phát ra sức mạnh từ người phụ nữ này. Tôi biết mình đang nhìn thấy nữ thần Athena. Ngồi kế bên họ là một chàng trai trẻ... Luke.
Toàn bộ cảnh này tỏa trong một thứ ánh sáng ấm áp và ngọt ngào. Ba người họ đang nói chuyện và cười vui vẻ. Và khi họ nhìn thấy Annabeth, gương mặt họ tươi cười vui sướng. Bố mẹ Annabeth đưa tay ra chào đón. Luke cười toe toét và ra hiệu cho Annabeth tới ngồi cạnh anh ấy – như thể anh ấy chưa bao giờ phản bội cô, như thể anh ấy vẫn còn là bạn của cô ấy.
Phía sau những hàng cây của Central Park, cảnh quan thành phố xuất hiện. Tôi nín thở vì đó là Manhattan, nhưng không phải là Manhattan. Nó đã được xây dựng lại hầu như toàn bộ bằng đá cẩm thạch trắng sáng chói, thậm chí còn lớn hơn, đồ sộ hơn với những cửa sổ bằng vàng và những khu vườn trên mái nhà. Nó tuyệt vời hơn New York. Tuyệt vời hơn cả đỉnh Olympus.
Tôi lập tức hiểu ngay rằng Annabeth đã thiết kế nên tất cả. Cô ấy là kiến trúc sư cho cả thế giới mới. Cô ấy đã cứu được Luke. Cô ấy đã làm tất cả những gì mà cô ấy từng mong muốn.
Tôi nhắm chặt mắt lại. Khi tôi mở mắt ra, tất cả những gì tôi nhìn thấy là Ba chị em nhà Siren – những con kền kền tả tơi với bộ mặt người, đang chuẩn bị xơi tái thêm một nạn nhân nữa.
Tôi kéo Annabeth quay trở lại con sóng. Tôi không thể nghe thấy, nhưng tôi có thể nói rằng cô ấy đang la hét. Cô ấy đạp vào mặt tôi nhưng tôi cứ giữ chặt.
Tôi bắt các dòng nước đưa chúng tôi ra khỏi vịnh. Annabeth đấm thùm thụp và đá vào người tôi, làm tôi khó tập trung được. Cô ấy quẫy đạp nhiều tới mức tôi suýt đụng phải một quả mìn đang trôi. Tôi không biết phải làm gì. Tôi sẽ không thể trở về con tàu còn nguyên lành nếu cô ấy cứ tiếp tục đánh tôi như vậy.
Chúng tôi lặn xuống dưới và Annabeth ngừng vật lộn. Vẻ mặt cô ấy trông bối rối. Nhưng khi đầu chúng tôi vừa thò lên khỏi mặt nước, cô ấy lại bắt đầu đánh tôi.
Nước! m thanh truyền đi không được tốt dưới nước. Nếu tôi có thể dìm cô ấy đủ lâu, tôi có thể phá bỏ sự ảnh hưởng của nó với Annabeth. Tất nhiên Annabeth sẽ không thở được, nhưng vào lúc này, việc đó dường như không còn quan trọng.
Tôi túm chặt lấy eo cô ấy và yêu cầu sóng đẩy chúng tôi xuống bên dưới.
Chúng tôi được bắn thẳng xuống vực – ba mét, rồi sáu mét. Tôi biết tôi phải rất cẩn thận vì tôi có thể chịu đựng được nhiều áp lực hơn so với Annabeth. Cô ấy chống trả và cựa quậy để thở khi bong bóng nổi lên quanh chúng tôi.
Bong bóng.
Tôi tuyệt vọng. Tôi phải giữ cho Annabeth được sống. Tôi tưởng tượng ra tất cả những bong bóng trong đại dương – luôn luôn nổi sóng, trào dâng. Tôi tưởng tượng chúng đang cùng nhau tiến về phía tôi.
Biển cả nghe theo lời tôi. Có một cơn gió mạnh màu trắng, một cảm giác mơn trớn vây quanh lấy tôi. Và khi tầm nhìn của tôi rõ ràng, Annabeth và tôi có được một bong bóng khí lớn vây quanh. Chỉ có chân chúng tôi vẫn ở dưới nước.
Cô ấy thở hổn hển và ho khan. Toàn thân cô ấy run bắn nhưng khi cô ấy nhìn tôi, tôi biết bùa mê đã bị phá tan.
