[Nhân Tiểu Quỷ Đại Hệ Liệt] - Bộ 5 - Chân Ngôn Động Truyền Thuyết
Chương 9
*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.
Tư Đồ phát hiện ra sắc mặt của A Như và trưởng tàu không ổn, bèn tiến đến gần họ: “Hai người biết gã trung niên bán vé kia à?”
A Như không nói chuyện.
Trưởng tàu âm trầm, “Gã ta có nét giống với tên súc sinh kia.”
Tư Đồ liền hiểu ngay, “Là tên chồng cũ kia sao?”
Trưởng tàu nhẹ nhàng gật đầu.
Tư Đồ cười đầy ý nhị, “Xem ra chúng ta phải ở lại chỗ này đêm nay rồi.”
Thành Chu quay đầu lại, “Vậy chúng ta có cần báo cảnh sát trước không?”
“Đợi khi tìm được thi cốt anh Đan với Tiểu Mỹ rồi hẵn nói.”
Trưởng tàu và A Như thoáng nắm chặt hai tay.
Đường lên động Chân Ngôn cũng khá dễ dàng, ở mỗi ngã rẽ đều có bảng chỉ đường để du khách biết phải đi như thế nào. Rẽ hai lần là xuống tới một hang động dưới đất.
Nhìn từ cửa hang vào thì có vẻ hang không lớn lắm, ước có chừng chứa được ba người lớn, nhưng bên trong thì sâu hun hút.
Thành Chu thấy trước cửa hang có một tấm bảng, bèn bước lại nhìn nhìn.
Tựa đề tấm bảng là “Giới thiệu về động Chân Ngôn.”
“Tục truyền vào năm Đông Hán, Thái Thượng Lão Quân Trương Đạo Lăng bế quan giác ngộ đạo pháp, khiến mãnh thú trong núi thi nhau đến bái. Cuối cùng Trương Đạo Lăng xuất quan, cưỡi mãnh hổ mà đi. Từ đó trong động lưu lại một bức trấn phong (*) ở cửa hang, chính là nơi Trương Đạo Lăng lúc trước từng ngồi. Sau khi Trương Đạo Lăng giác ngộ được Vô Thượng đạo pháp rời đi, bức trấn phong ấy vẫn còn lưu lại bóng ngồi của Trương Đạo Lăng.
Người đời sau vô tình phát hiện ra rằng trấn phong có thể phân biệt được lời nói dối và nói thật của người đang nói, tính chuẩn xác ngang ngửa với máy phát hiện nói dối.”
Thành Chu khịt mũi, “Gió mát ghê.”
Tư Đồ vỗ vỗ hắn, “Thì truyền thuyết mà, ở đâu cũng vậy thôi. Không có mấy câu chuyện truyền thuyết thì lấy ai đến chơi ở một sườn núi nho nhỏ chưa đến ba trăm mét này?”
Trưởng tàu cũng lắc đầu, “Trước kia căn bản không có thứ này, càng không có truyền thuyết này, tất cả đều là bịa đặt cả.”
“Xem ra có kẻ đang cố gắng thúc đẩy ngành du lịch ở nơi đây nên mới bịa ra câu chuyện như vậy để tăng thêm bản sắc văn hoá. Nhưng dù là bịa chuyện thì cũng phải có một bức trấn phong mới được, anh có biết bức trấn phong nào như vậy không?” Tư Đồ hỏi.
Trưởng tàu mờ mịt, lắc đầu một lần nữa, “Tóm lại lúc tôi vẫn còn sống thì chưa từng nghe qua cũng không phát hiện thấy bức trấn phong kia bao giờ, lúc chết đi cũng không có chú ý tới. Dù sao trước lúc tôi rời khỏi hang động này thì không có du khách nào đến đây cả.”
Thành Chu trầm ngâm, “Xem độ mới của mấy tấm bảng chỉ đường thì thứ kia chắc chỉ mới xuất hiện vài năm trở lại đây thôi. Đi vào xem thử nào.”
Đến lúc này, Hồng Diệp cũng thức dậy.
Trượt xuống khỏi lưng Thành Chu, Hồng Diệp nghiêng đầu xem xét hang động tĩnh mịch, hô lên “Thật thú vị” rồi kéo Thành Chu đi vào trong.
Nghe Hồng Diệp nói thú vị, Tư Đồ chợt dừng bước, khẽ nheo mắt.
