Pendragon 1 - Con Buôn Tử Thần
Chương 5
NHẬT KÍ # 1
(TIẾP THEO)
DENDURON
Mình tưởng đời mình chấm dứt rồi. Tất cả chỉ còn chờ sự đau đớn nữa thôi. Chuyện đó xảy ra có nhanh không. Có đau đớn lắm không? Hay nó sẽ bắt đầu từ bàn chân, dần dần lên đùi, lên thân thể và nhắm ngay vào đầu trong một thoáng bùng nổ chói lói của sự đau đớn cùng cực trước khi tất cả chỉ còn là bóng tối?
Mình cầu xin cho chuyện đó qua mau.Nhưng nó không đến nhanh. Thật ra nó hoàn toàn không xảy ra. Chẳng chút đau đớn. Mình không chết. Trái lại, mình cảm thấy rơi xuống cái hang rắn này. Như đang trượt xuống từ cầu trượt trong công viên vậy. Nhưng cầu trượt trong công viên nước thực sự mạnh hơn nhiều. Bây giờ mọi chuyện qua rồi, nghĩ lại mình lại cảm thấy thú vị. Ấy là lúc này mình mới nghĩ vậy, chứ lúc đó mình sợ vãi linh hồn.
Ngay khi nhận ra không bị hút vào hầm chứa rác khổng lồ, mở mắt nhìn quanh, mình mới cảm thấy mình đang di chuyển rất nhanh.
Như mình đã viết lúc trước, vách đường hầm lởm chởm đá. Nhưng chúng cũng trong suốt như bằng pha lê. Điều lạ lùng là, mình không bị va chạm vào vách, mà bay xuống, chân tới trước như ngồi cầu tụt trong công viên, nhưng cảm giác như đang trôi bồng bềnh vậy. Mình không thể cảm nhận được sự tồn tại của vách đường hầm. Có nhiều đoạn xoáy, rẽ, nhưng mình không bị va vào vách hay bất cứ gì như khi lao qua các đoạn rẽ trong trò trượt nước. Cứ như mình đang bay bổng trên một tấm thảm thần biết chính xác đưa mình tới đâu.
Có cả những âm thanh nữa. Những nốt nhạc bổng trầm khác nhau, giống như những cung bậc mình đã nghe khi đường hầm này chuyển động, nhưng tách bạch hơn nhiều, như được thoát ra từ một dụng cụ thử âm thoa. Đó cũng là một trong những lí do khiến mình cảm thấy là mình trôi xuống rất nhanh. Vì mình đang lướt qua nhưng nốt nhạc. Âm thanh xuất hiện rất nhanh từ phía trước, rồi lướt vụt qua mình rồi biến mất phía sau. Cảm giác thật lạ lùng.
Mình ngoái lại nhìn, không có gì, chỉ là đường hầm bằng pha lê hun hút hết tầm mắt. Nhìn xuống dưới hai chân, cũng giống vậy. Hang rắn ngoằn ngoèo. Vô tận.
Một lát sau mình đã hơi quen. Không cách nào ngừng lại được, chống lại làm gì? Và đây là điều đáng sợ nhất (cứ như những chuyện xảy ra cho đến lúc này chưa đủ sợ!): Nhìn qua bức tường pha lê, mình có thể thấy phía bên kia toàn một màu đen. Vậy là mình đoán: đang ở dưới lòng đất. Nhưng nhìn kỹ hơn, dường như màu đen bị hàng ngàn hàng ngàn ngôi sao làm tách ra.
Kỳ lạ chưa? Mình khởi hành trong một nhà ga tàu điện ngầm và đang xuống sâu hơn trong lòng đất, vậy thì làm sao có thể thấy được những vì sao? Nhưng những đốm sáng kia rõ ràng là những ngôi sao, không thể là gì khác được.
Mình không biết đã bay như thế được bao lâu. Ba phút? Ba tháng? Giác quan bình thường đã chào tạm biệt mình từ lâu rồi. Mình phó mặt cho nó cuốn mình tới đâu thì tới, bao lâu cũng được, không thành vấn đề.
Rồi mình nghe một âm thanh khác lạ. Không phải những nốt nhạc êm dịu đã hướng dẫn mình trong cuộn hành trình kì quái này.Âm thanh rắn rỏi, trắc trở. Hình như mình đã tới cuối đường. Mình nhìn xuống dưới hai chân và thấy: đoạn cuối đường hầm ngoằn ngoèo sáng lên trong bóng tối. Mình băng băng trôi về hướng đó. Chung quanh mình, tất cả vách tường bắt đầu thay đổi. Từ trong suốt như pha lê, chúng trở lại là những tảngđá lởm chởm, xám xịt.
Sự khiếp đảm lại tràn ngập trong mình. Sắp đụng vào trung tâm trái đất? Không phải bị lọt vào tâm điểm của dung nham nóng chảy chứ? Có phải chuyến bay kì diệu vừa qua chỉ là đoạn mở đầu cho một cái chết thiêu? Bất kỳ chuyện gì xảy ra, thì cũng sắp xảy ra rồi. Vì vậy mình làm một việc duy nhất mình có thể nghĩ ra để sẵn sàng chờ đón kết cuộc: nhắm tịt hai mắt lại.
Nhưng kết cuộc chẳng có gì thê thảm. Mình có cảm giác rần rần như lúc mới vào miệng hầm. Rồi mình nghe tràn ngập âm thanh. Tất cả những nốt nhạc êm dịu hoà quyện vào nhau như mình đã được nghe từ đầu cuộc hành trình. Mình cảm thấy một trọng lượng nặng nề đang đè lên lồng ngực. Điều tiếp theo mình biết là mình đang đứng dậy. Tiếng nhạc tan biến dần. Chiếc thảm thần nhẹ nhàng đưa mình tới một nơi đã được ấn định.
Cảm giác thật kỳ lạ trong khi trọng lượng trở lại, sau một chuyến đi nhẹ hẫng. Mình như một phi hành gia vũ trụ trở về từ không gian, cần làm quen lại với sức hút của trái đất. Mình mở mắt, quay lại nhìn vào đường hầm. Nó giống hệt cửa hầm mình đã bước vào tại ga. Xám xịt, tối tăm và trải dài chẳng biết tới đâu.
Mình đã tới nơi an toàn. Nhưng đây là đâu? Một nhà ga tàu điện ngầm khác? Hay đang ở Trung Quốc? Mình nhìn quanh để xem đang là đâu trong đường hầm này, và thấy mình đứng ngay trước lối vào một cái hang. Lúc này, đã tỉnh táo lại, mình nhận ra mình đang rất lạnh. Âm thanh dữ dội mình nghe cuối cuộc hành trình chính là tiếng gió gào gầm rú. Chẳng biết đang ở đâu,nhưng chắc chắc là mình không còn ở trong lòng đất nữa.
Bước mấy bước run rẩy khỏi miệng dường hầm, mình tiến vào hang. Khi bước vào không gian rộng hơn này, mình chợt thấy dấu hiệu khắc trên vách đá ngang tầm mắt: hình ngôi sao giống như trên cánh cửa trong hầm tàu điện. Kỳ lạ không!
Rồi mình thấy một luồn sáng tràn vào từ khoảng trống cuối hang. Ánh sáng chói loà tới mức làm toàn thể lòng hang trông như hắc ín. Thình lình mình cảm thấy chóng mặt vì cảm giác đã ở trong bóng tối quá lâu. Mình muốn ra ngoài, và ánh sáng đó chỉ lối cho mình, mình loạng choạng đi về phía nguồn sáng. Tới nơi, mình phát hiện đây chính là cửa hang. Ánh sáng chan hoà cũng cho mình biết lúc này đang là ban ngày. Mình đã ở trong đường hầm bao lâu rồi? Suốt đêm? Hay đây là ban ngày bên Trung Quốc? Chưa quen với ánh sáng, mình phải che hai mắt lại, lim dim bước hẳn ra ngoài. Ngay lập tức mình nhận ra bên ngoài lạnh hơn nhiều. Bên ngoài áo sơ mi cụt tay, mình chỉ có mỗi cái áo ấm của trường Stony Brook. Gió lạnh như cắt da. Trời ơi, lạnh cóng! Tiến thêm mấy bước, mình nhìn xuống bên dưới và thấy... tuyết! Mặt đất phủ toàn tuyết. Đó cũng là một trong những lý do trời sáng rực đến như vậy. Ánh nắng phản chiếu trên tuyết làm mình loá mắt. Mình biết để mắt quen với ánh sáng chói lọi này cũng không mất bao lâu, vậy thà chờ cho đến khi có thể nhìn rõ còn hơn là chui lại vào hang cho ấm. Mình muốn biết mình đang ở đâu.
Sau mấy giây, mình ngập ngừng buông tay ra khỏi mắt. Cuối cùng hai con ngươi cũng co lại đủ để nhìn được, và những gì nhìn thấy suýt làm mình ngã lộn xuống.
Mình đang đứng trên một đỉnh núi! Mà đây không phải là một quả núi nhỏ để trượt tuyết như chúng mình tới Vermont đâu (Vermont là bang lớn thứ hai ở New England (Mỹ), có 223 núi cao trên 600 mét và chủ yếu là rừng. Là nơi nổi tiếng để cắm trại, trượt tuyết, câu cá, đi săn (Nxb)). Núi này vòi vọi như đỉnh Everest (Everest: Đình núi cao nhất thế giới (8.850m), nầm giữa rặng Himalya ở biên giới Tây Tạng và Nepal (Nxb). O.K., có thể không cao đến thế, nhưng mình cảm giác như đang đứng trên nóc nhà của thế giới vậy. Cánh đồng nhấp nhô phủ tuyết tăm tăm mút mắt luôn. Dưới đó, tuốt đằng xa, tuyết nhường chỗ cho một thung lũng xanh tươi mơn mởn. Nhưng từ chỗ mình tới đó là một dốc đứng thăm thẳm.
Trong đầu mình không ngừng vang lên câu hỏi: “Mình đang ở nơi quái quỷ nào thế này?” Câu hỏi hay đấy, nhưng đâu có ai để hỏi.Vậy là mình quay trở vào hang cho an toàn, để suy tính. Ngay trước lúc dợm chân quay lại, mình chợt thấy: cách miệng hang mấy mét, rải rác những tảng đá vàng, nhẳn, nhọn hoắt, cao chừng sáu tấc. Chúng vương khỏi mặt tuyết như những măng đá. Hoặc là thạch nhũ. Mình chẳng nhớ thế nào mới là măng đá thế nào mới là thạch nhũ. Chúng cứ chĩa lên nhọn hoắt. Chẳng biết chúng là gì, nhưng một từ cứ luẩn quẩn trong đầu mình: bia mộ. Mình cố xua đuổi ý nghĩ u ám đó, lội qua tuyết, trở lại hang.
Chính lúc đó mình nhìn thấy điều kỳ lạ nhất. Mặt trời đúng là đang lên phía trên những tảng đá tạo nên cái hang này, vậy mà mình lại phải che mắt, chống lại ánh sáng từ một hướng khác! Vậy là sao? Mình nhìn lại đằng sau và phát hiện: không chỉ có một mặt trời! Ôi! Mark, mình thề, có tới ba mặt trời! Ba mặt trời ba hướng khác nhau. Tưởng bị loá mắt, mình chớp lia lịa. Nhưng không, ba mặt trời vẫn y xì tại chỗ. Đầu óc mình mụ mẫm luôn, chẳng nghĩ ngợi được gì nữa. Chỉ một điều mình biết rõ: đây không phải là nước Trung Hoa.
Mình đứng đó, trên đỉnh núi, chỉ một mình, giày ướt sũng trong tuyết, trừng trừng nhìn ba mặt trời rực sáng. Mình không thể mắc cỡ khi thú thật điều này: mình nhớ má. Mình muốn được ngồi trước ti-vi, giành nhau bộ điều khiển từ xa với em gái Shannon của mình. Mình muốn cùng ba rửa xe. Mình muốn chơi ném vòng với bạn, Mark ạ. Thình lình tất cả những gì mình yêu quý trong đời trở nên xa xôi quá. Mình muốn về nhà, nhưng tất cả điều mình có thế làm là đứng đó mà khóc. Thật đó, mình đã khóc!
