Ơgiêni Grăngđê
Chương 1: Mấy dáng dấp thị thành
Ở một vài tỉnh nhỏ, có những ngôi nhà mà quang cảnh gợi lên trong lòng ta một nỗi buồn man mác như khi nhìn những tu viện âm u, những cánh đồng hoang ảm đạm, những di tích hoang tàn hiu hắt nhất. Có lẽ ở các ngôi nhà kia cũng có cái vắng lặng của tu viện, cái cằn cỗi của bãi hoang và cũng có những lô cốt của các di tích hoang phế. Cuộc sống ở đấy quá chừng lặng lẽ, khiến cho khách phương xa đến ngỡ là nhà bỏ hoang, cho tới khi đột nhiên bắt gặp cái nhìn mờ nhạt, lạnh lẽo của một người im lặng, khuôn mặt gần như khổ hạnh vừa nhô lên khỏi bậu cửa sổ khi nghe bước chân lạ qua đường.
Ở thị trấn Xomuya cũng có một ngôi nhà mang dáng dấp ủ dột ấy. Nó ở cuối con đường phố đưa đến lâu đài Xomuya qua khu thượng của thành phố. Con đường phố ấy ngày nay ít người qua lại. Mùa hè ở đấy nóng bức, mùa đông lại quá lạnh. Trên đường phố, đây đó có những vùng tăm tối. Ai đi qua cũng phải chú ý đến âm vang đặc biệt của mặt đường lô nhô đá cuội, lúc nào cũng sạch sẽ, khô ráo, đến nền đường hẹp và quanh co khúc khuỷu, đến cảnh tượng yên tĩnh của hai bên phố xá nép mình dưới hàng thành lũy xưa và thuộc khu vực thành phố cũ. Ở đây có những ngôi nhà trải qua ba thế kỷ vẫn còn đứng vững mặc dù là nhà gỗ, nhà nào có vẻ riêng của nhà ấy, nên toàn khu có một dáng dấp độc đáo làm các họa sĩ và những người hiếu cổ chú ý nhiều. Đi qua đấy khó mà không thầm phục những cây trinh to lớn, đầu tạc hình thù kỳ quái, hiện ra trên mặt tường tầng dưới, như những bức điêu khắc đen. Các thớt gỗ đặt ngang đều bọc đá lợp, cho nên trên ngọn các bức tường mong manh kia người ta thấy những vạch xanh biếc. Mái nhà lâu đời đã oằn xuống, lớp ruôi ngoài trải qua mưa nắng đã mục nát vênh vẹo. Những bậu cửa sổ mòn nhẵn và đen sạm, nét trạm trổ tinh vi chỉ còn lờ mờ. Những bậu cửa ấy trông như quá mỏng manh, không đủ sức đỡ cái chậu đất nâu sẫm trồng hoa hồng hay cẩm chướng của chị thợ nghèo. Đằng kia là những cánh cửa đóng đanh to tướng, trên ấy có những nét ký họa về lịch sử gia tộc do bàn tay sáng tạo của tổ tiên ta khắc vào, nhưng nó bí hiểm quá nên không bao giờ chúng ta còn hiểu thấu ý nghĩa. Khi thì một người đi đạo Cải lương ghi lại lòng thành tín của mình, khi lại một người Công giáo liên minh viết lời nguyền rủa Hăngri đệ tứ. Có khi một anh thị dân khắc cái gia huy hào mục của mình lên đấy để nhắc nhở thời kỳ cầm quyền oanh liệt của cha ông. Toàn bộ lịch sử nước Pháp phơi bày dưới mắt. Bên cạnh cái nhà lung lay, xây vách đá, mà cột kèo do những bác phó mộc nâng niu tay bào trau chuốt, là tòa lầu của một người quý phái. Trên vòm cuốn cổng đá, còn vết tích những nét chạm cái gia huy đã bị phá hủy qua bao nhiêu cuộc cách mạng làm đảo lộn miền này từ năm 1789 đến nay.
Ở phố ấy, tầng dưới của các hiệu buôn không ra vẻ là hiệu tạp hóa, cũng chẳng phải kho hàng. Những người ham thích thời Trung cổ hẳn tìm thấy ở đấy hình ảnh các xưởng thủ công quả là đơn giản ngày trước. Không quầy, không tủ kính, gian nào gian nấy sâu thăm thẳm, tối om, trong ngoài không có tí gì gọi là trang trí. Cửa vào gồm hai cánh dầy, cạp sắt một cách thô kệch; cánh trên mở vào trong, cánh dưới có mắc chuông lò xo, đẩy qua kéo lại không ngớt. Ánh sáng và không khí luồn vào cái hang ẩm ướt ấy do khoảng trống ở phần trên cửa ra vào, hoặc do khoảng cách giữa vòm cuốn, sàn gỗ tầng trên và một bức tường thấp ngang vai. Trên đầu tường có những cách cửa thật chắc, sớm lấy đi, tối lắp vào và cài then siết bằng đanh ốc.
Bức tường dùng để bầy hàng hóa.. chẳng có nhãn hiệu khoác lác, quảng cáo màu mè. Các mẫu hàng thường là hai ba chậu đầy cá thu muối, vài súc vải buồm, mấy cuộn dây thừng, những tấm đồng thau treo lên mấy cây đà đỡ sàn gác, những đai thùng xếp dựa vào tường, hoặc mấy xấp dạ trên các ngăn ngách. Ta thử vào xem. Một cô gái sạch tươm, phơi phới tuổi xuân, cánh tay hồng, khăn trùm đầu trắng, khi trông thấy ta sẽ vội vàng bỏ chiếc áo đan dở, gọi cha hoặc mẹ ra; tùy tâm tính họ, họ sẽ bình thản, niềm nở hay kiêu kỳ mà bán hàng cho ta, dù ta mua hai vạn phơrăng hay chỉ mua hai xu cũng thế.
Ta cũng sẽ thấy ở dãy phố này ông hàng ván thùng ngồi trước cửa hiệu tán nhảm với người bạn láng giềng; bề ngoài trông như lão ta chỉ có mấy tấm ván tạp nhạp dùng để đóng tủ kê cất chai và hai ba chồng dăm đóng thùng chứa; sự thật, ở ngoài cảng, cái xưởng tấp nập của lão cung cấp đủ dăm cho tất cả thợ thùng xứ Anggiu. Lão dự tính không sai một lá nào số dăm có thể bán được nếu mùa nho sai quả. Một ngày nắng làm cho lão ta phất to, một cơn mưa làm lão ta sạt nghiệp. Nội trong một ngày, giá thùng có thể lên tới mười phơrăng, hoặc sụt xuống sáu phơrăng mỗi cái.
Ở xứ này cũng như ở Turen, sự đổi thay thời tiết quyết định thị trường. Chủ đồng nho, nghiệp chủ, lái gỗ, lái thùng, hàng cơm, lái chở, tất cả đều rình chờ một tia nắng. Tối đi nghủ họ lo ngay ngáy sáng ra tỉnh giấc phải nghe tin đêm qua rét đến nước đóng băng; họ lo gió, lo mưa, lo hạn, họ cầu cho nước, cho nắng, cho mây điều hòa theo ý muốn của họ. Quyền trời và lợi người luôn luôn xung đột. Cái phong vũ biểu làm cho họ khi thì buồn, khi thì nở mày nở mặt. Ở đại lộ cũ, từ đàu phố đến cuối phố, hễ ai thấy thời tiết tốt thì từ nhà này đến nhà khác, họ quy giá thời tiết thành tiền. Khi người này bảo kẻ khác: “Trận mưa này là mưa bạc, mưa vàng” thì họ đã nhẩm tính cái tia nắng nọ, cái cơn mưa kia đúng lúc đã mang tới cho họ bao nhiêu tiền.
Mùa nắng, chả bao giờ trưa thứ bảy ta mua được một xu hàng ở cửa hiệu các nhà kinh doanh quý hóa ấy. Mỗi vị đều có vườn nho, có ấp trại, nên cuối tuần họ về vườn vài hôm.
Ở phố ấy, bán, mua, lờ lãi, cái gì cũng được dự trù, cho nên cứ mỗi ngày mười hai giờ thì họ đã rỗi rãi đến mười giờ để ngồi lê, tán chuyện gẫu, phê bình, dòm dỏ công việc của người ta. Hễ nhà này, chị vợ mua được con gà gô thì lát sau mọi người đều hỏi ông chồng gà gô quay có vàng không. Có cô thiếu nữ nào thò đầu ra cửa sổ thì tức khắc tất cả những kẻ túm năm tụm ba vô công rồi nghề ấy châu mắt nhìn lên. Bởi thế, ở đây, lương tâm con người lồ lộ giữa ánh sáng, cũng như nhà cửa người ta tuy tối tăm, vắng lặng, có vẻ như kín bưng, nhưng kỳ thật chẳng có gì bí ẩn. Đời sống hầu như diễn ra giữa trời: mỗi gia đình bắc ghế ngồi ở cửa, ăn sáng, ăn chiều ở đấy, cãi nhau cũng ở đấy. Không ai qua đường mà không bị dòm hành xoi mói. Ngày xưa, mỗi khi có người khách lạ đi qua phố thì anh ta bị chế giễu từ cửa này sang cửa khác. Do đó, người ta còn truyền đến ngày nay nhiều giai thoại, cùng với danh hiệu “lũ nhại” trao tặng cho thị dân tỉnh Anggie, vì họ có sở trường về cái khoa trêu cợt quen thuộc ấy của thành thị.
Các ông quý tộc bản địa xưa kia ở khu phố cũ này; nhà cửa, lâu đài cuả họ còn ở cuối phố, ngôi nhà u tịch làm bối cảnh cho những sự việc kể trong truyện này là một. Đó là những di tích đáng kính của một thời mà việc đời và chuyện người đều giản dị như nhau; trong phong tục nước Pháp, tính giản dị ấy mỗi ngày mỗi rơi mất dần.
Nếu ta lượn theo con đường kỳ thú đó thì thấy mỗi chi tiết mang một kỷ niệm, đưa đến kết quả chung là một trạng thái tư lự mơ màng. Qua khỏi các đoạn quanh co ta sẽ thấy một khoảng lõm mập mờ, giữa khoảng lõm đó là cái cổng nhà của ông Grangđê, lẩn khuất vào đấy. Nếu không kể tiểu sử ông ra đây thì không tài nào các bạn lĩnh hội ý nghĩa của mấy tiếng “nhà của ông Grangde” quen dùng ở tỉnh này.
Ông Grangđê thì ở thị trấn Xomuya ai mà không biết tiếng, nhưng những người không ở lâu ở tỉnh khó lòng hiểu thấu đáo tại sao ông nổi tiếng như thế, và nổi tiếng như thế có ích lợi gì.
Ông Grangđê - các cụ già còn có người gọi là bác Grangđê, nhưng các cụ ấy tịch đi đã nhiều - khoảng năm 1789 chỉ là một bác phó cả đóng thùng làm ăn khá giả, biết đọc, biết viết, biết tính. Khi chính phủ Cộng hòa bán đấu giá tài sản nhà chung thì bác thợ thùng lúc bấy giờ bốn mươi tuổi, vừa cưới con gái một ông lái gỗ giàu. Bác ta mang số tiền mặt của mình và món hồi môn của vợ, cả thảy có đến hai nghìn đồng lu-i vàng lên quận, đến đó, ông bố vợ xỉa ra hai trăm đồng lu-i đổi cho người cán bộ cộng hòa nghiêm khắc phụ trách việc bán tài sản quốc gia và thế là bác ta trở thành chủ nhân không chính thức – nếu không là chính đáng – của những cánh đồng nho đẹp nhất trong hạt, cùng với một ngôi nhà tu cũ và mấy cái ấp nữa, giá rẻ như cho không.
Dân Xomuya hiếm người theo cách mạng, cho nên bác Grangđê được xem là người táo bạo, là chiến sĩ Cộng hòa, là nhà ái quốc, là người tiếp thu tư tưởng cấp tiến, trong khi sự thật bác ta chỉ tiếp thu mấy cánh đồng nho. Bác được bầu vào hội đồng hành chính quận Xomuya, và xu hướng ôn hòa của bác ảnh hưởng tới đường lối chính trị, thương mại quận nhà. Về mặt chính trị, bác ta che chở cho quý tộc, hết sức dùng quyền lực của mình ngăn trở việc phát mại tài sản của những người xuất cảnh; về mặt thương mại, bác ta thầu bán hàng nghìn thùng rượu vang trắng cho quân đội Cộng hòa, và được thanh toán bằng những cánh đồng cỏ bao la của một nữ tu viện, tức là lô đất mà người ta dành lại để bán sau cùng. Dưới chế độ tổng giám đốc, bác Grangđê được cử làm thị trưởng. Ông thị trưởng cai trị khéo, thu hoạch nho lại càng khéo hơn. Đến thời đế chế, ông thị trưởng Grangđê trở nên ông Grangđê. Napoleon vẫn ghét những người Cộng hòa, đã cử người khác thay ông vì dư luận coi ông là người đã đội mũ đỏ. Người thay thế ông là một đại địa chủ, tên họ có chữ lót quý phái, một nam tước tương lai của đế chế.
Ông Grangđê rời bỏ những vinh dự của chức vụ thị trưởng không hề luyến tiếc. Hồi tại chức, ông đã nghĩ đến quyền lợi của nhân dân thành phố, cho đắp những con đường rất tốt đến các ấp trại của ông; ông đăng ký nhà cửa, ấp trại vào sổ trước bạ của sở Địa chính với thể thức có lợi nhất, nên đóng thuế khá nhẹ. Từ cái ngày phân định đẳng hạng các cánh đồng nho ấy cho tới nay thì các cánh đồng nho của ông, vì được chăm sóc không ngớt, nên đã vượt lên địa vị “đầu xứ”, nghĩa là sản xuất ra thứ rượu vang ngon nhất. Giá ông viện thành tích ấy ra thì ông có thể xin ân thưởng Bắc đẩu bội tinh.
Việc ông Grangđê bị huyền chức xảy ra năm 1806. Lúc bấy giờ ông đã năm mươi bảy và bà vợ ba mươi sáu. Hai vợ chồng chỉ có một cô con gái mười tuổi, kết quả cuộc tình duyên chính đáng của hai ông bà. Hình như Thượng đế thấy ông ta bị huyền chức muốn an ủi ông ta, nên cùng trong năm đó đã cho ông hưởng ba cái gia tài liền: gia tài của bà Godinie; gia tài của bà cụ Grangtie, bà ngoại bà Bectinlie. Ba cái gia tài ấy chẳng ai biết to nhỏ thế nào. Chỉ biết rằng ba cụ già đó là ba người keo kiệt lắm, keo kiệt say sưa, đã từ lâu họ chỉ ưa chất của cải để lén lút ngắm nghía. Ông già Bectenlie cho rằng bỏ tiền ra cho vay lãi là tiêu hoang, ngồi nhà mà ngắm vàng lợi hơn là cho vay thu lãi.
Thành phố Xomuya nhìn trên lợi tức của nổi mà ức đoán món tích lũy của ông Grangđê cho nên bây giờ ông lại được thêm một cái tước mới, một vinh tước mà bệnh bình đẳng chủ nghĩa không bao giờ xóa bỏ được: ông trở thành người đóng thuế nhiều nhất hạt. Ông trồng một trăm mẫu nho, những năm được mùa thì có thể cất bảy tám trăm thùng rượu vang. Ông có mười ba trang ấp, một nhà tu cũ, mà ông bịt tất cả cửa sổ, cửa cuốn, cửa kính để khỏi đóng thuế và giữ của lâu bền hơn, rồi một trăm hai mươi bảy mẫu cỏ trên ấy sởn sơ ba nghìn gốc bạch dương trồng từ năm 1793. Và cuối cùng, ngôi nhà hiện ông ta ở cũng là sở hữu của ông. Đó là của nổi, mà người ta biết được. Còn vốn liếng của ông thì chỉ có hai người có thể ước đoán phần nào, một là ông Cruyso, chưởng khế, phụ trách việc đem tiền ông ta cho vay nặng lãi, hai là ông Đe Gratxanh, chủ ngân hàng giàu nhất tỉnh Xomuya. Ông Grangđê có tham gia việc kinh doanh của ngân hàng ấy một cách bí mật và theo những điều kiện thích hợp với ông. Mặc dù ông già Cruyso và ông Đe Gratxanh rất kín đáo, kín đáo là đức tính cần thiết ở tỉnh nhỏ để làm cho người ta được tín nhiệm và trở thành giàu có – hai ông này đối với ông Grangde lại có một thái độ sùng kính công khai, làm cho những kẻ tinh ý nhất có thể bằng theo thái độ ấy mà ước lượng ông Grangđê giàu đến mức nào. Khắp thành phố Xomuya không ai không tin chắc rằng ông Grangđe có một kho riêng, một hầm kín chứa đầy tiền vàng mà đêm đêm ông vào ngắm với những khoái cảm không bờ bến. Những người có tình hà tiện như ông Grangđe lại càng quả quyết như thế khi nhìn vào mắt ông ta. Bơỉ vì họ thấy mắt ông ta cũng lóng lánh ánh sắc của đồng tiền vàng. Cách nhìn bọn đầu cơ trục lợi cũng như cách nhìn của tay ăn chơi hưởng lạc, kẻ máu mê cờ bạc, hay lũ bợ đỡ cầu ân, thường có một vẻ riêng rất khó tả, với những tia sáng vụng trộm, thèm khát, bí ẩn, nhưng không tránh khỏi con mắt của phường đồng đạo. Đó là một thứ mật mã trong hội kín của dục vọng.
