Những Đứa Con Của Nửa Đêm
Chương 3: Phụt-ống-nhổ
Xin hãy tin rằng tôi đang tan rã.
Tôi không nói câu này theo nghĩa bóng, và đây cũng không phải khúc dạo đầu của một màn cầu xin lòng thương hại cải lương, bí hiểm, trơ trẽn. Tôi chỉ giản đơn muốn nói rằng người tôi đang nứt rạn khắp nơi như một chiếc bình cũ, rằng cái cơ thể khốn khổ của tôi, kỳ quặc, khó thương, phải nếm chịu quá nhiều lịch sử, bị hút kiệt ở trên và hút kiệt ở dưới, bị cửa làm tàn khuyết, bị ống nhổ tẩy não, đã bắt đầu bung ra theo những đường may. Tóm lại, tôi đang phân rã theo đúng nghĩa, hiện giờ vẫn chậm, tuy có dấu hiệu nhanh dần. Tôi chỉ xin quý vị chấp nhận (giống như tôi đã chấp nhận) một điều là chung cuộc tôi sẽ vỡ vụn thành (ước chừng) sáu trăm ba mươi triệu hạt bụi vô danh, tất yếu sẽ bị lẵng quên. Đây chính là lý do khiến tôi quyết tâm ký thác tất thảy lên giấy, trước khi tôi quên. (Chúng ta là một dân tộc của những kẻ lãng quên.)
Có những thời khắc hãi hùng, nhưng rồi cũng qua. Sợ hãi như một con thủy quái sủi tăm trồi lên hít thở, sục sôi trên bề mặt, nhưng cuối cùng sẽ lặn xuống đáy sâu. Quan trọng là tôi phải giữ được bình tĩnh. Tôi nhai trầu và phún xuất vể phía chiếc bát rẻ tiền bằng đồng thau, tái hiện trò chơi phụt-ống-nhổ cổ xưa: trò chơi của Nadir Khan, học của những ông già xứ Agra... và ngày nay người ta có thể mua được thứ “trầu tên lửa”, trong đó, cùng với món bánh trầu đỏ lợi, là cơn khoái cảm của cocaine gói trong một lá trầu. Nhưng thế là ăn gian.
... Từ bản thảo của tôi tỏa ra cái mùi không lẫn được của chutney[1]. Đã vậy tôi sẽ không vòng vo nữa: Tôi, Saleem Sinai, kẻ sở hữu cơ quan khứu giác nhạy bén nhất trong lịch sử, đã dành trọn những ngày cuối đời cho việc sản xuất gia vị quy mô lớn.
Nhưng lúc này, “Đầu bếp á?” quý vị há hốc mồm kinh hãi, “Một gã khan-sama thôi ấy hả? Có nhẽ đâu thế?” Và, tôi công nhận, tinh thông đồng thời cả nghệ thuật bếp núc lẫn ngôn ngữ là rất hiếm, thế nhưng tôi lại có cả hai. Quý vị ngạc nhiên, có điều thưa quý vị, tôi đâu phải, gã đầu bếp 200-đồng-một-tháng của quý vị, mà là ông chủ của chính tôi, làm việc dưới ánh nhấp nháy màu nghệ[2] và lục tỏa ra từ nữ thần neon của riêng tôi.
Và những chutney với kasaundy[3] tôi chế biến, nói cho cùng, đều liên hệ với trò viết lách về đêm của tôi - ban ngày giữa những vại rau quả ngâm, ban đêm trên những trang giấy, tôi dành thời gian cho công việc vĩ đại là bảo quản. Ký ức, cũng giống như rau quả, đang được bảo vệ khỏi sự hủy hoại của đồng hồ.
[1] Một thứ nước sốt đặc trưng của Ấn Độ, thành phần gồm có hoa quả băm nhỏ, muối, đường..
[2] Nguyên văn: saffron, tức là hoa nghệ tây, phân biệt với turmeric là củ nghệ. Trong truyện Rushdie chủ yếu dùng khái niệm saffron để chỉ màu vàng nghệ.
[3] Một thứ gia vị cay, thành phần cơ bản là hạt mù tạc.
Nhưng Padma đang ở đây, cạnh khuỷu tay tôi, bắt tôi quay lại với thế giới của cốt truyện tuyến tính, với vũ trụ của rồi-sao-nữa: “Cứ thế này,” Padma phàn nàn, “anh sẽ hai trăm tuổi trước khi kể được đến chỗ anh chào đời.”
Cô làm bộ hững hờ, chìa cái hông hớ hênh ra trước mặt tôi, nhưng không lừa được tôi. Tôi biết tỏng rằng cô, phản đối rầm rĩ thế thôi, cắn câu rồi. Chẳng nghi ngờ gì nữa: chuyện tôi kể đã hớp hồn cô, nên bỗng dưng cô thôi không cằn nhằn bắt tôi phải về nhà, phải chăm tắm hơn, phải thay bộ quần áo đầy mùi giấm ra, phải rời khỏi dù chỉ một tích tắc cái nhà máy rau quả ngâm tối om này, nơi mùi gia vị không ngừng sủi bọt trong không khí... giờ đây bà chúa phân của tôi cứ thế mắc một cái võng ở góc phòng và nấu nướng cho tôi trên hai cái bếp ga đen kịt, chỉ làm gián đoạn việc viết lách dưới ánh đèn Anglepoise của tôi để phản đối.
“Anh liệu mà nhanh lên, kẻo anh sẽ ngoẻo trước khi kịp cho mình ra đời đấy.” Cố nén niềm tự hào chính đáng của người kể chuyện thành công, tôi toan dạy dỗ cô.
“Mọi thứ - kể cả con người - đều có thể rỉ sang nhau,” tôi giải thích, “như hương vị khi ta nấu ăn. Cái chết của Ilse Lubin chẳng hạn, nó đã rỉ sang ông lão Aadam, đọng thành vũng ở đấy cho đến ngày ông gặp Chúa. Tương tự,” tôi nói, chân thành và truyền cảm, “quá khứ đá nhỏ giọt vào tôi... nên ta không thể bỏ qua nó được...”
Cái nhún vai của cô, khiến ngực cô sóng sánh đến là thích mắt, ngắt lời tôi. “Với tôi đó là một cách điên khùng để kể chuyện đời anh,” cô kêu, “nếu mãi mà anh chẳng đến được đoạn bố mẹ mình gặp nhau.”
... Và đương nhiên là Padma đang rỉ sang tôi. Trong khi lịch sử tràn ra từ cơ thể nứt nẻ của tôi, bông sen của tôi âm thầm nhỏ giọt vào, với đầu óc thực tế, sự mê tín đến phi lý, tình yêu đầy mâu thuẫn của cô dành cho những chuyện hoang đường, nên cũng là thích hợp khi tôi sắp kể câu chuyện về cái chết của Mian Abdullah. Con Chim ngân nga bạc mệnh: một huyền thoại thời chúng tôi.
... Và Padma là một phụ nữ bao dung, bởi cô đã bên tôi trong những ngày cuối này, dẫu tôi chẳng làm được gì nhiều cho cô. Đúng vậy - một lần nữa, đây là điều phải lẽ cần nói ra trước khi tôi nhảy sang chuyện của Nadir Khan - tôi không còn là đàn ông nữa. Bất chấp muôn vàn tài khéo và đủ kiểu săn sóc của Padma, tôi không thể rỉ sang cô, ngay cả khi cô gác chân trái lên chân phải tôi, quặp chân phải quanh eo tôi, ngả đầu lên đầu tôi và kêu lên gừ gừ; kể cả khi cô thì thầm vào tai tôi, “Sáng tác xong rồi, xem ta có bắt cái bút chì kia làm việc được không nào!”; bất chấp mọi cố gắng của cô, tôi không thể phụt vào ống nhổ của cô được.
Tự thú thế đủ rổi. Khuất phục trước áp lực bất khả kháng mang tên Padma của chủ nghĩa rồi-sao-nữa, và nhớ đến khoảng thời gian hữu hạn tôi có trong tay, tôi nhảy một phát khỏi Mercurochrome và hạ xuống năm 1942. (Tôi cũng nóng lòng cho bố mẹ mình gặp nhau chứ.)
Có vẻ như cuối hè năm ấy, ông tôi, Bác sĩ Aadam Aziz, mắc phải một dạng bệnh lạc quan cực kỳ nguy hiểm. Đạp xe khắp Agra, ông huýt sáo rất chói tai, rất dở, nhưng hớn hở. Cố nhiên ông chẳng lẻ loi, bởi, bất chấp nỗ lực tột bậc của nhà chức trách hòng dập tắt nó, dịch bệnh lây lan ấy đã bùng phát trên khắp Ấn Độ, và các biện pháp quyết liệt sắp được thực thi để có thế kiểm soát được bệnh dịch. Mấy ông cụ ở hàng trầu trên đỉnh đường Cornwallis nhai trầu và dự báo có sự bất tường.
“Tôi sống bằng này đã gấp đôi tuổi tôi đáng thọ,” cụ già nhất bảo, giọng cụ lạo xạo như cái đài cũ vì hàng thập niên đang cọ xát vào nhau quanh dây thanh đới, “mà chưa từng thấy đang cơn bĩ cực lại lắm người hớn hở đến thế. Nhất định là ma làm.” Đó, kỳ thực, là một thứ virus dẻo dai - riêng thời tiết lẽ ra đã đủ ngăn thứ vi trùng ấy sinh sôi, vì ai cũng thấy là năm nay sẽ hạn.
Mặt đất nứt nẻ. Bụi nuốt sạch rìa đường, và có hôm từng vết nứt rộng hoác xuất hiện trên những giao lộ nện đá dăm. Mấy ông cụ nhai trầu ở hàng trầu bắt đầu bàn tán về điềm báo, tự trấn an bằng trò phụt-ống-nhổ, họ đoán già đoán non về vô số chuyện không tên trời-mới-biết-là-gì giờ đây có thể nảy ra từ mặt đất nứt nẻ. Hình như cái khăn xếp của tay người Sikh sửa xe đạp tự dưng bật khỏi đầu gã giữa cái nóng buổi chiều, còn tóc gã, chẳng hiểu tại sao, tự nhiên dựng đứng lên. Và, tầm thường hơn, nước đã khan hiếm đến mức dân bán sữa cũng không kiếm nổi nước sạch để pha vào sữa nữa... Ở phương xa, một cuộc Thế chiến nữa đang nổ ra. Ở Agra, cái nóng tăng dần. Nhưng ông tôi vẫn huýt sáo. Các ông cụ hàng trầu cảm thấy tiếng huýt sáo của ông, giữa lúc như thế, có phần không hợp cảnh.
(Còn tôi, giống họ, phún xuất và vượt lên mọi nứt rạn.)
Cưỡi trên xe đạp, chiếc cặp hành trang buộc ở gác-ba-ga, ông tôi huýt sáo. Bất chấp cơn khó chịu trên mũi, môi ông chu ra. Bất chấp vết bầm trên ngực đã hai mươi ba năm không chịu tan đi, nỗi phấn khích của ông không hề suy suyển. Hơi thoát ra khỏi môi ông và hóa thành tiếng. Ông huýt sáo giao điệu Đức xưa: Tannenbaum.
Dịch bệnh lạc quan bắt nguồn từ một người duy nhất, mà tên ông ta, Mian Abdullah, chỉ riêng đám nhà báo là dùng. Còn với mọi người, ông là Chim ngân nga[4], một sinh vật hẳn sẽ là hoang đường ví thử nó không tồn tại.
“Ảo thuật gia thành kẻ chiêu hồn[5],” đám nhà báo tán, “Mian Abdullah nổi lên từ ghetto lừng danh của giới ảo thuật Delhi để trở thành hy vọng của một trăm triệu người theo đạo Hồi Ấn Độ.” Chim ngân nga là nhà sáng lập, chủ tịch, người hợp nhất và linh hồn xúc tiến Hội nghị Hồi giáo Tự do; năm 1942, lều rạp và diễn đàn mọc lên giữa quảng trường Agra, nơi phiên họp thường niên lần thứ hai của Hội nghị sắp diễn ra.
Ông tôi, năm mươi hai tuổi, tóc bạc đi vì năm tháng và những niềm đau khác, bắt đầu huýt sáo khi đi qua quảng trường. Lúc này ông cưỡi xe lượn qua từng góc phố, bó những góc cua lả lướt, luồn lách giữa những bãi phân bò và lũ nhóc... và, vào một thời điểm khác, ở một nơi khác, bảo Quận chúa xứ Cooch Naheen bạn ông: “Tôi khởi đầu là người Kashmir và không hẳn là tín đồ đạo Hồi. Rồi tôi bị một vết bầm trên ngực, biến tôi thành người Ấn Độ. Tôi vẫn không hẳn là tín đồ đạo Hồi, nhưng tôi hết lòng ủng hộ Abdullah. Ông ấy chiến đấu cuộc chiến của tôi.”
Mắt ông vẫn xanh màu trời Kashmir... ông về đến nhà, và dù đôi mắt vẫn còn một tia thỏa mãn, tiếng huýt sáo ngừng bặt. Bởi đợi ông trong mảnh sân đầy lũ ngỗng ác tâm là vẻ mặt khó chịu của bà tôi Naseem Aziz, người mà ông đã sai lầm khi yêu từng mảnh một, người giờ đây đã được hợp nhất và biến thành cái hình hài kỳ vĩ sẽ gắn liền với bà suốt đời, người luôn được biết đến với cái biệt danh kỳ lạ là Mẹ Bề trên.
[4] Hummingbird, tiếng Việt là chim ruồi. Loài chim này được gọi là humming (ngân nga) bird vì khi vỗ cánh phát ra âm thanh u u như tiếng hát. Người dịch dịch sát chữ cho phù hợp với tình tiết truyện.
[5] Nhan đề bài báo cố ý chơi chữ: magician và conjurer đều chỉ người làm ảo thuật. Conjure nghĩa là dùng ma thuật triệu tập linh hồn, ám chỉ việc Mian Abdullah đứng ra triệu tập Hội nghị Hồi giáo Tự do.
Bà đã trở thành một phụ nữ to bè, già trước tuổi, với hai nốt ruồi to tướng như ti phù thủy[6] giữa mặt, và bà cố thủ trong một pháo đài vô hình do bà dựng nên, một thành trì sắt đá của truyền thống và những điều xác tín. Hồi đầu năm, Aadam Aziz đặt ảnh phóng to bằng người thật của cả gia đình để treo trên tường phòng khách. Ba cô con gái và hai cậu con trai làm mẫu khá ngoan ngoãn, nhưng Mẹ Bề trên nổi đóa lên khi đến lượt. Sau cùng, tay thợ ảnh định rình chụp lúc bà bất ngờ, nhưng bà vớ lấy chiếc máy và đập nó tan tành ngay trên sọ anh chàng. May thay, anh ta sống sót, có điều không đâu trên thế gian này có một bức ảnh bà tôi cả. Bà không phải là người chịu bị nhốt vào cái hộp đen con con của bất kỳ ai. Với bà, phải sống trong nỗi nhục nhã để mặt trần, không che mạng, đã đủ lắm rồi - bà không đời nào cho phép sự thật ấy được lưu giữ lại.
[6] Thời Trung cổ ở Châu Âu, người ta quan niệm những phụ nữ hành nghề phù thủy trên người sẽ có ba núm vú, núm thứ ba này (có thể là do đột biến gien, thịt thừa, nốt ruồi) là để nuôi quỷ. Hàng nghìn phụ nữ đã bị tòa án tôn giáo kết tội và hỏa thiêu căn cứ vào thuyết này.
Có lẽ việc buộc phải khỏa thân phần mặt, cộng với việc Aziz không ngừng yêu cầu bà nắc ở dưới ông, đã đẩy bà đến chỗ phòng thủ quyết liệt. Và những gia quy do bà thiết lập là một hệ thống tự vệ kiên cố đến nỗi Aziz, sau nhiều nỗ lực bất thành, phần nào đã từ bỏ ý định đột kích vô số công sự và thành lũy của bà, mặc bà, như một con nhện tự mãn cỡ bự, ngự trị cái lãnh địa bà đã chọn. (Và, có lẽ, đó không phải là một hệ thống tự vệ, mà là một phương thức phòng vệ chống lại chính bà).
Trong số những thứ bà cấm cửa, có mọi vấn đề chính trị. Khi Bác sĩ Aziz muốn nói chuyện này, ông đến chỗ nữ Quận chúa bạn ông, và Mẹ Bề trên sưng sỉa lên, nhưng không quá lắm, bởi bà biết những chuyến đi của ông đồng nghĩa với chiến thắng của bà.
Hai tâm điểm trong vương quốc của bà là nhà bếp và nhà kho. Cái đầu tiên tôi chưa vào bao giờ, song tôi nhớ đã dòm qua cánh cửa chớp bị khóa của nhà kho vào thế giới bí hiếm bên trong, thế giới của những giỏ sắt treo trên tường và phủ vải lanh cho khỏi ruồi, của những hộp thiếc mà tôi biết đựng đầy đường phèn và những đồ ngọt khác, của những chiếc rương bị khóa dán nhãn chỉnh tề ngay ngắn, của các thứ hạt và củ cải và bao gạo, của trứng ngỗng và chổi cán gỗ. Nhà kho và bếp là hai lãnh địa không thể từ bỏ của bà, và bà bảo vệ chúng một cách hung tợn.
Khi bà có bầu đứa con cuối cùng, dì Emerald, chồng bà đề nghị gánh đỡ cho bà công việc nhàm chán là giám sát đầu bếp. Bà không đáp, nhưng hôm sau, khi Aziz đến gần bếp, bà xuất hiện với một cái nồi kim loại trên tay và đứng chặn trước cửa. Bà béo và lại đang bầu, nên lối vào chả còn bao nhiêu.