Rồi những âm thanh lại vang lên từ trong hang. Cũng là những âm thanh rộn ràng đã hút mình vào đường hầm và quăng mình tới nơi này. Có người sắp đến. Cậu Press chăng? Rất có thể. Mìn chạy vào hang, vui mừng quá thể vì sẽ không còn một mình nữa. Nhưng mình bàng hoàng nhận nghĩ: lỡ không phải là cậu Press? Lỡ đó chính là thằng cha Saint Dane thì sao? Lần cuối cùng dây dưa với gã đó, gã đã bắn vào cậu cháu mình. Mark, cho bạn biết nhé, bị làm bia bắn không giống như trong phim hay trò chơi game Nintendo đâu. Nó rất thật và khủng khiếp. Đến tận lúc này, mình vẫn còn cảm thấy nhột nhạt ở gáy, chỗ mấy mảnh gạch vụn văng trúng.
Không biết phải làm sao, mình ngừng lại giữa hang, chờ đợi. Dù là ai thì cũng phải ra khỏi đường hầm. Cậu Press hay Saint Dane? Hoặc có thể là mấy con chó khủng khiếp từng muốn xơi tái mình? Ai sắp xuất hiện đây? Thù hay bạn?
-Bobby?
Ôi! Đúng là cậu Press rồi! Ông bước ra khỏi đường hầm với tà áo choàng phất phơ hai bên đùi. Mình có thể ôm ghì lấy ông. Mà thật vậy, mình chạy tới ông như một thằng nhóc còn nhỏ xíu. Nếu đây là cảnh trong phim thì mình đang chạy nhè nhẹ với hình ảnh quay chậm. Mình vòng hai tay ôm xiết lấy ông, với cảm giác vui mừng khôn xiết và biết ơn vì mình không còn đơn độc nữa, vì con người mình yêu quý đã không bị thằng cha Saint Dane bắn chết. Cậu Press mình đã được an toàn.
Nhưng cảm giác này chỉ kéo dài được chừng... ba giây. Lúc này, khi mối sợ hãi đe doạ đến chết chóc không còn nữa, thì thực tế tràn về. Chỉ duy nhất một người chịu trách nhiệm cho việc mình có mặt tại đây. Cậu Press. Người mình đã tin tưởng. Người mình đã thương yêu. Cũng chính là người đã kéo mình ra khỏi nhà và suýt làm mình chết... hơn tám lần rồi.
Mình xô cậu thật mạnh, hết sức bình sinh, để cậu phải lăn đùng xuống đất. Đó là điều mình muốn. Mình muốn cậu thấy mình giận thế nào. Nhưng... như mình đã từng thấy: cậu Press khoẻ vô cùng. Mình xô vào cậu chẳng khác nào đánh vật một bức tường, rốt cuộc chỉ làm mình ngã ngồi trên mặt đất. Đứng bật dậy - không muốn bị coi như một thằng ngốc - mình gào lên:
-Chuyện quái gì đang xảy ra thế này?
-Bobby, cậu biết là cháu bối rối vì...
-Bối rối? Bối rối không phải là từ để khoả lấp chuyện này.
Chạy xồng xộc tới cửa đường hầm, mình gào tiếp:
-Denduron! Denduron!
Mình nói bất cứ câu gì để thoát ra khỏi đây. Nhưng chẳng có gì xảy ra. Cậu Press nói cứ như đã dự trù sẵn:
-Đây chính là Denduron. Chúng ta đang ở tại Denduron.
Mình nhìn vào đường hầm:
-OK, vậy thì - Mình lại gào - TRÁI ĐẤT! NEW YORK! TÀU ĐIỆN!
Chạy vào đường hầm, mình hy vọng tiếng nhạc thần kỳ sẽ đưa mình bay bổng về nhà. Êm ru. Mình trở ra ngoài và chạm ngay mặt cậu Press. Mình gào lên:
-Không cần biết chuyện này là thế nào, không cần biết đây là đâu, cháu chỉ cần về nhà, về nhà, về nhà ngay lập tức. Đưa... cháu.. về nhà!
Cậu Press chỉ lẳng lặng nhìn mình. Hẳn ông biết mình giận và sợ đến dường nào, nên mình nghĩ ông đang đắng đo từng lời. Rủi thay, dù cho có lựa lời, thì cũng chẳng có cách nào hay hơn để chuyển tải lời ông nói:
-Bobby, cháu không thể về nhà. Bây giờ cháu đã thuộc về nơi này rồi.
Vậy đó. Mình quay lưng lại ông, thẫn thờ, không biết phải làm gì, nghĩ gì nữa. Chỉ muốn khóc thôi. Mình cũng muốn thụi cho ông mấy quả, muốn cãi lý với ông, muốn thức dậy và thấy đây chỉ là cơn ác mộng khủng khiếp.
Cậu Press vẫn cứ lẳng lặng nhìn mình và chờ mình bình tĩnh lại. Nhưng tất cả những thông tin lộn xộn nhồi nhét vào cái sọ bé nhỏ tội nghiệp của mình chỉ làm mình bật ra được một câu hỏi ngẩn ngơ:
-Vì sao?
-Cậu đã nói với cháu, có những người tại Denduron cần chúng ta giúp đỡ.
Giọng ông nhỏ nhẹ như nói với một đứa con nít, càng làm mình thêm lộn ruột. Mình la lớn:
-Nhưng cháu không biết những người đó. Mặc kệ họ. Cháu chỉ quan tâm tới cháu thôi. Cháu muốn về nhà. Cậu không hiểu sao?
Cậu nghiêm giọng:
-Cậu hiểu rất rõ. Nhưng không thể được.
-Vì sao? Chuyện gì về những người này mà quá quan trọng vậy? Nơi này là đâu? Cái... Denduron này là ở đâu?
-Rất khó cắt nghĩa để cháu hiểu...
-Cậu cố thử đi.
Mình đã chán ngấy tất cả những chuyện bí mật rồi. Cậu Press ngồi lên một tản đá. Mình coi như đó là dấu hiệu cậu sẵn sàng bắt đầu giúp mình hiểu rõ mọi chuyện. Ông nói:
-Chúng ta đang ở rất xa trái đất. Nhưng nơi này không phải là một hành tinh khác như cháu nghĩ. Đây là một lãnh thổ. Giống như trái đất là một lãnh thổ.
-Lãnh thổ, hành tinh thì khác gì nhau. Chỉ là một từ để gọi.
-Không phải vậy. Nếu chúng ta có một phi thuyền và phóng khỏi đây, đi đến nơi được coi là trái đất, thì sẽ chẳng có trái đất nào ở đó để cho cháu đến. Vì nó không có ở đó. Ít ra là, mọi chuyện không giống như những gì cháu biết. Khi cháu đi xuyên qua ống dẫn...
-Ống dẫn?
-Bằng lối đó cháu đã tới đây. Xuyên qua ống dẫn. Khi tới những lãnh địa qua đường ống dẫn, cháu không chỉ đi từ nơi này tới nơi khác, mà là xuyên qua không gian và thời gian. Cậu biết là rất khó lý giải, nhưng rồi cháu sẽ hiểu.
Mình không chắc là có muốn hiểu không. Thà cứ ngốc lại đỡ hơn. Mình nhìn cậu Press và lần đầu tiên mình giật mình: đây không phải con người mình từng biết. Vẫn biết ông là một nhân vật bí mật, nhưng bây giờ ông có vẻ giống như một thành phần hoá học hơn mình tưởng nhiều. Mình hỏi:
-Cậu là ai? Thật sự, cậu không phải là một người bình thường.
Cậu Press mỉm cười, nhìn xuống. Không hiểu sao mình có cảm giác câu trả lời cũng chẳng dễ chịu gì.
-Cậu là cậu của cháu, Bobby. Nhưng đồng thời cũng là một “Lữ khách”. Giống như cháu vậy.
Lai thêm một từ mới. “Lữ khách.” Mình chẳng muốn là một “Lữ khách” tí ti nào. Mình chỉ muốn là Bobby Pendragon, cầu thủ bóng rổ trong đội hình của trường trung học Stony Brook. Nhưng... cuộc đời đó dường như đã quá xa xôi rồi.
-Nếu chúng ta không còn trên trái đất, sao cháu vẫn thấy giống như đang ở trên trái đất? Cháu vẫn thở được, ở đây cũng có tuyết, và có trọng lực bình thường...
-Tất cả các lãnh địa đều rất giống trái đất, nhưng không hoàn toàn giống hệt.
-Chẳng hạn như ba mặt trời ở đây?
-Thí dụ rất hay.
-Và những tản đá vàng kỳ cục nhô khỏi mặt tuyết?
Cậu Press bỗng căng thẳng:
-Đâu? Bên ngoài hả? Bao nhiêu?
-Cháu... không rõ. Mười. Mười hai.
Ông đứng vội dậy cởi áo choàng:
-Chúng ta phải đi thôi.
Ném áo choàng xuống đất, cậu Press hấp tấp tới cuối hang, nơi có một đống cành khô. Ông bắt đầu giở chúng ra.
Mình lo lắng hỏi:
-Chuyện gì vậy?
Ông đặt ngón tay lên môi, suỵt một tiếng. Vẫn tiếp tục rút những cành khô, ông nói nhỏ như sợ bị nghe lén:
-Bọn quig.
À, quig. Không phải từ mới. Nhưng mình rất ghét từ này. Mình tí tởn nói:
-Không phải quig đâu. Quig giống như chó mà, đúng không?
Cậu thì thào:
-Tuỳ theo từng lãnh thổ. Trên Trái Đất Thứ Hai chúng giống như chó. Tại đây thì không.
Mình hỏi, mà thật tình không muốn biết câu trả lời:
-Vậy thì... quig là con gì?
-Chúng là những con thú hoang dã đặc biệt trong mỗi lãnh địa. Saint Dane sử dụng chúng để giữ không cho Lữ khách lại gần ống dẫn.
Lại là cái tên đó. Saint Dane. Nhưng làm cách nào một con người “sử dụng” một con thú hoang dã vào công việc? Mình chưa kịp hỏi, cậu Press đã dở hết đống cành khô, để ra một đóng lộn xộn lông và da thú. Ông bắt đầu cởi quần áo. Nhặt lên một mảnh da trông phát khiếp, ông bảo:
-Mặc cái này vào. Chúng ta không thể mặc quần áo của Trái Đất Thứ Hai tại lãnh địa này.
-Cậu đùa ạ?
-Đừng cãi Bobby. Những thứ này làm cháu ấm.
-Nhưng...
-Không nhưng gì hết. Lẹ lên!
Cậu Press thì thầm. Rõ ràng ông sợ lũ quig. Mình nghĩ là mình cũng sợ, nên mới vội vàng cởi quần áo. Dù khiếp đảm chờ câu trả lời, nhưng mình vẫn hỏi:
-Cởi đồ lót luôn sao, cậu?
-Tại Denduron không ai mặc đồ lót.
Câu trả lời mình chẳng muốn nghe tí nào. Dù biết sẽ rất khó chịu, nhưng mình đành phải theo lời cậu Press: mặc quần áo lót lông bên trong, quần áo da bên ngoài. Đôi ủng da rất êm và tại Denduron người ta không mang bít-tất. Khi lấy thêm quần áo khỏi đống cành khô, có một vật khác dần dần lộ ra. Mình nhấc tấm da lông lá cuối cùng lên và thấy một chiếc xe trượt tuyết giành cho hai người. Trông nó giống như xe trượt do chó kéo tại Alaska, nhưng chẳng có gì là hiện đại. Bánh trượt là những thanh gỗ, sườn xe làm bằng cành cây, ghế ngồi đan bằng cây sậy, còn bánh lái là cái gạc hươu to đùng. Nhưng còn thêm mấy thứ làm mình bối rối.