Tóm lại, ông Grangde được mọi người kính phục; kính phục vì ông ta không hề mắc nợ ai; kính phục vì đã đóng thùng lâu năm, trồng nho lâu năm, ông ta đoán được chính xác như một nhà thiên văn học lúc nào thì nên đóng một nghìn thùng rượu, lúc nào thì chỉ nên đóng năm trăm thùng thôi; kính phục vì ông ta không bỏ lỡ một cơ hội làm tiền nào; kính phục vì lúc nào ông ta cũng có thùng không để bán; khi thùng lại đắt hơn rượu; kính phục vì ông ta có thể biết lúc nào thì cứ cất rượu vào kho rồi chờ dịp bán mỗi thùng rượu hai trăm phơrăng, trong khi các nghiệp chủ nhỏ chỉ có thể bán được có một trăm. Vụ được mùa năm 1811 là nhờ ông ta đã khôn khéo cất rượu của ông ta lại rồi cứ bán từ từ, do đó thu được hơn hai trăm bốn mươi nghìn phơrăng.
Về phương diện lý tài, ông Grangde vừa giống một con hổ, vừa giống một con trăn: ông biết cách nằm, cách thu mình lại, rình miếng mồi rất lâu và nhảy ra vồ đúng lúc, rồi há mõm túi tiền ra nuốt chửng một đống vàng, xong, lại nằm im lìm như con trăn đang tiêu hóa, thản nhiên, lạnh lùng, có thách thức.
Nhìn ông ta đi qua, không ai là không cảm thấy vừa thán phục, vừa kính nể, vừa khiếp sợ. Ở cái tỉnh Xomuya này, dễ không ai không bị những vuốt thép trơn bóng của ông ta cấu xé! Người thì do ông Cruyso giúp tiền để mua ruộng đất nhưng lấy lãi mười một phân, người thì được ông Đê Gratxanh thanh toán ngân phiếu cho trước và khấu lãi một cách kinh khủng. Ít khi mà ở ngoài chợ hay buổi tối ở trong trong thành phố, trong câu chuyện, người ta không nhắc đến tên ông Grangde. Có người lấy làm kiêu hãnh - đây là một niềm kiêu hãnh ái quốc- vì trong vùng mình có một người giàu như ông ta. Nhiều nhà buôn, nhiều ông chủ quán thích thú nói với những khách lạ ở vùng khác đến: “Thưa ông, ở vùng chúng tôi có đến ba bốn nhà triệu phú, nhưng đến ông Grangde thì ngay ông ấy cũng không biết xuể tài sản cua mình!”
Năm 1816, những người tính toán giỏi nhất ở Xomuya ước lượng ruộng đất ông Grangde trị giá xấp xỉ bốn triệu. Ngoài ra, vì lợi tức đồng niên quân bình của ông từ 1793 đến 1817 là mười vạn quan mỗi năm, cho nên số tiền mặt của ông ta tích lũy có lẽ cũng gần ngang với giá trị bất động sản. Vì vậy, giữa hai ván bài, hay là trong câu chuyện về nho, về rượu, nếu người ta có nhắc đến tên ông grangde thì những người biết chuyện bảo: “Ông Grangde ấy à? Gia tài ông Grangde chắc phải đến năm sáu triệu!”
Khi ông Cruyso hoặc ông Đê Gratxanh có mặt, thì các ông ấy đáp:
- Các ông tài thật, tôi không bì được. Tôi không làm thế nào kết toán được gia tài ông ta.
Có người dân Pari nào nhắc đến họ Rotxin hay ông Laphit thì người Xomuya hỏi ngay ông ấy có giàu bằng ông Grangde không. Nếu anh chàng Pari mỉm cười nói “có” một cách khinh thường, thì họ nhìn nhau lắc đầu, vẻ không tin.
Một cái gia sản to như thế làm cho tất cả những hành động của ông Grangde đều như trùm bọc hào quang. Ban đầu một đôi đặc điểm trong đời sống của ông làm cho người ta buồn cười và chế giễu, nhưng lâu dần quen đi, ngày nay thì mỗi hành động của ông, dù nhỏ nhặt, cũng có giá trị của một sự việc đã được thẩm quyết. Ngôn ngữ của ông, cũng như y phục, điệu bộ, cho đến cái nheo mắt, đều thành khuôn vàng thước ngọc cho mọi người; người ta quan sát ông như nhà sinh vật học khảo sát những biểu hiện của bản năng con thú, và người ta thừa nhận là ở ông, nhất cử, nhất động đều thể hiện một thứ trí thức thâm thúy thầm lặng bên trong. Người ta bảo nhau:
“Mùa đông tới chắc chắn là rét lắm, ông Grangde mang găng độn đấy, mau mau hái nho thôi!- Ông Grangde trữ nhiều dăm thùng nhỉ? Năm nay coi mà được mùa nho!”
Ông Grangde không bao giờ mua bánh, mua thịt. Hàng tuần, tá điền đem nộp tô cho ông một số gà thiến, gà tơ, bơ, trứng và lúa mì đủ dùng. Ông có một máy xay gió; người lãnh thầu máy xay, ngoài tiền thuê, phải đến nhà ông mang một số lúa mì về xay rồi đem bột và cám tới trả. Người ở độc nhất trong nhà, mụ Nanong hộ pháp, mặc dù đã luống tuổi, vẫn cứ đến thứ bảy là làm đủ số bánh mì cho cả nhà ăn trong tuần tới. Về rau thì ông Grangde thương lượng với các chủ giồng rau trên đất thuê của ông để họ cung cấp. Còn quả thì ông thu hoạch nhiều lắm, phải đưa ra bán phần lớn ở chợ. Củi đốt, ông cho chặt ở hàng giậu hay các lùm cây khô mục quanh mấy cánh đồng gần nhà; tá điền cưa bổ sẵn sàng rồi chở đến cho ông, xếp giúp ông ở chỗ củi xong thì nhận lời cảm ơn của ông mà về. Như thế ông chỉ phải bỏ tiền tiêu về các khoản bánh thánh, ghế tựa ở nhà thờ và quần áo cho bà Grangde và cô con gái, dầu đèn, tiền công mụ Nanong, tiền mạ xoong nồi, tiền đóng thuế, tu bổ nhà cửa và các khoản chi phí canh tác. Ông mới mua sáu trăm mẫu rừng và gửi cho người kiểm lâm của một nghiệp chủ láng giềng canh giữ, hứa sẽ trả thù lao cho anh ta. Cũng chỉ từ lúc ấy nhà ông mới có thịt rừng.
Ông Grangde tác phong giản dị. Ông ít nói. Thường thường ông phát biểu ý kiến bằng những câu long trọng, giọng nói nhỏ nhẹ. Từ thời Cách mạng, mà người ta bắt đầu để ý đến ông, cho tới nay, thì những khi phải nói nhiều hoặc tranh luận ông nói lắp bắp một cách khó nhọc. Cái tật là cà lặp cặp ấy, cái cách phát biểu lôi thôi không mạch lạc, cái lối trình bày rõ ràng là không hệ thống, không lý luận ấy người ta cho là vì vô học, thật ra đều là vờ vịt cả; vài sự việc sau sẽ chứng tỏ điều đó. Thông thường ông dùng bốn câu chính xác như bốn công thức đại số để quán triệt và giải quyết tất cả những khó khăn trong việc mua bán và việc đời, bốn câu ấy là: “Tôi không biết. Tôi không thể. Tôi không muốn. Chúng ta sẽ xem thế nào”. Chả bao giờ ông dùng tiếng vâng hay tiếng không và cũng không viết giấy tờ. Khi nghe người ta nói thì ông nghe một cách lạnh lùng, tay phải nâng cằm, khuỷu tay chống lên lưng bàn tay trái úp sấp. Về việc gì ông cũng có ý kiến riêng của mình, và khi đã có ý kiến thì không bao giờ thay đổi. Hễ là chuyện mua bán làm ăn thì dù nhỏ nhặt bao nhiêu ông cũng dành nhiều thì giờ suy nghĩ. Qua những cuộc trao đổi rất khôn khéo, khi đối phương đã tiết lộ những ý đồ thầm kín của mình mà tưởng rằng ông vẫn chưa biết, thì ông bảo:
“- Tôi chưa quyết định được gì vì chưa có ý kiến của nhà tôi”.
Ông Grangde đã biến bà vợ thành người nô lệ hoàn toàn nhưng khi có việc mua bán, ông lại mang bà ra làm một bình phong vô cùng tiện lợi.
Không bao giờ ông Grangde đến nhà ai cả. Ông không muốn ăn cơm khách, cũng không muốn mời mọc ai. Ông chẳng làm gì ồn ào, cái gì ông cũng muốn dè xẻn, cho đến từng cử động cũng dè xẻn. Ông không động đến cái gì của người ta, vì ông luôn luôn tôn trọng tư hữu. Mặc dù giọng ông nhỏ nhẹ, dáng ông thận trọng, nhưng ngôn ngữ và tập quán bác phó thùng vẫn cứ lộ ra, nhất là khi ông ở nhà, không phải giữ gìn như ở những chỗ khác.
Về hình dáng, Grangde cao hơn một thước sáu, to ngang, vuông vức, vai rộng, vòng bắp chân đến bốn tấc, đầu gối có u có khúc, mặt tròn trịa rám nắng, rỗ đậu mùa, cằm thẳng, môi dầy, răng trắng; đôi mắt vừa tỉnh táo vừa thao láo như muốn nuốt sống người ta, giống như mắt con rắn thiêng trong thần thoại; trán đầy nếp răn ngang và những cục u tiêu biểu cho tâm tính con người; tóc vàng vàng lại lốm đốm trắng khiến cho một số thanh niên không biết đùa cợt ông Grangde là chuyện tày trời, bảo đầu ông có vàng có bạc. Chóp mũi ông khá to và hằn gân máu, bọn phàm tục bảo đấy là dấu hiệu của sự ranh mãnh, và chừng như cũng đúng.
Cái tướng mặt Grangđe là tướng người tinh tế một cách nguy hiểm và ngay thật một cách tính toán, đó là tập quán ích kỷ của một người keo bẩn say mê của cải. Ông ta chỉ còn chú ý tới mỗi một người, cô Ogieni, cô con gái thừa kế độc nhất của ông ta. Tất cả cái gì toát ra ở người ông ta, từ tác phong, cử động cho tới dáng đi đều nói lên cái lòng tự tin của con người luôn đắc thắng. Bởi vậy, tuy bề ngoài, trông ông có vẻ dễ dãi xuề xòa, mà bên trong tính tình ông cứng rắn như sắt.
Xưa nay ông vẫn ăn mặc một kiểu, ai biết ông năm 1791 bây giờ gặp lại vẫn thấy không khác xưa: đôi giầy chắc nịch vẫn buộc dây da, bốn mùa vẫn tất len, quần chẽn bằng da nâu xấu với những khâu bạc ở gấu, gile nhung có sọc vàng và sọc nâu xen nhau, cài cúc thẳng hàng, áo nâu rộng vạt to, cà vạt đen, mũ vành rộng. Găng tay ông bền như găng sen đầm, dùng một thôi hai mươi tháng chưa hỏng; để giữ găng sạch sẽ, khi cởi ra ông cử động có cung cách, đặt nó lên vành mũ bao giờ cũng đúng ở một chỗ.
Ngoài những điều kể trên Xomuya không biết gì hơn về con người ấy.
Nhà ông Grangde chỉ có sáu người có quyền lui tới.
Trong bộ ba thứ nhất, nhân vật quan trọng hơn hết là người cháu ông Cruyso. Từ khi được cử làm chánh án tòa án sơ cấp Xomuya, người thanh niên ấy ghép tên Đơ Bongphong vào tên Cruyso và cố sức làm cho tên Đơ Bongphong át hẳn tên Cruyso đi. Chàng ta đã ký C. Đơ Bongphong. Người hầu kiện nào vụng về trót gọi “Ông Cruyso” trong khi thưa bẩm, đến khi ra phiên tòa mới biết mình trót dại mồm. Ông quan tòa ấy che chở cho ngững người thưa: “Bẩm quan chánh án”, nhưng ông dành những nụ cười ân cần nhất cho những kẻ tôn nịnh, một rằng “Ngài Đơ Bôngphong” hai rằng “Ngài Đơ Bongphong”. Quan chánh án Cruyso bấy giờ ba mươi ba tuổi; ông là chủ nhân trang ấp Đơ Bongphong, tô đồng niên bảy ngàn phơrăng. Ông sẽ còn được hưởng gia tài của ông chưởng khế và gia tài của ông linh mục, chức sắc trong hội đồng giáo sĩ Xanh Mactanh ở tỉnh Tua, cả hai đều là chú ông và đều giàu có. Ba ông Cruyso gốc ấy, với sự trợ thủ của một bầy anh em họ và vài mươi gia đình thông gia trong thành phố, làm thành như một đảng phái, cũng như tộc họ Medixi ở Pholorangxo ngày xưa. Và họ Cruyso cũng có một họ thù địch, như họ Medixi vậy.
Bà Đe Gratxanh có một cậu con trai hai mươi ba tuổi. Bà năng lui tới chơi bài với bà Grangde với hy vọng dạm hỏi được Ogieni cho con mình. Ông Đe Gratxanh là chủ ngân hàng; ông viện trợ ráo riết các cuộc vận động của bà vợ bằng cách thường xuyên ngầm giúp ông già Grangde si của ấy; ông xuất hiện trên chiến trường rất đúng cơ hội. Bộ ba Đe Gratxanh cũng có những đồng đảng, những anh em họ và những người thông gia trung thành.
Về phía gia đình Cruyso, nhà ngoại giao thuyết khách của họ là ông linh mục; ông này, có ông chưởng khế giúp đắc lực, đang ráo riết tranh chấp chiến địa với bà chủ ngân hàng và cố kéo cái gia tài kếch xù kia về cho ông cháu chánh án.
Các tầng lớp xã hội ở Xomuya say sưa theo dõi cuộc chiến tranh bí mật giữa hai họ để chiếm đoạt cô Ogieni. Ogieni sẽ lấy ai? Lấy quan chánh án hay ông Adon Đe Gratxanh? Thử giải bài tính ấy, có người đáp rằng ông Grangde sẽ không gả con cho anh này mà cũng chẳng gả cho chàng kia; họ bảo ông Grangde chứa chan tham vọng, muốn kén một ông rể Thượng khanh của nước Pháp; cô Ogieni hưởng cái gia tài mỗi năm ba mươi vạn phơrăng lợi tức, thì khó gì mà không tìm ra một vị Thượng khanh nuốt trôi tất cả những cái thùng ông bố vợ đã đóng, đang đóng và sẽ đóng. Những người khác lại bảo ông bà Đe Gratxanh là quý tộc, họ giàu lớn và Adon giỏi trai; có họa là có sẵn cháu đức Giáo hoàng trong tay áo để bắt rể, nếu không thì xuất thân ti tiện như thế, ngày trước quai búa thợ thùng ai cũng trông thấy, lại còn từng đội mũ đỏ nữa, thì kết nghĩa dâu gia với gia đình Đe Gratxanh là thỏa nguyện lắm rồi. Kẻ am hiểu nhất bảo rằng ông Cruyso đơ Bongphong lúc nào đến chơi nhà Grangde cũng được, còn Adon thì chỉ được tiếp ngày chủ nhật thôi. Người nữa lại nói, bà Đe Gratxanh thân với cánh phụ nữ trong nhà hơn, bà có thể cảm hóa họ, làm cho mưu chước của bà không chóng thì chầy cũng đi đến thành công. Người khác trả lời rằng linh mục Cruyso là người xảo mị nhất đời, thầy tu đấu với phụ nữ thì cũng là kẻ tám lạng người nửa cân, không hơn không kém. Một anh chàng hóm hỉnh của tỉnh Xomuya bảo: “Thật là kỳ phùng địch thủ!”.
Những người ở Xomuya lâu năm, biết việc hơn, cho rằng họ nhà Grangde thừa không ngoan, quyết không để lọt của ra ngoài, cho nên cô Grangde tỉnh Xomuya chắc chắn sẽ kết hôn với cậu con ông Grangde, nhà buôn rượu giàu lớn ở Pari. Đáp lại luận điệu ấy, phái Cruyso và phái Gratxanh bảo:
“Trước hết, anh em nhà họ ba mươi năm nay chỉ giáp nhau có một lần. Sau nữa phải biết rằng ông Grangde ở Pari có nhiều kỳ vọng về cậu con trai mình. Ông ta vừa là quận trưởng, vừa là nghị viên, vừa là đại tá quốc dân quân, vừa là thẩm phán tòa án thương mại, ông ấy không thừa nhận ông Grangde ở Xomuya ta là anh em. Ông có tham vọng cầu thân với một gia đình vinh phong công tước nhờ ân mưa móc của hoàng đế Napoleon kia”.