Aadam Aziz cau mày. “Gì thế này, mình?”
Bà tôi đáp, “Đây, cái-gì-không-biết, là một cái nồi rất nặng, và nếu tôi tóm được ông vào đây dù chỉ một lần thôi, cái-gì-không-biết, tôi sẽ nhét đầu ông vào đó, thêm tí dahi, và làm cái-gì-không-biết, một nồi korma.” Tôi không biết từ đâu bà tôi lại biến cái ngữ cái-gì-không-biết ấy thành câu cửa miệng, nhưng theo năm tháng nó thâm nhập vào những câu nói của bà mỗi lúc một nhiều. Tôi cứ muốn nghĩ về nó như một tiếng kêu cứu vô thức... như một câu hỏi thực sự. Mẹ Bề trên đang ám thị với chúng ta rằng, bất chấp sự tồn tại và đồ sộ của mình, bà đang trôi dạt trong vũ trụ. Bà không biết, quý vị thấy đấy, cái đó gọi là gì.
... Và tại bàn ăn, với sự độc đoán, bà tiếp tục trị vì. Không món nào được bày ra bàn, không bát đĩa nào được dọn. Cà ri và bát đĩa được bày bố trên chiếc bàn phụ thấp bởi một tay bà, còn Aziz và lũ trẻ bà dọn cho gì thì ăn nấy. Chính bởi tính biểu trưng của quyền lực trong tục lệ này mà, ngay cả khi chồng bà bị chứng táo bón hành hạ, bà không một lần cho phép ông chọn món ăn, và không lắng nghe bất cứ thỉnh cầu hay lời khuyên nào. Pháo đài không chuyển động. Kể cả khi hoạt động của những sinh linh lệ thuộc nó trở nên bất thường.
Suốt thời gian dài ẩn náu của Nadir Khan, và suốt những lần đến chơi ngôi nhà ở đường Cornwallis của anh chàng Zulfikar người si mê Emerald và của tay lái buôn reccine-và-vải-giả-da[7] thành đạt có tên Ahmed Sinai người khiến bác Alia tôi tổn thương sâu sắc đến độ bà ôm hận suốt hai mươi lăm năm trước khi phát tiết một cách cay nghiệt lên mẹ tôi, vòng kìm kẹp của Mẹ Bề trên với gia đình chưa từng lơi lỏng; và từ trước khi sự xuất hiện của Nadir kích phát sự im lặng đáng sợ, Aadam Aziz đã cố phá vỡ vòng kìm kẹp này, và buộc phải tuyên chiến với vợ mình. (Tất cả những chuyện này nhằm để cho thấy tác động của bệnh lạc quan lên ông là khác thường đến mức nào.)
[7] Reccine cũng là một loại vải giả da, xuất xứ từ Rexine là tên một thương hiệu nổi tiếng của Anh.
... Vào 1932, mười năm trước đó, ông đã giành quyền kiểm soát việc học hành của các con. Mẹ Bề trên rất lo; nhưng đó là vai trò truyền thống của người cha, nên bà chẳng thể phản đối. Alia mười một - cô bé thứ hai, Mumtaz, xấp xỉ chín tuổi. Hai cậu bé, Hanif và Mustapha, lên tám và sáu, cô út Emerald chưa đầy năm tuổi. Mẹ Bề trên quay ra giãi bày nỗi lo với người đầu bếp, Daoud.
“Lão ấy nhồi vào đầu lũ trẻ những tiếng gì ta cũng chịu, cái-gì-không-biết, và đủ thứ rác rưởi khác, hẳn rồi.” Daoud quấy thức ăn và Mẹ Bề trên than thở, “Ngươi có tưởng được là, cái-gì-không-biết, con bé tự gọi mình là Emerald? Bằng tiếng Anh, cái-gì-không-biết? Lão ấy rồi sẽ làm hỏng hết bọn trẻ. Rắc vừa thìa là thôi, cái-gì-không-biết, ngươi liệu tập trung nấu nướng và bớt hóng hớt chuyện người khác đi.”
Bà đặt ra một điều kiện giáo dục duy nhất: dạy dỗ về giáo lý. Không như Aziz, bị giằng xé bởi nỗi mơ hồ, bà vẫn là người sùng đạo. “Ông có Chim ngân nga của ông,” bà nói, “còn tôi, cái-gì-không-biết, tôi có Tiếng gọi của Chúa. Một tiếng tốt hơn, cái-gì-không-biết, tiếng ngân nga của thằng cha ấy.” Đó là một trong những bình luận chính trị hiếm hoi của bà... thế rồi đến cái ngày Aziz tống cổ ông thầy giáo lý. Ngón cái và ngón trỏ kẹp lấy tai vị maulvi. Naseem Aziz thấy chồng bà dắt ông lão bất hạnh râu ria thõng thượt ra cửa vườn, há hốc miệng rồi rú lên khi cái chân chồng bà tiếp xúc với phần mỡ màng của con người khả kính kia. Nổi trận lôi đình, Mẹ Bề trên liền xung trận.
“Đồ không có nhân phẩm!” bà rủa chồng, “Đồ không biết, cái-gì-không-biết, nhục!” Lũ trẻ đứng nhìn từ chỗ an toàn dưới mái hiên sau nhà. Và Aziz, “Bà có biết lão dạy con bà những gì không?”
Và Mẹ Bề trên phóng câu hỏi đáp trả câu hỏi. “Có thứ gì là ông không từ để gieo tai ương, cái-gì-không-biết, xuống cái nhà này không?” -Nhưng giờ Aziz, “Bà tưởng là chữ Nastaliq[8] chứ gì? Hả?” - và vợ ông, tiếp tục khởi động, “Ông có ăn thịt lợn không? Cái-gì-không-biết? Có nhổ vào kinh Quran không?” Và, cao giọng, ông bác sĩ trả đòn, “Hay là vài tiết của ‘Con Bò’[9]? Bà tưởng thế à?”
...Không thèm để ý, Mẹ Bề trên đạt đến cực điểm: “Ông có gả con gái cho bọn Đức không!?” Rồi dừng lại, hào hển lấy hơi, để ông tôi nói ra, “Lão dạy chúng thù ghét, thưa bà. Lão dạy chúng thù ghét từ tín đồ Hindu đến đạo Phật đến đạo Kỳ Na đến đạo Sikh và những người ăn chay khác có giời mới biết. Bà muốn con bà đầy thù hận à, đồ đàn bà?”
[8] Một thể văn tự của Ba Tư, phổ biến ở các nước Nam Á.
[9]
“Ông muốn con ông vô đạo à?” Mẹ Bề trên mường tượng ra những binh đoàn của Đại thiên sứ Gabriel giáng hạ giữa đêm để giải lũ con dị giáo của bà xuống hỏa ngục. Bà có những hình dung rất sống động về hỏa ngục. Nó nóng như Rajputana[10] tháng Sáu và mọi người đều bị bắt học bảy thứ tiếng
... “Tôi xin thề, cái-gì-không-biết,” bà tôi nói, “rằng sẽ không một mẩu thức ăn nào đi từ bếp của tôi vào mồm ông! Không, một mẩu chapati cũng không, đến chừng nào ông đón maulvi sahib về và hôn, cái-gì-không-biết, chân ông ấy!”
[10] Ngày nay là Rãjasthãn, một bang ở Tây Bắc Ấn Độ, khí hậu sa mạc rất khắc nghiệt.
Cuộc chiến đói ăn khởi đầu ngày hôm đó suýt nữa đã trở thành một cuộc quyết đấu sinh tử. Giữ đúng lời thề, khi đến bữa, Mẹ Bề trên không dọn cho chồng, một tí gì, dù chỉ là cái đĩa không. Bác sĩ Aziz lập tức trả đũa, bằng cách dứt khoát tuyệt thực khi ra ngoài. Ngày qua ngày, năm đứa trẻ chứng kiến ông bố từ từ tiêu biến, trong khi bà mẹ lạnh lùng canh gác thức ăn.
“Bố có biến mất hoàn toàn được không?” Emerald thích thú hỏi, rồi lo lắng thêm, “Bố đừng làm vậy nhé, trừ phi bố biết cách quay về lại.”
Mặt Aziz xuất hiện những hốc lõm, mũi ông dường như cũng gầy đi. Cơ thể ông trở thành một chiến trường và mỗi ngày một mảnh của nó lại nổ tan tành. Ông bảo Alia, cô cả, đứa con hiểu biết: “Trong mọi cuộc chiến tranh, chiến trường chịu sự tàn phá nặng nề hơn cả hai bên tham chiến. Điều này là tất yếu.” Ông bắt đầu phải ngồi xe kéo khi đi thăm bệnh. Bác Hamdard kéo xe bắt đầu lo lắng cho ông.
Quận chúa xứ Cooh Naheen phái sứ giả đến cầu xin Mẹ Bề trên. “Ấn Độ chưa đủ nhiều người chết đói hay sao?” sứ giả hỏi Naseem, và bà phóng ra một cái nhìn dữ dội của mãng xà[11] đã sớm trở thành huyền thoại. Tay chắp lại đặt trên đùi, tấm dupatta bằng vải muslin quấn chặt vắt cổ chày quanh đầu, bà dùng cặp mắt không mí xuyên thấu những vị khách và bức mắt họ cụp xuống. Giọng họ hóa đá, tim họ đông cứng lại, và một mình trong phòng giữa đám đàn ông lạ mặt, bà tôi ngồi ngạo nghễ, xung quanh là những ánh mắt cúi gằm.
“Đủ nhiều, cái-gì-không-biết?” bà kiêu hãnh thốt. “Hừm, có thể. Nhưng, cũng có thể chưa.”
[11] Basilisk: giống mãng xà trong truyền thuyết, ánh mắt có sức mạnh giết người.
Nhưng sự thật là Naseem Aziz rất lo lắng, vì trong khi cái chết vì đói của Aziz sẽ là minh chứng rõ ràng cho sự ưu việt của thế giới quan của bà so với của ông, bà không sẵn lòng làm quả phụ chỉ vì một nguyên tắc. Có điều bà không tìm được lối thoát cho tình trạng ấy mà không phải nhượng bộ và mất mặt, và khi đã buộc phải để mặt trần, bà tôi tuyệt không cam tâm mất một tí mặt nào.
“Sao mẹ không ốm đi ?” - Alia, đứa con hiểu biết, tìm ra giải pháp. Mẹ Bề trên vội vã rút lui chiến thuật, kêu rằng mình bị đau, tất nhiên là một cơn đau dữ dội, cái-gì-không-biết, và nằm liệt giường. Khi bà vắng mặt, Alia chìa nhành ô liu cho cha, dưới hình dáng một bát xúp gà. Hai ngày sau, Mẹ Bề trên ngồi dậy (sau khi từ chối cho chồng khám bệnh lần đầu tiên trong đời), tiếp quản lại quyền lực, rồi với một cái nhún vai mặc nhận trước quyết định của con gái, đưa thức ăn cho Aziz cứ như thể đó chỉ là một chuyện hết sức nhỏ nhặt.
Đó là chuyện mười năm trước, thế nhưng, đến 1942, những ông cụ ở hàng trầu vẫn bị cảnh ông bác sĩ huýt sáo khơi dậy những ký ức buồn cười về lần vợ ông thiếu điều nữa đã khiến ông phải diễn trò biến mất, dù ông không biết cách quay trở lại. Mãi đến lúc trời tối họ vẫn huých nhau với những, “Ông có nhớ cái hồi...” và “Khô quắt lại y hệt bộ xương trên dây phơi! Ông ấy còn chả đạp nổi...” và “... tôi nói ông nghe, baba, mụ ấy làm được những chuyện gớm lắm. Tôi nghe nói mụ ta còn mơ cả giấc mơi của con gái, chỉ để biết chúng đang mưu tính gì!”
Nhưng khi trời tối hẳn, trò huých nhau ấy cũng tàn, vì đã đến giờ thi đấu. Nhịp nhàng, trong yên lặng, họ nhai rồi bỗng một cặp môi chúm lại, nhưng thứ phun ra không phải là hơi gió. Không phải tiếng sáo, mà là một vòi nước trầu dài, đỏ phóng ra từ đôi môi già nua, và bay với sự chính xác tuyệt đối vào cái ống nhổ đồng thau cũ kỹ. Tiếng vỗ đùi và sự thán phục kiểu “Kinh, kinh!” và, “Một phát quá cao thủ!” vang lên không ngớt... Quanh mấy ông lão, thị trấn nhạt nhòa dần và trò chơi đêm không mục đích.
Trẻ con chơi đánh vòng đuổi bắt và vẽ râu lên những tấm áp phích của Mian Abdullah. Và giờ mấy ông cụ đặt cái ống nhổ ra giữa đường, càng lúc càng xa chỗ họ ngồi, và phun những tia nước mỗi lúc một dài hơn về phía nó. Tia nước bay vẫn chuẩn. “Ồ quá đỉnh, yara!” Đám nhóc bụi đời chơi trò né qua né lại giữa những tia nước đỏ, đem trò thi gan này chồng lên môn nghệ thuật nghiêm túc phụt-ống-nhổ
... Nhưng đây rồi một chiếc xe quân sự, lũ nhóc chạy tán loạn khi nó tới... đây, Chuẩn tướng Dodson, chỉ huy quân sự của thành phố, ngạt thở vì nóng... còn đây, viên A.D.C[12] của ông ta, Thiếu tá Zulfikar, đang chìa cho ông cái khăn. Dodson lau mặt, lũ nhóc chạy tán loạn, cỗ xe húc đổ cái ống nhổ. Một vùng chất lỏng đỏ sậm, lẫn những cục nhỏ như máu, đông lại thành một bàn tay đỏ lòm trong bụi đường và chỉ về quyền lực đang rút lui của Raj[13] đầy vẻ kết tội.
[12] Viết tắt của aide-de-camp: sĩ quan phụ tá.
[13] Tên gọi chế độ cai trị của Anh tại tiểu lục địa Ấn Độ trước năm 1947; tên chính thức là “Đế quốc Ấn Độ thuộc Anh” (British Indian Empire).
Hồi ức của một tấm hình mốc meo (có lẽ là tác phẩm của chính anh thợ ảnh tội nghiệp bị nện ung óc, vì mấy bức ảnh phóng to bằng người thật mà suýt nữa thì toi mạng): Aadam Aziz, rạng rỡ vì chứng sốt-lạc-quan, bắt tay một người đàn ông trạc sáu mươi, típ người nôn nóng, sôi nổi, một lọn tóc bạc rủ xuống lông mày như một vết sẹo dễ gần. Đó là Mian Abdullah, con Chim ngân nga. (“Ông xem, Bác sĩ Sahib, tôi tập tành kỹ lắm. Ông muốn đấm vào bụng tôi không? Thử đi, thử đi. Người tôi cực ngon đấy.”
... Trong ảnh, nếp gấp của chiếc áo trắng rộng giấu đi cái bụng, còn nắm tay ông tôi không siết lại, mà bị nuốt gọn trong bàn tay nhà cựu ảo thuật.) Còn đằng sau, nhìn họ đầy độ lượng, là Quận chúa xứ Cooch Naheen, người đang trắng bợt ra từng mảng, một căn bệnh đã rỉ vào lịch sử và bùng phát trên diện rộng không lâu sau Độc lập
... “Ta là nạn nhân,” Quận chúa thầm thì, qua đôi môi nhiếp ảnh vĩnh viễn không mấp máy, “nạn nhân bất hạnh của các mối quan tâm liên văn hóa của mình. Da ta là biểu hiện bên ngoài của chủ nghĩa quốc tế trong tâm hồn ta.” Phải, một cuộc đối thoại đang diễn ra trên bức ảnh này, khi, như những nghệ nhân nói tiếng bụng, những kẻ lạc quan gặp thủ lĩnh của họ. Đứng cạnh Quận chúa - nghe cho kỹ đây: sử học và phả hệ chuẩn bị gặp nhau! - là một gã lập dị, thịt nhão, bụng phệ, mắt như nước ao tù, tóc dài như thi sĩ. Nadir Khan, thư ký riêng của con Chim ngân nga. Chân gã, nếu không bị tấm ảnh đóng băng lại, sẽ nhấp nhổm vì bối rối.
Gã lí nhí qua nụ cười ngớ ngẩn, gượng gạo, “Thật mà, tôi có làm thơ...”
Tới đây Mian Abdullah ngắt lời, cái miệng với hàm răng nhọn sáng loáng oang oang: “Nhưng thơ gì! Ngần ấy trang chẳng có nổi một vần!”
Và Quận chúa, nhỏ nhẹ: “Một nhà thơ cách tân chăng?”
Và Nadir, bẽn lẽn: “Vâng.”
Ghê gớm thay sự căng thẳng của cảnh tĩnh, bất động ấy. Sắc nhọn thay câu đùa ấy, khi con Chim ngân nga nói: “Thế thì đã sao, nghệ thuật là phải khơi dậy, nó phải nhắc nhở chúng ta về di sản văn chương huy hoàng của mình!”... Và đó có phải là một bóng đen, hay cái cau mày trên trán viên thư ký?
... Giọng Nadir lí nhí trong bức ảnh đã mờ: “Tôi không tin vào nghệ thuật cao sang, Mian Sahib. Ngày nay, nghệ thuật là không phân đẳng cấp, thơ của tôi và ừm - trò chơi phụt-ống-nhổ đểu bình đẳng.”