Buộc hai bên sườn là những cây giáo trông phát khiếp. Chúng được làm bằng những cây chuốt nhẵn. Mũi bằng thép, trông sắc như dao mổ. Đuôi giáo gắn lông vũ. Dù thô kệch và lạc hậu, tất cả trang thiết bị đó có vẻ là một vũ khí đáng gờm. Chúng được treo hai bên sườn xe trượt như một dạng hảo tiễn thời tiền sử, sẵn sàng để phóng. Mình hỏi, tràng trề hy vọng:
-Súng của cậu không hạ được bầy quig sao?
-Trong lãnh địa này không được dùng súng. Chúng ta chỉ có thể sử dụng những gì do nơi này làm ra. Cháu phải nhớ điều quan trọng đó. Hiểu?
-Cháu hiểu.
Ông nhét một vật vào tay mình. Đó là một vật nhỏ, được chạm khắc, tròng vào một sợi dây da. Trông giống như...
Như đọc được ý nghĩ của mình, cậu Press nói ngay:
-Đó là cái còi. Phải luôn giữ bên mình cháu.
Mình muốn hỏi để làm gì, nhưng mối bận tâm lúc này là hy vọng cậu sử dụng giáo cũng giỏi như súng. Còn cái còi nhỏ xíu này là cái quái gì chứ, nó đâu có bảo vệ được cậu cháu mình nếu gặp nguy hiểm. Nhưng mình cũng tuân lệnh, choàng nó vào cổ. Cậu Press hỏi:
-Sẵn sàng chưa?
-Chưa.
Câu trả lời quen thuộc của mình. Thật tình, mình đã sẵn sàng. Mình cảm thấy hơi giống một người sống trong hang, nhưng bộ quần áo kỳ cục này vừa vặn với mình. Chỗ nào quá rộng, mình buộc bằng dây da theo lời cậu chỉ dẫn, Mình thật sự thoải mái. Chỉ tiếc một điều là không giữ được bộ đồ lót. Nếu có bị ngứa ngáy, nổi mụn tràn làn chắc không tìm ra phấn rôm ở Denduron này.
Cậu Press bắt đầu kéo xe trượt ra vùng sáng về phía cửa hang. Mình đẩy phụ. Cậu dặn:
-Khi ra tới chỗ có tuyết, cháu phải nhảy lên, ngồi phía sau ngay. Cậu sẽ giữ lái phía trước. Nếu may mắn chúng ta sẽ đi khỏi trước khi bầy quig thức giấc.
- Nếu không may mắn thì sao?
- Chúng ta không chạy nhanh hơn chúng đâu. Hy vọng duy nhất là hạ được một con.
- Hạ? Cậu nói rõ hơn đi.
Nhưng ông không nói. Hai cậu cháu đã tới cửa hang. Cậu Press nhìn mình:
-Cậu rất tiếc, thật sự rất tiếc vì chuyện này. Cậu chỉ biết nói rằng, cháu sẽ sớm được biết vì sao.
Ông nói như vẻ đoan chắc như mình thật sự tin ông. Còn mình thì sợ phải tin ông. Vì nếu những gì cậu Press nói đều đúng, mình sẽ không còn lựa chọn nào khác mà chỉ còn cách đối diện với những rắc rối đang chờ phía trước. Và căn cứ vào những gì đã xảy ra cho đến lúc này, sẽ chẳng có gì thú vị cả. Mình chỉ bảo:
-Hy vọng cậu biết lái cái này.
-Nắm chặt vào.
Hừ, “nắm chặt”. chẳng lẽ mình vung vẫy hai tay trong không khí để giữ thăng bằng, như trên một trục lăn!
Cậu cháu mình kéo xe ra khỏi cửa hang, lên nền tuyết. Phải mất mấy giây mắt mình mới quen được với ánh sáng. Điều đầu tiên mình thấy là những tảng đá vàng mang niềm gở nhô trên tuyết trắng. Dù cậu Press có tỏ ra sợ, nhưng mình không hiểu so mấy cục đá đó có thể nguy hiểm được. Ông im lặng ra dấu cho mình leo vào xe, rồi vòng ra sau, bắt đầu đẩy. Cái xe cổ lỗ đời tiền sử đó lướt đi rất êm. Tước mặt mình là những tảng đá vàng; mình đếm được mười hai tảng, rải rác trên khoảng rộng nhiều mét. Cậu cháu mình lướt đến gần chúng êm ru. Mình nhìn cậu Press. Cậu đặt tay lên môi như muốn nhắc nhở mình phải im lặng. Tiến thêm mấy mét, hai cậu cháu lọt giữa những tảng đá vàng. Cậu Press thận trọng điều khiển xe sao cho không chạm vào bất cứ vật gì. Ngay khi chúng mình vừa tăng tốc, độ dốc càng dốc đứng hơn. Nhìn ra trước, mình bỗng không còn lo gì đến bầy quig nữa. Chúng mình sắp lao xuống dốc núi tuyết dựng đứng, lởm chởm đá tảng trên một mảnh gỗ lung lay được ràng bằng dây da. So với cảnh tượng khủng khiếp đó thì mấy con thú cao sáu tấc có nghĩa lý gì chứ?
Mình sắp tìm ra lời giải đáp đó.
Ngay khi sắp ra khỏi bãi đá vàng, thì trước mặt chúng mình mặt tuyết bắt đầu rùng mình. Chỉ còn phải vượt qua một tảng đá nữa thôi. Nhưng một là quá đủ. Thình lình, ngay trước mặt, tuyết nứt ra, tảng đá nhọn màu vàng đứng dậy. Nhưng đó không phải là tảng đá nhọn màu vàng. Đó là cái sừng nhô lên từ lưng một quái vật gớm ghiếc mình chưa từng thấy bao giờ. Con quig vươn mình khỏi tuyết cho đến khi thân thể nó hoàn toàn xuất hiện. Trông nó giống như một con gấu xám khổng lồ. Nhưng cái đầu to đùng với cả những cái nanh nhọn hoắt - cả hàm trên và hàm dưới - giống như lợn nòi. Chân nó cũng to vật vã với những móng vuốt lớn như những phím đàn piano. Những phím đàn sắc bén. Mắt nó giống mắt những con chó trong nhà ga tàu điện ngầm. Vàng khè, hung hăng và... tập trung vào hai cậu cháu mình.
Cậu Press vừa chạy vừa đẩy xe trượt vòng qua con quái, cố gắng tăng thêm tốc độ. Cậu la lên:
- Lấy cây giáo.
Mình không thể rời mắt khỏi con quái vật. Nó vươn mình trên hai chân sau chồm tới. Tiếng gầm của nó khủng khiếp đến mức có thể làm người chết bật dậy. Hoặc... ít ra cũng đánh thức được cả bầy quig. Quả vậy. Phía sau cậu cháu mình, tuyết chung quanh những tảng đá vàng sôi sùng sục. Tất cả bầy quig đang thức giấc.
-Bobby, dịch ra!
Cậu Press nhảy lên xe, làm mình choàng tỉnh. Nhào tới trước mình nắm lấy một cây giáo. Xe trượt lao vùn vụt, nảy lên trên tuyết. Mình vất vả giữ thăng bằng. Gò người sang một bên, mình cố gắng cởi dây buộc một trong hai cây giáo trên sườn xe.
-Lẹ lên!
Tiếng cậu Press từ phía sau, bình tĩnh nhưng khẩn khiết. Mình quay lại nhìn: phía sau, hàng chục con quig đang rùng mình rũ tuyết.
Đáng lẽ mình không nên nhìn. Sợi dây buộc giáo sắp gỡ được, thì ngay lúc mình nhìn lại. xe trượt đụng phải một mô đất, nẩy tưng lên. Trước khi mình biết chuyện gì đã xảy ra thì cây giáo đã lỏng ra và rơi khỏi xe. Mình vội với theo, nhưng quá muộn.
Cậu Press lại la lên:
-Lấy cây khác. Mau!
Mình nhào qua bên kia xe, một tay nắm chặt cây giáo, một tay lúng túng cởi dây. Mình không thể để mất thêm cây giáo này. Rồi mình cũng cởi được dây.
-Đón này.
Mình la lên, ngả người chuyền cây giáo cho cậu Press. Ngay sau đó, mình quỳ gối, nhìn lại. Khiếp đảm, mình nhìn lũ quig đang tấn công. Tiếng gầm gừ khắp phía, cậu cháu mình đã lọt vào tầm nhắm của những con gấu hung tợn. Mình không biết cây giáo nhỏ bé làm được gì để chống lại bầy đàn tấn công dữ dội kia. Cậu Press gào lên:
-Giữ vững bánh lái.
Mình bò lên phía trước, nắm lấy cái gạc hươu. Xe trượt lướt đi rất hoàn hảo. Ai thiết kế ra chiếc xe này, đã biết nó sẽ làm gì. Tuy nhiên, cậu Press đã nói đúng. Chúng mình không đủ nhanh để thoát khỏi tụi quig. Chúng nó sắp gần kề.
Con quig dẫn đầu cách bầy đàn nó một khoảng xa. Đó là mối nguy hiểm sát bên cậu cháu mình. Mình ngoái ra sau, nhìn những gì đã xảy ra. Cậu Press thật ngầu. Cậu đứng sững trên xe, hướng ra sau, cây giáo trong tay. Đã quen thấy cậu hiên ngang trong những trường hợp tương tự như thế này, nên chẳng có gì làm mình ngạc nhiên thêm được nữa. Như thuyền trưởng Ahab săn con cá voi khổng lồ Moby Dick, cậu Press chờ con quig đầu đàn. (Moby Dick - con cá voi trắng khổng lồ và thuyền trưởngAhab là hai nhân vật nổi tiếng trong văn chương Mỹ. Tiểu thuyết Mody-Dick (1851) của nhà văn Haman Melville được chuyển thể thành nhiều bộ phim phiêu lưu mạo hiểm rất ăn khách. (Nxb))
Giọng làu bàu, ông giễu cợt nó:
-Nào nào, lại gần chút nữa coi.
Con quái khát máu đã gần kề, nó chồm lên, hai hàm há hốc, sẵn sàng táp lấy cậu Press. Ông la về phía mình:
-Cái còi! Thổi ngay đi!
Còi? Cái còi thì làm được gì? Nhưng đây không phải lúc lý sự. Một tay điều khiển gạc hươu, một tay mình lần mò tìm cái còi đeo trên cổ. Con quái gần sắp chộp được cậu Press rồi. Cuối cùng mình cũng túm được cái còi. Kéo sợi dây da ra khỏi đầu, mình đưa còi lên miệng thổi.
(vongtronkhuyet type)
Âm thanh rất khác lạ. Chắc chắn cái còi này được thiết kế để bắt chó ngừng sủa với cường độ cao chói lói chỉ có chó mới nghe nổi. Nhưng quig hình như không khoái nghe âm thanh lạ lùng này. Con quái bỗng há hốc mõm ghê tởm, tru lên làm tóc gáy mình dựng đứng. Đó là âm thanh đau đớn, như thể âm thanh phát ra từ cái còi đang cào xé đầu óc nó.
Đúng lúc ấy cậu Press ra tay. Cậu phóng cây giáo như một vận động viên Olympic phóng lao. Ngọn giáo lao thẳng vào cái mõm đang há toang hoác của con quái vật. Con quái hộc lên đau đớn khi mũi giáo đi suốt tới cuống họng nó. Con quig lăn xuống, chân co giật làm tung lên lớp tuyết mỏng. Máu trào ra từ cái mõm há hốc như suối chảy.
Thật kinh tởm! Nhưng chưa kinh tởm bằng những gì xảy ra sau đó. Bầy quig kia đuổi kịp con đầu đàn, nhưng thay vì rượt theo cậu cháu mình, chúng ngừng phắt lại nhào vào tên anh em của chúng. Đó là miếng mồi đầy quyến rũ, giống như bạn thấy lũ cá mập phát hiện mùi máu trong nước vậy. Đến bây giờ mình vẫn còn nghe những âm thanh khi chúng phanh thây xé thịt đồng loại. Mình không bao giờ muốn phải nghe lại những tiếng toàng toạc của thịt tươi, tiếng răng rắc của xương gãy đó nữa. Mà… con mồi đó vẫn sống. Tiếng gầm rú của nó nghe thật khiếp đảm. Cám ơn trời, tiếng kêu thảm thiết đó không kéo dài.