Tóm lại, một cô thừa tự tiếng tăm vang dậy khắp hai mươi dặm quanh vùng đến nỗi trong mỗi chuyến xe hàng từ Angie đến Bloa, không ai không nhắc đến, thì có chuyện gì về cô ta mà người ta không bàn hươu tán vượn?
Đầu năm 1811, phái Cruyso thắng phái Đê Gratxanh một bàn rõ rệt. Trong vùng, có chàng thanh niên hầu tước Phoroaphong cần tiền mặt nên muốn bán trang ấp cua mình. Ấp Phoroaphong rất có giá trị về cái vườn, về tòa lâu đài xinh đẹp, về các trang trại, sông ngòi đầm ao, rừng rú, trị giá tất cả ba triệu. Ông chưởng khế Cruyso, ông chánh án Cruyso, ông linh mục Cruyso cùng với bọn trong cánh đã biết cách ngăn việc chia cắt sản nghiệp ấy ra bán thành lô nhỏ. Ông chưởng khế Cruyso thuyết phục chàng thanh niên chủ ấp, bảo rằng nếu chia ra bán thành nhiều lô thì sau này còn phải mất bao nhiêu công kiện tụng, bao nhiêu án tiết lôi thôi mới buộc được các chủ mua trả đủ, chi bằng bán trọn sở cho ông ta, không những ông ấy có khả năng thanh toán, mà ông lại còn có thể trả tiền mặt nữa. Thế rồi ông chưởng khế thương lượng mua trọn sở với giá rất hời. Cái trang ấp Phoroaphong xinh đẹp kia được đẩy vào dạ dày ông Grangde. Giấy tờ thể thức đã làm xong, ông Grangde thanh toán ngay, thanh toán trước kỳ hạn để được hưởng hoa hồng chiết khấu, làm cho cả tỉnh Xomuya kinh ngạc. Chuyện này đồn vang dội đến tận Nangto và Ocleang.
Nhân chuyến xe bò đi về Phoroaphong, ông Grangde bèn đi nhờ để đến thăm tòa lâu đài mới tậu. Sau khi lấy con mắt ông chủ nhìn khắp đất Phoroaphong một lượt, ông trở về nhà, trong bụng nhẩm chắc rằng mua ấp Phoroaphong tức cũng như đem vốn đặt lãi năm phân. Ông lại nẩy ra sáng kiến cao siêu là phải làm cho ấp Phoroaphong tròn trĩnh dễ coi hơn nữa, bằng cách đem tất cả tài sản của ông đập vào đấy. Rồi để làm cho cái két bạc hầu cạn sau vụ mua bán ấy lại trở nên đầy, ông Grangde quyết định đốn tiệt rừng và hạ những cây bạch dương trên đồng cỏ bán đi.
Bây giờ thì chắc ai cũng hiểu rõ giá trị mấy tiếng: “Nhà của ông Grangde”. Cái nhà không màu sắc, lạnh lẽo, vắng lặng ấy nằm ở vùng cao nhất thành phố, nấp sau bờ lũy đổ nát. Hai cây trụ và cái vòm cuốn làm cổng xây bằng một thứ đá trắng đặc biệt ở sông Loa, thứ đá ấy mềm lắm, trung bình chỉ chịu đựng hai trăm năm là cùng. Nắng mưa giữa trời làm cho đá lỗ chỗ một cách kỳ khôi; vì vậy mặt tiền, vòm cuốn và trụ cổng trông như xây bằng thứ đá đục hình giun ngoằn ngoèo, như người ta thường gặp trong kiến trúc nước Pháp, và hao hao giống một cái cổng nhà tù. Ở phía trên vòm cuốn, có một bức trạm dài thể hiện cảnh bốn mùa, bằng đá cứng, hình trạm cũng đã lỗ chỗ và thâm sịt. Bên trên bức trạm, có một mái diềm nhô ra, trên có nhiều thứ cây dại mọc tự nhiên như bìm bìm, mã đề, bù xít và một cây anh đào con đã khá cao. Cánh cổng bằng ván sồi nguyên tấm màu nâu, khô quánh và nứt nẻ tứ tung, trông như mỏng mảnh, nhưng có cả một hệ thống bù loong cân đối siết chặt. Một tấm chấn song nhỏ vuông vức, nhưng song rất dày, rỉ sắt ăn đỏ cả, nằm chính giữa lối cổng bên, làm khung cảnh trang trí chiếc búa gõ của; chiếc búa xâu qua một cái vòng sắt, đính ở cửa song, chỗ gõ là một cái đầu đanh to tướng, sần sùi và méo mó. Chiếc búa thuộc loại búa đồng hồ cổ, tiện theo hình người, dáng thon thon trông giống như một dấu chấm than lớn; nếu quan sát tỉ mỉ, người khảo cổ sẽ thấy thân búa còn mường tượng một cái dáng thằng hề, vì dùng lâu đời đã mòn đi.
Cái cửa song đó dùng để nhận mặt bạn hữu trong thời kỳ nội chiến ngày trước. Ngày nay người tọc mạch có thể nhìn qua để thấy tận cùng cái vòm cuốn xanh lờ mờ, mấy cấp thềm lở lói đi lên vườn ở phía trong. Quanh vườn có mấy bức tường dày ẩm ướt, nước ri rỉ không ngừng, với từng chùm cây khẳng khiu bám lên, trông thật lạ mắt. Tường ấy là tường lũy ngày trước, phía trên lũy là vườn nhà láng giềng.
Ở tầng dưới ngôi nhà, căn phòng quan trọng hơn hết gọi là gian lớn mà cửa ra vào mở ra dưới vòm cuốn của cổng ngoài. Ít ai biết tầm quan trọng của một gian lớn trong sinh hoạt gia đình tại các thị trấn nhỏ tỉnh Angiu, Turen, Beri. Gian lớn vừa là buồng chờ, vừa là phòng tiếp khách, phòng làm việc, buồng ăn, buồng phụ nữ; đó cũng là nơi sưởi công cộng, là sân khấu của mọi sinh hoạt gia đình; ở đây bác phó cạo khu phố mỗi năm hai lần đến cắt tóc cho ông Grangde; ở đây các bác tá điền ra vào cùng với chú thợ bạn xay gió, cũng như cha xứ và quan quận phó nhà. Phòng có hai cửa sổ trông ra đường; sàn bằng gỗ, bốn phía tường cũng lát gỗ, từ trên xuống dưới, chỉ thấy những khung ván xám chạy chỉ lối xưa. Trần nhà làm bằng những cây đà gỗ lộ ra ngoài, cũng sơn màu xám, khoảng cách giữa các cây đà thì trét vôi nhồi, xưa trắng nay đã ngả vàng. Một chiếc đồng hồ khung đồng cổ kính khảm hoa văn đồi mồi treo phía trên cái bệ lò sưởi bằng đá trắng chạm trổ vụng về. Trên mặt bệ, một tấm gương hoen ố, bốn cạnh vạt xéo để người ta biết là gương dày; gương phản chiếu một làn ánh sáng lên tấm thép nạm bạc kiểu Gotich trang trí khoảng cách nhau giữa hai cái cửa. Hai cây đèn nhiều nhánh, bằng đồng mạ vàng bài trí ở hai góc bệ. Đèn ấy có thể dùng hai cách: cây đèn to có những hình hoa hồng làm đài cắm nến, gắn vào một cái cành to, cành ấy tra vào một cái chân bệ bằng đá cẩm thạch xanh, nạm đồng cổ; nếu lấy những đóa hồng ấy đi thì cây đèn trang trí nhiều ngọn còn độc cái chân bệ và trở thành một cây đèn thường dùng để cắm nến thắp những ngày lễ nhỏ. Các ghế tựa kiểu cổ có phủ thảm thêu; mấy hình thêu ấy minh họa thơ ngụ ngôn La Phongten, nhưng nếu không biết trước thì không tài nào nhận ra chủ đề vì màu chỉ đã bạc thếch, hình thêu bị mạng bị vá chằng chịt, khó lòng nhìn thấy.
Ở bốn góc phòng có bốn tủ xéo với những cái ngăn kê dơ bẩn. Tựa tường, ở khoảng cách giữa hai cửa sổ, một cái bàn chơi bài cũ kỹ, mặt bàn bằng đá, khảm theo hình bàn cờ. Trên bàn một cái phong vũ biểu hình bầu dục viền đen, chạy chỉ gỗ thếp vàng, những lũ ruồi đã nô đùa thả cửa trên ấy, khiến bây giờ đố ai còn biết đó có thếp vàng. Ở tường đối diện lò sưởi, có hai bức chân dung vẽ phấn màu, một cái nói là của ông cụ tổ nhà bà Grangde, cụ Bectenlie, mặc quân phục trung úy cảnh vệ, một cái của cụ bà Grangde hóa trang thành nữ mục đồng. Hai cửa sổ đều treo màn lụa điều to sợi, dệt ở Tua, buộc vén lên bằng những dây tơ bện, có trái găng, theo kiểu dùng ở các nhà thờ. Cái món trang trí sang trọng này không ăn khớp tí nào với tập quán của Grangde, nhưng khi ông ta mua nhà thì nhà đã sẵn có, cũng như chiếc đồng hồ treo, tấm thép nạm bạc, mấy cái ghế tựa bọc thảm và bốn chiếc tủ xéo bằng gỗ xoan đào.
Ở cửa sổ gần cửa lớn có một chiếc ghế độn rơm, chân tra đế cho cao lên, để bà Grangde ngồi nhìn thấy khách qua đường. Một cái bàn khâu bằng gỗ anh đào dại nhạt màu choán cả bề ngang cửa sổ, chiếc ghế bành nho nhỏ của Ogieni Grangde đặt bên cạnh. Mười lăm năm nay, hắng năm từ tháng tư đến tháng mười một, ngày giờ của mẹ con bà Grangde bình thản trôi qua ở bộ bàn ghế ấy, với mộ công việc lao động duy nhất. Bắt đầu từ mồng một tháng mười một, họ được sống những ngày mùa đông quanh lò sưởi chung. Grangde chỉ cho đốt lò sưởi ở gian lớn nhất từ hôm ấy, và nhất định đến 31 tháng ba thì ông tắt lửa, bất chấp những ngày rét mướt đầu xuân và cuối thu. Bà Grangde và cô con mà chịu được những ngày rét tháng tư và tháng mười là nhờ chiếc lồng ấp bỏ mớ than hồng mụ Nanong khéo léo gắp từ trong bếp ra. Quần áo, khăn, màn, trong nhà có gì may vá thì hai mẹ con may vá tuốt; họ cần cù bỏ hết cả ngày giờ vào thứ công việc nặng nhọc như của thợ nhà nghề ấy, đến nỗi muốn thêu một cái cổ áo cho mẹ, Ogieni cũng phải bớt giờ ngủ, lừa cha để có nến mà làm việc. Lâu nay ông lão keo kiệt vẫn phát nến cho con gái và mụ Nanong. Cũng như sáng sáng ông ta phân phát bánh mì và các thứ nhu cầu của gia đình trong ngày hôm ấy.
Mụ Nanong có lẽ là con người độc nhất cam lòng để cho ông Grangde áp chế. Ai cũng mong ước mướn được mụ Nanong như ông bà Grangde. Người ta gọi mụ Nanong hộ pháp bởi vì thân hình mụ cao gần thước chín. Đã từ ba mươi lăm năm nay, mụ hoàn toàn thuộc về ông Grangde. Mặc dù tiền ở của mụ chỉ sáu mươi phơrăng mỗi năm, người ta cho mụ là một trong số người đi ở giàu nhất tỉnh Xomuya. Nhờ có số tiền công sáu mươi phơrăng tích lũy trong ba mươi lăm năm trời, vừa rồi mụ đã đem gửi bốn nghìn phơrăng cho ông chưởng khế Cruyso theo kiểu chung thân thực lợi. Số tiền dành dụm lâu dài, bền bỉ ấy, ai cũng cho là to ghê gớm. Thấy mụ Nanong thế là về già chẳng còn lo ngại gì nữa, các chị đi ở khác ganh tị với mụ, không để ý rằng mụ phải vất vả khó nhọc bao nhiêu mới chắt bóp được chừng ấy.
Ngày xưa, năm hăm hai tuổi người con gái đáng thương ấy vẫn chưa tìm ra chỗ nào thuê mình dài hạn bởi vì mặt mũi chị ta xấu xí khó coi quá. Kể ra thì cũng vô lý: một người lính pháo thủ đội vệ binh mà mặt mày được như thế thì ai không kính nể. Khốn nỗi, mặt mũi ấy lại ở nơi người chị ấy, người ta bảo cái gì cũng phải đúng lúc đúng nơi là thế! Chị ta đang ở giữ bò cho một ấp chủ thì ấp bị cháy, chị đi Xomuya tìm việc, kiên quyết không chùn bước trước một khó khăn nào. Bấy giờ gặp lúc ôngGrangde định cưới vợ và xếp đặt nơi ăn chốn ở cho gia đình. Ông tìm thấy chị ta trong khi nhà nào cũng từ chối không thuê chị. Là thợ thùng nên ông biết đánh giá sức lực, thấy chị to lớn vạm vỡ như hộ pháp, vững trãi như một cây sồi sáu mươi tuổi, mông nở nang, lưng vóc vuông vức, hai bàn tay như tay bác đánh xe tải, thật thà và đức hạnh, ông đoán biết một sinh vật giống cái mà trời sinh như thế thì sẽ làm được bao nhiêu là việc. Ông ta bất chấp những nốt ruồi tô điểm cho cái khuôn mặt tướng võ ấy, bất chấp màu da gạch, bất chấp đôi cánh tay gân guốc, bất chấp quần áo rách bươm, mặc dù ông đương tuổi mà quả tim còn biết xúc động. Ông sắm áo quần, giầy guốc cho chị ta, nuôi chị ta, trả tiền công cho chị ta và sai bảo chị ta không đến nỗi cục cằn quá. Được thu nhận như thế, chị Nanong hộ pháp thầm vui sướng đến phát khóc và sinh ra gắn bó với ông Grangde. Về phần ông Grangde, ông không ngại gì mà không bóc lột chị ta như một chúa đất phong kiến.
Mụ Nanong làm tất: mụ làm bếp, mụ nấu quần áo mang xuống sông Loa giặt rồi mang về; đêm mụ thức khuya, tang tảng sáng đã dậy. Mùa nho, mụ làm cơm cho cả đoàn thợ hái và còn coi chừng bọn hái hôi. Mụ giữ của cho chủ nhà như một con chó trung thành. Tóm lại, nhắm mắt tin tưởng ông Grangde, mụ nhất nhất làm theo lời ông ta, mụ thực hiện cả những ý muốn kỳ dị, vô lý nhất của ông mà không bao giờ buông một tiếng than phiền. Vụ được mùa nổi tiếng năm 1811, công việc thu hoạch vất vả không kể xiết, nên ông Grangde quyết định cho mụ cái đồng hồ quả quít cũ của ông ta. Đó là món quà thưởng công hai mươi năm phục dịch, và cũng là món quà duy nhất mụ Nanong nhận được của chủ cho đến ngày nay; bởi vì mặc dù ông cho mụ những đôi giầy cũ,- mụ Nanong mang được cả giầy ấy- cũng không thể coi món tam cá nguyệt bổng ấy là món quà được, vì nó mòn xơ, mòn xác. Cảnh túng thiếu làm cho người con gái nghèo ấy trở thành hết sức keo kiệt, nên ông Grangde đâm ra thương mụ như thương một con chó. Về phần mụ, mụ cũng vui lòng để ông ta quàng vào cổ chiếc vòng đính kim, những mũi kim nhọn không làm cho mụ biết đau. Khi Grangde cắt bánh hơi quá bủn xỉn, mụ Nanong cũng không hề phàn nàn; chế độ ăn uống trong nhà thanh đạm, khăc khổ, nên không ai đau ốm bao giờ và mụ Nanong cũng vui vẻ tham gia những lợi ích vệ sinh ấy.
Lại nữa, mụ Nanong đã thành như người nhà: khi Grangde cười, mụ cũng cười, khi Grangde buồn bực, mụ cũng buồn bực, mụ cũng chịu rét đến cóng người, mụ cùng sưởi lửa, cùng làm việc với chủ. Đã có bao nhiêu sự đền bù dễ chịu trong cảnh sống bình đẳng ấy rồi. Nếu mụ có ăn vài quả mơ, quả mận, quả đào ở dưới bóng cây thì cũng không bao giờ ông Grangde quở trách mụ. Không những thế, những năm quả oặt cành, bọn chủ ấp phải nuôi lợn, ông còn giục: “Kìa, mụ Nanong, cứ làm một tiệc cho thỏa thích”.
Đối với một người nghèo khổ người ta nhận nuôi làm phúc, một người đàn bà quê mùa thiếu thời toàn bị ngược đãi, thì cái cười mơ hồ của ông Grangde quả là một tia nắng ấm. Vả lại tấm lòng chất phác của mụ, đầu óc tăm tối của mụ chỉ có thể chứa được một mối tình, một ý niệm. Ba mươi lăm năm nay, lúc nào mụ cũng nhớ tới cái ngày mụ tới xưởng ông Grangde quần áo tả tơi, chân đi đất, tai còn nghe ông hỏi: “Đi đâu thế cô bé kia?”. Cho nên lòng biết ơn của mụ luôn luôn mới mẻ. Một đôi khi, ông Grangde ngẫm nghĩ thấy con người đáng thương kia chưa bao giờ nghe một lời đẹp dạ, không hề biết thứ hương tình êm dịu do người phụ nữ gây nên, và một ngày kia sẽ về chầu Chúa trong trắng trinh bạch hơn cả Maria Đức mẹ đồng trinh; nghĩ thế ông chạnh lòng thương hại, nhìn mụ mà bảo:
“- Tội nghiệp con mẹ Nanong này!”.