... Lúc này Quận chúa, vốn là người đôn hậu, đùa, “Chà, chắc ta phải để riêng một phòng, chuyên để ăn trầu và phụt-ống-nhổ. Ta có một cái ống nhổ bằng bạc cực đẹp, khảm thanh kim thạch, các vị nhất định phải đến tập nhé. Hãy để trên tường nhoe nhoét những cú phun không chính xác của bọn ta! Ít ra đó cũng sẽ là những vết nhơ trung thực.”
Và lúc này bức ảnh đã cạn lời, giờ tôi mới nhận thấy, bằng tâm nhãn, rằng từ đâu đến cuối con Chim ngân nga luôn nhìn ra phía cửa, ở sau vai ông tôi, ngoài rìa tấm ảnh. Đằng sau cánh cửa, lịch sử đang vẫy gọi. Con chim ngân nga nôn nóng muốn đi... nhưng ông đã ở bên chúng ta, và sự hiện diện của ông đã đem lại cho chúng ta hai sợi chỉ sẽ đeo đuổi tôi suốt những ngày còn lại: sợi dẫn đến ghetto của giới ảo thuật, và sợi kể câu chuyện về Nadir gã thi sĩ không vần, không động từ, và cái ống nhổ bằng bạc vô giá.
“Vớ vẩn thật,” Padma của chúng ta nói. “Ảnh làm sao mà nói đươc? Thôi nghỉ đi; anh mệt quá nghĩ không nỗi nữa rồi.”
Nhưng khi tôi bảo cô rằng Mian Abdullah có cái đặc điểm kỳ lạ là ngân nga không dứt, ngân nga một cách kỳ quái, chẳng ra nhạc cũng chẳng ra không nhạc, lại như kiểu máy, tiếng ngân nga của động cơ hay máy phát điện, cô lại chấp nhận khá dễ dàng, nói vẻ hiểu biết, “Ừm, nếu ông ta đầy sinh lực như thế, cái đó tôi thấy chả có gì lạ.”
Cô lại dỏng tai lên rồi, nên tôi cũng hào hứng trở lại câu chuyện và kể rằng tiếng ngân nga của Mian Abdullah lên bổng xuống trầm tương ứng với cường độ làm việc của ông. Đó là một tiếng ngân có thể xuống thấp tới mức gây nhức răng, còn khi lên đến ngưỡng cao nhất, điên cuồng nhất, nó có khả năng gây ra cơn cương dương cho bất kỳ ai ở gần. (“Arre baap,” Padma cười, “thảo nào đám đàn ông khoái ông ta thế!”) Làm thư ký cho ông, Nadir Khan liên tục bị cái quái tật gây rung của ông chủ hành hạ, và tai răng dương vật gã vĩnh viễn tuân theo mệnh lệnh của con Chim ngân nga.
Thế thì, tại sao Nadir vẫn ở lại, bất chấp những cơn cương dương làm gã sượng sùng trước mặt người lạ, bất chấp những cái răng hàm đau nhức và một lịch làm việc thường kéo dài hai mươi hai tiếng trên hai tư? Không phải bởi vì gã coi đó là bổn phận của nhà thơ, phải tiếp cận trung tâm các sự kiện để truyền tải chúng vào văn chương - tôi tin thế. Cũng không phải vì gã mưu cầu danh vọng. Không: nhưng Nadir có một điểm chung với ông tôi, và thế đủ. Gã, cũng như ông, đã mắc bệnh lạc quan.
Như Aadam Aziz, như vị Quận chúa xứ Cooch Naheen, Nadir Khan căm ghét Liên đoàn Hồi giáo (“Cái lũ bợ đỡ ấy!” nữ Quận chúa thốt lên bằng giọng nói trong như bạc, lên xuống từng quãng tám như người trượt tuyết.
“Địa chủ với đặc quyền cần bảo vệ! Cái đấy thì dính gì đến người theo đạo Hồi? Cả bọn kéo đến xun xoe người Anh rồi lập chính quyền cho họ, nên giờ đảng Quốc đại mới từ chối điều đó!”[14] Đó là năm nghị quyết “Ra khỏi Ấn Độ” ra đời.
“Mà hơn nữa,” Quận chúa phán, “bọn chúng bị điên. Không điên mà lại đòi chia cắt Ấn Độ?”)
[14] Năm 1935 nước Anh đồng ý trao trả quyền tự trị ở cấp tỉnh cho Ấn Độ. Năm 1937, khi bầu cử, đảng Liên đoàn Hồi giáo (Muslim League) thắng và lập ra chính quyền ờ Bengal và Punjab, nhưng đảng Quốc đại thắng ở hầu hết các bang khác và từ chối chia sẻ quyền lực với đảng Hồi giáo ở các bang có đông người theo đạo Hồi.
Mian Abdullah, con Chim ngân nga, đã gần như một tay dựng nên Hội nghị Hồi giáo Tự do. Ông mời thủ lĩnh của hàng chục phe nhóm Hồi giáo lập ra một liên minh lỏng lẻo làm giải pháp thay thế cho sự độc đoán và đặc quyền của phe Liên đoàn. Đây là một ngón chiêu hồn xuất sắc, vì họ đều đến dự cả. Đây là Hội nghị đầu tiên, tại Lahore; Agra sẽ chứng kiến phiên thứ hai.
Những căn lều sẽ đông nghịt thành viên của các phong trào nông dân, các nghiệp đoàn lao động thành thị, các chức sắc tôn giáo và phe nhóm địa phương. Nó sẽ chứng kiến sự khẳng định điều đã được nêu ra tại phiên họp thứ nhất: đó là Liên đoàn, với yêu sách chia cắt Ấn Độ, không hề đại diện cho ai ngoài chính họ.
“Họ đã quay lưng lại chúng ta,” áp phích Hội nghị viết, “và giờ lại tuyên bố chúng ta đứng sau ủng hộ họ!” Mian Abdullah phản đối chia cắt.
Trong cuộc vật lộn với dịch bệnh lạc quan, người bảo trợ cho con Chim ngân nga, Quận chúa xứ Cooh Naheen, không hề đả động đến những đám mây nơi chân trời. Bà không hề chỉ ra Agra là một cơ sở vững chắc của Liên đoàn Hồi giáo, chỉ nói “Anh bạn Aadam, nếu con Chim ngân nga muốn tổ chức Hội nghị ở đây, ta sẽ không khuyên cậu ấy rời sang Allahabad.”
Bà gánh toàn bộ phí tổn cho sự kiện mà không hề phàn nàn hay can thiệp; và không, phải nói thẳng là, né tránh việc gây thù chuốc oán trong thành phố. Quận chúa không sống như các tiểu vương Ấn Độ khác. Thay vì săn gà gô, bà cấp học bổng. Thay vì những xì căng đan ở khách sạn, bà có chính trị. Vậy là bắt đầu có lời đồn thổi. “Đám học giả của mụ ta, gớm, ai chả biết họ phải làm nhiệm vụ ngoại khóa. Họ đến phòng mụ trong bóng tối, và mụ tuyệt không để họ thấy bộ mặt loang lổ của mụ, nhưng mê hoặc họ lên giường bằng giọng hát phù thủy!”
Aadam Aziz chưa bao giờ tin là có phù thủy. Ông hân thưởng nhóm bạn hữu xuất chúng của bà, những người nói tiếng Ba Tư tự nhiên không khác gì tiếng Đức. Nhưng Naseem Aziz, nửa tin nửa ngờ những lời đồn về Quận chúa, không bao giờ tháp tùng ông tới phủ đệ của bà. “Nếu Thượng đế muốn con người nói nhiều thứ tiếng, bà lý luận, “thì sao lại cho mỗi người một cái lưỡi ?”[15]
[15] Trong tiếng anh chữ tongue (cái lưỡi) cũng có nghĩa là ngôn ngữ.
Vậy là không con bệnh lạc quan nào của con Chim ngân nga được chuẩn bị cho điều sắp xảy ra. Họ chơi phụt-ống-nhổ, và lờ đi những vết nứt trên mặt đất.
Đôi khi truyền kỳ làm nên hiện thực, và trở nên hữu ích hơn sự thật. Vậy thì, theo truyền kỳ - nghĩa là theo câu chuyện ngồi lê đã được trau chuốt của mấy ông cụ hàng trầu - Mian Abdullah sa cơ vì đã trót mua, ở ga Agra, một cái quạt lông công, mặc cho Nadir Khan cảnh cáo đó là điềm gở. Thêm nữa là, vào cái đêm của những mảnh trăng lưỡi liềm ấy, Abdullah đang làm việc với Nadir, nên khi vầng trăng non mọc lên cả hai đều thấy nó qua cửa kính[16].
“Mấy chuyện đó can hệ lắm,” mấy ông cụ nhai trầu bảo. “Bọn ta sống lâu lắm rồi, bọn ta biết.” (Padma gục gặc tán thành.)
[16] Theo quan điểm mê tín, nhìn thấy trăng non đầu tháng qua kính là điểm gở.
Văn phòng của Hội nghị đặt tại tầng trệt tòa nhà của khoa sử trong khuôn viên trường Đại học. Abdullah và Nadir sắp hoàn thành công việc buổi tối, tiếng ngân của con Chim ngân nga đang ở tông trầm và răng Nadir đang run cầm cập. Trên tường có một tấm áp phích, thể hiện tinh thần chống Chia cắt ưa thích của Abdullah, một câu thơ của nhà thơ Iqbal: “Có mảnh đất nào không phải là nước Chúa Trời?” Lúc này toán sát thủ vừa vào đến khuôn viên trường.
Sự thật: Abdullah có vô số kẻ thù. Thái độ của người Anh đối với ông luôn mập mờ. Chuẩn tướng Dodson không muốn ông có mặt ở đây. Có tiếng gõ cửa và Nadir ra mở. Sáu mảnh trăng non tiến vào phòng, sáu lưỡi dao cong trên tay sáu kẻ vận đồ đen, đeo khăn che mặt. Hai tên giữ chặt Nadir trong khi những tên còn lại xông vào con Chim ngân nga.
“Đúng lúc này,” mấy cụ già nhai trầu kể, “tiếng ngân của con Chim ngân nga bắt đầu lên cao. Cao nữa, cao mãi, yara, và mắt bọn sát thủ lồi ra khi thấy cái ấy dựng lều dưới áo choàng. Rồi - Allah, rồi! - những lưỡi dao bắt đầu hát và Abdullah hát to hơn, ngân cao lên cao mãi như chưa ngân nga bao giờ. Người ông chắc nịch và những thanh loan đao cong dài không dế giết nổi ông, một bị gãy khi bổ vào một dẻ sườn, nhưng những lưỡi còn lại mau chóng nhuộm máu. Nhưng lúc này - nghe này! - tiếng ngân nga của Abdullah vượt ra khỏi ngưỡng nghe của tai người, đến tai lũ chó trong thành phố. Ở Agra có khoảng tám ngàn bốn trăm hai mươi con chó hoang.
Đêm hôm đó, chắc chắn có con còn mải ăn, có con sắp chết, có con đang tằng tịu và có con không nghe thấy lời kêu gọi. Cứ cho là hai nghìn con đi, tức là còn sáu ngàn bốn trăm hai mươi con dã cẩu, tất cả đều quay đầu phóng về trường Đại học, nhiều con từ tận đầu kia thành phố băng qua đường tàu. Ai cũng biết chuyện này có thật. Ở thành phố tất cả đều trông thấy, trừ những ai lúc đó đang ngủ. Đàn chó phóng rầm rập, như một đạo quân, bỏ lại sau lưng vung vãi nào xương nào phân nào lông rụng... và Abdullahji vẫn ngân nga không dứt, ngân nga ngân nga, và những lưỡi dao vẫn hát.
Còn điều này nữa: đột nhiên con mắt của một tên sát thủ phát nổ và rớt ra khỏi tròng. Sau đó người ta tìm thấy những mẩu thủy tinh vụn, bị giẫm nát trong lớp thảm!”
Họ tiếp, “Khi đàn chó đến nơi Abdullah đã thoi thóp và những lưỡi dao đã cùn... chúng đến như một bầy dã thú, chồm qua cửa sổ, không còn kính vì tiếng ngân nga của Abdullah đã chấn nát tất cả... chúng húc vào cửa chính đến khi gỗ vỡ ra... rồi tràn vào khắp nhà, baba!... con cụt chân, con rụng lông, nhưng đa số đều còn ít nhất mấy cái răng, trong đó lại có mấy cái sắc... Và phải thấy là: toán sát thủ hẳn không ngờ đến việc có kẻ can thiệp, bởi vì chúng không hề cắt người gác; nên đàn chó tấn công hoàn toàn bất ngờ... hai tên giữ Nadir Khan, gã èo uột ấy, gục xuống dưới sức nặng của bầy thú, với khoảng sáu mươi tám con chó trên cổ.., sau đó bọn giết người bị cắn xé tơi bời đến nỗi không ai có thể nhận diện được chúng.”
“Một lúc nào đó,” họ kể, “Nadir nhào qua cửa sổ bỏ chạy. Bầy chó và đám sát thủ quá bận rộn nên chẳng đuổi theo gã.”
Chó? Sát thủ?... Nếu quý vị không tin, cứ kiểm tra đi. Khám phá về Mian Abdullah và những Hội nghị của ông. Phát hiện ra chúng ta đã quét câu chuyện về ông xuống dưới thảm ra sao... rồi tôi sẽ kể quý vị nghe Nadir Khan, phụ tá của ông, đã sống ba năm dưới thảm nhà tôi thế nào.
Hồi trẻ, gã ở chung phòng với một tay họa sĩ có những bức họa cứ lớn dần lớn dần lên khi anh cố gắng đưa cái toàn vẹn của cuộc sống vào tác phẩm.
“Nhìn tôi xem,” anh nói trước khi tự sát, “tôi muốn thành một nhà tiểu họa, nhưng rốt cuộc cái tôi nhận được lại là bệnh chân voi!”
Những sự kiện phì đại trong đêm của những lưỡi dao cong ấy khiến Nadir Khan nhớ đến anh bạn cùng phòng, vì một lần nữa cuộc đời, tai quái thay, không chịu ở yên kích cỡ đời thực. Nó trở nên quá kịch tính: điều đó làm gã bấn loạn.
Làm thế nào Nadir Khan chạy ngang thành phố giữa đêm mà không ai để ý? Tôi cho rằng điều này là bởi gã là một thi sĩ tồi, và do đó, là kẻ sống sót bẩm sinh. Khi gã chạy, trong gã phát sinh một nỗi hổ thẹn, cơ thể gã như muốn xin lỗi vì đã xử sự như trong một bộ phim giật gân rẻ tiền, thứ phim các hàng rong vẫn bán ngoài ga, hoặc cho không kèm theo mấy lọ thuốc màu xanh chữa bệnh cảm, thương hàn, liệt dương, nhớ nhà, và nghèo khổ
... Đó là một đêm ấm trời trên đường Cornwallis. Một chậu than đã hết nằm cạnh dãy xe kéo không người. Hàng trầu đã đóng cửa và mấy ông lão đang ngủ trên sân thượng, mơ về cuộc đấu ngày mai. Một con bò mất ngủ, nhẩn nha nhai một bao thuốc Red & White, thơ thẩn đi qua một gã vô gia cư nằm thù lù một đống, có nghĩa là đến sáng gã sẽ thức dậy, vì cái giống bò không để ý đến người đang ngủ, trừ phi gã sắp chết. Rồi nó ngửi ngửi gã, vẻ ngẫm nghĩ. Bò thiêng cái gì cũng ăn.
Ngôi nhà lớn, cũ kỹ bằng đá của ông tôi, mua bằng tiền bán cửa hàng đá quý và món hồi môn của lão Ghani mù, đứng trong bóng đêm, giữ một khoảng cách tôn nghiêm với con đường. Sau nhà là một khu vườn có tường bao và cạnh cửa vườn là gian nhà phụ thấp tè cho ông lão Hamdard và đứa con trai Rashid chạy xe kéo thuê với giá rẻ. Trước gian nhà phụ là cái giếng có bánh xe nước do bò kéo, từ đó các kênh dẫn nước chảy ra ruộng ngô nhỏ nằm dọc ngôi nhà ra đến cổng của bức tường vành đai chạy dọc đường Cornwallis. Nằm giữa ngôi nhà và mảnh ruộng là một con đường nhỏ cho khách bộ hành và xe kéo. Ở Agra xích lô đã bắt đầu thay thế xe kéo tay. Xe ngựa kéo vẫn làm ăn được, nhưng cũng thưa dần
... Nadir Khan rụt đầu chuồn qua cống, ngồi xổm dựa vào bức tường vành đai giây lát, mặt đỏ bừng lên trong khi đái. Rồi, dường như hổ thẹn vì sự thô bỉ trong hành vi của mình, gã chạy ra ruộng ngô rồi chui tọt vào. Được những gốc ngô xác xơ vì nắng che khuất phần nào, gã nằm xuống trong tư thế của một bào thai.
Cậu trai Rashid kéo xe đã mười bảy và đang trên đường từ rạp chiếu bóng về nhà. Sáng hôm ấy cậu thấy hai người đàn ông đẩy một cỗ xe thấp gắn hai tấm áp phích vẽ tay khổng lổ, áp lưng vào nhau, quảng cáo cho bộ phim mới Gai-Wallah, có Dev, diễn viên thần tượng của Rashid, thủ vai chính.
NÓNG HỔI SAU NĂM MƯƠI TUẦN VŨ BÃO Ở DELHI! VỪA KẾT THÚC SÁU MƯƠI BA TUẦN THIỆN XẠ Ở BOMBAY! Cả hai tấm áp phích gào lên. HAI NĂM LIỀN CUỒNG NHIỆT! Bộ phim thuộc loại Viễn Tây phương Đông. Nhân vật chính, Dev, người không mảnh khảnh, một mình rong ruổi trên đồng cỏ. Trông khá giống bình nguyên Ấn-Hằng. Gai- Wallah nghĩa là bạn-của-bò và Dev vào vai một kẻ thế thiên hành đạo đơn thương độc mã bảo vệ loài bò.