Lúc này, du khách trong động chẳng còn lại bao người. Cũng phải thôi, đã sắp ba giờ rưỡi chiều, cho dù là một điểm du lịch nhỏ đi chăng nữa thì cũng đã đến giờ trở về rồi.
Bên trong hang động có dây diện và một vài ngọn đèn nhỏ đúng chất le lói của đèn nhỏ, hoàn toàn không có hề có ánh sáng phản chiếu từ đá vôi như những hang động được khai thác hoàn thiện khác.
“Hang động này có hình dáng hồ lô, phía trước xem như đại sảnh, chính giữa có vài đường con hẹp, đằng sau còn có một hang động đá vôi rất lớn. Đi đường phải cẩn thận một chút vì bên dưới còn có tầng đá khác. Bên cạnh là khe nước, trông hẹp là thế nhưng lại khá sâu, không cẩn thận sẽ ngã xuống đấy.”
Trưởng tàu giới thiệu hiện trạng hang động cho mọi người.
Bên khe nước có giăng một sợi dây thừng, trên sợi dây treo một bảng đánh dấu nguy hiểm.
Từ dây thừng đi vào trong sẽ thấy tất cả hang động lớn nhỏ, càng vào sâu đường càng hẹp dần.
Có hai đứa trẻ đang vui đùa ầm ĩ bên dây thừng bảo vệ. Trông chúng có vẻ rất hứng thú với Hồng Diệp, thi thoảng lại trộm nhìn cu cậu.
Hồng Diệp làm mặt quỷ với hai đứa.
Hai đứa trẻ sửng sốt một chút rồi chợt nhảy dựng lên mà cười, sau đó chụm đầu lại như đang bàn tán gì đó.
Thành Chu thấy hai đứa trẻ nghịch ngợm ấy liền cười cười dịu dàng, còn thuận tay xoa đầu con mình. Hai đứa nhỏ kia hẳn là dân bản xứ, cách ăn mặc rất chất phác, thoạt trông chắc cũng tầm sáu, bảy tuổi.
Ánh mắt trưởng tàu lướt qua hai đứa trẻ, ông chỉ vào phía trước nói: “Lối mòn kia cũng rất nguy hiểm đấy. Bình thường dù có người đi đằng sau thì cũng phải né trái né phải để đi lối kia vì nó bằng phẳng nhất. Còn những lối khác thì hoặc là dẫn đến khe nước ngầm, hoặc là dẫn vào ngõ cụt, cũng có khi quá chật, không ai lách qua nổi.”
Thành Chu nhìn hang động đá vôi rộng lớn như vậy, lại nghe trưởng tàu giới thiệu như thế liền không khỏi có chút tò mò, “Hố to như vậy có người đi qua hay có được sử dụng để làm gì không?”
“Có thể làm cái gì? Dự trữ lương thực, tránh bom hay đóng quân?” Trưởng tàu cười rộ lên, “Hang động đá vôi này của chúng tôi đúng là có nhiều truyền thuyết thật, nhưng chúng đều không quá đáng tin, người tin cũng không nhiều. Ngày xưa chiến tranh cũng không nghe người già nào bảo đã vào đây ẩn nấp cả. Nguyên nhân có lẽ là do nơi này quá ẩm thấp và địa hình quá nguy hiểm. Đúng rồi, tôi nhớ khi còn bé có chuyện về hai đứa trẻ ngã chết trong đây. A Như, em còn nhớ chuyện này không?”
A Như nghĩ nghĩ rồi vỗ tay một cái, “Đúng rồi, em có nhớ, khi đó em đã mười tuổi rồi. Em còn nhớ nhiều người lớn trong thôn đã đốt đuốc tìm khắp trong hang động, nhưng vẫn không tìm thấy hai đứa trẻ đó. Lúc ấy nhiều người truyện miệng nhau rằng có lẽ hai đứa trẻ ấy đã bị thần núi thu về làm đồng tử rồi.”
Thành Chu… dời ánh mắt khỏi hai đứa trẻ kia một cách vô cùng gian nan rồi cúi đầu nhìn con mình.
Hồng Diệp ngẩng đầu cười thảo mai với hắn, “Ba, hai con quỷ con kia mạnh lắm đó.”
Thành Chu nhéo nó một phát, không dám nhìn hai đứa trẻ kia nữa.