Mình nhìn lại lần cuối. Phải chi mình đừng làm vậy, vì ngay lúc đó một con quig ngửng nhìn lại mình. Móng vuốt và mõm nó nhễu nhão đầy máu. Bây giờ mình mới hiểu ý cậu Press khi cậu nói chỉ cần hi vọng “hạ” được một con.
Cậu mình bỗng la lên:
-Coi chừng!
Mình vội nhìn phía trước. Một tảng đá lớn như một chiếc ô-tô lù lù trước mặt. Mình bẻ mạnh gạc hươu. Xe trượt lách sang một bên, nhưng đuôi bị lật ngang, làm chiếc xe va mạnh vào tảng đá. Cậu cháu mình vẫn tiếp tục di chuyển được, dù cú di chuyển quá mạnh, quăng cậu Press lên sàn xe. Nếu không nắm chặt gạc hươu mình cũng đã bị quăng theo rồi. Nhưng khi nắm chặt gạc hươu mình đã để rơi mất cái còi. Tụi quig mà đuổi theo sẽ rất gay go. Hai cậu cháu không có còi, cũng chẳng còn cây giáo nào. Sao mình lại ngốc đến mức tháo sợi dây khỏi cổ như vậy chứ?
Xe trượt phăng phăng vì con dốc gần như dựng đứng. Mình đã có thể thấy sắp tiến đến hàng cây. Để đến được điểm đó, mình chỉ còn phải điều khiển xe lướt trên tuyết và tránh những tảng đá. Lúc này cậu cháu mình đang tiến thẳng vào một khu rừng.
-Thành công rồi!
Cậu Press la lớn. Ông tiến lên đầu xe. Niềm vui lớn nhất của mình là trao bánh lái lại cho ông. Mình cũng la lớn hỏi:
-Xe không có thắng, phải không cậu?
-Ước gì có thắng!
Câu trả lời phát ớn! Đây đâu phải là con dốc dễ thương để chơi trò trượt băng? Ồ, không. Cậu cháu mình sẽ đâm đầu vào hang loạt cây cối kia mất thôi. Muốn ngừng lại là phải cho xe ủi vào một vật cứng. Mình chẳng muốn đâm đầu vào một vật cứng chút nào. Chắc chắn sẽ bị thương. Cậu Press lại la lớn:
-Phải! Nghiêng qua phải!
Mình làm theo và cậu Press đưa hai người vòng qua một thân cây.
-Bám chặt cậu. Nhìn điểm sắp tới! Sang trái.
Cứ như đang ngồi phía sau chiếc mô-tô của cậu Press vậy, muốn cua qua bên nào là hai cậu cháu phải ngả người sang bên đó. Nhưng xe mô-tô còn có thắng và không phải lạng lách qua bãi mìn toàn cây như thế này. Khiếp thật! Trên cái xe trượt cà tàng, chúng mình phóng như trên hoả tiễn, lách qua những cây thông rắn như đá.
Xe vù vù vượt qua những thân cây san sát. Trái, phải, lại phải. Cậu Press luôn miệng bảo mình ngả người qua bên nào. Còn mình luôn phải nhìn phía trước và cố đoán ông định rẽ sang đâu. Cành cây vun vút quất vào mặt cậu cháu mình. Tiếng cây vèo vèo lướt qua sát bên tai. Càng xuống dưới rừng cây càng rậm rạp hơn. Cậu Press kêu lớn:
-Phía trước có một khoảng trống. Tới đó, cậu sẽ bẻ lái gấp sang phải. Hy vọng chúng ta không bị lật.
Hy vọng! Hy vọng sao đừng bị hất ra khỏi xe, lộn tùng phèo vào một thân cây!
Tiếng cậu vẫn oang oang:
-Khi cậu bẽ lái, nhớ ngã hết cỡ về bên phải. Sắp tới rồi.
Qua những hàng cây, mình thấy một bãi màu trắng. Chắc đó là khoảng rừng trống. Nhưng cậu cháu mình vẫn di chuyển rất nhanh và cây cối còn rải rác rất nhiều. Trái, trái, phải. Thêm vài lần rẽ nữa là sẽ đến bãi đất trống. Mình la toáng lên:
-Thành công rồi!
Nhưng không. Khi rẽ trái, một rễ cây nằm dưới tuyết hất hai cậu cháu sang phải. Chiếc xe lướt đi ngoài vòng kiểm soát. Khi đó, giữa cậu cháu mình và bãi đất an toàn kia chỉ còn vài cái cây nữa thôi. Xe trượt đâm sầm vào một thân cây, quay vòng vòng. Sức va đập thật khủng khiếp, làm mình chao đảo. Nhưng mình vẫn trụ lại được trên xe. Cậu Press, kém may mắn hơn, bị bắn ra ngoài.
Mình vẫn tiếp tục lướt đi. Thanh trượt bên phải đã rời ra, nhưng chiếc xe vẫn bon bon tiến tới. mình nằm cuối xe, cách bánh lái là cái gạc hươu cả… dặm. Đã nhìn thấy bãi đất trống, mình thoáng nghĩ là sẽ tới được đó. Nhưng xe trượt đâm vào một mô đất và thình lình mình bay bổng lên. Xe một đằng, mình một nẻo. Rồi mình rơi bịch xuống. chỗ này tuyết không dày, nên thay vì đáp xuống mặt tuyết êm ái, thân hình mình nện lên mặt đất cứng ngắc. Mình gần như đứt thở, đầu đập mạnh xuống đất. Trời đất quay mòng mòng một màu trắng. Mình không nghĩ được gì nữa. Không cựa quậy nổi nữa, nhưng… như thế lại tốt.
Không biết mình nằm đó bao lâu, vì mình tỉnh rồi lại mê đi. Lúc đó, mình nhớ là có nghe những âm thanh kỳ lạ. Lúc đầu xa xa, rồi lại gần rất nhanh. Mình đã sợ là lũ quig đã xong bữa trưa, bây giờ định bắt cậu cháu mình làm món tráng miệng. Nhưng không phải. Âm thanh này giống như tiếng vó ngựa. Ít nhất cũng hơn một con.
-Bobby! Bobby! Nếu nghe được tiếng cậu, cũng đừng nhúc nhích. Ở yên tại đó. Milago sẽ tìm ra cháu. Họ sẽ giúp cháu.
Ông ấy nói gì vậy? Milago là ai? Cần phải thấy chuyện gì đang xảy ra. Mình lăn sang một bên, dù rất đau. Chắc cú ngã đã làm mấy chiếc xương sườn của mình nát như tương rồi. Không thể đứng dậy. Dù có muốn cũng không chắc đứng nổi. Đầu nhức nhối và chóng mặt vô cùng, nhưng mình cũng ráng bò qua tuyết, tiến tới nơi có tiếng nói cậu Press. Một ụ tuyết vồng lên – có thể chính cái ụ này đã phóng mình lên không – mình phải bò bằng bụng, rất đau, tới ụ tuyết đó. Tới nơi, mình thận trọng lén nhìn qua ụ tuyết.
Mình nhẹ cả người khi thấy cậu Press đang đứng bên lề khoảng rừng trống, không xa mình lắm. Cậu mình không hề hấn gì, có vẻ còn khá hơn tình trạng mình lúc đó nhiều.
Bên kìa khoảng rừng trống, đang mau chóng xiết vòng lấy cậu Press, là những con ngựa mình đã nghe tiếng vó. Trên lưng bốn con ngựa có bốn người cỡi. Mình thấy họ giống như những hiệp sĩ thời cổ. Họ mặc toàn giáp bằng da đen. Mũ và tấm che mặt cũng bằng da đen. Cả bốn con ngựa cũng phủ trên mình những tấm da đen giống vậy. Trông họ giống hệt nhau, hình như những bộ giáp này là đồng phục. Họ còn mang cả kiếm nữa, cứ như từ trong truyện Hiệp Sĩ Bàn Tròn bước ra (Theo truyền thuyết của Anh, Hiệp Sĩ Bàn Tròn là nhóm những người được tấn phong phẩm cấp hiệp sĩ cao nhất tại triều đình vua Arthur. Bàn tròn – nơi họ hội họp - thể hiện sự bình đẳng của mọi thành viên trong nhóm. (Nxb))
Trong khi họ xiết vòng vây quanh cậu Press, cậu vẫy tay thân thiện:
-Chào. Các bạn khoẻ chứ?
Đây đâu phải nước Mỹ? Cũng không phải trái đất. Sao cậu Press lại nghĩ những người này nói được tiếng Anh?
Một hiệp sĩ cộc cằn nói lớn:
-Buto! Buto aga forden.
Mình nghĩ đúng mà. Họ không biết tiếng Anh. Nhưng cậu press vẫn trả lời bằng tiếng Anh.
-Không đâu. Tôi đi săn thỏ cho gia đình mà.
-Soba board few!
Một hiệp sĩ khác quát lên. Thật quái lạ! Họ nói một thứ ngôn ngữ lạ hoắc, còn cậu Press cứ nói tiếng Anh, vậy mà dường như hai bên hiểu nhau. Mình thì mù tịch, chẳng hiểu gì hết. Còn gì mới lạ nữa không đây?
Hiệp sĩ đã nói với cậu Press đầu tiên chỉ ngón tay vào cậu thét lớn:
-Buto! Buto aga forder ca dar!
Căng rồi! Chẳng biết “Buto” có nghĩa quái quỉ gì, nhưng mình đoán chắc không phải là câu chào thân thiện. Cậu Press đưa cao hai tay vẻ ngây thơ vô tội, nhúng vai như không hiểu họ đang nói gì. Ông nói với nụ cười:
-Không. Tôi dò thám Kagan làm gì chứ? Tôi là một thợ mỏ, chỉ lo nuôi sống gia đình thôi.
Do thám? Thợ mỏ? Kagan? Đầu mình lùng bùng luôn.
Thế rồi mọi chuyện trở nên nghiêm trọng hơn. Tay hiệp sĩ đó rút ra từ yên ngựa một cây roi như cây roi chăn bò và quất cậu Press. Phập! Cây roi cuốn lấy cánh tay cậu. Cậu bật lên một tiếng kêu đau đớn. Gã hiệp sĩ giật mạnh roi, kéo cậu quì xuống.
Mình định đứng lên, chạy tới cậu. Nhưng bên sườn đau nhói làm mình nghẹt thở. Đầu óc lại quay mòng mòng làm mình suýt ngất đi. Nhưng mình vẫn cố nhướng mắt nhìn cậu Press. Hai hiệp sĩ khác rút ra hai sợi dây thừng từ yên ngựa, tung thòng lọng lên cậu mình cứ như ông là một con bò tơ trong trò rodeo (Cuộc đua tài của những người chăn bò(cưỡi ngựa, quăng dây…)). Rồi chúng thúc ngựa, phóng qua khoảng rừng thưa, kéo lê cậu Press đi theo.
Điều cuối cùng mình thấy là: những gã hiệp sĩ áo đen ngồi trên ngựa, ha hả cười kéo cậu mình qua mặt tuyết. Khi chúng khuất dạng vào rừng, mình chẳng thấy chẳng nghe gì nữa. Đầu óc mình quay cuồng, mất kiểm soát. Mình lịm đi dần. Điều cuối cùng mình còn nhớ được là mình tưởng như chỉ mấy tiếng đồng hồ trước, mình còn đứng trong bếp ném trái banh ten-nít cho con Marley chụp. Và mình hy vọng có người nhớ dắt nó ra ngoài đi dạo vào buổi tối.
Rồi tất cả chỉ còn là màu trắng. Mình ngất đi.