Cô ấy bắt đầu khóc nức nở - ý tôi là tiếng nức nở thảm thiết, xé ruột. Cô ấy tựa đầu lên vai tôi và tôi ôm cô ấy.
Lũ cá tụ tập nhìn chúng tôi – đó là một bầy cá nhồng và một vài con cá maclin tò mò.
Biến! Tôi nói với chúng.
Chúng bơi đi, nhưng tôi có thể nói rằng chúng rất miễn cưỡng khi bỏ đi. Tôi thề rằng tôi hiểu được ý định của chúng. Chúng định bắt đầu đi loan tin khắp đại dương rằng con trai của thần Poseidon và cô gái nào đó ở bên dưới đáy của Vịnh Siren.
“Tớ phải đưa chúng ta quay về tàu,” tôi nói với cô ấy. “Ổn thôi, cậu chỉ cần bám vào nhé.”
Annabeth gật đầu để tôi biết giờ đây cô ấy đã khá hơn. Nhưng cô ấy lẩm bẩm điều gì đó mà tôi không thể nghe được vì sáp nến vẫn còn trong tai tôi.
Tôi bảo dòng nước lái chiếc tàu ngầm không khí nhỏ bé kỳ lạ của chúng tôi qua những tảng đá và dây thép gai, quay lại thân tàu chiếc Queen Anne’s Revenge – chiếc đang duy trì tốc độ chạy chậm và ổn định rời khỏi hòn đảo.
Chúng tôi ở dưới nước, theo sau con tàu, mãi cho tới khi tôi đoán rằng chúng tôi đã ra khỏi tầm nghe của Ba chị em nhà Siren. Sau đó tôi nổi trên mặt nước và bong bóng không khí của chúng tôi nổ tung.
Tôi yêu cầu một cái thang dây rơi xuống từ một bên hông chiếc thuyền và chúng tôi trèo lên.
Tôi vẫn giữ nút nhét tai, chỉ là để cho chắc chắn. Chúng tôi lái tàu đi cho tới khi hòn đảo hoàn toàn thoát khỏi tầm nhìn. Annabeth ngồi co người lại trong một tấm chăn ở phía mũi tàu. Cuối cùng cô ấy nhìn lên, bàng hoàng và buồn bã, nói to, An toàn rồi.
Tôi bỏ nút nhét tai ra. Không còn tiếng hát nữa. Buổi chiều hoàn toàn yên bình trừ tiếng sóng vỗ vào mạn tàu. Sương mù tan biến đi lộ ra bầu trời xanh ngắt, như thể hòn đảo của Ba chị em nhà Siren chưa bao giờ tồn tại.
“Cậu có sao không?” tôi hỏi. Vừa nói ra, tôi nhận thấy câu hỏi đó nghe mới khập khiễng làm sao. Tất nhiên cô ấy không ổn.
“Tớ đã không nhận ra,” cô ấy thì thầm.
“Cái gì cơ?”
Đôi mắt cô ấy có cùng màu như khi sương mù bao phủ lên khắp hòn đảo của Ba chị em nhà Siren. “Sự cám dỗ có sức mạnh lớn như thế nào.”
Tôi không muốn thú nhận rằng tôi đã nhìn thấy điều mà Ba chị em nhà Siren đã hứa hẹn với cô ấy. Tôi có cảm giác như một kẻ phạm tội. Nhưng tôi nghĩ rằng tôi phải nói với Annabeth về điều này.
“Tớ đã nhìn thấy cách cậu xây dựng lại Manhattan,” tôi nói với cô ấy. “Cả Luke và bố mẹ cậu nữa.”
Cô ấy đỏ mặt. “Cậu đã thấy điều đó à?”
“Điều mà Luke đã nói với cậu trước đây trên con tàu Công chúa Andromeda, về việc bắt đầu thế giới lại từ con số không... nó thực sự đúng với cậu, nhỉ?”
Cô ấy kéo chăn lên quanh mình. “Sai lầm chí tử của mình. Đó là những thứ mà Ba chị em nhà Siren đã chỉ ra cho mình. Sai lầm chí tử của mình chính là quá ngạo mạn.”
Tôi chớp chớp mắt. “Cái đống nâu nâu mà họ rải trên bánh sanwiches toàn rau à?”
Cô ấy đảo mắt. “Không phải. Óc Tảo Biển. Cái đó gọi là hummus – một thứ sền sệt được làm bằng đậu xanh, hạt vừng và tỏi. Còn từ mà tớ nói thì tệ hơn rất nhiều.”