MỘT MÌNH MỘT NGỰA! và HAI TAY HAI SÚNG!, anh âm thầm bám theo những đàn gia súc được lùa qua đồng cỏ đến lò mổ, đánh bại đám chăn bò và giải cứu những con vật thiêng. (Bộ phim nhắm đến khán giả người Hindu; tại Delhi nó đã gây ra bạo loạn. Ngưòi theo Liên đoàn Hồi giáo lùa bò qua rạp chiếu phim đến lò mổ, và đã bị vây đánh.) Ca khúc và vũ điệu trong phim rất hay và có một vũ công rất xinh đẹp, cô sẽ còn duyên dáng hơn nếu không bị bắt múa với cái mũ cao bồi bốn mươi lít trên đầu. Rashid ngồi dãy đầu ở tầng trệt[17] và cũng nhập bọn huýt sáo reo hò. Cậu chén hai cái samosa, tiêu mất khá tiền; mẹ cậu sẽ bực nhưng cậu đã có một bữa vui.
Trên đường đạp xe về, cậu dượt vài tuyệt chiêu cưỡi ngựa vừa xem trên phim, ngả thấp người sang một bên, thả cho xe tự do đổ dốc, dùng cỗ xe theo cách Gai-Wallah dùng con ngựa để ẩn mình trước kẻ thù. Cuối cùng cậu nhổm dậy, bẻ tay lái và trong sự hào hứng của cậu cỗ xe êm ái lướt qua cổng phóng xuống con đường dọc ruộng ngô. Gai-Wallah đã dùng chiêu này để qua mặt một bọn chăn bò khi chúng ngồi giữa rừng cây bụi, uống rượu và đánh bạc. Rashid phanh xe lại và phi thân vào ruộng ngô, chạy HẾT-TỐC-LỰC! về phía mấy gã chăn bò không hề nghi ngờ, súng lên cò sẵn sàng. Khi đến gần đống lửa của chúng cậu thét lên “tiếng hét căm thù” để làm chúng sợ hãi.
YAAAAAAA! Dĩ nhiên cậu không hét to thực sự ngay gần nhà Bác sĩ Sahib như thế, nhưng cậu vừa chạy vừa ngoác miệng ra, hét trong im lặng. THỊCH! THỊCH! Nadir Khan nãy giờ vẫn đang khó ngủ và lúc này gã mở mắt ra. Gã thấy - EEEYAAAH! - một bóng người gầy gò hùng hổ lao về phía mình như một đoàn tàu chở thư, hét đến lạc giọng - nhưng chắc gã điếc rồi, vì chẳng nghe thấy tiếng gì! - và gã vừa đứng lên, tiếng la vừa buột khỏi đôi môi quá dày của gã, thì Rashid cũng thấy gã và hét lên thành tiếng. Đồng thanh rú lên kinh hãi, cả hai cong đuôi bỏ chạy. Rồi thấy đối phương cũng chạy, họ đứng lại, săm soi nhau qua những gốc ngô khô quắt. Rashid nhận ra Nadir Khan, thấy quần áo gã tả tơi và thấy cực kỳ khó hiểu.
[17] Tầng trệt rẻ hơn tầng hai. Hàng đầu lại rẻ hơn cả vì quá gần màn hình. Chi tiết kín đáo nói về cái nghèo của cậu trai.
“Tôi là bạn,” Nadir ngớ ngẩn nói. “Tôi cần gặp Bác sĩ Aziz"
“Nhưng Bác sĩ đang ngủ, và không ở ruộng ngô.” Bình tĩnh nào, Rashid tự nhủ, không nói dớ dẩn nữa! Đây là bạn của Mian Abdullah!... Nhưng Nadir có vẻ không nhận thấy; mặt gã nhăn nhó đầy khổ sở, cố gắng nặn ra mấy chữ mắc kẹt như xơ thịt gà ở kẽ răng... “Tính mạng tôi,” rốt cuộc gã cũng thốt lên được, “đang bị đe dọa.”
Lúc này Rashid, vẫn tràn đầy khí phách của Gai-Wallah, trở thành cứu tinh. Cậu dẫn Nadir đến cánh cửa ở hông nhà. Cửa vừa chốt vừa khóa, nhưng Rashid giật một cái, ổ khóa đã bung ra trên tay cậu.
“Đồ Ấn ấy mà,” cậu thì thầm, như thể điều đó giải thích tất cả. Và, khi Nadir đã bước vào, Rashid suỵt khẽ, “Cứ tin tưởng tuyệt đối ở tôi, sahib. Sẽ câm như hến! Thề có mái tóc muối tiêu của mẹ tôi.”
Cậu lắp lại cái khóa từ phía ngoài. Để thực sự cứu thoát cánh tay phải của con Chim ngân nga!... Nhưng khỏi cái gì? Khỏi ai?... À, có đôi khi, đời thực đẹp hơn là trên phim.
“Đấy á?” Padma hỏi, đôi chút ngỡ ngàng. “Cái gã béo bệu chết nhát đấy á? Rồi hắn sẽ là cha anh á?”
Cuộc chiến đói ăn khởi đầu ngày hôm đó suýt nữa đã trở thành một cuộc quyết đấu sinh tử. Giữ đúng lời thề, khi đến bữa, Mẹ Bề trên không dọn cho chồng, một tí gì, dù chỉ là cái đĩa không. Bác sĩ Aziz lập tức trả đũa, bằng cách dứt khoát tuyệt thực khi ra ngoài. Ngày qua ngày, năm đứa trẻ chứng kiến ông bố từ từ tiêu biến, trong khi bà mẹ lạnh lùng canh gác thức ăn.
“Bố có biến mất hoàn toàn được không?” Emerald thích thú hỏi, rồi lo lắng thêm, “Bố đừng làm vậy nhé, trừ phi bố biết cách quay về lại.”
Mặt Aziz xuất hiện những hốc lõm, mũi ông dường như cũng gầy đi. Cơ thể ông trở thành một chiến trường và mỗi ngày một mảnh của nó lại nổ tan tành. Ông bảo Alia, cô cả, đứa con hiểu biết: “Trong mọi cuộc chiến tranh, chiến trường chịu sự tàn phá nặng nề hơn cả hai bên tham chiến. Điều này là tất yếu.” Ông bắt đầu phải ngồi xe kéo khi đi thăm bệnh. Bác Hamdard kéo xe bắt đầu lo lắng cho ông.
Quận chúa xứ Cooh Naheen phái sứ giả đến cầu xin Mẹ Bề trên. “Ấn Độ chưa đủ nhiều người chết đói hay sao?” sứ giả hỏi Naseem, và bà phóng ra một cái nhìn dữ dội của mãng xà[11] đã sớm trở thành huyền thoại. Tay chắp lại đặt trên đùi, tấm dupatta bằng vải muslin quấn chặt vắt cổ chày quanh đầu, bà dùng cặp mắt không mí xuyên thấu những vị khách và bức mắt họ cụp xuống. Giọng họ hóa đá, tim họ đông cứng lại, và một mình trong phòng giữa đám đàn ông lạ mặt, bà tôi ngồi ngạo nghễ, xung quanh là những ánh mắt cúi gằm.
“Đủ nhiều, cái-gì-không-biết?” bà kiêu hãnh thốt. “Hừm, có thể. Nhưng, cũng có thể chưa.”
[11] Basilisk: giống mãng xà trong truyền thuyết, ánh mắt có sức mạnh giết người.
Nhưng sự thật là Naseem Aziz rất lo lắng, vì trong khi cái chết vì đói của Aziz sẽ là minh chứng rõ ràng cho sự ưu việt của thế giới quan của bà so với của ông, bà không sẵn lòng làm quả phụ chỉ vì một nguyên tắc. Có điều bà không tìm được lối thoát cho tình trạng ấy mà không phải nhượng bộ và mất mặt, và khi đã buộc phải để mặt trần, bà tôi tuyệt không cam tâm mất một tí mặt nào.
“Sao mẹ không ốm đi ?” - Alia, đứa con hiểu biết, tìm ra giải pháp. Mẹ Bề trên vội vã rút lui chiến thuật, kêu rằng mình bị đau, tất nhiên là một cơn đau dữ dội, cái-gì-không-biết, và nằm liệt giường. Khi bà vắng mặt, Alia chìa nhành ô liu cho cha, dưới hình dáng một bát xúp gà. Hai ngày sau, Mẹ Bề trên ngồi dậy (sau khi từ chối cho chồng khám bệnh lần đầu tiên trong đời), tiếp quản lại quyền lực, rồi với một cái nhún vai mặc nhận trước quyết định của con gái, đưa thức ăn cho Aziz cứ như thể đó chỉ là một chuyện hết sức nhỏ nhặt.
Đó là chuyện mười năm trước, thế nhưng, đến 1942, những ông cụ ở hàng trầu vẫn bị cảnh ông bác sĩ huýt sáo khơi dậy những ký ức buồn cười về lần vợ ông thiếu điều nữa đã khiến ông phải diễn trò biến mất, dù ông không biết cách quay trở lại. Mãi đến lúc trời tối họ vẫn huých nhau với những, “Ông có nhớ cái hồi...” và “Khô quắt lại y hệt bộ xương trên dây phơi! Ông ấy còn chả đạp nổi...” và “... tôi nói ông nghe, baba, mụ ấy làm được những chuyện gớm lắm. Tôi nghe nói mụ ta còn mơ cả giấc mơi của con gái, chỉ để biết chúng đang mưu tính gì!”
Nhưng khi trời tối hẳn, trò huých nhau ấy cũng tàn, vì đã đến giờ thi đấu. Nhịp nhàng, trong yên lặng, họ nhai rồi bỗng một cặp môi chúm lại, nhưng thứ phun ra không phải là hơi gió. Không phải tiếng sáo, mà là một vòi nước trầu dài, đỏ phóng ra từ đôi môi già nua, và bay với sự chính xác tuyệt đối vào cái ống nhổ đồng thau cũ kỹ. Tiếng vỗ đùi và sự thán phục kiểu “Kinh, kinh!” và, “Một phát quá cao thủ!” vang lên không ngớt... Quanh mấy ông lão, thị trấn nhạt nhòa dần và trò chơi đêm không mục đích.
Trẻ con chơi đánh vòng đuổi bắt và vẽ râu lên những tấm áp phích của Mian Abdullah. Và giờ mấy ông cụ đặt cái ống nhổ ra giữa đường, càng lúc càng xa chỗ họ ngồi, và phun những tia nước mỗi lúc một dài hơn về phía nó. Tia nước bay vẫn chuẩn. “Ồ quá đỉnh, yara!” Đám nhóc bụi đời chơi trò né qua né lại giữa những tia nước đỏ, đem trò thi gan này chồng lên môn nghệ thuật nghiêm túc phụt-ống-nhổ
... Nhưng đây rồi một chiếc xe quân sự, lũ nhóc chạy tán loạn khi nó tới... đây, Chuẩn tướng Dodson, chỉ huy quân sự của thành phố, ngạt thở vì nóng... còn đây, viên A.D.C[12] của ông ta, Thiếu tá Zulfikar, đang chìa cho ông cái khăn. Dodson lau mặt, lũ nhóc chạy tán loạn, cỗ xe húc đổ cái ống nhổ. Một vùng chất lỏng đỏ sậm, lẫn những cục nhỏ như máu, đông lại thành một bàn tay đỏ lòm trong bụi đường và chỉ về quyền lực đang rút lui của Raj[13] đầy vẻ kết tội.
[12] Viết tắt của aide-de-camp: sĩ quan phụ tá.
[13] Tên gọi chế độ cai trị của Anh tại tiểu lục địa Ấn Độ trước năm 1947; tên chính thức là “Đế quốc Ấn Độ thuộc Anh” (British Indian Empire).
Hồi ức của một tấm hình mốc meo (có lẽ là tác phẩm của chính anh thợ ảnh tội nghiệp bị nện ung óc, vì mấy bức ảnh phóng to bằng người thật mà suýt nữa thì toi mạng): Aadam Aziz, rạng rỡ vì chứng sốt-lạc-quan, bắt tay một người đàn ông trạc sáu mươi, típ người nôn nóng, sôi nổi, một lọn tóc bạc rủ xuống lông mày như một vết sẹo dễ gần. Đó là Mian Abdullah, con Chim ngân nga. (“Ông xem, Bác sĩ Sahib, tôi tập tành kỹ lắm. Ông muốn đấm vào bụng tôi không? Thử đi, thử đi. Người tôi cực ngon đấy.”
... Trong ảnh, nếp gấp của chiếc áo trắng rộng giấu đi cái bụng, còn nắm tay ông tôi không siết lại, mà bị nuốt gọn trong bàn tay nhà cựu ảo thuật.) Còn đằng sau, nhìn họ đầy độ lượng, là Quận chúa xứ Cooch Naheen, người đang trắng bợt ra từng mảng, một căn bệnh đã rỉ vào lịch sử và bùng phát trên diện rộng không lâu sau Độc lập
... “Ta là nạn nhân,” Quận chúa thầm thì, qua đôi môi nhiếp ảnh vĩnh viễn không mấp máy, “nạn nhân bất hạnh của các mối quan tâm liên văn hóa của mình. Da ta là biểu hiện bên ngoài của chủ nghĩa quốc tế trong tâm hồn ta.” Phải, một cuộc đối thoại đang diễn ra trên bức ảnh này, khi, như những nghệ nhân nói tiếng bụng, những kẻ lạc quan gặp thủ lĩnh của họ. Đứng cạnh Quận chúa - nghe cho kỹ đây: sử học và phả hệ chuẩn bị gặp nhau! - là một gã lập dị, thịt nhão, bụng phệ, mắt như nước ao tù, tóc dài như thi sĩ. Nadir Khan, thư ký riêng của con Chim ngân nga. Chân gã, nếu không bị tấm ảnh đóng băng lại, sẽ nhấp nhổm vì bối rối.
Gã lí nhí qua nụ cười ngớ ngẩn, gượng gạo, “Thật mà, tôi có làm thơ...”
Tới đây Mian Abdullah ngắt lời, cái miệng với hàm răng nhọn sáng loáng oang oang: “Nhưng thơ gì! Ngần ấy trang chẳng có nổi một vần!”
Và Quận chúa, nhỏ nhẹ: “Một nhà thơ cách tân chăng?”
Và Nadir, bẽn lẽn: “Vâng.”
Ghê gớm thay sự căng thẳng của cảnh tĩnh, bất động ấy. Sắc nhọn thay câu đùa ấy, khi con Chim ngân nga nói: “Thế thì đã sao, nghệ thuật là phải khơi dậy, nó phải nhắc nhở chúng ta về di sản văn chương huy hoàng của mình!”... Và đó có phải là một bóng đen, hay cái cau mày trên trán viên thư ký?
... Giọng Nadir lí nhí trong bức ảnh đã mờ: “Tôi không tin vào nghệ thuật cao sang, Mian Sahib. Ngày nay, nghệ thuật là không phân đẳng cấp, thơ của tôi và ừm - trò chơi phụt-ống-nhổ đểu bình đẳng.”
... Lúc này Quận chúa, vốn là người đôn hậu, đùa, “Chà, chắc ta phải để riêng một phòng, chuyên để ăn trầu và phụt-ống-nhổ. Ta có một cái ống nhổ bằng bạc cực đẹp, khảm thanh kim thạch, các vị nhất định phải đến tập nhé. Hãy để trên tường nhoe nhoét những cú phun không chính xác của bọn ta! Ít ra đó cũng sẽ là những vết nhơ trung thực.”
Và lúc này bức ảnh đã cạn lời, giờ tôi mới nhận thấy, bằng tâm nhãn, rằng từ đâu đến cuối con Chim ngân nga luôn nhìn ra phía cửa, ở sau vai ông tôi, ngoài rìa tấm ảnh. Đằng sau cánh cửa, lịch sử đang vẫy gọi. Con chim ngân nga nôn nóng muốn đi... nhưng ông đã ở bên chúng ta, và sự hiện diện của ông đã đem lại cho chúng ta hai sợi chỉ sẽ đeo đuổi tôi suốt những ngày còn lại: sợi dẫn đến ghetto của giới ảo thuật, và sợi kể câu chuyện về Nadir gã thi sĩ không vần, không động từ, và cái ống nhổ bằng bạc vô giá.
“Vớ vẩn thật,” Padma của chúng ta nói. “Ảnh làm sao mà nói đươc? Thôi nghỉ đi; anh mệt quá nghĩ không nỗi nữa rồi.”
Nhưng khi tôi bảo cô rằng Mian Abdullah có cái đặc điểm kỳ lạ là ngân nga không dứt, ngân nga một cách kỳ quái, chẳng ra nhạc cũng chẳng ra không nhạc, lại như kiểu máy, tiếng ngân nga của động cơ hay máy phát điện, cô lại chấp nhận khá dễ dàng, nói vẻ hiểu biết, “Ừm, nếu ông ta đầy sinh lực như thế, cái đó tôi thấy chả có gì lạ.”