CHẤM DỨT NHẬT KÍ # 1
(TIẾP THEO)
DENDURON
Mình tưởng đời mình chấm dứt rồi. Tất cả chỉ còn chờ sự đau đớn nữa thôi. Chuyện đó xảy ra có nhanh không. Có đau đớn lắm không? Hay nó sẽ bắt đầu từ bàn chân, dần dần lên đùi, lên thân thể và nhắm ngay vào đầu trong một thoáng bùng nổ chói lói của sự đau đớn cùng cực trước khi tất cả chỉ còn là bóng tối?
Mình cầu xin cho chuyện đó qua mau.Nhưng nó không đến nhanh. Thật ra nó hoàn toàn không xảy ra. Chẳng chút đau đớn. Mình không chết. Trái lại, mình cảm thấy rơi xuống cái hang rắn này. Như đang trượt xuống từ cầu trượt trong công viên vậy. Nhưng cầu trượt trong công viên nước thực sự mạnh hơn nhiều. Bây giờ mọi chuyện qua rồi, nghĩ lại mình lại cảm thấy thú vị. Ấy là lúc này mình mới nghĩ vậy, chứ lúc đó mình sợ vãi linh hồn.
Ngay khi nhận ra không bị hút vào hầm chứa rác khổng lồ, mở mắt nhìn quanh, mình mới cảm thấy mình đang di chuyển rất nhanh.
Như mình đã viết lúc trước, vách đường hầm lởm chởm đá. Nhưng chúng cũng trong suốt như bằng pha lê. Điều lạ lùng là, mình không bị va chạm vào vách, mà bay xuống, chân tới trước như ngồi cầu tụt trong công viên, nhưng cảm giác như đang trôi bồng bềnh vậy. Mình không thể cảm nhận được sự tồn tại của vách đường hầm. Có nhiều đoạn xoáy, rẽ, nhưng mình không bị va vào vách hay bất cứ gì như khi lao qua các đoạn rẽ trong trò trượt nước. Cứ như mình đang bay bổng trên một tấm thảm thần biết chính xác đưa mình tới đâu.
Có cả những âm thanh nữa. Những nốt nhạc bổng trầm khác nhau, giống như những cung bậc mình đã nghe khi đường hầm này chuyển động, nhưng tách bạch hơn nhiều, như được thoát ra từ một dụng cụ thử âm thoa. Đó cũng là một trong những lí do khiến mình cảm thấy là mình trôi xuống rất nhanh. Vì mình đang lướt qua nhưng nốt nhạc. Âm thanh xuất hiện rất nhanh từ phía trước, rồi lướt vụt qua mình rồi biến mất phía sau. Cảm giác thật lạ lùng.
Mình ngoái lại nhìn, không có gì, chỉ là đường hầm bằng pha lê hun hút hết tầm mắt. Nhìn xuống dưới hai chân, cũng giống vậy. Hang rắn ngoằn ngoèo. Vô tận.
Một lát sau mình đã hơi quen. Không cách nào ngừng lại được, chống lại làm gì? Và đây là điều đáng sợ nhất (cứ như những chuyện xảy ra cho đến lúc này chưa đủ sợ!): Nhìn qua bức tường pha lê, mình có thể thấy phía bên kia toàn một màu đen. Vậy là mình đoán: đang ở dưới lòng đất. Nhưng nhìn kỹ hơn, dường như màu đen bị hàng ngàn hàng ngàn ngôi sao làm tách ra.
Kỳ lạ chưa? Mình khởi hành trong một nhà ga tàu điện ngầm và đang xuống sâu hơn trong lòng đất, vậy thì làm sao có thể thấy được những vì sao? Nhưng những đốm sáng kia rõ ràng là những ngôi sao, không thể là gì khác được.
Mình không biết đã bay như thế được bao lâu. Ba phút? Ba tháng? Giác quan bình thường đã chào tạm biệt mình từ lâu rồi. Mình phó mặt cho nó cuốn mình tới đâu thì tới, bao lâu cũng được, không thành vấn đề.
Rồi mình nghe một âm thanh khác lạ. Không phải những nốt nhạc êm dịu đã hướng dẫn mình trong cuộn hành trình kì quái này.Âm thanh rắn rỏi, trắc trở. Hình như mình đã tới cuối đường. Mình nhìn xuống dưới hai chân và thấy: đoạn cuối đường hầm ngoằn ngoèo sáng lên trong bóng tối. Mình băng băng trôi về hướng đó. Chung quanh mình, tất cả vách tường bắt đầu thay đổi. Từ trong suốt như pha lê, chúng trở lại là những tảngđá lởm chởm, xám xịt.
Sự khiếp đảm lại tràn ngập trong mình. Sắp đụng vào trung tâm trái đất? Không phải bị lọt vào tâm điểm của dung nham nóng chảy chứ? Có phải chuyến bay kì diệu vừa qua chỉ là đoạn mở đầu cho một cái chết thiêu? Bất kỳ chuyện gì xảy ra, thì cũng sắp xảy ra rồi. Vì vậy mình làm một việc duy nhất mình có thể nghĩ ra để sẵn sàng chờ đón kết cuộc: nhắm tịt hai mắt lại.
Nhưng kết cuộc chẳng có gì thê thảm. Mình có cảm giác rần rần như lúc mới vào miệng hầm. Rồi mình nghe tràn ngập âm thanh. Tất cả những nốt nhạc êm dịu hoà quyện vào nhau như mình đã được nghe từ đầu cuộc hành trình. Mình cảm thấy một trọng lượng nặng nề đang đè lên lồng ngực. Điều tiếp theo mình biết là mình đang đứng dậy. Tiếng nhạc tan biến dần. Chiếc thảm thần nhẹ nhàng đưa mình tới một nơi đã được ấn định.
Cảm giác thật kỳ lạ trong khi trọng lượng trở lại, sau một chuyến đi nhẹ hẫng. Mình như một phi hành gia vũ trụ trở về từ không gian, cần làm quen lại với sức hút của trái đất. Mình mở mắt, quay lại nhìn vào đường hầm. Nó giống hệt cửa hầm mình đã bước vào tại ga. Xám xịt, tối tăm và trải dài chẳng biết tới đâu.
Mình đã tới nơi an toàn. Nhưng đây là đâu? Một nhà ga tàu điện ngầm khác? Hay đang ở Trung Quốc? Mình nhìn quanh để xem đang là đâu trong đường hầm này, và thấy mình đứng ngay trước lối vào một cái hang. Lúc này, đã tỉnh táo lại, mình nhận ra mình đang rất lạnh. Âm thanh dữ dội mình nghe cuối cuộc hành trình chính là tiếng gió gào gầm rú. Chẳng biết đang ở đâu,nhưng chắc chắc là mình không còn ở trong lòng đất nữa.
Bước mấy bước run rẩy khỏi miệng dường hầm, mình tiến vào hang. Khi bước vào không gian rộng hơn này, mình chợt thấy dấu hiệu khắc trên vách đá ngang tầm mắt: hình ngôi sao giống như trên cánh cửa trong hầm tàu điện. Kỳ lạ không!
Rồi mình thấy một luồn sáng tràn vào từ khoảng trống cuối hang. Ánh sáng chói loà tới mức làm toàn thể lòng hang trông như hắc ín. Thình lình mình cảm thấy chóng mặt vì cảm giác đã ở trong bóng tối quá lâu. Mình muốn ra ngoài, và ánh sáng đó chỉ lối cho mình, mình loạng choạng đi về phía nguồn sáng. Tới nơi, mình phát hiện đây chính là cửa hang. Ánh sáng chan hoà cũng cho mình biết lúc này đang là ban ngày. Mình đã ở trong đường hầm bao lâu rồi? Suốt đêm? Hay đây là ban ngày bên Trung Quốc? Chưa quen với ánh sáng, mình phải che hai mắt lại, lim dim bước hẳn ra ngoài. Ngay lập tức mình nhận ra bên ngoài lạnh hơn nhiều. Bên ngoài áo sơ mi cụt tay, mình chỉ có mỗi cái áo ấm của trường Stony Brook. Gió lạnh như cắt da. Trời ơi, lạnh cóng! Tiến thêm mấy bước, mình nhìn xuống bên dưới và thấy... tuyết! Mặt đất phủ toàn tuyết. Đó cũng là một trong những lý do trời sáng rực đến như vậy. Ánh nắng phản chiếu trên tuyết làm mình loá mắt. Mình biết để mắt quen với ánh sáng chói lọi này cũng không mất bao lâu, vậy thà chờ cho đến khi có thể nhìn rõ còn hơn là chui lại vào hang cho ấm. Mình muốn biết mình đang ở đâu.
Sau mấy giây, mình ngập ngừng buông tay ra khỏi mắt. Cuối cùng hai con ngươi cũng co lại đủ để nhìn được, và những gì nhìn thấy suýt làm mình ngã lộn xuống.
Mình đang đứng trên một đỉnh núi! Mà đây không phải là một quả núi nhỏ để trượt tuyết như chúng mình tới Vermont đâu (Vermont là bang lớn thứ hai ở New England (Mỹ), có 223 núi cao trên 600 mét và chủ yếu là rừng. Là nơi nổi tiếng để cắm trại, trượt tuyết, câu cá, đi săn (Nxb)). Núi này vòi vọi như đỉnh Everest (Everest: Đình núi cao nhất thế giới (8.850m), nầm giữa rặng Himalya ở biên giới Tây Tạng và Nepal (Nxb). O.K., có thể không cao đến thế, nhưng mình cảm giác như đang đứng trên nóc nhà của thế giới vậy. Cánh đồng nhấp nhô phủ tuyết tăm tăm mút mắt luôn. Dưới đó, tuốt đằng xa, tuyết nhường chỗ cho một thung lũng xanh tươi mơn mởn. Nhưng từ chỗ mình tới đó là một dốc đứng thăm thẳm.
Trong đầu mình không ngừng vang lên câu hỏi: “Mình đang ở nơi quái quỷ nào thế này?” Câu hỏi hay đấy, nhưng đâu có ai để hỏi.Vậy là mình quay trở vào hang cho an toàn, để suy tính. Ngay trước lúc dợm chân quay lại, mình chợt thấy: cách miệng hang mấy mét, rải rác những tảng đá vàng, nhẳn, nhọn hoắt, cao chừng sáu tấc. Chúng vương khỏi mặt tuyết như những măng đá. Hoặc là thạch nhũ. Mình chẳng nhớ thế nào mới là măng đá thế nào mới là thạch nhũ. Chúng cứ chĩa lên nhọn hoắt. Chẳng biết chúng là gì, nhưng một từ cứ luẩn quẩn trong đầu mình: bia mộ. Mình cố xua đuổi ý nghĩ u ám đó, lội qua tuyết, trở lại hang.
Chính lúc đó mình nhìn thấy điều kỳ lạ nhất. Mặt trời đúng là đang lên phía trên những tảng đá tạo nên cái hang này, vậy mà mình lại phải che mắt, chống lại ánh sáng từ một hướng khác! Vậy là sao? Mình nhìn lại đằng sau và phát hiện: không chỉ có một mặt trời! Ôi! Mark, mình thề, có tới ba mặt trời! Ba mặt trời ba hướng khác nhau. Tưởng bị loá mắt, mình chớp lia lịa. Nhưng không, ba mặt trời vẫn y xì tại chỗ. Đầu óc mình mụ mẫm luôn, chẳng nghĩ ngợi được gì nữa. Chỉ một điều mình biết rõ: đây không phải là nước Trung Hoa.
Mình đứng đó, trên đỉnh núi, chỉ một mình, giày ướt sũng trong tuyết, trừng trừng nhìn ba mặt trời rực sáng. Mình không thể mắc cỡ khi thú thật điều này: mình nhớ má. Mình muốn được ngồi trước ti-vi, giành nhau bộ điều khiển từ xa với em gái Shannon của mình. Mình muốn cùng ba rửa xe. Mình muốn chơi ném vòng với bạn, Mark ạ. Thình lình tất cả những gì mình yêu quý trong đời trở nên xa xôi quá. Mình muốn về nhà, nhưng tất cả điều mình có thế làm là đứng đó mà khóc. Thật đó, mình đã khóc!