“Còn có thứ gì tồi tệ hơn cả hummus nhỉ?”
“Từ tớ nói đến có nghĩa là hết sức kiêu ngạo, Percy à. Nghĩ rằng cậu có thể làm được những việc còn tốt hơn người khác... thậm chí tốt hơn cả thần thánh.”
“Cậu nghĩ vậy sao?”
Cô ấy nhìn xuống. “Thế cậu đã bao giờ nghĩ, cái gì sẽ xảy ra nếu thế giới này thực sự bị phá hủy? Cái gì sẽ xảy ra nếu chúng ta có thể xây dựng lại nó từ đầu? Không còn chiến tranh nữa. Không có ai bị vô gia cư. Không có bài tập đọc trong mùa hè nữa.”
“Tớ đang nghe đây.”
“Ý tớ là, phương Tây đại diện cho rất nhiều thứ tốt đẹp mà loài người từng làm – đó là lý do tại sao lửa vẫn đang cháy. Đó là lý do tại sao đỉnh Olympus vẫn còn ở quanh đây. Nhưng đôi khi cậu chỉ có thể nhìn thấy những thứ tồi tệ, cậu hiểu không? Và cậu bắt đầu nghĩ theo cách của Luke: ‘Nếu tôi có thể giật đổ nó, rồi sẽ làm cho nó tốt hơn.’ Cậu chưa bao giờ nghĩ như vậy sao? Như thể cậu có thể làm được một việc tốt hơn nếu cậu điều khiển cả thế giới?”
“Ừm... không. Tớ mà điều hành cả thế giới thì có khác gì cơn ác mộng.”
“Thế thì cậu may mắn. Sự ngạo mạn không phải là sai lầm chí tử của cậu.”
“Đó là cái gì?”
“Tớ không biết, Percy à. Nhưng tất cả anh hùng đều có một cái như thế. Nếu cậu không phát hiện ra và học cách chế ngự nó... ừm, họ sẽ không gọi nó là “chí tử” mà không có ý gì đó.”
Tôi nghĩ về điều đó. Chính xác thì nó không làm tôi vui lên nổi.
Tôi chú ý thấy Annabeth không nói nhiều về những điều riêng tư mà cô ấy sẽ thay đổi – như giúp bố mẹ quay lại với nhau, hoặc cứu Luke chẳng hạn. Tôi hiểu điều này. Tôi không muốn thú nhận rằng không biết bao nhiêu lần tôi đã mơ thấy bố mẹ mình quay lại với nhau.
Tôi đã hình dung ra mẹ tôi cô độc trong căn hộ nhỏ xíu của chúng tôi ở Upper East Site như thế nào. Tôi cố gắng nhớ lại cái mùi những chiếc bánh quế màu xanh của bà trong bếp. Chúng dường như đã xa vời.
“Thế nó có đáng giá không?” tôi hỏi Annabeth. “Cậu có cảm thấy... thông thái hơn không?”
Cô ấy nhìn xa xăm. “Tớ không chắc nữa. Nhưng chúng ta phải cứu trại. Nếu chúng ta không chặn được Luke...”
Cô ấy không cần phải nói hết. Nếu cách nghĩ của Luke thậm chí có thể lôi kéo được Annabeth thì chẳng thể nói được có bao nhiêu đứa con lai khác sẽ gia nhập cùng hội của anh ta.
Tôi nghĩ về giấc mơ của mình liên quan tới cô gái lạ và chiếc quan tài vàng. Tôi không dám chắc nó mang ý nghĩa gì nhưng tôi có cảm giác rằng tôi đang bỏ lỡ điều gì đó. Điều gì thật kinh khủng mà Kronos đang lên kế hoạch. Cô gái đó đã nhìn thấy gì khi mở nắp quan tài nhỉ?
Đột nhiên mắt Annabeth mở to ra. “Percy.”
Tôi quay lại.
Phía trước là một gò đất khác – một hòn đảo hình yên ngựa với những đồi rừng và những bờ biển trắng, những bãi cỏ xanh mướt – giống hệt như tôi từng nhìn thấy trong các giấc mơ.
Những giác quan hàng hải của tôi đã khẳng định chúng. Ba mươi độ, ba mươi mốt phút Bắc, bảy mươi lăm độ, mười hai phút Tây.
Chúng tôi đã tới nhà của Cyclops.
Tác giả :
Rick Riordan