Mỗi khi ông buột miệng than thở như thế thì mụ Nanong nhìn ông, mắt chan chứa một nỗi niềm khó tả. Câu nói ân tình thỉnh thoảng nhắc đi nhắc lại ấy từ lâu đã kết thành một chuỗi dài tình nghĩa, mà mỗi lần buột miệng, ông Grangde lại nối thêm vào một khâu. Niềm thương ấy làm cho người con gái già hoan hỉ, nhưng ở Grangde nó lại có một cái gì gớm ghiếc. Đối với Grangde, nó gợi lên hàng nghìn sự đắc ý về những món lợi mà Nanong làm ra; đối với Nanong đó là tất cả hạnh phúc trên đời. Ai không nói được câu: “Tội nghiệp con mẹ Nanong này!”, nhưng Chúa sở dĩ nhận được tôi con của người là nhờ ở giọng hàm súc của họ và những niềm luyến tiếc huyền bí chất chứa ở trong ấy. Ở Xomuya có chán gia đình đãi người tử tế hơn, mà đáp lại, người ở có làm cho họ hài lòng đâu! Cũng vì vậy nên người ta hỏi nhau: “Cái bọn Grangde này chúng cho con mẹ Nanong của chúng ăn gì mà nó có nghĩa đến thế, chủ của nó có bảo lăn vào lửa thay cho chúng, nó cũng lăn chứ chẳng chơi!”
Nhà bếp của mụ Nanong có cửa sổ chấn song mở ra phía sân. Trong nhà luôn sạch sẽ, ngăn nắp, khi không nấu nướng thì lửa vùi lạnh ngắt, rõ là bếp núc của người keo kiệt, không để hao phí tí gì. Tối tối rửa bát, xếp cất món ăn thừa, giập lửa xong, mụ Nanong đi qua hành lang lên gian lớn ngồi kéo sợi gai bên cạnh chủ, vì cả nhà chỉ thắp chung một ngọn nến. Mụ Nanong ngủ ở cuối hành lang, trong một buồng xép nhờ nhờ ánh sáng từ bên ngoài rọi qua cái cửa sổ nhỏ. Mụ khỏe mạnh, vạm vỡ, nên ở trong lỗ hang ấy cũng không việc gì. Ở đấy có tiếng động nào xảy ra trong nhà mụ cũng nghe được, vì nhà này ngày đêm rất là yên tĩnh. Như con chó giữ nhà, mụ chỉ ngủ có một mắt, vừa ngủ vừa phòng gian.
Những bộ phận khác trong nhà, khi kể đến sự việc diễn ra chúng tôi sẽ nói tới; vả lại gian lớn là nơi đẹp nhất, thế mà bức phác họa vừa rồi cũng chỉ có thế thì ta đoán trước được những tầng trên trống trải, nghèo nàn tới chừng nào!
Năm 1819, mùa thu đã qua ấm áp dễ chịu. Một ngày giữa tháng mười một, vào tối, mụ Nanong vừa đốt lò sưởi đầu mùa. Ngày hôm nay là ngày lễ quen thuộc phái Cruyso và phái Đê Gratxanh đều biết rõ. Bởi vậy sáu đối thủ nai nịt gọn gàng chuẩn bị giáp trận ở gian lớn để xem thử ai tỏ tình nồng hậu hơn. Lúc sáng, tất cả thành Xomuya đều trông thấy bà Grangde và cô Ogieni đến nhà thờ xem lễ, có mụ Nanong đi theo, và nhớ ra ngày này là ngày sinh nhật Ogieni. Ông chưởng khế Cruyso, ông linh mục và ông C.đơ Bongphong dự tính với nhau lúc nào gia đình Grangde ăn tối xong, để có thể đến mừng tuổi Ogieni trước bọn Đe Gratxanh. Cả ba đều mang những bó hoa lớn hái trong lồng kính nhỏ ở vườn nhà. Bó hoa quan chánh án định trao tặng thì cuống hoa quấn khéo léo trong cái băng xa tanh trắng viền kim tuyến.
Buổi sớm, theo lệ thường của những ngày lễ của Ogieni ông Grangde đến giường con đón con dậy và trịnh trọng biếu con một món quà: mười ba năm nay, món quà ấy vẫn là một đồng tiền vàng loại hiếm có. Bà Grangde thường thường biếu con một cái áo dài mùa đông hay mùa hè, tùy mùa. Hai cái áo ấy, và những đồng vàng Ogieni thu được trong ngày nguyên đán và ngày sinh nhật bố, làm thành một món niên bổng nho nhỏ là một trăm đồng. Grangde ưng cho nàng cóp nhặt, dành dụm những của cải ấy. Làm thế chảng qua là mang tiền hòm này bỏ sang hòm khác, không mất gì, mà lại gây dựng được đức tính hà tiện cho cô thừa tự. Thỉnh thoảng ông bắt Ogieni khai cho biết tình hình vốn liếng của nàng, số vốn ấy ngày trước, mỗi năm gia đình bê ngoại bỏ thêm vào một ít. Mỗi khi hỏi đến kho vàng của con, Grangde không quên bảo:
“- Đó là tá quà cưới của con sau này”.
Tá quà cưới là một tục lệ cổ truyền nay còn giữ một cách thành kính ở đôi miền thuộc trung bộ nước Pháp. Ở Beri, ở Angiu, khi một người con gái đi lấy chồng, gia đình cô hay gia đình nhà chồng phải cho cô một túi tiền đựng mười hai đồng vàng hay đồng bạc, mười hai lần mười hai đồng hoặc mười hai lần một trăm đồng, tùy khả năng. Cô chăn cừu nghèo khổ nhất khi lấy chồng cũng phải có tá quà cưới dù chỉ bằng xu đồng. Ở Itxudon, người ta còn nhắc đến tá quà cưới của một cô thừa kế giàu sụ nào thủa trước, gồm một trăm bốn mươi đồng tiền vàng Bồ Đào Nha. Giáo hoàng Clenang VII, chú của Catorin đơ Medixi, lúc gả nàng cho Hangri II, đã cho nàng một tá mề đay vàng đời thượng cổ hết sức quý giá.
Giữa bữa ăn tối, thấy con mặc áo mới trông càng đẹp, ông Grangde phấn khởi reo:
- Đã là ngày lễ của Ogieni thì ta đốt lò sưởi đi thôi! Lửa là điềm tốt.
“Năm nay nhất định cô nhà ta đi lấy chồng”. Mụ Nanong vừa nói vừa cất dọn chỗ còn lại của một con ngỗng ăn thừa; ngỗng tức là trĩ đối với gia đình bác phó thùng ta.
Bà Grangde đáp:
- Ở đây tôi chẳng thấy đám nào xứng đôi với con nhỏ.
Bà vừa nói vừa rụt rè liếc nhìn ông Grangde; già cả như thế mà còn rụt rè e sợ mặt chồng, điều ấy chứng tỏ bà Grangde hoàn toàn phụ thuộc vào chồng và khổ sở vì cảnh sống phụ thuộc ấy.
Grangde nhìn con, vui vẻ:
- Con nhỏ hôm nay thế là đúng hăm ba tuổi. Rồi đây phải lo gia thất cho nó mới xong.
Mẹ con bà Grangde lặng lẽ liếc nhìn nhau một cách ý tứ.
Bà Grangde là một người đàn bà khô đét và gầy guộc, vàng như quả thị, vụng về, chậm chạp; bà thuộc loại phụ nữ trời sinh ra để chịu áp bức. Xương cốt to, mũi to, trán to, mắt to; mới trông bà hao hao giống những quả cây xốp, không còn nước, cũng mất hết vị; răng chỉ còn lơ thơ vài chiếc thâm sịt, mồm răn, cằm cong lên như chiếc guốc. Bà là người đức hạnh, chính tông là một phụ nữ họ Bectenlie. Linh mục Cruyso đôi khi biết tìm dịp nói với bà rằng thời trẻ, chắc bà cũng xinh lắm, và bà tin linh mục. Bà hiền lành như thiên thần, nhẫn nại như con sâu bị trẻ con vùi giập; bà mộ đạo một cách hiếm có, cả đời không hề giận dỗi. Lúc nào cũng niềm nở tốt bụng, vì thế ai cũng kính nể và xót thương. Chưa bao giờ ông chồng ấy đưa cho bà quá sáu phơrăng để tiêu vặt. Người đàn bà trông bên ngoài thì buồn cười, nhưng bên trong vẫn hiểu sâu sắc cảnh nô bộc và lệ thuộc của mình, bà lấy làm nhục nhã, tuy tâm tính dịu dàng của bà không cho phép bà phản kháng. Tính món hồi môn với các gia tài thừa hưởng, bà đã mang lại cho Grangde ba mươi vạn phơrăng nhưng vì tự trọng, bà không bao giờ hỏi một xu và cũng không bao giờ nhận xét một tiếng khi viên chưởng khế Cruyso đưa giấy tờ cho bà ký. Tính tự trọng âm thầm dại dột ấy, cốt cách cao thượng ấy là điều nổi bật trong thái độ xử thế của bà, nhưng Grangde không hề biết tới và luôn luôn xúc phạm.
Lúc nào bà cũng mặc một chiếc áo lụa màu lá cây và quen giữ gìn nó để dùng được trọn năm; bà trùm khăn vải trắng, đội mũ rơm tự đan lấy và hầu như không lúc nào bỏ chiếc tạp dề vải thâm. Bà ít đi đâu nên không dùng nhiều giầy lắm. Bà không hề cầu ước một cái gì cho riêng mình cả. Cho nên một đôi khi Grangde sực nhớ, từ độ đưa sáu phơrăng lần sau cùng cho bà đến nay đã quá lâu mà chưa có món hồi môn nào khác thì đâm ra ân hận, cố kéo nài cho được khoản kim găm cặp tóc (Khoản tiền người khách hàng thêm vào để biếu bà vợ khi mua hàng của ông chồng) cho vợ, khi bán hoa lợi trong năm. Món tiền bốn năm đồng lu-i do người khách hàng Hà Lan hay Bỉ biếu khi mua bán xong là khoản thuế thu quan trọng nhất của bà Grangde. Nhưng khi bà đã nhận mấy đồng lu-i rồi thì lắm lúc Grabgde làm như vợ chồng vẫn ăn tiêu chung nhau, hỏi: “Này bà có tiêng lẻ đó không, cho tôi giật tạm mấy đồng”. Người đàn bà đáng thương kia lấy làm sung sướng được dịp làm vừa cái người mà cha rửa tội bảo là chủ, là chúa của mình, nên vui lòng đưa lại cho Grangde mấy đồng trên khoản kim cặp mỗi mùa. Mỗi lần Grangde móc túi lấy ra đồng trăm xu để đưa cho Ogieni tiêu về khoản kim, chỉ vặt vãnh xong thì sau khi cài cúc túi lại, ông không quên hỏi vợ:
- Còn bà, bà có cần gì không?
Giữ phẩm giá người mẹ, bà Grangde trả lời:
- Để rồi sẽ hay, ông ạ.
Cao thượng hoài công! Grangde vẫn tưởng mình đối xử với vợ hào phóng lắm rồi. Nhà triết học mà gặp những mụ Nanong, những bà Grangde, những cô Ogieni thì hẳn cũng có quyền khẳng định rằng bản chất của tạo vật là trớ trêu, mai mỉa đấy nhỉ?
Bữa ăn ấy lần đầu tiên người ta bàn đến chuyện nhân duyên của Ogieni. Cuối bữa, mụ Nanong lên buồng ông Grangde lấy chai cat-xi (rượu cất bằng quả phúc bồn tử), lúc xuống thang mụ trượt chân xuýt ngã, Grangde bảo:
- Cái bồ sứt cạp này! Mụ mà cũng ngã như lũ khác hay sao?
- Mụ ấy nói đúng đấy - bà Grangde bảo. Đáng lẽ ông phải chữa từ lâu rồi kia. Hôm qua con Ogieni cũng suýt trẹo chân ở chỗ đó.
Grangde thấy mụ Nanong mặt mày tái mét thì bảo:
- Này, hôm nay là lễ sinh nhật con Ogieni, mà mụ lại suýt ngã, thôi thì uống cốc rượu này cho tỉnh người lại.
- Kể tôi cũng đáng uống cốc rượu thật đấy! Người khác thì đã vỡ chai rồi! Tôi thì tôi giơ cao chai rượu lên, có gãy tay cũng đành.
- Tội nghiệp con mẹ Nanong này! - Grangde vừa nói vừa rót rượu cho mụ Nanong.
Ogieni nhìn mụ ta ân cần:
- Chị có thấy đau ở đâu không?
- Không, tôi đã choại chân gượng lại được!
- Ừ, hôm nay là sinh nhật Ogieni, để tôi chữa cấp thang cho các người. Các người không biết đó thôi, phải đặt bàn chân vào trong góc, nơi ván còn chắc kia!
Grangde cầm nến đi ra, để mặc vợ, con và mụ người ở ngồi lại với ánh lửa lập lòe của lò sưởi. Ông ta đi lấy ván, đanh và dụng cụ. Nghe thấy ông đóng đục ầm ầm ở cầu thang, mụ Nanong lên tiếng hỏi:
- Ông có cần tôi giúp một tay không?
- Không! Không cần! - bác cựu phó thùng đáp.- Cái thứ này nó còn lạ gì tay tao!
Trong lúc Grangde vừa tự tay mình chữa cầu thang mọt ruỗng vừa huýt sáo vang lừng để sống lại thời tuổi trẻ, thì bộ ba Cruyso gõ cửa.
Nanong nhìn qua tấm chấn song hỏi:
- Ông đấy phải không, ông Cruyso?
- Phải, ông chánh án trả lời.
Nanong mở cổng. Ánh lửa lò sưởi phản chiếu lên vòm cuốn làm cho bộ ba nhà Cruyso nhìn thấy lối vào. Nanong ngửi thấy mùi hoa, kêu:
- Ơ! Các vị này có vẻ tết nhất tợn!
Ông Grangde nghe thấy tiếng mấy ông khách bạn thì nói vọng ra:
- Các ông miễn thứ nhé. Tôi xuống ngay bây giờ. Các ông thấy, tôi chẳng câu nệ gì! Cái cầu thang nhà hỏng một cấp thì tôi tự chữa lấy cầu thang.
- Ông cứ tự nhiên cho, ông Grangde ạ. Anh đốt than vẫn là xã trưởng nhà anh ấy.- Ông chánh án nói câu ấy một cách trịnh trọng và cười riêng một mình về cái ẩn ý mà không ai hiểu cả.
Bà Grangde và cô con gái đứng lên. Lợi dụng ánh sáng mập mờ, quan chánh án nói với cô Ogieni:
- Thưa cô, ngày hôm nay là ngày cô ra đời, cho phép tôi chúc cô một chuỗi năm tháng vui tươi nối tiếp và cứ luôn khỏe mạnh như trời đã phú cho từ trước đến nay.
Ông đưa tặng một bó hoa to, thứ hoa hiếm có ở Xomuya, rồi ôm hai khuỷu tay Ogieni, ông hôn lên hai bên cổ một cách sốt sắng, khiến Ogieni xấu hổ. Ông chánh án hình thù giống như chiếc đinh gỉ tưởng làm như thế là tán tỉnh cô thiếu nữ. Ông Grangde vừa bước vào, vừa nói:
- Ông cứ tự nhiên. Ngày lễ, ông chánh án nhiệt tình thật!
Ông linh mục xun xoe bó hoa, đáp:
- Nhưng có lệnh nữ thì ngày nào với cháu tôi chẳng là ngày lễ!
Ông linh mục hôn bàn tay Ogieni. Đến lượt ông chưởng khế, thì ông này hôn ngang nhiên hai bên má, và nói:
- Cái của này mới chóng lớn chứ! Cứ đều đặn mỗi năm mười hai tháng!
Ông Grangde có tính hễ tìm ra một câu bông đùa thì bám riết và lặp đi lặp lại chán chê; ông ta vừa đặt lại cây nến trước chiếc đồng hồ treo vừa bảo:
- Đã là ngày lễ của Ogieni, thì ta đốt đèn đi!
Ông cẩn thận tháo các nhánh hồng, lắp đĩa đèn vào chân đế, lấy trên tay mụ Nanong cây nến mới quấn giấy; ông cắm nến vào lỗ, ấn chặt xuống rồi thắp lên. Đoạn ông ta đến ngồi bên bà Grangde, hết nhìn mấy ông khách lại nhìn con, rồi nhìn hai cây nến. Linh mục Cruyso là một người tròn trĩnh, hơi béo, đầu mang mớ tóc giả bẹp màu nâu đỏ, mặt mày giống một mụ già từng trải. Ông duỗi hai bàn chân mang giầy cài khoen bạc, nói:
- Đằng ông Đe Gratxanh không đến ư?
- Chưa đến, - Grangde đáp.