Rồi những âm thanh lại vang lên từ trong hang. Cũng là những âm thanh rộn ràng đã hút mình vào đường hầm và quăng mình tới nơi này. Có người sắp đến. Cậu Press chăng? Rất có thể. Mìn chạy vào hang, vui mừng quá thể vì sẽ không còn một mình nữa. Nhưng mình bàng hoàng nhận nghĩ: lỡ không phải là cậu Press? Lỡ đó chính là thằng cha Saint Dane thì sao? Lần cuối cùng dây dưa với gã đó, gã đã bắn vào cậu cháu mình. Mark, cho bạn biết nhé, bị làm bia bắn không giống như trong phim hay trò chơi game Nintendo đâu. Nó rất thật và khủng khiếp. Đến tận lúc này, mình vẫn còn cảm thấy nhột nhạt ở gáy, chỗ mấy mảnh gạch vụn văng trúng.
Không biết phải làm sao, mình ngừng lại giữa hang, chờ đợi. Dù là ai thì cũng phải ra khỏi đường hầm. Cậu Press hay Saint Dane? Hoặc có thể là mấy con chó khủng khiếp từng muốn xơi tái mình? Ai sắp xuất hiện đây? Thù hay bạn?
-Bobby?
Ôi! Đúng là cậu Press rồi! Ông bước ra khỏi đường hầm với tà áo choàng phất phơ hai bên đùi. Mình có thể ôm ghì lấy ông. Mà thật vậy, mình chạy tới ông như một thằng nhóc còn nhỏ xíu. Nếu đây là cảnh trong phim thì mình đang chạy nhè nhẹ với hình ảnh quay chậm. Mình vòng hai tay ôm xiết lấy ông, với cảm giác vui mừng khôn xiết và biết ơn vì mình không còn đơn độc nữa, vì con người mình yêu quý đã không bị thằng cha Saint Dane bắn chết. Cậu Press mình đã được an toàn.
Nhưng cảm giác này chỉ kéo dài được chừng... ba giây. Lúc này, khi mối sợ hãi đe doạ đến chết chóc không còn nữa, thì thực tế tràn về. Chỉ duy nhất một người chịu trách nhiệm cho việc mình có mặt tại đây. Cậu Press. Người mình đã tin tưởng. Người mình đã thương yêu. Cũng chính là người đã kéo mình ra khỏi nhà và suýt làm mình chết... hơn tám lần rồi.
Mình xô cậu thật mạnh, hết sức bình sinh, để cậu phải lăn đùng xuống đất. Đó là điều mình muốn. Mình muốn cậu thấy mình giận thế nào. Nhưng... như mình đã từng thấy: cậu Press khoẻ vô cùng. Mình xô vào cậu chẳng khác nào đánh vật một bức tường, rốt cuộc chỉ làm mình ngã ngồi trên mặt đất. Đứng bật dậy - không muốn bị coi như một thằng ngốc - mình gào lên:
-Chuyện quái gì đang xảy ra thế này?
-Bobby, cậu biết là cháu bối rối vì...
-Bối rối? Bối rối không phải là từ để khoả lấp chuyện này.
Chạy xồng xộc tới cửa đường hầm, mình gào tiếp:
-Denduron! Denduron!
Mình nói bất cứ câu gì để thoát ra khỏi đây. Nhưng chẳng có gì xảy ra. Cậu Press nói cứ như đã dự trù sẵn:
-Đây chính là Denduron. Chúng ta đang ở tại Denduron.
Mình nhìn vào đường hầm:
-OK, vậy thì - Mình lại gào - TRÁI ĐẤT! NEW YORK! TÀU ĐIỆN!
Chạy vào đường hầm, mình hy vọng tiếng nhạc thần kỳ sẽ đưa mình bay bổng về nhà. Êm ru. Mình trở ra ngoài và chạm ngay mặt cậu Press. Mình gào lên:
-Không cần biết chuyện này là thế nào, không cần biết đây là đâu, cháu chỉ cần về nhà, về nhà, về nhà ngay lập tức. Đưa... cháu.. về nhà!
Cậu Press chỉ lẳng lặng nhìn mình. Hẳn ông biết mình giận và sợ đến dường nào, nên mình nghĩ ông đang đắng đo từng lời. Rủi thay, dù cho có lựa lời, thì cũng chẳng có cách nào hay hơn để chuyển tải lời ông nói:
-Bobby, cháu không thể về nhà. Bây giờ cháu đã thuộc về nơi này rồi.
Vậy đó. Mình quay lưng lại ông, thẫn thờ, không biết phải làm gì, nghĩ gì nữa. Chỉ muốn khóc thôi. Mình cũng muốn thụi cho ông mấy quả, muốn cãi lý với ông, muốn thức dậy và thấy đây chỉ là cơn ác mộng khủng khiếp.
Cậu Press vẫn cứ lẳng lặng nhìn mình và chờ mình bình tĩnh lại. Nhưng tất cả những thông tin lộn xộn nhồi nhét vào cái sọ bé nhỏ tội nghiệp của mình chỉ làm mình bật ra được một câu hỏi ngẩn ngơ:
-Vì sao?
-Cậu đã nói với cháu, có những người tại Denduron cần chúng ta giúp đỡ.
Giọng ông nhỏ nhẹ như nói với một đứa con nít, càng làm mình thêm lộn ruột. Mình la lớn:
-Nhưng cháu không biết những người đó. Mặc kệ họ. Cháu chỉ quan tâm tới cháu thôi. Cháu muốn về nhà. Cậu không hiểu sao?
Cậu nghiêm giọng:
-Cậu hiểu rất rõ. Nhưng không thể được.
-Vì sao? Chuyện gì về những người này mà quá quan trọng vậy? Nơi này là đâu? Cái... Denduron này là ở đâu?
-Rất khó cắt nghĩa để cháu hiểu...
-Cậu cố thử đi.
Mình đã chán ngấy tất cả những chuyện bí mật rồi. Cậu Press ngồi lên một tản đá. Mình coi như đó là dấu hiệu cậu sẵn sàng bắt đầu giúp mình hiểu rõ mọi chuyện. Ông nói:
-Chúng ta đang ở rất xa trái đất. Nhưng nơi này không phải là một hành tinh khác như cháu nghĩ. Đây là một lãnh thổ. Giống như trái đất là một lãnh thổ.
-Lãnh thổ, hành tinh thì khác gì nhau. Chỉ là một từ để gọi.
-Không phải vậy. Nếu chúng ta có một phi thuyền và phóng khỏi đây, đi đến nơi được coi là trái đất, thì sẽ chẳng có trái đất nào ở đó để cho cháu đến. Vì nó không có ở đó. Ít ra là, mọi chuyện không giống như những gì cháu biết. Khi cháu đi xuyên qua ống dẫn...
-Ống dẫn?
-Bằng lối đó cháu đã tới đây. Xuyên qua ống dẫn. Khi tới những lãnh địa qua đường ống dẫn, cháu không chỉ đi từ nơi này tới nơi khác, mà là xuyên qua không gian và thời gian. Cậu biết là rất khó lý giải, nhưng rồi cháu sẽ hiểu.
Mình không chắc là có muốn hiểu không. Thà cứ ngốc lại đỡ hơn. Mình nhìn cậu Press và lần đầu tiên mình giật mình: đây không phải con người mình từng biết. Vẫn biết ông là một nhân vật bí mật, nhưng bây giờ ông có vẻ giống như một thành phần hoá học hơn mình tưởng nhiều. Mình hỏi:
-Cậu là ai? Thật sự, cậu không phải là một người bình thường.
Cậu Press mỉm cười, nhìn xuống. Không hiểu sao mình có cảm giác câu trả lời cũng chẳng dễ chịu gì.
-Cậu là cậu của cháu, Bobby. Nhưng đồng thời cũng là một “Lữ khách”. Giống như cháu vậy.
Lai thêm một từ mới. “Lữ khách.” Mình chẳng muốn là một “Lữ khách” tí ti nào. Mình chỉ muốn là Bobby Pendragon, cầu thủ bóng rổ trong đội hình của trường trung học Stony Brook. Nhưng... cuộc đời đó dường như đã quá xa xôi rồi.
-Nếu chúng ta không còn trên trái đất, sao cháu vẫn thấy giống như đang ở trên trái đất? Cháu vẫn thở được, ở đây cũng có tuyết, và có trọng lực bình thường...
-Tất cả các lãnh địa đều rất giống trái đất, nhưng không hoàn toàn giống hệt.
-Chẳng hạn như ba mặt trời ở đây?
-Thí dụ rất hay.
-Và những tản đá vàng kỳ cục nhô khỏi mặt tuyết?
Cậu Press bỗng căng thẳng:
-Đâu? Bên ngoài hả? Bao nhiêu?
-Cháu... không rõ. Mười. Mười hai.
Ông đứng vội dậy cởi áo choàng:
-Chúng ta phải đi thôi.
Ném áo choàng xuống đất, cậu Press hấp tấp tới cuối hang, nơi có một đống cành khô. Ông bắt đầu giở chúng ra.
Mình lo lắng hỏi:
-Chuyện gì vậy?
Ông đặt ngón tay lên môi, suỵt một tiếng. Vẫn tiếp tục rút những cành khô, ông nói nhỏ như sợ bị nghe lén:
-Bọn quig.
À, quig. Không phải từ mới. Nhưng mình rất ghét từ này. Mình tí tởn nói:
-Không phải quig đâu. Quig giống như chó mà, đúng không?
Cậu thì thào:
-Tuỳ theo từng lãnh thổ. Trên Trái Đất Thứ Hai chúng giống như chó. Tại đây thì không.
Mình hỏi, mà thật tình không muốn biết câu trả lời:
-Vậy thì... quig là con gì?
-Chúng là những con thú hoang dã đặc biệt trong mỗi lãnh địa. Saint Dane sử dụng chúng để giữ không cho Lữ khách lại gần ống dẫn.
Lại là cái tên đó. Saint Dane. Nhưng làm cách nào một con người “sử dụng” một con thú hoang dã vào công việc? Mình chưa kịp hỏi, cậu Press đã dở hết đống cành khô, để ra một đóng lộn xộn lông và da thú. Ông bắt đầu cởi quần áo. Nhặt lên một mảnh da trông phát khiếp, ông bảo:
-Mặc cái này vào. Chúng ta không thể mặc quần áo của Trái Đất Thứ Hai tại lãnh địa này.
-Cậu đùa ạ?
-Đừng cãi Bobby. Những thứ này làm cháu ấm.
-Nhưng...
-Không nhưng gì hết. Lẹ lên!
Cậu Press thì thầm. Rõ ràng ông sợ lũ quig. Mình nghĩ là mình cũng sợ, nên mới vội vàng cởi quần áo. Dù khiếp đảm chờ câu trả lời, nhưng mình vẫn hỏi:
-Cởi đồ lót luôn sao, cậu?
-Tại Denduron không ai mặc đồ lót.
Câu trả lời mình chẳng muốn nghe tí nào. Dù biết sẽ rất khó chịu, nhưng mình đành phải theo lời cậu Press: mặc quần áo lót lông bên trong, quần áo da bên ngoài. Đôi ủng da rất êm và tại Denduron người ta không mang bít-tất. Khi lấy thêm quần áo khỏi đống cành khô, có một vật khác dần dần lộ ra. Mình nhấc tấm da lông lá cuối cùng lên và thấy một chiếc xe trượt tuyết giành cho hai người. Trông nó giống như xe trượt do chó kéo tại Alaska, nhưng chẳng có gì là hiện đại. Bánh trượt là những thanh gỗ, sườn xe làm bằng cành cây, ghế ngồi đan bằng cây sậy, còn bánh lái là cái gạc hươu to đùng. Nhưng còn thêm mấy thứ làm mình bối rối.