Nhưng chúng nó lại khá lấy làm hứng thú với bọn hắn. Có điều do Hồng Diệp và Tư Đồ ở gần đấy nên chúng không dám tiến đến quá gần, chỉ đi theo sau lưng Thành Chu.
Thành Chu lạnh cóng cả người.
Hồng Diệp lại không bộc phát tính cách thị uy lãnh thổ như mọi lần, còn bỏ tay Thành Chu ra mà vẫy vẫy với hai con quỷ nhỏ.
Hai con quỷ nhỏ nhìn nhau rồi nhảy chân sáo đến trước mặt Hồng Diệp.
Con quỷ nhỏ trông lớn hơn đứng chống nạnh với Hồng Diệp.
Hồng Diệp đá vào chân con quỷ nhỏ đó một cái.
Con quỷ hét lên một tiếng rồi phóng ra nấp sau lưng bạn mình.
Hồng Diệp lại ngoắc chúng. Lần này hai con quỷ nhỏ không dám kênh kiệu nữa, ngoan ngoãn đi đến trước Hồng Diệp.
Thành Chu thấy ba quả đầu nhỏ chụm lại xì xà xì xầm. Hắn cực kì tò mò về cuộc đối thoại của chúng nhưng nào dám tiến lên nghe lén.
Một lát sau, hai con quỷ nhỏ cùng gật đầu với Hồng Diệp, cười toe toét nhảy vào khe nước chảy kế bên và biến mất.
Thành Chu đi tới hỏi Hồng Diệp, “Nhóc mày nói gì với tụi nó vậy?”
Hồng Diệp trâng tráo đáp: “Tôi bảo bọn nó làm việc cho tôi, không làm là tôi ăn hết bọn nó, thế nên bọn nó đã nhận lời rồi.”
“Nhóc mày bảo tụi nó làm gì vậy?”
Hồng Diệp khoát tay chặn phắt lại, “Khỏi cần anh quan tâm!”
Thành Chu nhìn con đầy u oán*. Hắn làm cha mà chả cho hắn chút tôn nghiêm nào hết trơn à.
Hồng Diệp nắm tay của anh nhà lên rồi hôn “chụt” một cái, xem như dỗ dành hắn.
Thành Chu… Lòng tự tôn vừa bị nghiền nát của anh nhà liền khép lại ngay tắp lự. Ảnh lập tức cười toe, nắm tay con đi tơn tơn về phía trước.
A Như nhìn cảnh hai cha con ngô nghê như thế mà lòng hâm mộ đến cực điểm.
Trưởng tàu nắm tay bà, thấp giọng nói: “Kiếp sau chúng ta nhất định sẽ ở bên nhau, nhất định sẽ có đứa con của riêng hai ta. Nhất định sẽ có…”
A Như nghẹn ngào.
“Thi cốt anh bị chôn ở nơi nào?” Tư Đồ hỏi.
A Như nhanh chóng lau mắt. Trưởng tàu chỉ về phía trước, “Sau động. Bọn chúng đánh chết tôi trước động, nhưng chôn hài cốt tôi ở sâu trong động.”
Thành Chu cũng nghe thấy, đi đến ngã rẽ theo hướng chỉ tay của trưởng tàu.
“Chúng ta đi vào chỗ nào trước đây? Bên trái động Chân Ngôn có một hang động, vậy muốn đi ra sau động thì đi theo hang động còn lại à?” Thành Chu dò hỏi ý kiến mọi người.
Kết quả tất cả mọi người đều nhìn sang Hồng Diệp.
Hồng Diệp đột nhiên nói: “Đây là một nơi tốt.”
“Hở?”
“Không khí nơi đây khá khác với những nơi còn lại. Theo khoa học mà nói thì là từ trường có vấn đề, theo tín ngưỡng mà nói mà thì nơi này là một cái âm huyệt.”
Hồng Diệp nói với trưởng tàu: “May cho ông đấy, nếu như ông không chết ở chỗ này thì e rằng ông không thể rời khỏi hang động này này chỉ trong vòng mười năm đâu, hơn thế ông cũng không thể nào có được sức mạnh cả. Bình thường âm hồn muốn lớn mạnh thì phương pháp tốt nhất là thôn phệ các âm hồn khác giống như Tư Đồ ấy. Nhưng ông lại nhờ mỗi âm khí nơi này mà có được sức mạnh và duy trì được nguyên vẹn ý thức.”