Ông chưởng khế già nhăn nhở cái mặt lỗ chỗ như chiếc vợt vợt bọt, hỏi:
- Liệu họ có đến không chứ?
- Tôi chắc là có, bà Grangde đáp.
Ông chánh án hỏi ông Grangde:
- Thưa, nho nhà ta đã hái xong chưa ạ?
- Xong khắp!
Ông Grangde vừa nói vừa đứng dậy đi lại trong phòng, ngực
Ở thị trấn Xomuya cũng có một ngôi nhà mang dáng dấp ủ dột ấy. Nó ở cuối con đường phố đưa đến lâu đài Xomuya qua khu thượng của thành phố. Con đường phố ấy ngày nay ít người qua lại. Mùa hè ở đấy nóng bức, mùa đông lại quá lạnh. Trên đường phố, đây đó có những vùng tăm tối. Ai đi qua cũng phải chú ý đến âm vang đặc biệt của mặt đường lô nhô đá cuội, lúc nào cũng sạch sẽ, khô ráo, đến nền đường hẹp và quanh co khúc khuỷu, đến cảnh tượng yên tĩnh của hai bên phố xá nép mình dưới hàng thành lũy xưa và thuộc khu vực thành phố cũ. Ở đây có những ngôi nhà trải qua ba thế kỷ vẫn còn đứng vững mặc dù là nhà gỗ, nhà nào có vẻ riêng của nhà ấy, nên toàn khu có một dáng dấp độc đáo làm các họa sĩ và những người hiếu cổ chú ý nhiều. Đi qua đấy khó mà không thầm phục những cây trinh to lớn, đầu tạc hình thù kỳ quái, hiện ra trên mặt tường tầng dưới, như những bức điêu khắc đen. Các thớt gỗ đặt ngang đều bọc đá lợp, cho nên trên ngọn các bức tường mong manh kia người ta thấy những vạch xanh biếc. Mái nhà lâu đời đã oằn xuống, lớp ruôi ngoài trải qua mưa nắng đã mục nát vênh vẹo. Những bậu cửa sổ mòn nhẵn và đen sạm, nét trạm trổ tinh vi chỉ còn lờ mờ. Những bậu cửa ấy trông như quá mỏng manh, không đủ sức đỡ cái chậu đất nâu sẫm trồng hoa hồng hay cẩm chướng của chị thợ nghèo. Đằng kia là những cánh cửa đóng đanh to tướng, trên ấy có những nét ký họa về lịch sử gia tộc do bàn tay sáng tạo của tổ tiên ta khắc vào, nhưng nó bí hiểm quá nên không bao giờ chúng ta còn hiểu thấu ý nghĩa. Khi thì một người đi đạo Cải lương ghi lại lòng thành tín của mình, khi lại một người Công giáo liên minh viết lời nguyền rủa Hăngri đệ tứ. Có khi một anh thị dân khắc cái gia huy hào mục của mình lên đấy để nhắc nhở thời kỳ cầm quyền oanh liệt của cha ông. Toàn bộ lịch sử nước Pháp phơi bày dưới mắt. Bên cạnh cái nhà lung lay, xây vách đá, mà cột kèo do những bác phó mộc nâng niu tay bào trau chuốt, là tòa lầu của một người quý phái. Trên vòm cuốn cổng đá, còn vết tích những nét chạm cái gia huy đã bị phá hủy qua bao nhiêu cuộc cách mạng làm đảo lộn miền này từ năm 1789 đến nay.
Ở phố ấy, tầng dưới của các hiệu buôn không ra vẻ là hiệu tạp hóa, cũng chẳng phải kho hàng. Những người ham thích thời Trung cổ hẳn tìm thấy ở đấy hình ảnh các xưởng thủ công quả là đơn giản ngày trước. Không quầy, không tủ kính, gian nào gian nấy sâu thăm thẳm, tối om, trong ngoài không có tí gì gọi là trang trí. Cửa vào gồm hai cánh dầy, cạp sắt một cách thô kệch; cánh trên mở vào trong, cánh dưới có mắc chuông lò xo, đẩy qua kéo lại không ngớt. Ánh sáng và không khí luồn vào cái hang ẩm ướt ấy do khoảng trống ở phần trên cửa ra vào, hoặc do khoảng cách giữa vòm cuốn, sàn gỗ tầng trên và một bức tường thấp ngang vai. Trên đầu tường có những cách cửa thật chắc, sớm lấy đi, tối lắp vào và cài then siết bằng đanh ốc.
Bức tường dùng để bầy hàng hóa.. chẳng có nhãn hiệu khoác lác, quảng cáo màu mè. Các mẫu hàng thường là hai ba chậu đầy cá thu muối, vài súc vải buồm, mấy cuộn dây thừng, những tấm đồng thau treo lên mấy cây đà đỡ sàn gác, những đai thùng xếp dựa vào tường, hoặc mấy xấp dạ trên các ngăn ngách. Ta thử vào xem. Một cô gái sạch tươm, phơi phới tuổi xuân, cánh tay hồng, khăn trùm đầu trắng, khi trông thấy ta sẽ vội vàng bỏ chiếc áo đan dở, gọi cha hoặc mẹ ra; tùy tâm tính họ, họ sẽ bình thản, niềm nở hay kiêu kỳ mà bán hàng cho ta, dù ta mua hai vạn phơrăng hay chỉ mua hai xu cũng thế.
Ta cũng sẽ thấy ở dãy phố này ông hàng ván thùng ngồi trước cửa hiệu tán nhảm với người bạn láng giềng; bề ngoài trông như lão ta chỉ có mấy tấm ván tạp nhạp dùng để đóng tủ kê cất chai và hai ba chồng dăm đóng thùng chứa; sự thật, ở ngoài cảng, cái xưởng tấp nập của lão cung cấp đủ dăm cho tất cả thợ thùng xứ Anggiu. Lão dự tính không sai một lá nào số dăm có thể bán được nếu mùa nho sai quả. Một ngày nắng làm cho lão ta phất to, một cơn mưa làm lão ta sạt nghiệp. Nội trong một ngày, giá thùng có thể lên tới mười phơrăng, hoặc sụt xuống sáu phơrăng mỗi cái.
Ở xứ này cũng như ở Turen, sự đổi thay thời tiết quyết định thị trường. Chủ đồng nho, nghiệp chủ, lái gỗ, lái thùng, hàng cơm, lái chở, tất cả đều rình chờ một tia nắng. Tối đi nghủ họ lo ngay ngáy sáng ra tỉnh giấc phải nghe tin đêm qua rét đến nước đóng băng; họ lo gió, lo mưa, lo hạn, họ cầu cho nước, cho nắng, cho mây điều hòa theo ý muốn của họ. Quyền trời và lợi người luôn luôn xung đột. Cái phong vũ biểu làm cho họ khi thì buồn, khi thì nở mày nở mặt. Ở đại lộ cũ, từ đàu phố đến cuối phố, hễ ai thấy thời tiết tốt thì từ nhà này đến nhà khác, họ quy giá thời tiết thành tiền. Khi người này bảo kẻ khác: “Trận mưa này là mưa bạc, mưa vàng” thì họ đã nhẩm tính cái tia nắng nọ, cái cơn mưa kia đúng lúc đã mang tới cho họ bao nhiêu tiền.
Mùa nắng, chả bao giờ trưa thứ bảy ta mua được một xu hàng ở cửa hiệu các nhà kinh doanh quý hóa ấy. Mỗi vị đều có vườn nho, có ấp trại, nên cuối tuần họ về vườn vài hôm.
Ở phố ấy, bán, mua, lờ lãi, cái gì cũng được dự trù, cho nên cứ mỗi ngày mười hai giờ thì họ đã rỗi rãi đến mười giờ để ngồi lê, tán chuyện gẫu, phê bình, dòm dỏ công việc của người ta. Hễ nhà này, chị vợ mua được con gà gô thì lát sau mọi người đều hỏi ông chồng gà gô quay có vàng không. Có cô thiếu nữ nào thò đầu ra cửa sổ thì tức khắc tất cả những kẻ túm năm tụm ba vô công rồi nghề ấy châu mắt nhìn lên. Bởi thế, ở đây, lương tâm con người lồ lộ giữa ánh sáng, cũng như nhà cửa người ta tuy tối tăm, vắng lặng, có vẻ như kín bưng, nhưng kỳ thật chẳng có gì bí ẩn. Đời sống hầu như diễn ra giữa trời: mỗi gia đình bắc ghế ngồi ở cửa, ăn sáng, ăn chiều ở đấy, cãi nhau cũng ở đấy. Không ai qua đường mà không bị dòm hành xoi mói. Ngày xưa, mỗi khi có người khách lạ đi qua phố thì anh ta bị chế giễu từ cửa này sang cửa khác. Do đó, người ta còn truyền đến ngày nay nhiều giai thoại, cùng với danh hiệu “lũ nhại” trao tặng cho thị dân tỉnh Anggie, vì họ có sở trường về cái khoa trêu cợt quen thuộc ấy của thành thị.
Các ông quý tộc bản địa xưa kia ở khu phố cũ này; nhà cửa, lâu đài cuả họ còn ở cuối phố, ngôi nhà u tịch làm bối cảnh cho những sự việc kể trong truyện này là một. Đó là những di tích đáng kính của một thời mà việc đời và chuyện người đều giản dị như nhau; trong phong tục nước Pháp, tính giản dị ấy mỗi ngày mỗi rơi mất dần.
Nếu ta lượn theo con đường kỳ thú đó thì thấy mỗi chi tiết mang một kỷ niệm, đưa đến kết quả chung là một trạng thái tư lự mơ màng. Qua khỏi các đoạn quanh co ta sẽ thấy một khoảng lõm mập mờ, giữa khoảng lõm đó là cái cổng nhà của ông Grangđê, lẩn khuất vào đấy. Nếu không kể tiểu sử ông ra đây thì không tài nào các bạn lĩnh hội ý nghĩa của mấy tiếng “nhà của ông Grangde” quen dùng ở tỉnh này.
Ông Grangđê thì ở thị trấn Xomuya ai mà không biết tiếng, nhưng những người không ở lâu ở tỉnh khó lòng hiểu thấu đáo tại sao ông nổi tiếng như thế, và nổi tiếng như thế có ích lợi gì.
Ông Grangđê - các cụ già còn có người gọi là bác Grangđê, nhưng các cụ ấy tịch đi đã nhiều - khoảng năm 1789 chỉ là một bác phó cả đóng thùng làm ăn khá giả, biết đọc, biết viết, biết tính. Khi chính phủ Cộng hòa bán đấu giá tài sản nhà chung thì bác thợ thùng lúc bấy giờ bốn mươi tuổi, vừa cưới con gái một ông lái gỗ giàu. Bác ta mang số tiền mặt của mình và món hồi môn của vợ, cả thảy có đến hai nghìn đồng lu-i vàng lên quận, đến đó, ông bố vợ xỉa ra hai trăm đồng lu-i đổi cho người cán bộ cộng hòa nghiêm khắc phụ trách việc bán tài sản quốc gia và thế là bác ta trở thành chủ nhân không chính thức – nếu không là chính đáng – của những cánh đồng nho đẹp nhất trong hạt, cùng với một ngôi nhà tu cũ và mấy cái ấp nữa, giá rẻ như cho không.
Dân Xomuya hiếm người theo cách mạng, cho nên bác Grangđê được xem là người táo bạo, là chiến sĩ Cộng hòa, là nhà ái quốc, là người tiếp thu tư tưởng cấp tiến, trong khi sự thật bác ta chỉ tiếp thu mấy cánh đồng nho. Bác được bầu vào hội đồng hành chính quận Xomuya, và xu hướng ôn hòa của bác ảnh hưởng tới đường lối chính trị, thương mại quận nhà. Về mặt chính trị, bác ta che chở cho quý tộc, hết sức dùng quyền lực của mình ngăn trở việc phát mại tài sản của những người xuất cảnh; về mặt thương mại, bác ta thầu bán hàng nghìn thùng rượu vang trắng cho quân đội Cộng hòa, và được thanh toán bằng những cánh đồng cỏ bao la của một nữ tu viện, tức là lô đất mà người ta dành lại để bán sau cùng. Dưới chế độ tổng giám đốc, bác Grangđê được cử làm thị trưởng. Ông thị trưởng cai trị khéo, thu hoạch nho lại càng khéo hơn. Đến thời đế chế, ông thị trưởng Grangđê trở nên ông Grangđê. Napoleon vẫn ghét những người Cộng hòa, đã cử người khác thay ông vì dư luận coi ông là người đã đội mũ đỏ. Người thay thế ông là một đại địa chủ, tên họ có chữ lót quý phái, một nam tước tương lai của đế chế.
Ông Grangđê rời bỏ những vinh dự của chức vụ thị trưởng không hề luyến tiếc. Hồi tại chức, ông đã nghĩ đến quyền lợi của nhân dân thành phố, cho đắp những con đường rất tốt đến các ấp trại của ông; ông đăng ký nhà cửa, ấp trại vào sổ trước bạ của sở Địa chính với thể thức có lợi nhất, nên đóng thuế khá nhẹ. Từ cái ngày phân định đẳng hạng các cánh đồng nho ấy cho tới nay thì các cánh đồng nho của ông, vì được chăm sóc không ngớt, nên đã vượt lên địa vị “đầu xứ”, nghĩa là sản xuất ra thứ rượu vang ngon nhất. Giá ông viện thành tích ấy ra thì ông có thể xin ân thưởng Bắc đẩu bội tinh.
Việc ông Grangđê bị huyền chức xảy ra năm 1806. Lúc bấy giờ ông đã năm mươi bảy và bà vợ ba mươi sáu. Hai vợ chồng chỉ có một cô con gái mười tuổi, kết quả cuộc tình duyên chính đáng của hai ông bà. Hình như Thượng đế thấy ông ta bị huyền chức muốn an ủi ông ta, nên cùng trong năm đó đã cho ông hưởng ba cái gia tài liền: gia tài của bà Godinie; gia tài của bà cụ Grangtie, bà ngoại bà Bectinlie. Ba cái gia tài ấy chẳng ai biết to nhỏ thế nào. Chỉ biết rằng ba cụ già đó là ba người keo kiệt lắm, keo kiệt say sưa, đã từ lâu họ chỉ ưa chất của cải để lén lút ngắm nghía. Ông già Bectenlie cho rằng bỏ tiền ra cho vay lãi là tiêu hoang, ngồi nhà mà ngắm vàng lợi hơn là cho vay thu lãi.
Thành phố Xomuya nhìn trên lợi tức của nổi mà ức đoán món tích lũy của ông Grangđê cho nên bây giờ ông lại được thêm một cái tước mới, một vinh tước mà bệnh bình đẳng chủ nghĩa không bao giờ xóa bỏ được: ông trở thành người đóng thuế nhiều nhất hạt. Ông trồng một trăm mẫu nho, những năm được mùa thì có thể cất bảy tám trăm thùng rượu vang. Ông có mười ba trang ấp, một nhà tu cũ, mà ông bịt tất cả cửa sổ, cửa cuốn, cửa kính để khỏi đóng thuế và giữ của lâu bền hơn, rồi một trăm hai mươi bảy mẫu cỏ trên ấy sởn sơ ba nghìn gốc bạch dương trồng từ năm 1793. Và cuối cùng, ngôi nhà hiện ông ta ở cũng là sở hữu của ông. Đó là của nổi, mà người ta biết được. Còn vốn liếng của ông thì chỉ có hai người có thể ước đoán phần nào, một là ông Cruyso, chưởng khế, phụ trách việc đem tiền ông ta cho vay nặng lãi, hai là ông Đe Gratxanh, chủ ngân hàng giàu nhất tỉnh Xomuya. Ông Grangđê có tham gia việc kinh doanh của ngân hàng ấy một cách bí mật và theo những điều kiện thích hợp với ông. Mặc dù ông già Cruyso và ông Đe Gratxanh rất kín đáo, kín đáo là đức tính cần thiết ở tỉnh nhỏ để làm cho người ta được tín nhiệm và trở thành giàu có – hai ông này đối với ông Grangde lại có một thái độ sùng kính công khai, làm cho những kẻ tinh ý nhất có thể bằng theo thái độ ấy mà ước lượng ông Grangđê giàu đến mức nào. Khắp thành phố Xomuya không ai không tin chắc rằng ông Grangđe có một kho riêng, một hầm kín chứa đầy tiền vàng mà đêm đêm ông vào ngắm với những khoái cảm không bờ bến. Những người có tình hà tiện như ông Grangđe lại càng quả quyết như thế khi nhìn vào mắt ông ta. Bơỉ vì họ thấy mắt ông ta cũng lóng lánh ánh sắc của đồng tiền vàng. Cách nhìn bọn đầu cơ trục lợi cũng như cách nhìn của tay ăn chơi hưởng lạc, kẻ máu mê cờ bạc, hay lũ bợ đỡ cầu ân, thường có một vẻ riêng rất khó tả, với những tia sáng vụng trộm, thèm khát, bí ẩn, nhưng không tránh khỏi con mắt của phường đồng đạo. Đó là một thứ mật mã trong hội kín của dục vọng.