Buộc hai bên sườn là những cây giáo trông phát khiếp. Chúng được làm bằng những cây chuốt nhẵn. Mũi bằng thép, trông sắc như dao mổ. Đuôi giáo gắn lông vũ. Dù thô kệch và lạc hậu, tất cả trang thiết bị đó có vẻ là một vũ khí đáng gờm. Chúng được treo hai bên sườn xe trượt như một dạng hảo tiễn thời tiền sử, sẵn sàng để phóng. Mình hỏi, tràng trề hy vọng:
-Súng của cậu không hạ được bầy quig sao?
-Trong lãnh địa này không được dùng súng. Chúng ta chỉ có thể sử dụng những gì do nơi này làm ra. Cháu phải nhớ điều quan trọng đó. Hiểu?
-Cháu hiểu.
Ông nhét một vật vào tay mình. Đó là một vật nhỏ, được chạm khắc, tròng vào một sợi dây da. Trông giống như...
Như đọc được ý nghĩ của mình, cậu Press nói ngay:
-Đó là cái còi. Phải luôn giữ bên mình cháu.
Mình muốn hỏi để làm gì, nhưng mối bận tâm lúc này là hy vọng cậu sử dụng giáo cũng giỏi như súng. Còn cái còi nhỏ xíu này là cái quái gì chứ, nó đâu có bảo vệ được cậu cháu mình nếu gặp nguy hiểm. Nhưng mình cũng tuân lệnh, choàng nó vào cổ. Cậu Press hỏi:
-Sẵn sàng chưa?
-Chưa.
Câu trả lời quen thuộc của mình. Thật tình, mình đã sẵn sàng. Mình cảm thấy hơi giống một người sống trong hang, nhưng bộ quần áo kỳ cục này vừa vặn với mình. Chỗ nào quá rộng, mình buộc bằng dây da theo lời cậu chỉ dẫn, Mình thật sự thoải mái. Chỉ tiếc một điều là không giữ được bộ đồ lót. Nếu có bị ngứa ngáy, nổi mụn tràn làn chắc không tìm ra phấn rôm ở Denduron này.
Cậu Press bắt đầu kéo xe trượt ra vùng sáng về phía cửa hang. Mình đẩy phụ. Cậu dặn:
-Khi ra tới chỗ có tuyết, cháu phải nhảy lên, ngồi phía sau ngay. Cậu sẽ giữ lái phía trước. Nếu may mắn chúng ta sẽ đi khỏi trước khi bầy quig thức giấc.
- Nếu không may mắn thì sao?
- Chúng ta không chạy nhanh hơn chúng đâu. Hy vọng duy nhất là hạ được một con.
- Hạ? Cậu nói rõ hơn đi.
Nhưng ông không nói. Hai cậu cháu đã tới cửa hang. Cậu Press nhìn mình:
-Cậu rất tiếc, thật sự rất tiếc vì chuyện này. Cậu chỉ biết nói rằng, cháu sẽ sớm được biết vì sao.
Ông nói như vẻ đoan chắc như mình thật sự tin ông. Còn mình thì sợ phải tin ông. Vì nếu những gì cậu Press nói đều đúng, mình sẽ không còn lựa chọn nào khác mà chỉ còn cách đối diện với những rắc rối đang chờ phía trước. Và căn cứ vào những gì đã xảy ra cho đến lúc này, sẽ chẳng có gì thú vị cả. Mình chỉ bảo:
-Hy vọng cậu biết lái cái này.
-Nắm chặt vào.
Hừ, “nắm chặt”. chẳng lẽ mình vung vẫy hai tay trong không khí để giữ thăng bằng, như trên một trục lăn!
Cậu cháu mình kéo xe ra khỏi cửa hang, lên nền tuyết. Phải mất mấy giây mắt mình mới quen được với ánh sáng. Điều đầu tiên mình thấy là những tảng đá vàng mang niềm gở nhô trên tuyết trắng. Dù cậu Press có tỏ ra sợ, nhưng mình không hiểu so mấy cục đá đó có thể nguy hiểm được. Ông im lặng ra dấu cho mình leo vào xe, rồi vòng ra sau, bắt đầu đẩy. Cái xe cổ lỗ đời tiền sử đó lướt đi rất êm. Tước mặt mình là những tảng đá vàng; mình đếm được mười hai tảng, rải rác trên khoảng rộng nhiều mét. Cậu cháu mình lướt đến gần chúng êm ru. Mình nhìn cậu Press. Cậu đặt tay lên môi như muốn nhắc nhở mình phải im lặng. Tiến thêm mấy mét, hai cậu cháu lọt giữa những tảng đá vàng. Cậu Press thận trọng điều khiển xe sao cho không chạm vào bất cứ vật gì. Ngay khi chúng mình vừa tăng tốc, độ dốc càng dốc đứng hơn. Nhìn ra trước, mình bỗng không còn lo gì đến bầy quig nữa. Chúng mình sắp lao xuống dốc núi tuyết dựng đứng, lởm chởm đá tảng trên một mảnh gỗ lung lay được ràng bằng dây da. So với cảnh tượng khủng khiếp đó thì mấy con thú cao sáu tấc có nghĩa lý gì chứ?
Mình sắp tìm ra lời giải đáp đó.
Ngay khi sắp ra khỏi bãi đá vàng, thì trước mặt chúng mình mặt tuyết bắt đầu rùng mình. Chỉ còn phải vượt qua một tảng đá nữa thôi. Nhưng một là quá đủ. Thình lình, ngay trước mặt, tuyết nứt ra, tảng đá nhọn màu vàng đứng dậy. Nhưng đó không phải là tảng đá nhọn màu vàng. Đó là cái sừng nhô lên từ lưng một quái vật gớm ghiếc mình chưa từng thấy bao giờ. Con quig vươn mình khỏi tuyết cho đến khi thân thể nó hoàn toàn xuất hiện. Trông nó giống như một con gấu xám khổng lồ. Nhưng cái đầu to đùng với cả những cái nanh nhọn hoắt - cả hàm trên và hàm dưới - giống như lợn nòi. Chân nó cũng to vật vã với những móng vuốt lớn như những phím đàn piano. Những phím đàn sắc bén. Mắt nó giống mắt những con chó trong nhà ga tàu điện ngầm. Vàng khè, hung hăng và... tập trung vào hai cậu cháu mình.
Cậu Press vừa chạy vừa đẩy xe trượt vòng qua con quái, cố gắng tăng thêm tốc độ. Cậu la lên:
- Lấy cây giáo.
Mình không thể rời mắt khỏi con quái vật. Nó vươn mình trên hai chân sau chồm tới. Tiếng gầm của nó khủng khiếp đến mức có thể làm người chết bật dậy. Hoặc... ít ra cũng đánh thức được cả bầy quig. Quả vậy. Phía sau cậu cháu mình, tuyết chung quanh những tảng đá vàng sôi sùng sục. Tất cả bầy quig đang thức giấc.
-Bobby, dịch ra!
Cậu Press nhảy lên xe, làm mình choàng tỉnh. Nhào tới trước mình nắm lấy một cây giáo. Xe trượt lao vùn vụt, nảy lên trên tuyết. Mình vất vả giữ thăng bằng. Gò người sang một bên, mình cố gắng cởi dây buộc một trong hai cây giáo trên sườn xe.
-Lẹ lên!
Tiếng cậu Press từ phía sau, bình tĩnh nhưng khẩn khiết. Mình quay lại nhìn: phía sau, hàng chục con quig đang rùng mình rũ tuyết.
Đáng lẽ mình không nên nhìn. Sợi dây buộc giáo sắp gỡ được, thì ngay lúc mình nhìn lại. xe trượt đụng phải một mô đất, nẩy tưng lên. Trước khi mình biết chuyện gì đã xảy ra thì cây giáo đã lỏng ra và rơi khỏi xe. Mình vội với theo, nhưng quá muộn.
Cậu Press lại la lên:
-Lấy cây khác. Mau!
Mình nhào qua bên kia xe, một tay nắm chặt cây giáo, một tay lúng túng cởi dây. Mình không thể để mất thêm cây giáo này. Rồi mình cũng cởi được dây.
-Đón này.
Mình la lên, ngả người chuyền cây giáo cho cậu Press. Ngay sau đó, mình quỳ gối, nhìn lại. Khiếp đảm, mình nhìn lũ quig đang tấn công. Tiếng gầm gừ khắp phía, cậu cháu mình đã lọt vào tầm nhắm của những con gấu hung tợn. Mình không biết cây giáo nhỏ bé làm được gì để chống lại bầy đàn tấn công dữ dội kia. Cậu Press gào lên:
-Giữ vững bánh lái.
Mình bò lên phía trước, nắm lấy cái gạc hươu. Xe trượt lướt đi rất hoàn hảo. Ai thiết kế ra chiếc xe này, đã biết nó sẽ làm gì. Tuy nhiên, cậu Press đã nói đúng. Chúng mình không đủ nhanh để thoát khỏi tụi quig. Chúng nó sắp gần kề.
Con quig dẫn đầu cách bầy đàn nó một khoảng xa. Đó là mối nguy hiểm sát bên cậu cháu mình. Mình ngoái ra sau, nhìn những gì đã xảy ra. Cậu Press thật ngầu. Cậu đứng sững trên xe, hướng ra sau, cây giáo trong tay. Đã quen thấy cậu hiên ngang trong những trường hợp tương tự như thế này, nên chẳng có gì làm mình ngạc nhiên thêm được nữa. Như thuyền trưởng Ahab săn con cá voi khổng lồ Moby Dick, cậu Press chờ con quig đầu đàn. (Moby Dick - con cá voi trắng khổng lồ và thuyền trưởngAhab là hai nhân vật nổi tiếng trong văn chương Mỹ. Tiểu thuyết Mody-Dick (1851) của nhà văn Haman Melville được chuyển thể thành nhiều bộ phim phiêu lưu mạo hiểm rất ăn khách. (Nxb))
Giọng làu bàu, ông giễu cợt nó:
-Nào nào, lại gần chút nữa coi.
Con quái khát máu đã gần kề, nó chồm lên, hai hàm há hốc, sẵn sàng táp lấy cậu Press. Ông la về phía mình:
-Cái còi! Thổi ngay đi!
Còi? Cái còi thì làm được gì? Nhưng đây không phải lúc lý sự. Một tay điều khiển gạc hươu, một tay mình lần mò tìm cái còi đeo trên cổ. Con quái gần sắp chộp được cậu Press rồi. Cuối cùng mình cũng túm được cái còi. Kéo sợi dây da ra khỏi đầu, mình đưa còi lên miệng thổi.
(vongtronkhuyet type)
Âm thanh rất khác lạ. Chắc chắn cái còi này được thiết kế để bắt chó ngừng sủa với cường độ cao chói lói chỉ có chó mới nghe nổi. Nhưng quig hình như không khoái nghe âm thanh lạ lùng này. Con quái bỗng há hốc mõm ghê tởm, tru lên làm tóc gáy mình dựng đứng. Đó là âm thanh đau đớn, như thể âm thanh phát ra từ cái còi đang cào xé đầu óc nó.
Đúng lúc ấy cậu Press ra tay. Cậu phóng cây giáo như một vận động viên Olympic phóng lao. Ngọn giáo lao thẳng vào cái mõm đang há toang hoác của con quái vật. Con quái hộc lên đau đớn khi mũi giáo đi suốt tới cuống họng nó. Con quig lăn xuống, chân co giật làm tung lên lớp tuyết mỏng. Máu trào ra từ cái mõm há hốc như suối chảy.
Thật kinh tởm! Nhưng chưa kinh tởm bằng những gì xảy ra sau đó. Bầy quig kia đuổi kịp con đầu đàn, nhưng thay vì rượt theo cậu cháu mình, chúng ngừng phắt lại nhào vào tên anh em của chúng. Đó là miếng mồi đầy quyến rũ, giống như bạn thấy lũ cá mập phát hiện mùi máu trong nước vậy. Đến bây giờ mình vẫn còn nghe những âm thanh khi chúng phanh thây xé thịt đồng loại. Mình không bao giờ muốn phải nghe lại những tiếng toàng toạc của thịt tươi, tiếng răng rắc của xương gãy đó nữa. Mà… con mồi đó vẫn sống. Tiếng gầm rú của nó nghe thật khiếp đảm. Cám ơn trời, tiếng kêu thảm thiết đó không kéo dài.