Cô lại dỏng tai lên rồi, nên tôi cũng hào hứng trở lại câu chuyện và kể rằng tiếng ngân nga của Mian Abdullah lên bổng xuống trầm tương ứng với cường độ làm việc của ông. Đó là một tiếng ngân có thể xuống thấp tới mức gây nhức răng, còn khi lên đến ngưỡng cao nhất, điên cuồng nhất, nó có khả năng gây ra cơn cương dương cho bất kỳ ai ở
Tôi không nói câu này theo nghĩa bóng, và đây cũng không phải khúc dạo đầu của một màn cầu xin lòng thương hại cải lương, bí hiểm, trơ trẽn. Tôi chỉ giản đơn muốn nói rằng người tôi đang nứt rạn khắp nơi như một chiếc bình cũ, rằng cái cơ thể khốn khổ của tôi, kỳ quặc, khó thương, phải nếm chịu quá nhiều lịch sử, bị hút kiệt ở trên và hút kiệt ở dưới, bị cửa làm tàn khuyết, bị ống nhổ tẩy não, đã bắt đầu bung ra theo những đường may. Tóm lại, tôi đang phân rã theo đúng nghĩa, hiện giờ vẫn chậm, tuy có dấu hiệu nhanh dần. Tôi chỉ xin quý vị chấp nhận (giống như tôi đã chấp nhận) một điều là chung cuộc tôi sẽ vỡ vụn thành (ước chừng) sáu trăm ba mươi triệu hạt bụi vô danh, tất yếu sẽ bị lẵng quên. Đây chính là lý do khiến tôi quyết tâm ký thác tất thảy lên giấy, trước khi tôi quên. (Chúng ta là một dân tộc của những kẻ lãng quên.)
Có những thời khắc hãi hùng, nhưng rồi cũng qua. Sợ hãi như một con thủy quái sủi tăm trồi lên hít thở, sục sôi trên bề mặt, nhưng cuối cùng sẽ lặn xuống đáy sâu. Quan trọng là tôi phải giữ được bình tĩnh. Tôi nhai trầu và phún xuất vể phía chiếc bát rẻ tiền bằng đồng thau, tái hiện trò chơi phụt-ống-nhổ cổ xưa: trò chơi của Nadir Khan, học của những ông già xứ Agra... và ngày nay người ta có thể mua được thứ “trầu tên lửa”, trong đó, cùng với món bánh trầu đỏ lợi, là cơn khoái cảm của cocaine gói trong một lá trầu. Nhưng thế là ăn gian.
... Từ bản thảo của tôi tỏa ra cái mùi không lẫn được của chutney[1]. Đã vậy tôi sẽ không vòng vo nữa: Tôi, Saleem Sinai, kẻ sở hữu cơ quan khứu giác nhạy bén nhất trong lịch sử, đã dành trọn những ngày cuối đời cho việc sản xuất gia vị quy mô lớn.
Nhưng lúc này, “Đầu bếp á?” quý vị há hốc mồm kinh hãi, “Một gã khan-sama thôi ấy hả? Có nhẽ đâu thế?” Và, tôi công nhận, tinh thông đồng thời cả nghệ thuật bếp núc lẫn ngôn ngữ là rất hiếm, thế nhưng tôi lại có cả hai. Quý vị ngạc nhiên, có điều thưa quý vị, tôi đâu phải, gã đầu bếp 200-đồng-một-tháng của quý vị, mà là ông chủ của chính tôi, làm việc dưới ánh nhấp nháy màu nghệ[2] và lục tỏa ra từ nữ thần neon của riêng tôi.
Và những chutney với kasaundy[3] tôi chế biến, nói cho cùng, đều liên hệ với trò viết lách về đêm của tôi - ban ngày giữa những vại rau quả ngâm, ban đêm trên những trang giấy, tôi dành thời gian cho công việc vĩ đại là bảo quản. Ký ức, cũng giống như rau quả, đang được bảo vệ khỏi sự hủy hoại của đồng hồ.
[1] Một thứ nước sốt đặc trưng của Ấn Độ, thành phần gồm có hoa quả băm nhỏ, muối, đường..
[2] Nguyên văn: saffron, tức là hoa nghệ tây, phân biệt với turmeric là củ nghệ. Trong truyện Rushdie chủ yếu dùng khái niệm saffron để chỉ màu vàng nghệ.
[3] Một thứ gia vị cay, thành phần cơ bản là hạt mù tạc.
Nhưng Padma đang ở đây, cạnh khuỷu tay tôi, bắt tôi quay lại với thế giới của cốt truyện tuyến tính, với vũ trụ của rồi-sao-nữa: “Cứ thế này,” Padma phàn nàn, “anh sẽ hai trăm tuổi trước khi kể được đến chỗ anh chào đời.”
Cô làm bộ hững hờ, chìa cái hông hớ hênh ra trước mặt tôi, nhưng không lừa được tôi. Tôi biết tỏng rằng cô, phản đối rầm rĩ thế thôi, cắn câu rồi. Chẳng nghi ngờ gì nữa: chuyện tôi kể đã hớp hồn cô, nên bỗng dưng cô thôi không cằn nhằn bắt tôi phải về nhà, phải chăm tắm hơn, phải thay bộ quần áo đầy mùi giấm ra, phải rời khỏi dù chỉ một tích tắc cái nhà máy rau quả ngâm tối om này, nơi mùi gia vị không ngừng sủi bọt trong không khí... giờ đây bà chúa phân của tôi cứ thế mắc một cái võng ở góc phòng và nấu nướng cho tôi trên hai cái bếp ga đen kịt, chỉ làm gián đoạn việc viết lách dưới ánh đèn Anglepoise của tôi để phản đối.
“Anh liệu mà nhanh lên, kẻo anh sẽ ngoẻo trước khi kịp cho mình ra đời đấy.” Cố nén niềm tự hào chính đáng của người kể chuyện thành công, tôi toan dạy dỗ cô.
“Mọi thứ - kể cả con người - đều có thể rỉ sang nhau,” tôi giải thích, “như hương vị khi ta nấu ăn. Cái chết của Ilse Lubin chẳng hạn, nó đã rỉ sang ông lão Aadam, đọng thành vũng ở đấy cho đến ngày ông gặp Chúa. Tương tự,” tôi nói, chân thành và truyền cảm, “quá khứ đá nhỏ giọt vào tôi... nên ta không thể bỏ qua nó được...”
Cái nhún vai của cô, khiến ngực cô sóng sánh đến là thích mắt, ngắt lời tôi. “Với tôi đó là một cách điên khùng để kể chuyện đời anh,” cô kêu, “nếu mãi mà anh chẳng đến được đoạn bố mẹ mình gặp nhau.”
... Và đương nhiên là Padma đang rỉ sang tôi. Trong khi lịch sử tràn ra từ cơ thể nứt nẻ của tôi, bông sen của tôi âm thầm nhỏ giọt vào, với đầu óc thực tế, sự mê tín đến phi lý, tình yêu đầy mâu thuẫn của cô dành cho những chuyện hoang đường, nên cũng là thích hợp khi tôi sắp kể câu chuyện về cái chết của Mian Abdullah. Con Chim ngân nga bạc mệnh: một huyền thoại thời chúng tôi.
... Và Padma là một phụ nữ bao dung, bởi cô đã bên tôi trong những ngày cuối này, dẫu tôi chẳng làm được gì nhiều cho cô. Đúng vậy - một lần nữa, đây là điều phải lẽ cần nói ra trước khi tôi nhảy sang chuyện của Nadir Khan - tôi không còn là đàn ông nữa. Bất chấp muôn vàn tài khéo và đủ kiểu săn sóc của Padma, tôi không thể rỉ sang cô, ngay cả khi cô gác chân trái lên chân phải tôi, quặp chân phải quanh eo tôi, ngả đầu lên đầu tôi và kêu lên gừ gừ; kể cả khi cô thì thầm vào tai tôi, “Sáng tác xong rồi, xem ta có bắt cái bút chì kia làm việc được không nào!”; bất chấp mọi cố gắng của cô, tôi không thể phụt vào ống nhổ của cô được.
Tự thú thế đủ rổi. Khuất phục trước áp lực bất khả kháng mang tên Padma của chủ nghĩa rồi-sao-nữa, và nhớ đến khoảng thời gian hữu hạn tôi có trong tay, tôi nhảy một phát khỏi Mercurochrome và hạ xuống năm 1942. (Tôi cũng nóng lòng cho bố mẹ mình gặp nhau chứ.)
Có vẻ như cuối hè năm ấy, ông tôi, Bác sĩ Aadam Aziz, mắc phải một dạng bệnh lạc quan cực kỳ nguy hiểm. Đạp xe khắp Agra, ông huýt sáo rất chói tai, rất dở, nhưng hớn hở. Cố nhiên ông chẳng lẻ loi, bởi, bất chấp nỗ lực tột bậc của nhà chức trách hòng dập tắt nó, dịch bệnh lây lan ấy đã bùng phát trên khắp Ấn Độ, và các biện pháp quyết liệt sắp được thực thi để có thế kiểm soát được bệnh dịch. Mấy ông cụ ở hàng trầu trên đỉnh đường Cornwallis nhai trầu và dự báo có sự bất tường.
“Tôi sống bằng này đã gấp đôi tuổi tôi đáng thọ,” cụ già nhất bảo, giọng cụ lạo xạo như cái đài cũ vì hàng thập niên đang cọ xát vào nhau quanh dây thanh đới, “mà chưa từng thấy đang cơn bĩ cực lại lắm người hớn hở đến thế. Nhất định là ma làm.” Đó, kỳ thực, là một thứ virus dẻo dai - riêng thời tiết lẽ ra đã đủ ngăn thứ vi trùng ấy sinh sôi, vì ai cũng thấy là năm nay sẽ hạn.
Mặt đất nứt nẻ. Bụi nuốt sạch rìa đường, và có hôm từng vết nứt rộng hoác xuất hiện trên những giao lộ nện đá dăm. Mấy ông cụ nhai trầu ở hàng trầu bắt đầu bàn tán về điềm báo, tự trấn an bằng trò phụt-ống-nhổ, họ đoán già đoán non về vô số chuyện không tên trời-mới-biết-là-gì giờ đây có thể nảy ra từ mặt đất nứt nẻ. Hình như cái khăn xếp của tay người Sikh sửa xe đạp tự dưng bật khỏi đầu gã giữa cái nóng buổi chiều, còn tóc gã, chẳng hiểu tại sao, tự nhiên dựng đứng lên. Và, tầm thường hơn, nước đã khan hiếm đến mức dân bán sữa cũng không kiếm nổi nước sạch để pha vào sữa nữa... Ở phương xa, một cuộc Thế chiến nữa đang nổ ra. Ở Agra, cái nóng tăng dần. Nhưng ông tôi vẫn huýt sáo. Các ông cụ hàng trầu cảm thấy tiếng huýt sáo của ông, giữa lúc như thế, có phần không hợp cảnh.
(Còn tôi, giống họ, phún xuất và vượt lên mọi nứt rạn.)
Cưỡi trên xe đạp, chiếc cặp hành trang buộc ở gác-ba-ga, ông tôi huýt sáo. Bất chấp cơn khó chịu trên mũi, môi ông chu ra. Bất chấp vết bầm trên ngực đã hai mươi ba năm không chịu tan đi, nỗi phấn khích của ông không hề suy suyển. Hơi thoát ra khỏi môi ông và hóa thành tiếng. Ông huýt sáo giao điệu Đức xưa: Tannenbaum.
Dịch bệnh lạc quan bắt nguồn từ một người duy nhất, mà tên ông ta, Mian Abdullah, chỉ riêng đám nhà báo là dùng. Còn với mọi người, ông là Chim ngân nga[4], một sinh vật hẳn sẽ là hoang đường ví thử nó không tồn tại.
“Ảo thuật gia thành kẻ chiêu hồn[5],” đám nhà báo tán, “Mian Abdullah nổi lên từ ghetto lừng danh của giới ảo thuật Delhi để trở thành hy vọng của một trăm triệu người theo đạo Hồi Ấn Độ.” Chim ngân nga là nhà sáng lập, chủ tịch, người hợp nhất và linh hồn xúc tiến Hội nghị Hồi giáo Tự do; năm 1942, lều rạp và diễn đàn mọc lên giữa quảng trường Agra, nơi phiên họp thường niên lần thứ hai của Hội nghị sắp diễn ra.
Ông tôi, năm mươi hai tuổi, tóc bạc đi vì năm tháng và những niềm đau khác, bắt đầu huýt sáo khi đi qua quảng trường. Lúc này ông cưỡi xe lượn qua từng góc phố, bó những góc cua lả lướt, luồn lách giữa những bãi phân bò và lũ nhóc... và, vào một thời điểm khác, ở một nơi khác, bảo Quận chúa xứ Cooch Naheen bạn ông: “Tôi khởi đầu là người Kashmir và không hẳn là tín đồ đạo Hồi. Rồi tôi bị một vết bầm trên ngực, biến tôi thành người Ấn Độ. Tôi vẫn không hẳn là tín đồ đạo Hồi, nhưng tôi hết lòng ủng hộ Abdullah. Ông ấy chiến đấu cuộc chiến của tôi.”
Mắt ông vẫn xanh màu trời Kashmir... ông về đến nhà, và dù đôi mắt vẫn còn một tia thỏa mãn, tiếng huýt sáo ngừng bặt. Bởi đợi ông trong mảnh sân đầy lũ ngỗng ác tâm là vẻ mặt khó chịu của bà tôi Naseem Aziz, người mà ông đã sai lầm khi yêu từng mảnh một, người giờ đây đã được hợp nhất và biến thành cái hình hài kỳ vĩ sẽ gắn liền với bà suốt đời, người luôn được biết đến với cái biệt danh kỳ lạ là Mẹ Bề trên.
[4] Hummingbird, tiếng Việt là chim ruồi. Loài chim này được gọi là humming (ngân nga) bird vì khi vỗ cánh phát ra âm thanh u u như tiếng hát. Người dịch dịch sát chữ cho phù hợp với tình tiết truyện.
[5] Nhan đề bài báo cố ý chơi chữ: magician và conjurer đều chỉ người làm ảo thuật. Conjure nghĩa là dùng ma thuật triệu tập linh hồn, ám chỉ việc Mian Abdullah đứng ra triệu tập Hội nghị Hồi giáo Tự do.
Bà đã trở thành một phụ nữ to bè, già trước tuổi, với hai nốt ruồi to tướng như ti phù thủy[6] giữa mặt, và bà cố thủ trong một pháo đài vô hình do bà dựng nên, một thành trì sắt đá của truyền thống và những điều xác tín. Hồi đầu năm, Aadam Aziz đặt ảnh phóng to bằng người thật của cả gia đình để treo trên tường phòng khách. Ba cô con gái và hai cậu con trai làm mẫu khá ngoan ngoãn, nhưng Mẹ Bề trên nổi đóa lên khi đến lượt. Sau cùng, tay thợ ảnh định rình chụp lúc bà bất ngờ, nhưng bà vớ lấy chiếc máy và đập nó tan tành ngay trên sọ anh chàng. May thay, anh ta sống sót, có điều không đâu trên thế gian này có một bức ảnh bà tôi cả. Bà không phải là người chịu bị nhốt vào cái hộp đen con con của bất kỳ ai. Với bà, phải sống trong nỗi nhục nhã để mặt trần, không che mạng, đã đủ lắm rồi - bà không đời nào cho phép sự thật ấy được lưu giữ lại.
[6] Thời Trung cổ ở Châu Âu, người ta quan niệm những phụ nữ hành nghề phù thủy trên người sẽ có ba núm vú, núm thứ ba này (có thể là do đột biến gien, thịt thừa, nốt ruồi) là để nuôi quỷ. Hàng nghìn phụ nữ đã bị tòa án tôn giáo kết tội và hỏa thiêu căn cứ vào thuyết này.
Có lẽ việc buộc phải khỏa thân phần mặt, cộng với việc Aziz không ngừng yêu cầu bà nắc ở dưới ông, đã đẩy bà đến chỗ phòng thủ quyết liệt. Và những gia quy do bà thiết lập là một hệ thống tự vệ kiên cố đến nỗi Aziz, sau nhiều nỗ lực bất thành, phần nào đã từ bỏ ý định đột kích vô số công sự và thành lũy của bà, mặc bà, như một con nhện tự mãn cỡ bự, ngự trị cái lãnh địa bà đã chọn. (Và, có lẽ, đó không phải là một hệ thống tự vệ, mà là một phương thức phòng vệ chống lại chính bà).
Trong số những thứ bà cấm cửa, có mọi vấn đề chính trị. Khi Bác sĩ Aziz muốn nói chuyện này, ông đến chỗ nữ Quận chúa bạn ông, và Mẹ Bề trên sưng sỉa lên, nhưng không quá lắm, bởi bà biết những chuyến đi của ông đồng nghĩa với chiến thắng của bà.
Hai tâm điểm trong vương quốc của bà là nhà bếp và nhà kho. Cái đầu tiên tôi chưa vào bao giờ, song tôi nhớ đã dòm qua cánh cửa chớp bị khóa của nhà kho vào thế giới bí hiếm bên trong, thế giới của những giỏ sắt treo trên tường và phủ vải lanh cho khỏi ruồi, của những hộp thiếc mà tôi biết đựng đầy đường phèn và những đồ ngọt khác, của những chiếc rương bị khóa dán nhãn chỉnh tề ngay ngắn, của các thứ hạt và củ cải và bao gạo, của trứng ngỗng và chổi cán gỗ. Nhà kho và bếp là hai lãnh địa không thể từ bỏ của bà, và bà bảo vệ chúng một cách hung tợn.
Khi bà có bầu đứa con cuối cùng, dì Emerald, chồng bà đề nghị gánh đỡ cho bà công việc nhàm chán là giám sát đầu bếp. Bà không đáp, nhưng hôm sau, khi Aziz đến gần bếp, bà xuất hiện với một cái nồi kim loại trên tay và đứng chặn trước cửa. Bà béo và lại đang bầu, nên lối vào chả còn bao nhiêu.