Tóm lại, ông Grangde được mọi người kính phục; kính phục vì ông ta không hề mắc nợ ai; kính phục vì đã đóng thùng lâu năm, trồng nho lâu năm, ông ta đoán được chính xác như một nhà thiên văn học lúc nào thì nên đóng một nghìn thùng rượu, lúc nào thì chỉ nên đóng năm trăm thùng thôi; kính phục vì ông ta không bỏ lỡ một cơ hội làm tiền nào; kính phục vì lúc nào ông ta cũng có thùng không để bán; khi thùng lại đắt hơn rượu; kính phục vì ông ta có thể biết lúc nào thì cứ cất rượu vào kho rồi chờ dịp bán mỗi thùng rượu hai trăm phơrăng, trong khi các nghiệp chủ nhỏ chỉ có thể bán được có một trăm. Vụ được mùa năm 1811 là nhờ ông ta đã khôn khéo cất rượu của ông ta lại rồi cứ bán từ từ, do đó thu được hơn hai trăm bốn mươi nghìn phơrăng.
Về phương diện lý tài, ông Grangde vừa giống một con hổ, vừa giống một con trăn: ông biết cách nằm, cách thu mình lại, rình miếng mồi rất lâu và nhảy ra vồ đúng lúc, rồi há mõm túi tiền ra nuốt chửng một đống vàng, xong, lại nằm im lìm như con trăn đang tiêu hóa, thản nhiên, lạnh lùng, có thách thức.
Nhìn ông ta đi qua, không ai là không cảm thấy vừa thán phục, vừa kính nể, vừa khiếp sợ. Ở cái tỉnh Xomuya này, dễ không ai không bị những vuốt thép trơn bóng của ông ta cấu xé! Người thì do ông Cruyso giúp tiền để mua ruộng đất nhưng lấy lãi mười một phân, người thì được ông Đê Gratxanh thanh toán ngân phiếu cho trước và khấu lãi một cách kinh khủng. Ít khi mà ở ngoài chợ hay buổi tối ở trong trong thành phố, trong câu chuyện, người ta không nhắc đến tên ông Grangde. Có người lấy làm kiêu hãnh - đây là một niềm kiêu hãnh ái quốc- vì trong vùng mình có một người giàu như ông ta. Nhiều nhà buôn, nhiều ông chủ quán thích thú nói với những khách lạ ở vùng khác đến: “Thưa ông, ở vùng chúng tôi có đến ba bốn nhà triệu phú, nhưng đến ông Grangde thì ngay ông ấy cũng không biết xuể tài sản cua mình!”
Năm 1816, những người tính toán giỏi nhất ở Xomuya ước lượng ruộng đất ông Grangde trị giá xấp xỉ bốn triệu. Ngoài ra, vì lợi tức đồng niên quân bình của ông từ 1793 đến 1817 là mười vạn quan mỗi năm, cho nên số tiền mặt của ông ta tích lũy có lẽ cũng gần ngang với giá trị bất động sản. Vì vậy, giữa hai ván bài, hay là trong câu chuyện về nho, về rượu, nếu người ta có nhắc đến tên ông grangde thì những người biết chuyện bảo: “Ông Grangde ấy à? Gia tài ông Grangde chắc phải đến năm sáu triệu!”
Khi ông Cruyso hoặc ông Đê Gratxanh có mặt, thì các ông ấy đáp:
- Các ông tài thật, tôi không bì được. Tôi không làm thế nào kết toán được gia tài ông ta.
Có người dân Pari nào nhắc đến họ Rotxin hay ông Laphit thì người Xomuya hỏi ngay ông ấy có giàu bằng ông Grangde không. Nếu anh chàng Pari mỉm cười nói “có” một cách khinh thường, thì họ nhìn nhau lắc đầu, vẻ không tin.
Một cái gia sản to như thế làm cho tất cả những hành động của ông Grangde đều như trùm bọc hào quang. Ban đầu một đôi đặc điểm trong đời sống của ông làm cho người ta buồn cười và chế giễu, nhưng lâu dần quen đi, ngày nay thì mỗi hành động của ông, dù nhỏ nhặt, cũng có giá trị của một sự việc đã được thẩm quyết. Ngôn ngữ của ông, cũng như y phục, điệu bộ, cho đến cái nheo mắt, đều thành khuôn vàng thước ngọc cho mọi người; người ta quan sát ông như nhà sinh vật học khảo sát những biểu hiện của bản năng con thú, và người ta thừa nhận là ở ông, nhất cử, nhất động đều thể hiện một thứ trí thức thâm thúy thầm lặng bên trong. Người ta bảo nhau:
“Mùa đông tới chắc chắn là rét lắm, ông Grangde mang găng độn đấy, mau mau hái nho thôi!- Ông Grangde trữ nhiều dăm thùng nhỉ? Năm nay coi mà được mùa nho!”
Ông Grangde không bao giờ mua bánh, mua thịt. Hàng tuần, tá điền đem nộp tô cho ông một số gà thiến, gà tơ, bơ, trứng và lúa mì đủ dùng. Ông có một máy xay gió; người lãnh thầu máy xay, ngoài tiền thuê, phải đến nhà ông mang một số lúa mì về xay rồi đem bột và cám tới trả. Người ở độc nhất trong nhà, mụ Nanong hộ pháp, mặc dù đã luống tuổi, vẫn cứ đến thứ bảy là làm đủ số bánh mì cho cả nhà ăn trong tuần tới. Về rau thì ông Grangde thương lượng với các chủ giồng rau trên đất thuê của ông để họ cung cấp. Còn quả thì ông thu hoạch nhiều lắm, phải đưa ra bán phần lớn ở chợ. Củi đốt, ông cho chặt ở hàng giậu hay các lùm cây khô mục quanh mấy cánh đồng gần nhà; tá điền cưa bổ sẵn sàng rồi chở đến cho ông, xếp giúp ông ở chỗ củi xong thì nhận lời cảm ơn của ông mà về. Như thế ông chỉ phải bỏ tiền tiêu về các khoản bánh thánh, ghế tựa ở nhà thờ và quần áo cho bà Grangde và cô con gái, dầu đèn, tiền công mụ Nanong, tiền mạ xoong nồi, tiền đóng thuế, tu bổ nhà cửa và các khoản chi phí canh tác. Ông mới mua sáu trăm mẫu rừng và gửi cho người kiểm lâm của một nghiệp chủ láng giềng canh giữ, hứa sẽ trả thù lao cho anh ta. Cũng chỉ từ lúc ấy nhà ông mới có thịt rừng.
Ông Grangde tác phong giản dị. Ông ít nói. Thường thường ông phát biểu ý kiến bằng những câu long trọng, giọng nói nhỏ nhẹ. Từ thời Cách mạng, mà người ta bắt đầu để ý đến ông, cho tới nay, thì những khi phải nói nhiều hoặc tranh luận ông nói lắp bắp một cách khó nhọc. Cái tật là cà lặp cặp ấy, cái cách phát biểu lôi thôi không mạch lạc, cái lối trình bày rõ ràng là không hệ thống, không lý luận ấy người ta cho là vì vô học, thật ra đều là vờ vịt cả; vài sự việc sau sẽ chứng tỏ điều đó. Thông thường ông dùng bốn câu chính xác như bốn công thức đại số để quán triệt và giải quyết tất cả những khó khăn trong việc mua bán và việc đời, bốn câu ấy là: “Tôi không biết. Tôi không thể. Tôi không muốn. Chúng ta sẽ xem thế nào”. Chả bao giờ ông dùng tiếng vâng hay tiếng không và cũng không viết giấy tờ. Khi nghe người ta nói thì ông nghe một cách lạnh lùng, tay phải nâng cằm, khuỷu tay chống lên lưng bàn tay trái úp sấp. Về việc gì ông cũng có ý kiến riêng của mình, và khi đã có ý kiến thì không bao giờ thay đổi. Hễ là chuyện mua bán làm ăn thì dù nhỏ nhặt bao nhiêu ông cũng dành nhiều thì giờ suy nghĩ. Qua những cuộc trao đổi rất khôn khéo, khi đối phương đã tiết lộ những ý đồ thầm kín của mình mà tưởng rằng ông vẫn chưa biết, thì ông bảo:
“- Tôi chưa quyết định được gì vì chưa có ý kiến của nhà tôi”.
Ông Grangde đã biến bà vợ thành người nô lệ hoàn toàn nhưng khi có việc mua bán, ông lại mang bà ra làm một bình phong vô cùng tiện lợi.
Không bao giờ ông Grangde đến nhà ai cả. Ông không muốn ăn cơm khách, cũng không muốn mời mọc ai. Ông chẳng làm gì ồn ào, cái gì ông cũng muốn dè xẻn, cho đến từng cử động cũng dè xẻn. Ông không động đến cái gì của người ta, vì ông luôn luôn tôn trọng tư hữu. Mặc dù giọng ông nhỏ nhẹ, dáng ông thận trọng, nhưng ngôn ngữ và tập quán bác phó thùng vẫn cứ lộ ra, nhất là khi ông ở nhà, không phải giữ gìn như ở những chỗ khác.
Về hình dáng, Grangde cao hơn một thước sáu, to ngang, vuông vức, vai rộng, vòng bắp chân đến bốn tấc, đầu gối có u có khúc, mặt tròn trịa rám nắng, rỗ đậu mùa, cằm thẳng, môi dầy, răng trắng; đôi mắt vừa tỉnh táo vừa thao láo như muốn nuốt sống người ta, giống như mắt con rắn thiêng trong thần thoại; trán đầy nếp răn ngang và những cục u tiêu biểu cho tâm tính con người; tóc vàng vàng lại lốm đốm trắng khiến cho một số thanh niên không biết đùa cợt ông Grangde là chuyện tày trời, bảo đầu ông có vàng có bạc. Chóp mũi ông khá to và hằn gân máu, bọn phàm tục bảo đấy là dấu hiệu của sự ranh mãnh, và chừng như cũng đúng.
Cái tướng mặt Grangđe là tướng người tinh tế một cách nguy hiểm và ngay thật một cách tính toán, đó là tập quán ích kỷ của một người keo bẩn say mê của cải. Ông ta chỉ còn chú ý tới mỗi một người, cô Ogieni, cô con gái thừa kế độc nhất của ông ta. Tất cả cái gì toát ra ở người ông ta, từ tác phong, cử động cho tới dáng đi đều nói lên cái lòng tự tin của con người luôn đắc thắng. Bởi vậy, tuy bề ngoài, trông ông có vẻ dễ dãi xuề xòa, mà bên trong tính tình ông cứng rắn như sắt.
Xưa nay ông vẫn ăn mặc một kiểu, ai biết ông năm 1791 bây giờ gặp lại vẫn thấy không khác xưa: đôi giầy chắc nịch vẫn buộc dây da, bốn mùa vẫn tất len, quần chẽn bằng da nâu xấu với những khâu bạc ở gấu, gile nhung có sọc vàng và sọc nâu xen nhau, cài cúc thẳng hàng, áo nâu rộng vạt to, cà vạt đen, mũ vành rộng. Găng tay ông bền như găng sen đầm, dùng một thôi hai mươi tháng chưa hỏng; để giữ găng sạch sẽ, khi cởi ra ông cử động có cung cách, đặt nó lên vành mũ bao giờ cũng đúng ở một chỗ.
Ngoài những điều kể trên Xomuya không biết gì hơn về con người ấy.
Nhà ông Grangde chỉ có sáu người có quyền lui tới.
Trong bộ ba thứ nhất, nhân vật quan trọng hơn hết là người cháu ông Cruyso. Từ khi được cử làm chánh án tòa án sơ cấp Xomuya, người thanh niên ấy ghép tên Đơ Bongphong vào tên Cruyso và cố sức làm cho tên Đơ Bongphong át hẳn tên Cruyso đi. Chàng ta đã ký C. Đơ Bongphong. Người hầu kiện nào vụng về trót gọi “Ông Cruyso” trong khi thưa bẩm, đến khi ra phiên tòa mới biết mình trót dại mồm. Ông quan tòa ấy che chở cho ngững người thưa: “Bẩm quan chánh án”, nhưng ông dành những nụ cười ân cần nhất cho những kẻ tôn nịnh, một rằng “Ngài Đơ Bôngphong” hai rằng “Ngài Đơ Bongphong”. Quan chánh án Cruyso bấy giờ ba mươi ba tuổi; ông là chủ nhân trang ấp Đơ Bongphong, tô đồng niên bảy ngàn phơrăng. Ông sẽ còn được hưởng gia tài của ông chưởng khế và gia tài của ông linh mục, chức sắc trong hội đồng giáo sĩ Xanh Mactanh ở tỉnh Tua, cả hai đều là chú ông và đều giàu có. Ba ông Cruyso gốc ấy, với sự trợ thủ của một bầy anh em họ và vài mươi gia đình thông gia trong thành phố, làm thành như một đảng phái, cũng như tộc họ Medixi ở Pholorangxo ngày xưa. Và họ Cruyso cũng có một họ thù địch, như họ Medixi vậy.
Bà Đe Gratxanh có một cậu con trai hai mươi ba tuổi. Bà năng lui tới chơi bài với bà Grangde với hy vọng dạm hỏi được Ogieni cho con mình. Ông Đe Gratxanh là chủ ngân hàng; ông viện trợ ráo riết các cuộc vận động của bà vợ bằng cách thường xuyên ngầm giúp ông già Grangde si của ấy; ông xuất hiện trên chiến trường rất đúng cơ hội. Bộ ba Đe Gratxanh cũng có những đồng đảng, những anh em họ và những người thông gia trung thành.
Về phía gia đình Cruyso, nhà ngoại giao thuyết khách của họ là ông linh mục; ông này, có ông chưởng khế giúp đắc lực, đang ráo riết tranh chấp chiến địa với bà chủ ngân hàng và cố kéo cái gia tài kếch xù kia về cho ông cháu chánh án.
Các tầng lớp xã hội ở Xomuya say sưa theo dõi cuộc chiến tranh bí mật giữa hai họ để chiếm đoạt cô Ogieni. Ogieni sẽ lấy ai? Lấy quan chánh án hay ông Adon Đe Gratxanh? Thử giải bài tính ấy, có người đáp rằng ông Grangde sẽ không gả con cho anh này mà cũng chẳng gả cho chàng kia; họ bảo ông Grangde chứa chan tham vọng, muốn kén một ông rể Thượng khanh của nước Pháp; cô Ogieni hưởng cái gia tài mỗi năm ba mươi vạn phơrăng lợi tức, thì khó gì mà không tìm ra một vị Thượng khanh nuốt trôi tất cả những cái thùng ông bố vợ đã đóng, đang đóng và sẽ đóng. Những người khác lại bảo ông bà Đe Gratxanh là quý tộc, họ giàu lớn và Adon giỏi trai; có họa là có sẵn cháu đức Giáo hoàng trong tay áo để bắt rể, nếu không thì xuất thân ti tiện như thế, ngày trước quai búa thợ thùng ai cũng trông thấy, lại còn từng đội mũ đỏ nữa, thì kết nghĩa dâu gia với gia đình Đe Gratxanh là thỏa nguyện lắm rồi. Kẻ am hiểu nhất bảo rằng ông Cruyso đơ Bongphong lúc nào đến chơi nhà Grangde cũng được, còn Adon thì chỉ được tiếp ngày chủ nhật thôi. Người nữa lại nói, bà Đe Gratxanh thân với cánh phụ nữ trong nhà hơn, bà có thể cảm hóa họ, làm cho mưu chước của bà không chóng thì chầy cũng đi đến thành công. Người khác trả lời rằng linh mục Cruyso là người xảo mị nhất đời, thầy tu đấu với phụ nữ thì cũng là kẻ tám lạng người nửa cân, không hơn không kém. Một anh chàng hóm hỉnh của tỉnh Xomuya bảo: “Thật là kỳ phùng địch thủ!”.
Những người ở Xomuya lâu năm, biết việc hơn, cho rằng họ nhà Grangde thừa không ngoan, quyết không để lọt của ra ngoài, cho nên cô Grangde tỉnh Xomuya chắc chắn sẽ kết hôn với cậu con ông Grangde, nhà buôn rượu giàu lớn ở Pari. Đáp lại luận điệu ấy, phái Cruyso và phái Gratxanh bảo:
“Trước hết, anh em nhà họ ba mươi năm nay chỉ giáp nhau có một lần. Sau nữa phải biết rằng ông Grangde ở Pari có nhiều kỳ vọng về cậu con trai mình. Ông ta vừa là quận trưởng, vừa là nghị viên, vừa là đại tá quốc dân quân, vừa là thẩm phán tòa án thương mại, ông ấy không thừa nhận ông Grangde ở Xomuya ta là anh em. Ông có tham vọng cầu thân với một gia đình vinh phong công tước nhờ ân mưa móc của hoàng đế Napoleon kia”.
Tóm lại, một cô thừa tự tiếng tăm vang dậy khắp hai mươi dặm quanh vùng đến nỗi trong mỗi chuyến xe hàng từ Angie đến Bloa, không ai không nhắc đến, thì có chuyện gì về cô ta mà người ta không bàn hươu tán vượn?