Nghe thấy Tư Đồ dùng cách thôn phệ những âm hồn khác để mạnh hơn, ba người còn lại đều cảm thấy run sợ, kể cả Thành Chu.
Tư Đồ cười nhạt, tựa như hoàn toàn không biết phương pháp của mình có vấn đề gì.
Thành Chu cảm thấy nét mặt của mình không ổn lắm, bèn lập tức giấu đi mà vỗ vỗ cánh tay Tư Đồ, ra sức khen gã: “Trâu bò quá nha!”
Tư Đồ câm nín nhìn hắn… Cậu đem thân ra làm thức ăn để nuôi một con hung hồn ác quỷ như con đẻ vậy mà bảo ai trâu hơn ai?
“Vậy theo ngài nói, lẽ ra nơi này phải càng có nhiều hồn ma chứ nhỉ?” Trưởng tàu không rõ tại sao mình lại có cảm giác sợ hãi cực độ như muốn quỳ xuống trước mặt đứa trẻ tên Hồng Diệp này, đến nỗi tự đáy lòng phải dùng cách xưng hô tôn kính như thế này để nói chuyện với nó.
Hồng Diệp nghiêng mắt nhìn ông, “Ông nghĩ con nít có thể uống nhân sâm không? Bình thường những du hồn có ý thức không trọn vẹn bay đến nơi đây sẽ bị từ trường tại đây đồng hóa, mà cho dù chúng có ý thức nguyên vẹn, nếu như không chết trong động này mà từ bên ngoài vào cũng sẽ bị âm khí tại đây tự động bài xích thôi.”
Ngoại trừ Tư Đồ, những người khác trông như không hiểu gì cả.
Thành Chu càng đụt mặt ra, vẻ như “con của ba thông minh quá, nhưng con có thể phổ cập cho tụi ba một chút tri thức siêu nhiên được không”.
Hồng Diệp chẳng muốn trả lời, Tư Đồ bèn giải thích đơn giản: “Âm huyệt cũng chia thành nhiều loại, không phải hồn ma nào đến những nơi có nhiều âm khí là được bồi dưỡng sức mạnh đâu. Ví von như thế này, chúng ta cũng biết đất đen khá phì nhiêu, nhưng đâu phải loài cây nào cũng thích hợp để trồng trên đất đen đâu.”
Thành Chu tỏ ý đã hiểu.
Tư Đồ nói tiếp: “Tuy anh Đan chết đi ở đây, nhưng hồn phách của anh ấy hệt như đã gắn bó với nơi này từ lúc mới sinh ra đời, như một thành viên thuộc về âm huyệt này. Thêm vào đó, anh ấy chết đi với oán niệm dày đặc, lại thêm chấp niệm muốn gặp lại người yêu nên mới không bị âm khí tại đây đồng hóa, trái lại còn có thể sử dụng âm khí tự nuôi mình.”
“Vậy sao tôi lại rời khỏi đây được?” Trưởng tàu thỉnh giáo.
“Một là bởi vì anh quá mong muốn rời khỏi nơi đây. Còn một là… ở đây có kẻ nào đó mạnh hơn anh, không muốn anh lớn mạnh hơn nữa vì anh sẽ là mối đe doạ của hắn, nên hắn mới đuổi anh đi.”
“Vậy kẻ còn mạnh hơn cả trưởng tàu ở nơi nào? Có phải hai con quỷ con kia không?” Thành Chu nhìn tới nhìn lui nghi thần nghi quỷ, mỗi một du khách từ trong động đi ra đều trở thành đối tượng tình nghi của hắn.
Du khách cũng hiểu được ánh mắt khó lường của hắn nên cả đám đều tránh hắn mà đi.
Tư Đồ thấy Thành Chu hoàn toàn không nhận ra hắn đã bị đám du khách kì thị, bèn không khỏi cười nói: “Không cần lo lắng, kẻ đó chắc không có ác ý gì đâu. Nếu không hắn đã hoàn toàn thôn phệ anh Đan chứ không thả anh ấy đi khỏi đây đâu.”
“Vậy chuyện động Chân Ngôn có thể nghiệm chứng lời nói thật giả có liên quan với kẻ đó không?” Não bộ Thành Chu chợt loé lên.