Mình nhìn lại lần cuối. Phải chi mình đừng làm vậy, vì ngay lúc đó một con quig ngửng nhìn lại mình. Móng vuốt và mõm nó nhễu nhão đầy máu. Bây giờ mình mới hiểu ý cậu Press khi cậu nói chỉ cần hi vọng “hạ” được một con.
Cậu mình bỗng la lên:
-Coi chừng!
Mình vội nhìn phía trước. Một tảng đá lớn như một chiếc ô-tô lù lù trước mặt. Mình bẻ mạnh gạc hươu. Xe trượt lách sang một bên, nhưng đuôi bị lật ngang, làm chiếc xe va mạnh vào tảng đá. Cậu cháu mình vẫn tiếp tục di chuyển được, dù cú di chuyển quá mạnh, quăng cậu Press lên sàn xe. Nếu không nắm chặt gạc hươu mình cũng đã bị quăng theo rồi. Nhưng khi nắm chặt gạc hươu mình đã để rơi mất cái còi. Tụi quig mà đuổi theo sẽ rất gay go. Hai cậu cháu không có còi, cũng chẳng còn cây giáo nào. Sao mình lại ngốc đến mức tháo sợi dây khỏi cổ như vậy chứ?
Xe trượt phăng phăng vì con dốc gần như dựng đứng. Mình đã có thể thấy sắp tiến đến hàng cây. Để đến được điểm đó, mình chỉ còn phải điều khiển xe lướt trên tuyết và tránh những tảng đá. Lúc này cậu cháu mình đang tiến thẳng vào một khu rừng.
-Thành công rồi!
Cậu Press la lớn. Ông tiến lên đầu xe. Niềm vui lớn nhất của mình là trao bánh lái lại cho ông. Mình cũng la lớn hỏi:
-Xe không có thắng, phải không cậu?
-Ước gì có thắng!
Câu trả lời phát ớn! Đây đâu phải là con dốc dễ thương để chơi trò trượt băng? Ồ, không. Cậu cháu mình sẽ đâm đầu vào hang loạt cây cối kia mất thôi. Muốn ngừng lại là phải cho xe ủi vào một vật cứng. Mình chẳng muốn đâm đầu vào một vật cứng chút nào. Chắc chắn sẽ bị thương. Cậu Press lại la lớn:
-Phải! Nghiêng qua phải!
Mình làm theo và cậu Press đưa hai người vòng qua một thân cây.
-Bám chặt cậu. Nhìn điểm sắp tới! Sang trái.
Cứ như đang ngồi phía sau chiếc mô-tô của cậu Press vậy, muốn cua qua bên nào là hai cậu cháu phải ngả người sang bên đó. Nhưng xe mô-tô còn có thắng và không phải lạng lách qua bãi mìn toàn cây như thế này. Khiếp thật! Trên cái xe trượt cà tàng, chúng mình phóng như trên hoả tiễn, lách qua những cây thông rắn như đá.
Xe vù vù vượt qua những thân cây san sát. Trái, phải, lại phải. Cậu Press luôn miệng bảo mình ngả người qua bên nào. Còn mình luôn phải nhìn phía trước và cố đoán ông định rẽ sang đâu. Cành cây vun vút quất vào mặt cậu cháu mình. Tiếng cây vèo vèo lướt qua sát bên tai. Càng xuống dưới rừng cây càng rậm rạp hơn. Cậu Press kêu lớn:
-Phía trước có một khoảng trống. Tới đó, cậu sẽ bẻ lái gấp sang phải. Hy vọng chúng ta không bị lật.
Hy vọng! Hy vọng sao đừng bị hất ra khỏi xe, lộn tùng phèo vào một thân cây!
Tiếng cậu vẫn oang oang:
-Khi cậu bẽ lái, nhớ ngã hết cỡ về bên phải. Sắp tới rồi.
Qua những hàng cây, mình thấy một bãi màu trắng. Chắc đó là khoảng rừng trống. Nhưng cậu cháu mình vẫn di chuyển rất nhanh và cây cối còn rải rác rất nhiều. Trái, trái, phải. Thêm vài lần rẽ nữa là sẽ đến bãi đất trống. Mình la toáng lên:
-Thành công rồi!
Nhưng không. Khi rẽ trái, một rễ cây nằm dưới tuyết hất hai cậu cháu sang phải. Chiếc xe lướt đi ngoài vòng kiểm soát. Khi đó, giữa cậu cháu mình và bãi đất an toàn kia chỉ còn vài cái cây nữa thôi. Xe trượt đâm sầm vào một thân cây, quay vòng vòng. Sức va đập thật khủng khiếp, làm mình chao đảo. Nhưng mình vẫn trụ lại được trên xe. Cậu Press, kém may mắn hơn, bị bắn ra ngoài.
Mình vẫn tiếp tục lướt đi. Thanh trượt bên phải đã rời ra, nhưng chiếc xe vẫn bon bon tiến tới. mình nằm cuối xe, cách bánh lái là cái gạc hươu cả… dặm. Đã nhìn thấy bãi đất trống, mình thoáng nghĩ là sẽ tới được đó. Nhưng xe trượt đâm vào một mô đất và thình lình mình bay bổng lên. Xe một đằng, mình một nẻo. Rồi mình rơi bịch xuống. chỗ này tuyết không dày, nên thay vì đáp xuống mặt tuyết êm ái, thân hình mình nện lên mặt đất cứng ngắc. Mình gần như đứt thở, đầu đập mạnh xuống đất. Trời đất quay mòng mòng một màu trắng. Mình không nghĩ được gì nữa. Không cựa quậy nổi nữa, nhưng… như thế lại tốt.
Không biết mình nằm đó bao lâu, vì mình tỉnh rồi lại mê đi. Lúc đó, mình nhớ là có nghe những âm thanh kỳ lạ. Lúc đầu xa xa, rồi lại gần rất nhanh. Mình đã sợ là lũ quig đã xong bữa trưa, bây giờ định bắt cậu cháu mình làm món tráng miệng. Nhưng không phải. Âm thanh này giống như tiếng vó ngựa. Ít nhất cũng hơn một con.
-Bobby! Bobby! Nếu nghe được tiếng cậu, cũng đừng nhúc nhích. Ở yên tại đó. Milago sẽ tìm ra cháu. Họ sẽ giúp cháu.
Ông ấy nói gì vậy? Milago là ai? Cần phải thấy chuyện gì đang xảy ra. Mình lăn sang một bên, dù rất đau. Chắc cú ngã đã làm mấy chiếc xương sườn của mình nát như tương rồi. Không thể đứng dậy. Dù có muốn cũng không chắc đứng nổi. Đầu nhức nhối và chóng mặt vô cùng, nhưng mình cũng ráng bò qua tuyết, tiến tới nơi có tiếng nói cậu Press. Một ụ tuyết vồng lên – có thể chính cái ụ này đã phóng mình lên không – mình phải bò bằng bụng, rất đau, tới ụ tuyết đó. Tới nơi, mình thận trọng lén nhìn qua ụ tuyết.
Mình nhẹ cả người khi thấy cậu Press đang đứng bên lề khoảng rừng trống, không xa mình lắm. Cậu mình không hề hấn gì, có vẻ còn khá hơn tình trạng mình lúc đó nhiều.
Bên kìa khoảng rừng trống, đang mau chóng xiết vòng lấy cậu Press, là những con ngựa mình đã nghe tiếng vó. Trên lưng bốn con ngựa có bốn người cỡi. Mình thấy họ giống như những hiệp sĩ thời cổ. Họ mặc toàn giáp bằng da đen. Mũ và tấm che mặt cũng bằng da đen. Cả bốn con ngựa cũng phủ trên mình những tấm da đen giống vậy. Trông họ giống hệt nhau, hình như những bộ giáp này là đồng phục. Họ còn mang cả kiếm nữa, cứ như từ trong truyện Hiệp Sĩ Bàn Tròn bước ra (Theo truyền thuyết của Anh, Hiệp Sĩ Bàn Tròn là nhóm những người được tấn phong phẩm cấp hiệp sĩ cao nhất tại triều đình vua Arthur. Bàn tròn – nơi họ hội họp - thể hiện sự bình đẳng của mọi thành viên trong nhóm. (Nxb))
Trong khi họ xiết vòng vây quanh cậu Press, cậu vẫy tay thân thiện:
-Chào. Các bạn khoẻ chứ?
Đây đâu phải nước Mỹ? Cũng không phải trái đất. Sao cậu Press lại nghĩ những người này nói được tiếng Anh?
Một hiệp sĩ cộc cằn nói lớn:
-Buto! Buto aga forden.
Mình nghĩ đúng mà. Họ không biết tiếng Anh. Nhưng cậu press vẫn trả lời bằng tiếng Anh.
-Không đâu. Tôi đi săn thỏ cho gia đình mà.
-Soba board few!
Một hiệp sĩ khác quát lên. Thật quái lạ! Họ nói một thứ ngôn ngữ lạ hoắc, còn cậu Press cứ nói tiếng Anh, vậy mà dường như hai bên hiểu nhau. Mình thì mù tịch, chẳng hiểu gì hết. Còn gì mới lạ nữa không đây?
Hiệp sĩ đã nói với cậu Press đầu tiên chỉ ngón tay vào cậu thét lớn:
-Buto! Buto aga forder ca dar!
Căng rồi! Chẳng biết “Buto” có nghĩa quái quỉ gì, nhưng mình đoán chắc không phải là câu chào thân thiện. Cậu Press đưa cao hai tay vẻ ngây thơ vô tội, nhúng vai như không hiểu họ đang nói gì. Ông nói với nụ cười:
-Không. Tôi dò thám Kagan làm gì chứ? Tôi là một thợ mỏ, chỉ lo nuôi sống gia đình thôi.
Do thám? Thợ mỏ? Kagan? Đầu mình lùng bùng luôn.
Thế rồi mọi chuyện trở nên nghiêm trọng hơn. Tay hiệp sĩ đó rút ra từ yên ngựa một cây roi như cây roi chăn bò và quất cậu Press. Phập! Cây roi cuốn lấy cánh tay cậu. Cậu bật lên một tiếng kêu đau đớn. Gã hiệp sĩ giật mạnh roi, kéo cậu quì xuống.
Mình định đứng lên, chạy tới cậu. Nhưng bên sườn đau nhói làm mình nghẹt thở. Đầu óc lại quay mòng mòng làm mình suýt ngất đi. Nhưng mình vẫn cố nhướng mắt nhìn cậu Press. Hai hiệp sĩ khác rút ra hai sợi dây thừng từ yên ngựa, tung thòng lọng lên cậu mình cứ như ông là một con bò tơ trong trò rodeo (Cuộc đua tài của những người chăn bò(cưỡi ngựa, quăng dây…)). Rồi chúng thúc ngựa, phóng qua khoảng rừng thưa, kéo lê cậu Press đi theo.
Điều cuối cùng mình thấy là: những gã hiệp sĩ áo đen ngồi trên ngựa, ha hả cười kéo cậu mình qua mặt tuyết. Khi chúng khuất dạng vào rừng, mình chẳng thấy chẳng nghe gì nữa. Đầu óc mình quay cuồng, mất kiểm soát. Mình lịm đi dần. Điều cuối cùng mình còn nhớ được là mình tưởng như chỉ mấy tiếng đồng hồ trước, mình còn đứng trong bếp ném trái banh ten-nít cho con Marley chụp. Và mình hy vọng có người nhớ dắt nó ra ngoài đi dạo vào buổi tối.
Rồi tất cả chỉ còn là màu trắng. Mình ngất đi.
CHẤM DỨT NHẬT KÍ # 1
Tác giả :
D.J. Machale