Aadam Aziz cau mày. “Gì thế này, mình?”
Bà tôi đáp, “Đây, cái-gì-không-biết, là một cái nồi rất nặng, và nếu tôi tóm được ông vào đây dù chỉ một lần thôi, cái-gì-không-biết, tôi sẽ nhét đầu ông vào đó, thêm tí dahi, và làm cái-gì-không-biết, một nồi korma.” Tôi không biết từ đâu bà tôi lại biến cái ngữ cái-gì-không-biết ấy thành câu cửa miệng, nhưng theo năm tháng nó thâm nhập vào những câu nói của bà mỗi lúc một nhiều. Tôi cứ muốn nghĩ về nó như một tiếng kêu cứu vô thức... như một câu hỏi thực sự. Mẹ Bề trên đang ám thị với chúng ta rằng, bất chấp sự tồn tại và đồ sộ của mình, bà đang trôi dạt trong vũ trụ. Bà không biết, quý vị thấy đấy, cái đó gọi là gì.
... Và tại bàn ăn, với sự độc đoán, bà tiếp tục trị vì. Không món nào được bày ra bàn, không bát đĩa nào được dọn. Cà ri và bát đĩa được bày bố trên chiếc bàn phụ thấp bởi một tay bà, còn Aziz và lũ trẻ bà dọn cho gì thì ăn nấy. Chính bởi tính biểu trưng của quyền lực trong tục lệ này mà, ngay cả khi chồng bà bị chứng táo bón hành hạ, bà không một lần cho phép ông chọn món ăn, và không lắng nghe bất cứ thỉnh cầu hay lời khuyên nào. Pháo đài không chuyển động. Kể cả khi hoạt động của những sinh linh lệ thuộc nó trở nên bất thường.
Suốt thời gian dài ẩn náu của Nadir Khan, và suốt những lần đến chơi ngôi nhà ở đường Cornwallis của anh chàng Zulfikar người si mê Emerald và của tay lái buôn reccine-và-vải-giả-da[7] thành đạt có tên Ahmed Sinai người khiến bác Alia tôi tổn thương sâu sắc đến độ bà ôm hận suốt hai mươi lăm năm trước khi phát tiết một cách cay nghiệt lên mẹ tôi, vòng kìm kẹp của Mẹ Bề trên với gia đình chưa từng lơi lỏng; và từ trước khi sự xuất hiện của Nadir kích phát sự im lặng đáng sợ, Aadam Aziz đã cố phá vỡ vòng kìm kẹp này, và buộc phải tuyên chiến với vợ mình. (Tất cả những chuyện này nhằm để cho thấy tác động của bệnh lạc quan lên ông là khác thường đến mức nào.)
[7] Reccine cũng là một loại vải giả da, xuất xứ từ Rexine là tên một thương hiệu nổi tiếng của Anh.
... Vào 1932, mười năm trước đó, ông đã giành quyền kiểm soát việc học hành của các con. Mẹ Bề trên rất lo; nhưng đó là vai trò truyền thống của người cha, nên bà chẳng thể phản đối. Alia mười một - cô bé thứ hai, Mumtaz, xấp xỉ chín tuổi. Hai cậu bé, Hanif và Mustapha, lên tám và sáu, cô út Emerald chưa đầy năm tuổi. Mẹ Bề trên quay ra giãi bày nỗi lo với người đầu bếp, Daoud.
“Lão ấy nhồi vào đầu lũ trẻ những tiếng gì ta cũng chịu, cái-gì-không-biết, và đủ thứ rác rưởi khác, hẳn rồi.” Daoud quấy thức ăn và Mẹ Bề trên than thở, “Ngươi có tưởng được là, cái-gì-không-biết, con bé tự gọi mình là Emerald? Bằng tiếng Anh, cái-gì-không-biết? Lão ấy rồi sẽ làm hỏng hết bọn trẻ. Rắc vừa thìa là thôi, cái-gì-không-biết, ngươi liệu tập trung nấu nướng và bớt hóng hớt chuyện người khác đi.”
Bà đặt ra một điều kiện giáo dục duy nhất: dạy dỗ về giáo lý. Không như Aziz, bị giằng xé bởi nỗi mơ hồ, bà vẫn là người sùng đạo. “Ông có Chim ngân nga của ông,” bà nói, “còn tôi, cái-gì-không-biết, tôi có Tiếng gọi của Chúa. Một tiếng tốt hơn, cái-gì-không-biết, tiếng ngân nga của thằng cha ấy.” Đó là một trong những bình luận chính trị hiếm hoi của bà... thế rồi đến cái ngày Aziz tống cổ ông thầy giáo lý. Ngón cái và ngón trỏ kẹp lấy tai vị maulvi. Naseem Aziz thấy chồng bà dắt ông lão bất hạnh râu ria thõng thượt ra cửa vườn, há hốc miệng rồi rú lên khi cái chân chồng bà tiếp xúc với phần mỡ màng của con người khả kính kia. Nổi trận lôi đình, Mẹ Bề trên liền xung trận.
“Đồ không có nhân phẩm!” bà rủa chồng, “Đồ không biết, cái-gì-không-biết, nhục!” Lũ trẻ đứng nhìn từ chỗ an toàn dưới mái hiên sau nhà. Và Aziz, “Bà có biết lão dạy con bà những gì không?”
Và Mẹ Bề trên phóng câu hỏi đáp trả câu hỏi. “Có thứ gì là ông không từ để gieo tai ương, cái-gì-không-biết, xuống cái nhà này không?” -Nhưng giờ Aziz, “Bà tưởng là chữ Nastaliq[8] chứ gì? Hả?” - và vợ ông, tiếp tục khởi động, “Ông có ăn thịt lợn không? Cái-gì-không-biết? Có nhổ vào kinh Quran không?” Và, cao giọng, ông bác sĩ trả đòn, “Hay là vài tiết của ‘Con Bò’[9]? Bà tưởng thế à?”
...Không thèm để ý, Mẹ Bề trên đạt đến cực điểm: “Ông có gả con gái cho bọn Đức không!?” Rồi dừng lại, hào hển lấy hơi, để ông tôi nói ra, “Lão dạy chúng thù ghét, thưa bà. Lão dạy chúng thù ghét từ tín đồ Hindu đến đạo Phật đến đạo Kỳ Na đến đạo Sikh và những người ăn chay khác có giời mới biết. Bà muốn con bà đầy thù hận à, đồ đàn bà?”
[8] Một thể văn tự của Ba Tư, phổ biến ở các nước Nam Á.
[9]
“Ông muốn con ông vô đạo à?” Mẹ Bề trên mường tượng ra những binh đoàn của Đại thiên sứ Gabriel giáng hạ giữa đêm để giải lũ con dị giáo của bà xuống hỏa ngục. Bà có những hình dung rất sống động về hỏa ngục. Nó nóng như Rajputana[10] tháng Sáu và mọi người đều bị bắt học bảy thứ tiếng
... “Tôi xin thề, cái-gì-không-biết,” bà tôi nói, “rằng sẽ không một mẩu thức ăn nào đi từ bếp của tôi vào mồm ông! Không, một mẩu chapati cũng không, đến chừng nào ông đón maulvi sahib về và hôn, cái-gì-không-biết, chân ông ấy!”
[10] Ngày nay là Rãjasthãn, một bang ở Tây Bắc Ấn Độ, khí hậu sa mạc rất khắc nghiệt.
Cuộc chiến đói ăn khởi đầu ngày hôm đó suýt nữa đã trở thành một cuộc quyết đấu sinh tử. Giữ đúng lời thề, khi đến bữa, Mẹ Bề trên không dọn cho chồng, một tí gì, dù chỉ là cái đĩa không. Bác sĩ Aziz lập tức trả đũa, bằng cách dứt khoát tuyệt thực khi ra ngoài. Ngày qua ngày, năm đứa trẻ chứng kiến ông bố từ từ tiêu biến, trong khi bà mẹ lạnh lùng canh gác thức ăn.
“Bố có biến mất hoàn toàn được không?” Emerald thích thú hỏi, rồi lo lắng thêm, “Bố đừng làm vậy nhé, trừ phi bố biết cách quay về lại.”
Mặt Aziz xuất hiện những hốc lõm, mũi ông dường như cũng gầy đi. Cơ thể ông trở thành một chiến trường và mỗi ngày một mảnh của nó lại nổ tan tành. Ông bảo Alia, cô cả, đứa con hiểu biết: “Trong mọi cuộc chiến tranh, chiến trường chịu sự tàn phá nặng nề hơn cả hai bên tham chiến. Điều này là tất yếu.” Ông bắt đầu phải ngồi xe kéo khi đi thăm bệnh. Bác Hamdard kéo xe bắt đầu lo lắng cho ông.
Quận chúa xứ Cooh Naheen phái sứ giả đến cầu xin Mẹ Bề trên. “Ấn Độ chưa đủ nhiều người chết đói hay sao?” sứ giả hỏi Naseem, và bà phóng ra một cái nhìn dữ dội của mãng xà[11] đã sớm trở thành huyền thoại. Tay chắp lại đặt trên đùi, tấm dupatta bằng vải muslin quấn chặt vắt cổ chày quanh đầu, bà dùng cặp mắt không mí xuyên thấu những vị khách và bức mắt họ cụp xuống. Giọng họ hóa đá, tim họ đông cứng lại, và một mình trong phòng giữa đám đàn ông lạ mặt, bà tôi ngồi ngạo nghễ, xung quanh là những ánh mắt cúi gằm.
“Đủ nhiều, cái-gì-không-biết?” bà kiêu hãnh thốt. “Hừm, có thể. Nhưng, cũng có thể chưa.”
[11] Basilisk: giống mãng xà trong truyền thuyết, ánh mắt có sức mạnh giết người.
Nhưng sự thật là Naseem Aziz rất lo lắng, vì trong khi cái chết vì đói của Aziz sẽ là minh chứng rõ ràng cho sự ưu việt của thế giới quan của bà so với của ông, bà không sẵn lòng làm quả phụ chỉ vì một nguyên tắc. Có điều bà không tìm được lối thoát cho tình trạng ấy mà không phải nhượng bộ và mất mặt, và khi đã buộc phải để mặt trần, bà tôi tuyệt không cam tâm mất một tí mặt nào.
“Sao mẹ không ốm đi ?” - Alia, đứa con hiểu biết, tìm ra giải pháp. Mẹ Bề trên vội vã rút lui chiến thuật, kêu rằng mình bị đau, tất nhiên là một cơn đau dữ dội, cái-gì-không-biết, và nằm liệt giường. Khi bà vắng mặt, Alia chìa nhành ô liu cho cha, dưới hình dáng một bát xúp gà. Hai ngày sau, Mẹ Bề trên ngồi dậy (sau khi từ chối cho chồng khám bệnh lần đầu tiên trong đời), tiếp quản lại quyền lực, rồi với một cái nhún vai mặc nhận trước quyết định của con gái, đưa thức ăn cho Aziz cứ như thể đó chỉ là một chuyện hết sức nhỏ nhặt.
Đó là chuyện mười năm trước, thế nhưng, đến 1942, những ông cụ ở hàng trầu vẫn bị cảnh ông bác sĩ huýt sáo khơi dậy những ký ức buồn cười về lần vợ ông thiếu điều nữa đã khiến ông phải diễn trò biến mất, dù ông không biết cách quay trở lại. Mãi đến lúc trời tối họ vẫn huých nhau với những, “Ông có nhớ cái hồi...” và “Khô quắt lại y hệt bộ xương trên dây phơi! Ông ấy còn chả đạp nổi...” và “... tôi nói ông nghe, baba, mụ ấy làm được những chuyện gớm lắm. Tôi nghe nói mụ ta còn mơ cả giấc mơi của con gái, chỉ để biết chúng đang mưu tính gì!”
Nhưng khi trời tối hẳn, trò huých nhau ấy cũng tàn, vì đã đến giờ thi đấu. Nhịp nhàng, trong yên lặng, họ nhai rồi bỗng một cặp môi chúm lại, nhưng thứ phun ra không phải là hơi gió. Không phải tiếng sáo, mà là một vòi nước trầu dài, đỏ phóng ra từ đôi môi già nua, và bay với sự chính xác tuyệt đối vào cái ống nhổ đồng thau cũ kỹ. Tiếng vỗ đùi và sự thán phục kiểu “Kinh, kinh!” và, “Một phát quá cao thủ!” vang lên không ngớt... Quanh mấy ông lão, thị trấn nhạt nhòa dần và trò chơi đêm không mục đích.
Trẻ con chơi đánh vòng đuổi bắt và vẽ râu lên những tấm áp phích của Mian Abdullah. Và giờ mấy ông cụ đặt cái ống nhổ ra giữa đường, càng lúc càng xa chỗ họ ngồi, và phun những tia nước mỗi lúc một dài hơn về phía nó. Tia nước bay vẫn chuẩn. “Ồ quá đỉnh, yara!” Đám nhóc bụi đời chơi trò né qua né lại giữa những tia nước đỏ, đem trò thi gan này chồng lên môn nghệ thuật nghiêm túc phụt-ống-nhổ
... Nhưng đây rồi một chiếc xe quân sự, lũ nhóc chạy tán loạn khi nó tới... đây, Chuẩn tướng Dodson, chỉ huy quân sự của thành phố, ngạt thở vì nóng... còn đây, viên A.D.C[12] của ông ta, Thiếu tá Zulfikar, đang chìa cho ông cái khăn. Dodson lau mặt, lũ nhóc chạy tán loạn, cỗ xe húc đổ cái ống nhổ. Một vùng chất lỏng đỏ sậm, lẫn những cục nhỏ như máu, đông lại thành một bàn tay đỏ lòm trong bụi đường và chỉ về quyền lực đang rút lui của Raj[13] đầy vẻ kết tội.
[12] Viết tắt của aide-de-camp: sĩ quan phụ tá.
[13] Tên gọi chế độ cai trị của Anh tại tiểu lục địa Ấn Độ trước năm 1947; tên chính thức là “Đế quốc Ấn Độ thuộc Anh” (British Indian Empire).
Hồi ức của một tấm hình mốc meo (có lẽ là tác phẩm của chính anh thợ ảnh tội nghiệp bị nện ung óc, vì mấy bức ảnh phóng to bằng người thật mà suýt nữa thì toi mạng): Aadam Aziz, rạng rỡ vì chứng sốt-lạc-quan, bắt tay một người đàn ông trạc sáu mươi, típ người nôn nóng, sôi nổi, một lọn tóc bạc rủ xuống lông mày như một vết sẹo dễ gần. Đó là Mian Abdullah, con Chim ngân nga. (“Ông xem, Bác sĩ Sahib, tôi tập tành kỹ lắm. Ông muốn đấm vào bụng tôi không? Thử đi, thử đi. Người tôi cực ngon đấy.”
... Trong ảnh, nếp gấp của chiếc áo trắng rộng giấu đi cái bụng, còn nắm tay ông tôi không siết lại, mà bị nuốt gọn trong bàn tay nhà cựu ảo thuật.) Còn đằng sau, nhìn họ đầy độ lượng, là Quận chúa xứ Cooch Naheen, người đang trắng bợt ra từng mảng, một căn bệnh đã rỉ vào lịch sử và bùng phát trên diện rộng không lâu sau Độc lập
... “Ta là nạn nhân,” Quận chúa thầm thì, qua đôi môi nhiếp ảnh vĩnh viễn không mấp máy, “nạn nhân bất hạnh của các mối quan tâm liên văn hóa của mình. Da ta là biểu hiện bên ngoài của chủ nghĩa quốc tế trong tâm hồn ta.” Phải, một cuộc đối thoại đang diễn ra trên bức ảnh này, khi, như những nghệ nhân nói tiếng bụng, những kẻ lạc quan gặp thủ lĩnh của họ. Đứng cạnh Quận chúa - nghe cho kỹ đây: sử học và phả hệ chuẩn bị gặp nhau! - là một gã lập dị, thịt nhão, bụng phệ, mắt như nước ao tù, tóc dài như thi sĩ. Nadir Khan, thư ký riêng của con Chim ngân nga. Chân gã, nếu không bị tấm ảnh đóng băng lại, sẽ nhấp nhổm vì bối rối.
Gã lí nhí qua nụ cười ngớ ngẩn, gượng gạo, “Thật mà, tôi có làm thơ...”
Tới đây Mian Abdullah ngắt lời, cái miệng với hàm răng nhọn sáng loáng oang oang: “Nhưng thơ gì! Ngần ấy trang chẳng có nổi một vần!”
Và Quận chúa, nhỏ nhẹ: “Một nhà thơ cách tân chăng?”
Và Nadir, bẽn lẽn: “Vâng.”
Ghê gớm thay sự căng thẳng của cảnh tĩnh, bất động ấy. Sắc nhọn thay câu đùa ấy, khi con Chim ngân nga nói: “Thế thì đã sao, nghệ thuật là phải khơi dậy, nó phải nhắc nhở chúng ta về di sản văn chương huy hoàng của mình!”... Và đó có phải là một bóng đen, hay cái cau mày trên trán viên thư ký?
... Giọng Nadir lí nhí trong bức ảnh đã mờ: “Tôi không tin vào nghệ thuật cao sang, Mian Sahib. Ngày nay, nghệ thuật là không phân đẳng cấp, thơ của tôi và ừm - trò chơi phụt-ống-nhổ đểu bình đẳng.”
... Lúc này Quận chúa, vốn là người đôn hậu, đùa, “Chà, chắc ta phải để riêng một phòng, chuyên để ăn trầu và phụt-ống-nhổ. Ta có một cái ống nhổ bằng bạc cực đẹp, khảm thanh kim thạch, các vị nhất định phải đến tập nhé. Hãy để trên tường nhoe nhoét những cú phun không chính xác của bọn ta! Ít ra đó cũng sẽ là những vết nhơ trung thực.”