Đầu năm 1811, phái Cruyso thắng phái Đê Gratxanh một bàn rõ rệt. Trong vùng, có chàng thanh niên hầu tước Phoroaphong cần tiền mặt nên muốn bán trang ấp cua mình. Ấp Phoroaphong rất có giá trị về cái vườn, về tòa lâu đài xinh đẹp, về các trang trại, sông ngòi đầm ao, rừng rú, trị giá tất cả ba triệu. Ông chưởng khế Cruyso, ông chánh án Cruyso, ông linh mục Cruyso cùng với bọn trong cánh đã biết cách ngăn việc chia cắt sản nghiệp ấy ra bán thành lô nhỏ. Ông chưởng khế Cruyso thuyết phục chàng thanh niên chủ ấp, bảo rằng nếu chia ra bán thành nhiều lô thì sau này còn phải mất bao nhiêu công kiện tụng, bao nhiêu án tiết lôi thôi mới buộc được các chủ mua trả đủ, chi bằng bán trọn sở cho ông ta, không những ông ấy có khả năng thanh toán, mà ông lại còn có thể trả tiền mặt nữa. Thế rồi ông chưởng khế thương lượng mua trọn sở với giá rất hời. Cái trang ấp Phoroaphong xinh đẹp kia được đẩy vào dạ dày ông Grangde. Giấy tờ thể thức đã làm xong, ông Grangde thanh toán ngay, thanh toán trước kỳ hạn để được hưởng hoa hồng chiết khấu, làm cho cả tỉnh Xomuya kinh ngạc. Chuyện này đồn vang dội đến tận Nangto và Ocleang.
Nhân chuyến xe bò đi về Phoroaphong, ông Grangde bèn đi nhờ để đến thăm tòa lâu đài mới tậu. Sau khi lấy con mắt ông chủ nhìn khắp đất Phoroaphong một lượt, ông trở về nhà, trong bụng nhẩm chắc rằng mua ấp Phoroaphong tức cũng như đem vốn đặt lãi năm phân. Ông lại nẩy ra sáng kiến cao siêu là phải làm cho ấp Phoroaphong tròn trĩnh dễ coi hơn nữa, bằng cách đem tất cả tài sản của ông đập vào đấy. Rồi để làm cho cái két bạc hầu cạn sau vụ mua bán ấy lại trở nên đầy, ông Grangde quyết định đốn tiệt rừng và hạ những cây bạch dương trên đồng cỏ bán đi.
Bây giờ thì chắc ai cũng hiểu rõ giá trị mấy tiếng: “Nhà của ông Grangde”. Cái nhà không màu sắc, lạnh lẽo, vắng lặng ấy nằm ở vùng cao nhất thành phố, nấp sau bờ lũy đổ nát. Hai cây trụ và cái vòm cuốn làm cổng xây bằng một thứ đá trắng đặc biệt ở sông Loa, thứ đá ấy mềm lắm, trung bình chỉ chịu đựng hai trăm năm là cùng. Nắng mưa giữa trời làm cho đá lỗ chỗ một cách kỳ khôi; vì vậy mặt tiền, vòm cuốn và trụ cổng trông như xây bằng thứ đá đục hình giun ngoằn ngoèo, như người ta thường gặp trong kiến trúc nước Pháp, và hao hao giống một cái cổng nhà tù. Ở phía trên vòm cuốn, có một bức trạm dài thể hiện cảnh bốn mùa, bằng đá cứng, hình trạm cũng đã lỗ chỗ và thâm sịt. Bên trên bức trạm, có một mái diềm nhô ra, trên có nhiều thứ cây dại mọc tự nhiên như bìm bìm, mã đề, bù xít và một cây anh đào con đã khá cao. Cánh cổng bằng ván sồi nguyên tấm màu nâu, khô quánh và nứt nẻ tứ tung, trông như mỏng mảnh, nhưng có cả một hệ thống bù loong cân đối siết chặt. Một tấm chấn song nhỏ vuông vức, nhưng song rất dày, rỉ sắt ăn đỏ cả, nằm chính giữa lối cổng bên, làm khung cảnh trang trí chiếc búa gõ của; chiếc búa xâu qua một cái vòng sắt, đính ở cửa song, chỗ gõ là một cái đầu đanh to tướng, sần sùi và méo mó. Chiếc búa thuộc loại búa đồng hồ cổ, tiện theo hình người, dáng thon thon trông giống như một dấu chấm than lớn; nếu quan sát tỉ mỉ, người khảo cổ sẽ thấy thân búa còn mường tượng một cái dáng thằng hề, vì dùng lâu đời đã mòn đi.
Cái cửa song đó dùng để nhận mặt bạn hữu trong thời kỳ nội chiến ngày trước. Ngày nay người tọc mạch có thể nhìn qua để thấy tận cùng cái vòm cuốn xanh lờ mờ, mấy cấp thềm lở lói đi lên vườn ở phía trong. Quanh vườn có mấy bức tường dày ẩm ướt, nước ri rỉ không ngừng, với từng chùm cây khẳng khiu bám lên, trông thật lạ mắt. Tường ấy là tường lũy ngày trước, phía trên lũy là vườn nhà láng giềng.
Ở tầng dưới ngôi nhà, căn phòng quan trọng hơn hết gọi là gian lớn mà cửa ra vào mở ra dưới vòm cuốn của cổng ngoài. Ít ai biết tầm quan trọng của một gian lớn trong sinh hoạt gia đình tại các thị trấn nhỏ tỉnh Angiu, Turen, Beri. Gian lớn vừa là buồng chờ, vừa là phòng tiếp khách, phòng làm việc, buồng ăn, buồng phụ nữ; đó cũng là nơi sưởi công cộng, là sân khấu của mọi sinh hoạt gia đình; ở đây bác phó cạo khu phố mỗi năm hai lần đến cắt tóc cho ông Grangde; ở đây các bác tá điền ra vào cùng với chú thợ bạn xay gió, cũng như cha xứ và quan quận phó nhà. Phòng có hai cửa sổ trông ra đường; sàn bằng gỗ, bốn phía tường cũng lát gỗ, từ trên xuống dưới, chỉ thấy những khung ván xám chạy chỉ lối xưa. Trần nhà làm bằng những cây đà gỗ lộ ra ngoài, cũng sơn màu xám, khoảng cách giữa các cây đà thì trét vôi nhồi, xưa trắng nay đã ngả vàng. Một chiếc đồng hồ khung đồng cổ kính khảm hoa văn đồi mồi treo phía trên cái bệ lò sưởi bằng đá trắng chạm trổ vụng về. Trên mặt bệ, một tấm gương hoen ố, bốn cạnh vạt xéo để người ta biết là gương dày; gương phản chiếu một làn ánh sáng lên tấm thép nạm bạc kiểu Gotich trang trí khoảng cách nhau giữa hai cái cửa. Hai cây đèn nhiều nhánh, bằng đồng mạ vàng bài trí ở hai góc bệ. Đèn ấy có thể dùng hai cách: cây đèn to có những hình hoa hồng làm đài cắm nến, gắn vào một cái cành to, cành ấy tra vào một cái chân bệ bằng đá cẩm thạch xanh, nạm đồng cổ; nếu lấy những đóa hồng ấy đi thì cây đèn trang trí nhiều ngọn còn độc cái chân bệ và trở thành một cây đèn thường dùng để cắm nến thắp những ngày lễ nhỏ. Các ghế tựa kiểu cổ có phủ thảm thêu; mấy hình thêu ấy minh họa thơ ngụ ngôn La Phongten, nhưng nếu không biết trước thì không tài nào nhận ra chủ đề vì màu chỉ đã bạc thếch, hình thêu bị mạng bị vá chằng chịt, khó lòng nhìn thấy.
Ở bốn góc phòng có bốn tủ xéo với những cái ngăn kê dơ bẩn. Tựa tường, ở khoảng cách giữa hai cửa sổ, một cái bàn chơi bài cũ kỹ, mặt bàn bằng đá, khảm theo hình bàn cờ. Trên bàn một cái phong vũ biểu hình bầu dục viền đen, chạy chỉ gỗ thếp vàng, những lũ ruồi đã nô đùa thả cửa trên ấy, khiến bây giờ đố ai còn biết đó có thếp vàng. Ở tường đối diện lò sưởi, có hai bức chân dung vẽ phấn màu, một cái nói là của ông cụ tổ nhà bà Grangde, cụ Bectenlie, mặc quân phục trung úy cảnh vệ, một cái của cụ bà Grangde hóa trang thành nữ mục đồng. Hai cửa sổ đều treo màn lụa điều to sợi, dệt ở Tua, buộc vén lên bằng những dây tơ bện, có trái găng, theo kiểu dùng ở các nhà thờ. Cái món trang trí sang trọng này không ăn khớp tí nào với tập quán của Grangde, nhưng khi ông ta mua nhà thì nhà đã sẵn có, cũng như chiếc đồng hồ treo, tấm thép nạm bạc, mấy cái ghế tựa bọc thảm và bốn chiếc tủ xéo bằng gỗ xoan đào.
Ở cửa sổ gần cửa lớn có một chiếc ghế độn rơm, chân tra đế cho cao lên, để bà Grangde ngồi nhìn thấy khách qua đường. Một cái bàn khâu bằng gỗ anh đào dại nhạt màu choán cả bề ngang cửa sổ, chiếc ghế bành nho nhỏ của Ogieni Grangde đặt bên cạnh. Mười lăm năm nay, hắng năm từ tháng tư đến tháng mười một, ngày giờ của mẹ con bà Grangde bình thản trôi qua ở bộ bàn ghế ấy, với mộ công việc lao động duy nhất. Bắt đầu từ mồng một tháng mười một, họ được sống những ngày mùa đông quanh lò sưởi chung. Grangde chỉ cho đốt lò sưởi ở gian lớn nhất từ hôm ấy, và nhất định đến 31 tháng ba thì ông tắt lửa, bất chấp những ngày rét mướt đầu xuân và cuối thu. Bà Grangde và cô con mà chịu được những ngày rét tháng tư và tháng mười là nhờ chiếc lồng ấp bỏ mớ than hồng mụ Nanong khéo léo gắp từ trong bếp ra. Quần áo, khăn, màn, trong nhà có gì may vá thì hai mẹ con may vá tuốt; họ cần cù bỏ hết cả ngày giờ vào thứ công việc nặng nhọc như của thợ nhà nghề ấy, đến nỗi muốn thêu một cái cổ áo cho mẹ, Ogieni cũng phải bớt giờ ngủ, lừa cha để có nến mà làm việc. Lâu nay ông lão keo kiệt vẫn phát nến cho con gái và mụ Nanong. Cũng như sáng sáng ông ta phân phát bánh mì và các thứ nhu cầu của gia đình trong ngày hôm ấy.
Mụ Nanong có lẽ là con người độc nhất cam lòng để cho ông Grangde áp chế. Ai cũng mong ước mướn được mụ Nanong như ông bà Grangde. Người ta gọi mụ Nanong hộ pháp bởi vì thân hình mụ cao gần thước chín. Đã từ ba mươi lăm năm nay, mụ hoàn toàn thuộc về ông Grangde. Mặc dù tiền ở của mụ chỉ sáu mươi phơrăng mỗi năm, người ta cho mụ là một trong số người đi ở giàu nhất tỉnh Xomuya. Nhờ có số tiền công sáu mươi phơrăng tích lũy trong ba mươi lăm năm trời, vừa rồi mụ đã đem gửi bốn nghìn phơrăng cho ông chưởng khế Cruyso theo kiểu chung thân thực lợi. Số tiền dành dụm lâu dài, bền bỉ ấy, ai cũng cho là to ghê gớm. Thấy mụ Nanong thế là về già chẳng còn lo ngại gì nữa, các chị đi ở khác ganh tị với mụ, không để ý rằng mụ phải vất vả khó nhọc bao nhiêu mới chắt bóp được chừng ấy.
Ngày xưa, năm hăm hai tuổi người con gái đáng thương ấy vẫn chưa tìm ra chỗ nào thuê mình dài hạn bởi vì mặt mũi chị ta xấu xí khó coi quá. Kể ra thì cũng vô lý: một người lính pháo thủ đội vệ binh mà mặt mày được như thế thì ai không kính nể. Khốn nỗi, mặt mũi ấy lại ở nơi người chị ấy, người ta bảo cái gì cũng phải đúng lúc đúng nơi là thế! Chị ta đang ở giữ bò cho một ấp chủ thì ấp bị cháy, chị đi Xomuya tìm việc, kiên quyết không chùn bước trước một khó khăn nào. Bấy giờ gặp lúc ôngGrangde định cưới vợ và xếp đặt nơi ăn chốn ở cho gia đình. Ông tìm thấy chị ta trong khi nhà nào cũng từ chối không thuê chị. Là thợ thùng nên ông biết đánh giá sức lực, thấy chị to lớn vạm vỡ như hộ pháp, vững trãi như một cây sồi sáu mươi tuổi, mông nở nang, lưng vóc vuông vức, hai bàn tay như tay bác đánh xe tải, thật thà và đức hạnh, ông đoán biết một sinh vật giống cái mà trời sinh như thế thì sẽ làm được bao nhiêu là việc. Ông ta bất chấp những nốt ruồi tô điểm cho cái khuôn mặt tướng võ ấy, bất chấp màu da gạch, bất chấp đôi cánh tay gân guốc, bất chấp quần áo rách bươm, mặc dù ông đương tuổi mà quả tim còn biết xúc động. Ông sắm áo quần, giầy guốc cho chị ta, nuôi chị ta, trả tiền công cho chị ta và sai bảo chị ta không đến nỗi cục cằn quá. Được thu nhận như thế, chị Nanong hộ pháp thầm vui sướng đến phát khóc và sinh ra gắn bó với ông Grangde. Về phần ông Grangde, ông không ngại gì mà không bóc lột chị ta như một chúa đất phong kiến.
Mụ Nanong làm tất: mụ làm bếp, mụ nấu quần áo mang xuống sông Loa giặt rồi mang về; đêm mụ thức khuya, tang tảng sáng đã dậy. Mùa nho, mụ làm cơm cho cả đoàn thợ hái và còn coi chừng bọn hái hôi. Mụ giữ của cho chủ nhà như một con chó trung thành. Tóm lại, nhắm mắt tin tưởng ông Grangde, mụ nhất nhất làm theo lời ông ta, mụ thực hiện cả những ý muốn kỳ dị, vô lý nhất của ông mà không bao giờ buông một tiếng than phiền. Vụ được mùa nổi tiếng năm 1811, công việc thu hoạch vất vả không kể xiết, nên ông Grangde quyết định cho mụ cái đồng hồ quả quít cũ của ông ta. Đó là món quà thưởng công hai mươi năm phục dịch, và cũng là món quà duy nhất mụ Nanong nhận được của chủ cho đến ngày nay; bởi vì mặc dù ông cho mụ những đôi giầy cũ,- mụ Nanong mang được cả giầy ấy- cũng không thể coi món tam cá nguyệt bổng ấy là món quà được, vì nó mòn xơ, mòn xác. Cảnh túng thiếu làm cho người con gái nghèo ấy trở thành hết sức keo kiệt, nên ông Grangde đâm ra thương mụ như thương một con chó. Về phần mụ, mụ cũng vui lòng để ông ta quàng vào cổ chiếc vòng đính kim, những mũi kim nhọn không làm cho mụ biết đau. Khi Grangde cắt bánh hơi quá bủn xỉn, mụ Nanong cũng không hề phàn nàn; chế độ ăn uống trong nhà thanh đạm, khăc khổ, nên không ai đau ốm bao giờ và mụ Nanong cũng vui vẻ tham gia những lợi ích vệ sinh ấy.
Lại nữa, mụ Nanong đã thành như người nhà: khi Grangde cười, mụ cũng cười, khi Grangde buồn bực, mụ cũng buồn bực, mụ cũng chịu rét đến cóng người, mụ cùng sưởi lửa, cùng làm việc với chủ. Đã có bao nhiêu sự đền bù dễ chịu trong cảnh sống bình đẳng ấy rồi. Nếu mụ có ăn vài quả mơ, quả mận, quả đào ở dưới bóng cây thì cũng không bao giờ ông Grangde quở trách mụ. Không những thế, những năm quả oặt cành, bọn chủ ấp phải nuôi lợn, ông còn giục: “Kìa, mụ Nanong, cứ làm một tiệc cho thỏa thích”.
Đối với một người nghèo khổ người ta nhận nuôi làm phúc, một người đàn bà quê mùa thiếu thời toàn bị ngược đãi, thì cái cười mơ hồ của ông Grangde quả là một tia nắng ấm. Vả lại tấm lòng chất phác của mụ, đầu óc tăm tối của mụ chỉ có thể chứa được một mối tình, một ý niệm. Ba mươi lăm năm nay, lúc nào mụ cũng nhớ tới cái ngày mụ tới xưởng ông Grangde quần áo tả tơi, chân đi đất, tai còn nghe ông hỏi: “Đi đâu thế cô bé kia?”. Cho nên lòng biết ơn của mụ luôn luôn mới mẻ. Một đôi khi, ông Grangde ngẫm nghĩ thấy con người đáng thương kia chưa bao giờ nghe một lời đẹp dạ, không hề biết thứ hương tình êm dịu do người phụ nữ gây nên, và một ngày kia sẽ về chầu Chúa trong trắng trinh bạch hơn cả Maria Đức mẹ đồng trinh; nghĩ thế ông chạnh lòng thương hại, nhìn mụ mà bảo:
“- Tội nghiệp con mẹ Nanong này!”.