Và lúc này bức ảnh đã cạn lời, giờ tôi mới nhận thấy, bằng tâm nhãn, rằng từ đâu đến cuối con Chim ngân nga luôn nhìn ra phía cửa, ở sau vai ông tôi, ngoài rìa tấm ảnh. Đằng sau cánh cửa, lịch sử đang vẫy gọi. Con chim ngân nga nôn nóng muốn đi... nhưng ông đã ở bên chúng ta, và sự hiện diện của ông đã đem lại cho chúng ta hai sợi chỉ sẽ đeo đuổi tôi suốt những ngày còn lại: sợi dẫn đến ghetto của giới ảo thuật, và sợi kể câu chuyện về Nadir gã thi sĩ không vần, không động từ, và cái ống nhổ bằng bạc vô giá.
“Vớ vẩn thật,” Padma của chúng ta nói. “Ảnh làm sao mà nói đươc? Thôi nghỉ đi; anh mệt quá nghĩ không nỗi nữa rồi.”
Nhưng khi tôi bảo cô rằng Mian Abdullah có cái đặc điểm kỳ lạ là ngân nga không dứt, ngân nga một cách kỳ quái, chẳng ra nhạc cũng chẳng ra không nhạc, lại như kiểu máy, tiếng ngân nga của động cơ hay máy phát điện, cô lại chấp nhận khá dễ dàng, nói vẻ hiểu biết, “Ừm, nếu ông ta đầy sinh lực như thế, cái đó tôi thấy chả có gì lạ.”
Cô lại dỏng tai lên rồi, nên tôi cũng hào hứng trở lại câu chuyện và kể rằng tiếng ngân nga của Mian Abdullah lên bổng xuống trầm tương ứng với cường độ làm việc của ông. Đó là một tiếng ngân có thể xuống thấp tới mức gây nhức răng, còn khi lên đến ngưỡng cao nhất, điên cuồng nhất, nó có khả năng gây ra cơn cương dương cho bất kỳ ai ở gần. (“Arre baap,” Padma cười, “thảo nào đám đàn ông khoái ông ta thế!”) Làm thư ký cho ông, Nadir Khan liên tục bị cái quái tật gây rung của ông chủ hành hạ, và tai răng dương vật gã vĩnh viễn tuân theo mệnh lệnh của con Chim ngân nga.
Thế thì, tại sao Nadir vẫn ở lại, bất chấp những cơn cương dương làm gã sượng sùng trước mặt người lạ, bất chấp những cái răng hàm đau nhức và một lịch làm việc thường kéo dài hai mươi hai tiếng trên hai tư? Không phải bởi vì gã coi đó là bổn phận của nhà thơ, phải tiếp cận trung tâm các sự kiện để truyền tải chúng vào văn chương - tôi tin thế. Cũng không phải vì gã mưu cầu danh vọng. Không: nhưng Nadir có một điểm chung với ông tôi, và thế đủ. Gã, cũng như ông, đã mắc bệnh lạc quan.
Như Aadam Aziz, như vị Quận chúa xứ Cooch Naheen, Nadir Khan căm ghét Liên đoàn Hồi giáo (“Cái lũ bợ đỡ ấy!” nữ Quận chúa thốt lên bằng giọng nói trong như bạc, lên xuống từng quãng tám như người trượt tuyết.
“Địa chủ với đặc quyền cần bảo vệ! Cái đấy thì dính gì đến người theo đạo Hồi? Cả bọn kéo đến xun xoe người Anh rồi lập chính quyền cho họ, nên giờ đảng Quốc đại mới từ chối điều đó!”[14] Đó là năm nghị quyết “Ra khỏi Ấn Độ” ra đời.
“Mà hơn nữa,” Quận chúa phán, “bọn chúng bị điên. Không điên mà lại đòi chia cắt Ấn Độ?”)
[14] Năm 1935 nước Anh đồng ý trao trả quyền tự trị ở cấp tỉnh cho Ấn Độ. Năm 1937, khi bầu cử, đảng Liên đoàn Hồi giáo (Muslim League) thắng và lập ra chính quyền ờ Bengal và Punjab, nhưng đảng Quốc đại thắng ở hầu hết các bang khác và từ chối chia sẻ quyền lực với đảng Hồi giáo ở các bang có đông người theo đạo Hồi.
Mian Abdullah, con Chim ngân nga, đã gần như một tay dựng nên Hội nghị Hồi giáo Tự do. Ông mời thủ lĩnh của hàng chục phe nhóm Hồi giáo lập ra một liên minh lỏng lẻo làm giải pháp thay thế cho sự độc đoán và đặc quyền của phe Liên đoàn. Đây là một ngón chiêu hồn xuất sắc, vì họ đều đến dự cả. Đây là Hội nghị đầu tiên, tại Lahore; Agra sẽ chứng kiến phiên thứ hai.
Những căn lều sẽ đông nghịt thành viên của các phong trào nông dân, các nghiệp đoàn lao động thành thị, các chức sắc tôn giáo và phe nhóm địa phương. Nó sẽ chứng kiến sự khẳng định điều đã được nêu ra tại phiên họp thứ nhất: đó là Liên đoàn, với yêu sách chia cắt Ấn Độ, không hề đại diện cho ai ngoài chính họ.
“Họ đã quay lưng lại chúng ta,” áp phích Hội nghị viết, “và giờ lại tuyên bố chúng ta đứng sau ủng hộ họ!” Mian Abdullah phản đối chia cắt.
Trong cuộc vật lộn với dịch bệnh lạc quan, người bảo trợ cho con Chim ngân nga, Quận chúa xứ Cooh Naheen, không hề đả động đến những đám mây nơi chân trời. Bà không hề chỉ ra Agra là một cơ sở vững chắc của Liên đoàn Hồi giáo, chỉ nói “Anh bạn Aadam, nếu con Chim ngân nga muốn tổ chức Hội nghị ở đây, ta sẽ không khuyên cậu ấy rời sang Allahabad.”
Bà gánh toàn bộ phí tổn cho sự kiện mà không hề phàn nàn hay can thiệp; và không, phải nói thẳng là, né tránh việc gây thù chuốc oán trong thành phố. Quận chúa không sống như các tiểu vương Ấn Độ khác. Thay vì săn gà gô, bà cấp học bổng. Thay vì những xì căng đan ở khách sạn, bà có chính trị. Vậy là bắt đầu có lời đồn thổi. “Đám học giả của mụ ta, gớm, ai chả biết họ phải làm nhiệm vụ ngoại khóa. Họ đến phòng mụ trong bóng tối, và mụ tuyệt không để họ thấy bộ mặt loang lổ của mụ, nhưng mê hoặc họ lên giường bằng giọng hát phù thủy!”
Aadam Aziz chưa bao giờ tin là có phù thủy. Ông hân thưởng nhóm bạn hữu xuất chúng của bà, những người nói tiếng Ba Tư tự nhiên không khác gì tiếng Đức. Nhưng Naseem Aziz, nửa tin nửa ngờ những lời đồn về Quận chúa, không bao giờ tháp tùng ông tới phủ đệ của bà. “Nếu Thượng đế muốn con người nói nhiều thứ tiếng, bà lý luận, “thì sao lại cho mỗi người một cái lưỡi ?”[15]
[15] Trong tiếng anh chữ tongue (cái lưỡi) cũng có nghĩa là ngôn ngữ.
Vậy là không con bệnh lạc quan nào của con Chim ngân nga được chuẩn bị cho điều sắp xảy ra. Họ chơi phụt-ống-nhổ, và lờ đi những vết nứt trên mặt đất.
Đôi khi truyền kỳ làm nên hiện thực, và trở nên hữu ích hơn sự thật. Vậy thì, theo truyền kỳ - nghĩa là theo câu chuyện ngồi lê đã được trau chuốt của mấy ông cụ hàng trầu - Mian Abdullah sa cơ vì đã trót mua, ở ga Agra, một cái quạt lông công, mặc cho Nadir Khan cảnh cáo đó là điềm gở. Thêm nữa là, vào cái đêm của những mảnh trăng lưỡi liềm ấy, Abdullah đang làm việc với Nadir, nên khi vầng trăng non mọc lên cả hai đều thấy nó qua cửa kính[16].
“Mấy chuyện đó can hệ lắm,” mấy ông cụ nhai trầu bảo. “Bọn ta sống lâu lắm rồi, bọn ta biết.” (Padma gục gặc tán thành.)
[16] Theo quan điểm mê tín, nhìn thấy trăng non đầu tháng qua kính là điểm gở.
Văn phòng của Hội nghị đặt tại tầng trệt tòa nhà của khoa sử trong khuôn viên trường Đại học. Abdullah và Nadir sắp hoàn thành công việc buổi tối, tiếng ngân của con Chim ngân nga đang ở tông trầm và răng Nadir đang run cầm cập. Trên tường có một tấm áp phích, thể hiện tinh thần chống Chia cắt ưa thích của Abdullah, một câu thơ của nhà thơ Iqbal: “Có mảnh đất nào không phải là nước Chúa Trời?” Lúc này toán sát thủ vừa vào đến khuôn viên trường.
Sự thật: Abdullah có vô số kẻ thù. Thái độ của người Anh đối với ông luôn mập mờ. Chuẩn tướng Dodson không muốn ông có mặt ở đây. Có tiếng gõ cửa và Nadir ra mở. Sáu mảnh trăng non tiến vào phòng, sáu lưỡi dao cong trên tay sáu kẻ vận đồ đen, đeo khăn che mặt. Hai tên giữ chặt Nadir trong khi những tên còn lại xông vào con Chim ngân nga.
“Đúng lúc này,” mấy cụ già nhai trầu kể, “tiếng ngân của con Chim ngân nga bắt đầu lên cao. Cao nữa, cao mãi, yara, và mắt bọn sát thủ lồi ra khi thấy cái ấy dựng lều dưới áo choàng. Rồi - Allah, rồi! - những lưỡi dao bắt đầu hát và Abdullah hát to hơn, ngân cao lên cao mãi như chưa ngân nga bao giờ. Người ông chắc nịch và những thanh loan đao cong dài không dế giết nổi ông, một bị gãy khi bổ vào một dẻ sườn, nhưng những lưỡi còn lại mau chóng nhuộm máu. Nhưng lúc này - nghe này! - tiếng ngân nga của Abdullah vượt ra khỏi ngưỡng nghe của tai người, đến tai lũ chó trong thành phố. Ở Agra có khoảng tám ngàn bốn trăm hai mươi con chó hoang.
Đêm hôm đó, chắc chắn có con còn mải ăn, có con sắp chết, có con đang tằng tịu và có con không nghe thấy lời kêu gọi. Cứ cho là hai nghìn con đi, tức là còn sáu ngàn bốn trăm hai mươi con dã cẩu, tất cả đều quay đầu phóng về trường Đại học, nhiều con từ tận đầu kia thành phố băng qua đường tàu. Ai cũng biết chuyện này có thật. Ở thành phố tất cả đều trông thấy, trừ những ai lúc đó đang ngủ. Đàn chó phóng rầm rập, như một đạo quân, bỏ lại sau lưng vung vãi nào xương nào phân nào lông rụng... và Abdullahji vẫn ngân nga không dứt, ngân nga ngân nga, và những lưỡi dao vẫn hát.
Còn điều này nữa: đột nhiên con mắt của một tên sát thủ phát nổ và rớt ra khỏi tròng. Sau đó người ta tìm thấy những mẩu thủy tinh vụn, bị giẫm nát trong lớp thảm!”
Họ tiếp, “Khi đàn chó đến nơi Abdullah đã thoi thóp và những lưỡi dao đã cùn... chúng đến như một bầy dã thú, chồm qua cửa sổ, không còn kính vì tiếng ngân nga của Abdullah đã chấn nát tất cả... chúng húc vào cửa chính đến khi gỗ vỡ ra... rồi tràn vào khắp nhà, baba!... con cụt chân, con rụng lông, nhưng đa số đều còn ít nhất mấy cái răng, trong đó lại có mấy cái sắc... Và phải thấy là: toán sát thủ hẳn không ngờ đến việc có kẻ can thiệp, bởi vì chúng không hề cắt người gác; nên đàn chó tấn công hoàn toàn bất ngờ... hai tên giữ Nadir Khan, gã èo uột ấy, gục xuống dưới sức nặng của bầy thú, với khoảng sáu mươi tám con chó trên cổ.., sau đó bọn giết người bị cắn xé tơi bời đến nỗi không ai có thể nhận diện được chúng.”
“Một lúc nào đó,” họ kể, “Nadir nhào qua cửa sổ bỏ chạy. Bầy chó và đám sát thủ quá bận rộn nên chẳng đuổi theo gã.”
Chó? Sát thủ?... Nếu quý vị không tin, cứ kiểm tra đi. Khám phá về Mian Abdullah và những Hội nghị của ông. Phát hiện ra chúng ta đã quét câu chuyện về ông xuống dưới thảm ra sao... rồi tôi sẽ kể quý vị nghe Nadir Khan, phụ tá của ông, đã sống ba năm dưới thảm nhà tôi thế nào.
Hồi trẻ, gã ở chung phòng với một tay họa sĩ có những bức họa cứ lớn dần lớn dần lên khi anh cố gắng đưa cái toàn vẹn của cuộc sống vào tác phẩm.
“Nhìn tôi xem,” anh nói trước khi tự sát, “tôi muốn thành một nhà tiểu họa, nhưng rốt cuộc cái tôi nhận được lại là bệnh chân voi!”
Những sự kiện phì đại trong đêm của những lưỡi dao cong ấy khiến Nadir Khan nhớ đến anh bạn cùng phòng, vì một lần nữa cuộc đời, tai quái thay, không chịu ở yên kích cỡ đời thực. Nó trở nên quá kịch tính: điều đó làm gã bấn loạn.
Làm thế nào Nadir Khan chạy ngang thành phố giữa đêm mà không ai để ý? Tôi cho rằng điều này là bởi gã là một thi sĩ tồi, và do đó, là kẻ sống sót bẩm sinh. Khi gã chạy, trong gã phát sinh một nỗi hổ thẹn, cơ thể gã như muốn xin lỗi vì đã xử sự như trong một bộ phim giật gân rẻ tiền, thứ phim các hàng rong vẫn bán ngoài ga, hoặc cho không kèm theo mấy lọ thuốc màu xanh chữa bệnh cảm, thương hàn, liệt dương, nhớ nhà, và nghèo khổ
... Đó là một đêm ấm trời trên đường Cornwallis. Một chậu than đã hết nằm cạnh dãy xe kéo không người. Hàng trầu đã đóng cửa và mấy ông lão đang ngủ trên sân thượng, mơ về cuộc đấu ngày mai. Một con bò mất ngủ, nhẩn nha nhai một bao thuốc Red & White, thơ thẩn đi qua một gã vô gia cư nằm thù lù một đống, có nghĩa là đến sáng gã sẽ thức dậy, vì cái giống bò không để ý đến người đang ngủ, trừ phi gã sắp chết. Rồi nó ngửi ngửi gã, vẻ ngẫm nghĩ. Bò thiêng cái gì cũng ăn.
Ngôi nhà lớn, cũ kỹ bằng đá của ông tôi, mua bằng tiền bán cửa hàng đá quý và món hồi môn của lão Ghani mù, đứng trong bóng đêm, giữ một khoảng cách tôn nghiêm với con đường. Sau nhà là một khu vườn có tường bao và cạnh cửa vườn là gian nhà phụ thấp tè cho ông lão Hamdard và đứa con trai Rashid chạy xe kéo thuê với giá rẻ. Trước gian nhà phụ là cái giếng có bánh xe nước do bò kéo, từ đó các kênh dẫn nước chảy ra ruộng ngô nhỏ nằm dọc ngôi nhà ra đến cổng của bức tường vành đai chạy dọc đường Cornwallis. Nằm giữa ngôi nhà và mảnh ruộng là một con đường nhỏ cho khách bộ hành và xe kéo. Ở Agra xích lô đã bắt đầu thay thế xe kéo tay. Xe ngựa kéo vẫn làm ăn được, nhưng cũng thưa dần
... Nadir Khan rụt đầu chuồn qua cống, ngồi xổm dựa vào bức tường vành đai giây lát, mặt đỏ bừng lên trong khi đái. Rồi, dường như hổ thẹn vì sự thô bỉ trong hành vi của mình, gã chạy ra ruộng ngô rồi chui tọt vào. Được những gốc ngô xác xơ vì nắng che khuất phần nào, gã nằm xuống trong tư thế của một bào thai.
Cậu trai Rashid kéo xe đã mười bảy và đang trên đường từ rạp chiếu bóng về nhà. Sáng hôm ấy cậu thấy hai người đàn ông đẩy một cỗ xe thấp gắn hai tấm áp phích vẽ tay khổng lổ, áp lưng vào nhau, quảng cáo cho bộ phim mới Gai-Wallah, có Dev, diễn viên thần tượng của Rashid, thủ vai chính.
NÓNG HỔI SAU NĂM MƯƠI TUẦN VŨ BÃO Ở DELHI! VỪA KẾT THÚC SÁU MƯƠI BA TUẦN THIỆN XẠ Ở BOMBAY! Cả hai tấm áp phích gào lên. HAI NĂM LIỀN CUỒNG NHIỆT! Bộ phim thuộc loại Viễn Tây phương Đông. Nhân vật chính, Dev, người không mảnh khảnh, một mình rong ruổi trên đồng cỏ. Trông khá giống bình nguyên Ấn-Hằng. Gai- Wallah nghĩa là bạn-của-bò và Dev vào vai một kẻ thế thiên hành đạo đơn thương độc mã bảo vệ loài bò.