Mỗi khi ông buột miệng than thở như thế thì mụ Nanong nhìn ông, mắt chan chứa một nỗi niềm khó tả. Câu nói ân tình thỉnh thoảng nhắc đi nhắc lại ấy từ lâu đã kết thành một chuỗi dài tình nghĩa, mà mỗi lần buột miệng, ông Grangde lại nối thêm vào một khâu. Niềm thương ấy làm cho người con gái già hoan hỉ, nhưng ở Grangde nó lại có một cái gì gớm ghiếc. Đối với Grangde, nó gợi lên hàng nghìn sự đắc ý về những món lợi mà Nanong làm ra; đối với Nanong đó là tất cả hạnh phúc trên đời. Ai không nói được câu: “Tội nghiệp con mẹ Nanong này!”, nhưng Chúa sở dĩ nhận được tôi con của người là nhờ ở giọng hàm súc của họ và những niềm luyến tiếc huyền bí chất chứa ở trong ấy. Ở Xomuya có chán gia đình đãi người tử tế hơn, mà đáp lại, người ở có làm cho họ hài lòng đâu! Cũng vì vậy nên người ta hỏi nhau: “Cái bọn Grangde này chúng cho con mẹ Nanong của chúng ăn gì mà nó có nghĩa đến thế, chủ của nó có bảo lăn vào lửa thay cho chúng, nó cũng lăn chứ chẳng chơi!”
Nhà bếp của mụ Nanong có cửa sổ chấn song mở ra phía sân. Trong nhà luôn sạch sẽ, ngăn nắp, khi không nấu nướng thì lửa vùi lạnh ngắt, rõ là bếp núc của người keo kiệt, không để hao phí tí gì. Tối tối rửa bát, xếp cất món ăn thừa, giập lửa xong, mụ Nanong đi qua hành lang lên gian lớn ngồi kéo sợi gai bên cạnh chủ, vì cả nhà chỉ thắp chung một ngọn nến. Mụ Nanong ngủ ở cuối hành lang, trong một buồng xép nhờ nhờ ánh sáng từ bên ngoài rọi qua cái cửa sổ nhỏ. Mụ khỏe mạnh, vạm vỡ, nên ở trong lỗ hang ấy cũng không việc gì. Ở đấy có tiếng động nào xảy ra trong nhà mụ cũng nghe được, vì nhà này ngày đêm rất là yên tĩnh. Như con chó giữ nhà, mụ chỉ ngủ có một mắt, vừa ngủ vừa phòng gian.
Những bộ phận khác trong nhà, khi kể đến sự việc diễn ra chúng tôi sẽ nói tới; vả lại gian lớn là nơi đẹp nhất, thế mà bức phác họa vừa rồi cũng chỉ có thế thì ta đoán trước được những tầng trên trống trải, nghèo nàn tới chừng nào!
Năm 1819, mùa thu đã qua ấm áp dễ chịu. Một ngày giữa tháng mười một, vào tối, mụ Nanong vừa đốt lò sưởi đầu mùa. Ngày hôm nay là ngày lễ quen thuộc phái Cruyso và phái Đê Gratxanh đều biết rõ. Bởi vậy sáu đối thủ nai nịt gọn gàng chuẩn bị giáp trận ở gian lớn để xem thử ai tỏ tình nồng hậu hơn. Lúc sáng, tất cả thành Xomuya đều trông thấy bà Grangde và cô Ogieni đến nhà thờ xem lễ, có mụ Nanong đi theo, và nhớ ra ngày này là ngày sinh nhật Ogieni. Ông chưởng khế Cruyso, ông linh mục và ông C.đơ Bongphong dự tính với nhau lúc nào gia đình Grangde ăn tối xong, để có thể đến mừng tuổi Ogieni trước bọn Đe Gratxanh. Cả ba đều mang những bó hoa lớn hái trong lồng kính nhỏ ở vườn nhà. Bó hoa quan chánh án định trao tặng thì cuống hoa quấn khéo léo trong cái băng xa tanh trắng viền kim tuyến.
Buổi sớm, theo lệ thường của những ngày lễ của Ogieni ông Grangde đến giường con đón con dậy và trịnh trọng biếu con một món quà: mười ba năm nay, món quà ấy vẫn là một đồng tiền vàng loại hiếm có. Bà Grangde thường thường biếu con một cái áo dài mùa đông hay mùa hè, tùy mùa. Hai cái áo ấy, và những đồng vàng Ogieni thu được trong ngày nguyên đán và ngày sinh nhật bố, làm thành một món niên bổng nho nhỏ là một trăm đồng. Grangde ưng cho nàng cóp nhặt, dành dụm những của cải ấy. Làm thế chảng qua là mang tiền hòm này bỏ sang hòm khác, không mất gì, mà lại gây dựng được đức tính hà tiện cho cô thừa tự. Thỉnh thoảng ông bắt Ogieni khai cho biết tình hình vốn liếng của nàng, số vốn ấy ngày trước, mỗi năm gia đình bê ngoại bỏ thêm vào một ít. Mỗi khi hỏi đến kho vàng của con, Grangde không quên bảo:
“- Đó là tá quà cưới của con sau này”.
Tá quà cưới là một tục lệ cổ truyền nay còn giữ một cách thành kính ở đôi miền thuộc trung bộ nước Pháp. Ở Beri, ở Angiu, khi một người con gái đi lấy chồng, gia đình cô hay gia đình nhà chồng phải cho cô một túi tiền đựng mười hai đồng vàng hay đồng bạc, mười hai lần mười hai đồng hoặc mười hai lần một trăm đồng, tùy khả năng. Cô chăn cừu nghèo khổ nhất khi lấy chồng cũng phải có tá quà cưới dù chỉ bằng xu đồng. Ở Itxudon, người ta còn nhắc đến tá quà cưới của một cô thừa kế giàu sụ nào thủa trước, gồm một trăm bốn mươi đồng tiền vàng Bồ Đào Nha. Giáo hoàng Clenang VII, chú của Catorin đơ Medixi, lúc gả nàng cho Hangri II, đã cho nàng một tá mề đay vàng đời thượng cổ hết sức quý giá.
Giữa bữa ăn tối, thấy con mặc áo mới trông càng đẹp, ông Grangde phấn khởi reo:
- Đã là ngày lễ của Ogieni thì ta đốt lò sưởi đi thôi! Lửa là điềm tốt.
“Năm nay nhất định cô nhà ta đi lấy chồng”. Mụ Nanong vừa nói vừa cất dọn chỗ còn lại của một con ngỗng ăn thừa; ngỗng tức là trĩ đối với gia đình bác phó thùng ta.
Bà Grangde đáp:
- Ở đây tôi chẳng thấy đám nào xứng đôi với con nhỏ.
Bà vừa nói vừa rụt rè liếc nhìn ông Grangde; già cả như thế mà còn rụt rè e sợ mặt chồng, điều ấy chứng tỏ bà Grangde hoàn toàn phụ thuộc vào chồng và khổ sở vì cảnh sống phụ thuộc ấy.
Grangde nhìn con, vui vẻ:
- Con nhỏ hôm nay thế là đúng hăm ba tuổi. Rồi đây phải lo gia thất cho nó mới xong.
Mẹ con bà Grangde lặng lẽ liếc nhìn nhau một cách ý tứ.
Bà Grangde là một người đàn bà khô đét và gầy guộc, vàng như quả thị, vụng về, chậm chạp; bà thuộc loại phụ nữ trời sinh ra để chịu áp bức. Xương cốt to, mũi to, trán to, mắt to; mới trông bà hao hao giống những quả cây xốp, không còn nước, cũng mất hết vị; răng chỉ còn lơ thơ vài chiếc thâm sịt, mồm răn, cằm cong lên như chiếc guốc. Bà là người đức hạnh, chính tông là một phụ nữ họ Bectenlie. Linh mục Cruyso đôi khi biết tìm dịp nói với bà rằng thời trẻ, chắc bà cũng xinh lắm, và bà tin linh mục. Bà hiền lành như thiên thần, nhẫn nại như con sâu bị trẻ con vùi giập; bà mộ đạo một cách hiếm có, cả đời không hề giận dỗi. Lúc nào cũng niềm nở tốt bụng, vì thế ai cũng kính nể và xót thương. Chưa bao giờ ông chồng ấy đưa cho bà quá sáu phơrăng để tiêu vặt. Người đàn bà trông bên ngoài thì buồn cười, nhưng bên trong vẫn hiểu sâu sắc cảnh nô bộc và lệ thuộc của mình, bà lấy làm nhục nhã, tuy tâm tính dịu dàng của bà không cho phép bà phản kháng. Tính món hồi môn với các gia tài thừa hưởng, bà đã mang lại cho Grangde ba mươi vạn phơrăng nhưng vì tự trọng, bà không bao giờ hỏi một xu và cũng không bao giờ nhận xét một tiếng khi viên chưởng khế Cruyso đưa giấy tờ cho bà ký. Tính tự trọng âm thầm dại dột ấy, cốt cách cao thượng ấy là điều nổi bật trong thái độ xử thế của bà, nhưng Grangde không hề biết tới và luôn luôn xúc phạm.
Lúc nào bà cũng mặc một chiếc áo lụa màu lá cây và quen giữ gìn nó để dùng được trọn năm; bà trùm khăn vải trắng, đội mũ rơm tự đan lấy và hầu như không lúc nào bỏ chiếc tạp dề vải thâm. Bà ít đi đâu nên không dùng nhiều giầy lắm. Bà không hề cầu ước một cái gì cho riêng mình cả. Cho nên một đôi khi Grangde sực nhớ, từ độ đưa sáu phơrăng lần sau cùng cho bà đến nay đã quá lâu mà chưa có món hồi môn nào khác thì đâm ra ân hận, cố kéo nài cho được khoản kim găm cặp tóc (Khoản tiền người khách hàng thêm vào để biếu bà vợ khi mua hàng của ông chồng) cho vợ, khi bán hoa lợi trong năm. Món tiền bốn năm đồng lu-i do người khách hàng Hà Lan hay Bỉ biếu khi mua bán xong là khoản thuế thu quan trọng nhất của bà Grangde. Nhưng khi bà đã nhận mấy đồng lu-i rồi thì lắm lúc Grabgde làm như vợ chồng vẫn ăn tiêu chung nhau, hỏi: “Này bà có tiêng lẻ đó không, cho tôi giật tạm mấy đồng”. Người đàn bà đáng thương kia lấy làm sung sướng được dịp làm vừa cái người mà cha rửa tội bảo là chủ, là chúa của mình, nên vui lòng đưa lại cho Grangde mấy đồng trên khoản kim cặp mỗi mùa. Mỗi lần Grangde móc túi lấy ra đồng trăm xu để đưa cho Ogieni tiêu về khoản kim, chỉ vặt vãnh xong thì sau khi cài cúc túi lại, ông không quên hỏi vợ:
- Còn bà, bà có cần gì không?
Giữ phẩm giá người mẹ, bà Grangde trả lời:
- Để rồi sẽ hay, ông ạ.
Cao thượng hoài công! Grangde vẫn tưởng mình đối xử với vợ hào phóng lắm rồi. Nhà triết học mà gặp những mụ Nanong, những bà Grangde, những cô Ogieni thì hẳn cũng có quyền khẳng định rằng bản chất của tạo vật là trớ trêu, mai mỉa đấy nhỉ?
Bữa ăn ấy lần đầu tiên người ta bàn đến chuyện nhân duyên của Ogieni. Cuối bữa, mụ Nanong lên buồng ông Grangde lấy chai cat-xi (rượu cất bằng quả phúc bồn tử), lúc xuống thang mụ trượt chân xuýt ngã, Grangde bảo:
- Cái bồ sứt cạp này! Mụ mà cũng ngã như lũ khác hay sao?
- Mụ ấy nói đúng đấy - bà Grangde bảo. Đáng lẽ ông phải chữa từ lâu rồi kia. Hôm qua con Ogieni cũng suýt trẹo chân ở chỗ đó.
Grangde thấy mụ Nanong mặt mày tái mét thì bảo:
- Này, hôm nay là lễ sinh nhật con Ogieni, mà mụ lại suýt ngã, thôi thì uống cốc rượu này cho tỉnh người lại.
- Kể tôi cũng đáng uống cốc rượu thật đấy! Người khác thì đã vỡ chai rồi! Tôi thì tôi giơ cao chai rượu lên, có gãy tay cũng đành.
- Tội nghiệp con mẹ Nanong này! - Grangde vừa nói vừa rót rượu cho mụ Nanong.
Ogieni nhìn mụ ta ân cần:
- Chị có thấy đau ở đâu không?
- Không, tôi đã choại chân gượng lại được!
- Ừ, hôm nay là sinh nhật Ogieni, để tôi chữa cấp thang cho các người. Các người không biết đó thôi, phải đặt bàn chân vào trong góc, nơi ván còn chắc kia!
Grangde cầm nến đi ra, để mặc vợ, con và mụ người ở ngồi lại với ánh lửa lập lòe của lò sưởi. Ông ta đi lấy ván, đanh và dụng cụ. Nghe thấy ông đóng đục ầm ầm ở cầu thang, mụ Nanong lên tiếng hỏi:
- Ông có cần tôi giúp một tay không?
- Không! Không cần! - bác cựu phó thùng đáp.- Cái thứ này nó còn lạ gì tay tao!
Trong lúc Grangde vừa tự tay mình chữa cầu thang mọt ruỗng vừa huýt sáo vang lừng để sống lại thời tuổi trẻ, thì bộ ba Cruyso gõ cửa.
Nanong nhìn qua tấm chấn song hỏi:
- Ông đấy phải không, ông Cruyso?
- Phải, ông chánh án trả lời.
Nanong mở cổng. Ánh lửa lò sưởi phản chiếu lên vòm cuốn làm cho bộ ba nhà Cruyso nhìn thấy lối vào. Nanong ngửi thấy mùi hoa, kêu:
- Ơ! Các vị này có vẻ tết nhất tợn!
Ông Grangde nghe thấy tiếng mấy ông khách bạn thì nói vọng ra:
- Các ông miễn thứ nhé. Tôi xuống ngay bây giờ. Các ông thấy, tôi chẳng câu nệ gì! Cái cầu thang nhà hỏng một cấp thì tôi tự chữa lấy cầu thang.
- Ông cứ tự nhiên cho, ông Grangde ạ. Anh đốt than vẫn là xã trưởng nhà anh ấy.- Ông chánh án nói câu ấy một cách trịnh trọng và cười riêng một mình về cái ẩn ý mà không ai hiểu cả.
Bà Grangde và cô con gái đứng lên. Lợi dụng ánh sáng mập mờ, quan chánh án nói với cô Ogieni:
- Thưa cô, ngày hôm nay là ngày cô ra đời, cho phép tôi chúc cô một chuỗi năm tháng vui tươi nối tiếp và cứ luôn khỏe mạnh như trời đã phú cho từ trước đến nay.
Ông đưa tặng một bó hoa to, thứ hoa hiếm có ở Xomuya, rồi ôm hai khuỷu tay Ogieni, ông hôn lên hai bên cổ một cách sốt sắng, khiến Ogieni xấu hổ. Ông chánh án hình thù giống như chiếc đinh gỉ tưởng làm như thế là tán tỉnh cô thiếu nữ. Ông Grangde vừa bước vào, vừa nói:
- Ông cứ tự nhiên. Ngày lễ, ông chánh án nhiệt tình thật!
Ông linh mục xun xoe bó hoa, đáp:
- Nhưng có lệnh nữ thì ngày nào với cháu tôi chẳng là ngày lễ!
Ông linh mục hôn bàn tay Ogieni. Đến lượt ông chưởng khế, thì ông này hôn ngang nhiên hai bên má, và nói:
- Cái của này mới chóng lớn chứ! Cứ đều đặn mỗi năm mười hai tháng!
Ông Grangde có tính hễ tìm ra một câu bông đùa thì bám riết và lặp đi lặp lại chán chê; ông ta vừa đặt lại cây nến trước chiếc đồng hồ treo vừa bảo:
- Đã là ngày lễ của Ogieni, thì ta đốt đèn đi!
Ông cẩn thận tháo các nhánh hồng, lắp đĩa đèn vào chân đế, lấy trên tay mụ Nanong cây nến mới quấn giấy; ông cắm nến vào lỗ, ấn chặt xuống rồi thắp lên. Đoạn ông ta đến ngồi bên bà Grangde, hết nhìn mấy ông khách lại nhìn con, rồi nhìn hai cây nến. Linh mục Cruyso là một người tròn trĩnh, hơi béo, đầu mang mớ tóc giả bẹp màu nâu đỏ, mặt mày giống một mụ già từng trải. Ông duỗi hai bàn chân mang giầy cài khoen bạc, nói:
- Đằng ông Đe Gratxanh không đến ư?
- Chưa đến, - Grangde đáp.
Ông chưởng khế già nhăn nhở cái mặt lỗ chỗ như chiếc vợt vợt bọt, hỏi:
- Liệu họ có đến không chứ?
- Tôi chắc là có, bà Grangde đáp.
Ông chánh án hỏi ông Grangde:
- Thưa, nho nhà ta đã hái xong chưa ạ?
- Xong khắp!
Ông Grangde vừa nói vừa đứng dậy đi lại trong phòng, ngực
Tác giả :
Honoré de Balzac