MỘT MÌNH MỘT NGỰA! và HAI TAY HAI SÚNG!, anh âm thầm bám theo những đàn gia súc được lùa qua đồng cỏ đến lò mổ, đánh bại đám chăn bò và giải cứu những con vật thiêng. (Bộ phim nhắm đến khán giả người Hindu; tại Delhi nó đã gây ra bạo loạn. Ngưòi theo Liên đoàn Hồi giáo lùa bò qua rạp chiếu phim đến lò mổ, và đã bị vây đánh.) Ca khúc và vũ điệu trong phim rất hay và có một vũ công rất xinh đẹp, cô sẽ còn duyên dáng hơn nếu không bị bắt múa với cái mũ cao bồi bốn mươi lít trên đầu. Rashid ngồi dãy đầu ở tầng trệt[17] và cũng nhập bọn huýt sáo reo hò. Cậu chén hai cái samosa, tiêu mất khá tiền; mẹ cậu sẽ bực nhưng cậu đã có một bữa vui.
Trên đường đạp xe về, cậu dượt vài tuyệt chiêu cưỡi ngựa vừa xem trên phim, ngả thấp người sang một bên, thả cho xe tự do đổ dốc, dùng cỗ xe theo cách Gai-Wallah dùng con ngựa để ẩn mình trước kẻ thù. Cuối cùng cậu nhổm dậy, bẻ tay lái và trong sự hào hứng của cậu cỗ xe êm ái lướt qua cổng phóng xuống con đường dọc ruộng ngô. Gai-Wallah đã dùng chiêu này để qua mặt một bọn chăn bò khi chúng ngồi giữa rừng cây bụi, uống rượu và đánh bạc. Rashid phanh xe lại và phi thân vào ruộng ngô, chạy HẾT-TỐC-LỰC! về phía mấy gã chăn bò không hề nghi ngờ, súng lên cò sẵn sàng. Khi đến gần đống lửa của chúng cậu thét lên “tiếng hét căm thù” để làm chúng sợ hãi.
YAAAAAAA! Dĩ nhiên cậu không hét to thực sự ngay gần nhà Bác sĩ Sahib như thế, nhưng cậu vừa chạy vừa ngoác miệng ra, hét trong im lặng. THỊCH! THỊCH! Nadir Khan nãy giờ vẫn đang khó ngủ và lúc này gã mở mắt ra. Gã thấy - EEEYAAAH! - một bóng người gầy gò hùng hổ lao về phía mình như một đoàn tàu chở thư, hét đến lạc giọng - nhưng chắc gã điếc rồi, vì chẳng nghe thấy tiếng gì! - và gã vừa đứng lên, tiếng la vừa buột khỏi đôi môi quá dày của gã, thì Rashid cũng thấy gã và hét lên thành tiếng. Đồng thanh rú lên kinh hãi, cả hai cong đuôi bỏ chạy. Rồi thấy đối phương cũng chạy, họ đứng lại, săm soi nhau qua những gốc ngô khô quắt. Rashid nhận ra Nadir Khan, thấy quần áo gã tả tơi và thấy cực kỳ khó hiểu.
[17] Tầng trệt rẻ hơn tầng hai. Hàng đầu lại rẻ hơn cả vì quá gần màn hình. Chi tiết kín đáo nói về cái nghèo của cậu trai.
“Tôi là bạn,” Nadir ngớ ngẩn nói. “Tôi cần gặp Bác sĩ Aziz"
“Nhưng Bác sĩ đang ngủ, và không ở ruộng ngô.” Bình tĩnh nào, Rashid tự nhủ, không nói dớ dẩn nữa! Đây là bạn của Mian Abdullah!... Nhưng Nadir có vẻ không nhận thấy; mặt gã nhăn nhó đầy khổ sở, cố gắng nặn ra mấy chữ mắc kẹt như xơ thịt gà ở kẽ răng... “Tính mạng tôi,” rốt cuộc gã cũng thốt lên được, “đang bị đe dọa.”
Lúc này Rashid, vẫn tràn đầy khí phách của Gai-Wallah, trở thành cứu tinh. Cậu dẫn Nadir đến cánh cửa ở hông nhà. Cửa vừa chốt vừa khóa, nhưng Rashid giật một cái, ổ khóa đã bung ra trên tay cậu.
“Đồ Ấn ấy mà,” cậu thì thầm, như thể điều đó giải thích tất cả. Và, khi Nadir đã bước vào, Rashid suỵt khẽ, “Cứ tin tưởng tuyệt đối ở tôi, sahib. Sẽ câm như hến! Thề có mái tóc muối tiêu của mẹ tôi.”
Cậu lắp lại cái khóa từ phía ngoài. Để thực sự cứu thoát cánh tay phải của con Chim ngân nga!... Nhưng khỏi cái gì? Khỏi ai?... À, có đôi khi, đời thực đẹp hơn là trên phim.
“Đấy á?” Padma hỏi, đôi chút ngỡ ngàng. “Cái gã béo bệu chết nhát đấy á? Rồi hắn sẽ là cha anh á?”
Cuộc chiến đói ăn khởi đầu ngày hôm đó suýt nữa đã trở thành một cuộc quyết đấu sinh tử. Giữ đúng lời thề, khi đến bữa, Mẹ Bề trên không dọn cho chồng, một tí gì, dù chỉ là cái đĩa không. Bác sĩ Aziz lập tức trả đũa, bằng cách dứt khoát tuyệt thực khi ra ngoài. Ngày qua ngày, năm đứa trẻ chứng kiến ông bố từ từ tiêu biến, trong khi bà mẹ lạnh lùng canh gác thức ăn.
“Bố có biến mất hoàn toàn được không?” Emerald thích thú hỏi, rồi lo lắng thêm, “Bố đừng làm vậy nhé, trừ phi bố biết cách quay về lại.”
Mặt Aziz xuất hiện những hốc lõm, mũi ông dường như cũng gầy đi. Cơ thể ông trở thành một chiến trường và mỗi ngày một mảnh của nó lại nổ tan tành. Ông bảo Alia, cô cả, đứa con hiểu biết: “Trong mọi cuộc chiến tranh, chiến trường chịu sự tàn phá nặng nề hơn cả hai bên tham chiến. Điều này là tất yếu.” Ông bắt đầu phải ngồi xe kéo khi đi thăm bệnh. Bác Hamdard kéo xe bắt đầu lo lắng cho ông.
Quận chúa xứ Cooh Naheen phái sứ giả đến cầu xin Mẹ Bề trên. “Ấn Độ chưa đủ nhiều người chết đói hay sao?” sứ giả hỏi Naseem, và bà phóng ra một cái nhìn dữ dội của mãng xà[11] đã sớm trở thành huyền thoại. Tay chắp lại đặt trên đùi, tấm dupatta bằng vải muslin quấn chặt vắt cổ chày quanh đầu, bà dùng cặp mắt không mí xuyên thấu những vị khách và bức mắt họ cụp xuống. Giọng họ hóa đá, tim họ đông cứng lại, và một mình trong phòng giữa đám đàn ông lạ mặt, bà tôi ngồi ngạo nghễ, xung quanh là những ánh mắt cúi gằm.
“Đủ nhiều, cái-gì-không-biết?” bà kiêu hãnh thốt. “Hừm, có thể. Nhưng, cũng có thể chưa.”
[11] Basilisk: giống mãng xà trong truyền thuyết, ánh mắt có sức mạnh giết người.
Nhưng sự thật là Naseem Aziz rất lo lắng, vì trong khi cái chết vì đói của Aziz sẽ là minh chứng rõ ràng cho sự ưu việt của thế giới quan của bà so với của ông, bà không sẵn lòng làm quả phụ chỉ vì một nguyên tắc. Có điều bà không tìm được lối thoát cho tình trạng ấy mà không phải nhượng bộ và mất mặt, và khi đã buộc phải để mặt trần, bà tôi tuyệt không cam tâm mất một tí mặt nào.
“Sao mẹ không ốm đi ?” - Alia, đứa con hiểu biết, tìm ra giải pháp. Mẹ Bề trên vội vã rút lui chiến thuật, kêu rằng mình bị đau, tất nhiên là một cơn đau dữ dội, cái-gì-không-biết, và nằm liệt giường. Khi bà vắng mặt, Alia chìa nhành ô liu cho cha, dưới hình dáng một bát xúp gà. Hai ngày sau, Mẹ Bề trên ngồi dậy (sau khi từ chối cho chồng khám bệnh lần đầu tiên trong đời), tiếp quản lại quyền lực, rồi với một cái nhún vai mặc nhận trước quyết định của con gái, đưa thức ăn cho Aziz cứ như thể đó chỉ là một chuyện hết sức nhỏ nhặt.
Đó là chuyện mười năm trước, thế nhưng, đến 1942, những ông cụ ở hàng trầu vẫn bị cảnh ông bác sĩ huýt sáo khơi dậy những ký ức buồn cười về lần vợ ông thiếu điều nữa đã khiến ông phải diễn trò biến mất, dù ông không biết cách quay trở lại. Mãi đến lúc trời tối họ vẫn huých nhau với những, “Ông có nhớ cái hồi...” và “Khô quắt lại y hệt bộ xương trên dây phơi! Ông ấy còn chả đạp nổi...” và “... tôi nói ông nghe, baba, mụ ấy làm được những chuyện gớm lắm. Tôi nghe nói mụ ta còn mơ cả giấc mơi của con gái, chỉ để biết chúng đang mưu tính gì!”
Nhưng khi trời tối hẳn, trò huých nhau ấy cũng tàn, vì đã đến giờ thi đấu. Nhịp nhàng, trong yên lặng, họ nhai rồi bỗng một cặp môi chúm lại, nhưng thứ phun ra không phải là hơi gió. Không phải tiếng sáo, mà là một vòi nước trầu dài, đỏ phóng ra từ đôi môi già nua, và bay với sự chính xác tuyệt đối vào cái ống nhổ đồng thau cũ kỹ. Tiếng vỗ đùi và sự thán phục kiểu “Kinh, kinh!” và, “Một phát quá cao thủ!” vang lên không ngớt... Quanh mấy ông lão, thị trấn nhạt nhòa dần và trò chơi đêm không mục đích.
Trẻ con chơi đánh vòng đuổi bắt và vẽ râu lên những tấm áp phích của Mian Abdullah. Và giờ mấy ông cụ đặt cái ống nhổ ra giữa đường, càng lúc càng xa chỗ họ ngồi, và phun những tia nước mỗi lúc một dài hơn về phía nó. Tia nước bay vẫn chuẩn. “Ồ quá đỉnh, yara!” Đám nhóc bụi đời chơi trò né qua né lại giữa những tia nước đỏ, đem trò thi gan này chồng lên môn nghệ thuật nghiêm túc phụt-ống-nhổ
... Nhưng đây rồi một chiếc xe quân sự, lũ nhóc chạy tán loạn khi nó tới... đây, Chuẩn tướng Dodson, chỉ huy quân sự của thành phố, ngạt thở vì nóng... còn đây, viên A.D.C[12] của ông ta, Thiếu tá Zulfikar, đang chìa cho ông cái khăn. Dodson lau mặt, lũ nhóc chạy tán loạn, cỗ xe húc đổ cái ống nhổ. Một vùng chất lỏng đỏ sậm, lẫn những cục nhỏ như máu, đông lại thành một bàn tay đỏ lòm trong bụi đường và chỉ về quyền lực đang rút lui của Raj[13] đầy vẻ kết tội.
[12] Viết tắt của aide-de-camp: sĩ quan phụ tá.
[13] Tên gọi chế độ cai trị của Anh tại tiểu lục địa Ấn Độ trước năm 1947; tên chính thức là “Đế quốc Ấn Độ thuộc Anh” (British Indian Empire).
Hồi ức của một tấm hình mốc meo (có lẽ là tác phẩm của chính anh thợ ảnh tội nghiệp bị nện ung óc, vì mấy bức ảnh phóng to bằng người thật mà suýt nữa thì toi mạng): Aadam Aziz, rạng rỡ vì chứng sốt-lạc-quan, bắt tay một người đàn ông trạc sáu mươi, típ người nôn nóng, sôi nổi, một lọn tóc bạc rủ xuống lông mày như một vết sẹo dễ gần. Đó là Mian Abdullah, con Chim ngân nga. (“Ông xem, Bác sĩ Sahib, tôi tập tành kỹ lắm. Ông muốn đấm vào bụng tôi không? Thử đi, thử đi. Người tôi cực ngon đấy.”
... Trong ảnh, nếp gấp của chiếc áo trắng rộng giấu đi cái bụng, còn nắm tay ông tôi không siết lại, mà bị nuốt gọn trong bàn tay nhà cựu ảo thuật.) Còn đằng sau, nhìn họ đầy độ lượng, là Quận chúa xứ Cooch Naheen, người đang trắng bợt ra từng mảng, một căn bệnh đã rỉ vào lịch sử và bùng phát trên diện rộng không lâu sau Độc lập
... “Ta là nạn nhân,” Quận chúa thầm thì, qua đôi môi nhiếp ảnh vĩnh viễn không mấp máy, “nạn nhân bất hạnh của các mối quan tâm liên văn hóa của mình. Da ta là biểu hiện bên ngoài của chủ nghĩa quốc tế trong tâm hồn ta.” Phải, một cuộc đối thoại đang diễn ra trên bức ảnh này, khi, như những nghệ nhân nói tiếng bụng, những kẻ lạc quan gặp thủ lĩnh của họ. Đứng cạnh Quận chúa - nghe cho kỹ đây: sử học và phả hệ chuẩn bị gặp nhau! - là một gã lập dị, thịt nhão, bụng phệ, mắt như nước ao tù, tóc dài như thi sĩ. Nadir Khan, thư ký riêng của con Chim ngân nga. Chân gã, nếu không bị tấm ảnh đóng băng lại, sẽ nhấp nhổm vì bối rối.
Gã lí nhí qua nụ cười ngớ ngẩn, gượng gạo, “Thật mà, tôi có làm thơ...”
Tới đây Mian Abdullah ngắt lời, cái miệng với hàm răng nhọn sáng loáng oang oang: “Nhưng thơ gì! Ngần ấy trang chẳng có nổi một vần!”
Và Quận chúa, nhỏ nhẹ: “Một nhà thơ cách tân chăng?”
Và Nadir, bẽn lẽn: “Vâng.”
Ghê gớm thay sự căng thẳng của cảnh tĩnh, bất động ấy. Sắc nhọn thay câu đùa ấy, khi con Chim ngân nga nói: “Thế thì đã sao, nghệ thuật là phải khơi dậy, nó phải nhắc nhở chúng ta về di sản văn chương huy hoàng của mình!”... Và đó có phải là một bóng đen, hay cái cau mày trên trán viên thư ký?
... Giọng Nadir lí nhí trong bức ảnh đã mờ: “Tôi không tin vào nghệ thuật cao sang, Mian Sahib. Ngày nay, nghệ thuật là không phân đẳng cấp, thơ của tôi và ừm - trò chơi phụt-ống-nhổ đểu bình đẳng.”
... Lúc này Quận chúa, vốn là người đôn hậu, đùa, “Chà, chắc ta phải để riêng một phòng, chuyên để ăn trầu và phụt-ống-nhổ. Ta có một cái ống nhổ bằng bạc cực đẹp, khảm thanh kim thạch, các vị nhất định phải đến tập nhé. Hãy để trên tường nhoe nhoét những cú phun không chính xác của bọn ta! Ít ra đó cũng sẽ là những vết nhơ trung thực.”
Và lúc này bức ảnh đã cạn lời, giờ tôi mới nhận thấy, bằng tâm nhãn, rằng từ đâu đến cuối con Chim ngân nga luôn nhìn ra phía cửa, ở sau vai ông tôi, ngoài rìa tấm ảnh. Đằng sau cánh cửa, lịch sử đang vẫy gọi. Con chim ngân nga nôn nóng muốn đi... nhưng ông đã ở bên chúng ta, và sự hiện diện của ông đã đem lại cho chúng ta hai sợi chỉ sẽ đeo đuổi tôi suốt những ngày còn lại: sợi dẫn đến ghetto của giới ảo thuật, và sợi kể câu chuyện về Nadir gã thi sĩ không vần, không động từ, và cái ống nhổ bằng bạc vô giá.
“Vớ vẩn thật,” Padma của chúng ta nói. “Ảnh làm sao mà nói đươc? Thôi nghỉ đi; anh mệt quá nghĩ không nỗi nữa rồi.”
Nhưng khi tôi bảo cô rằng Mian Abdullah có cái đặc điểm kỳ lạ là ngân nga không dứt, ngân nga một cách kỳ quái, chẳng ra nhạc cũng chẳng ra không nhạc, lại như kiểu máy, tiếng ngân nga của động cơ hay máy phát điện, cô lại chấp nhận khá dễ dàng, nói vẻ hiểu biết, “Ừm, nếu ông ta đầy sinh lực như thế, cái đó tôi thấy chả có gì lạ.”
Cô lại dỏng tai lên rồi, nên tôi cũng hào hứng trở lại câu chuyện và kể rằng tiếng ngân nga của Mian Abdullah lên bổng xuống trầm tương ứng với cường độ làm việc của ông. Đó là một tiếng ngân có thể xuống thấp tới mức gây nhức răng, còn khi lên đến ngưỡng cao nhất, điên cuồng nhất, nó có khả năng gây ra cơn cương dương cho bất kỳ ai ở
Tác giả :
Salman Rushdie