“Có liên quan hay không, chúng ta cứ đi vào hỏi một chút là biết thôi.” Hồng Diệp thấy động bên trái không có người chiếm bèn lập tức kéo Thành Chu đi vào.
============
(*) Trấn phong còn gọi là Ảnh Bích 影壁, Chiếu Bích 照壁, thời cổ gọi là Tiêu Tường 萧墙. Đây là một kiểu tường chắn đứng tách biệt trong quần thể kiến trúc, được lưu truyền tại các nước Trung Quốc (tính cả Mãn Châu), Việt Nam và Lưu Cầu. Người Việt Nam gọi là trấn phong.
Trấn phong có tác dụng tương tự bình phong, chỉ khác chất liệu và vị trí đặt dựng.
Trấn phong có thể đặt ở phía ngoài cổng nhà (cửa lớn, đại môn) hoặc phía trong của cổng, thông thường do gạch xếp thành, và gồm 3 bộ phận: Tọa (nền), Thân, Đỉnh. Phần trung tâm của thân được gọi là trấn phong tâm. Phần trấn phong tâm này ở Trung Quốc và Việt Nam do các viên gạch vuông xếp chéo góc 45 độ dính chồng lên nhau mà thành. Ở phần tâm này có thể không trang trí bất cứ cái gì, (có điều phải mài đá thật kỹ sao cho các viên gạch chắp khớp với nhau sao cho cực kỳ khít nhau). Hoặc có thể chạm trổ, tô vẽ gạch tạo nên các tranh vẽ Cát Tường (tranh có chủ đề cầu phúc cầu may) trang trí.
Đỉnh trấn phong có dạng chữ nhất (一) hoặc dạng chữ bát (八). Trấn phong của Việt Nam, chủ yếu có đỉnh dạng chữ Bát (ở chính giữa nhô cao, hai bên thấp xuống). “Trấn Phong” của Trung Quốc, chủ yếu có Đỉnh dạng chữ Nhất.
Còn bình phong thì là nội thất trong nhà, có tác dụng ngăn cách một không gian riêng biệt với những không gian khác, hoặc ngăn chặn ánh sáng lẫn khí phong trực tiếp xâm nhập vào phòng (chữ Bình Phong nghĩa là chắn gió), cũng thích hợp, tiện dụng khi thay đồ, nghỉ ngơi, tắm rửa và các sinh hoạt cá nhân khác. Bình phong thông thường có dạng nhiều phiến gỗ (hay Bình Phiến 屏扇) ghép lại như cánh cửa xếp, có thể trang trí, chạm khắc hoặc dán tranh vẽ lên. Chất liệu của bình phong khá đa dạng như gỗ ép, hoặc gỗ chạm, gỗ khảm trai, hoặc dán tranh họa, hoặc gắn lụa thêu.
Hình dưới là trấn phong của Trung Quốc, được đặt ở ngoài trời.
Mấy thông tin này Cá sưu tầm được từ nhóm Đại Việt Cổ Phong trên fb. Hầu hết các thành viên trong nhóm đều có kiến thức rất khủng về các chủ đề đa dạng như trang phục, kiến trúc, phong tục, tín ngưỡng và lịch sử các nước trong khu vực Châu Á. Nếu bạn nào có hứng thú nghiên cứu về những lĩnh vực này thì tham gia nhóm nhé. Các đàn anh đàn chị trong nhóm giỏi & nhiệt tình lắm á XD
Tư Đồ phát hiện ra sắc mặt của A Như và trưởng tàu không ổn, bèn tiến đến gần họ: “Hai người biết gã trung niên bán vé kia à?”
A Như không nói chuyện.
Trưởng tàu âm trầm, “Gã ta có nét giống với tên súc sinh kia.”
Tư Đồ liền hiểu ngay, “Là tên chồng cũ kia sao?”
Trưởng tàu nhẹ nhàng gật đầu.
Tư Đồ cười đầy ý nhị, “Xem ra chúng ta phải ở lại chỗ này đêm nay rồi.”
Thành Chu quay đầu lại, “Vậy chúng ta có cần báo cảnh sát trước không?”
“Đợi khi tìm được thi cốt anh Đan với Tiểu Mỹ rồi hẵn nói.”
Trưởng tàu và A Như thoáng nắm chặt hai tay.
Đường lên động Chân Ngôn cũng khá dễ dàng, ở mỗi ngã rẽ đều có bảng chỉ đường để du khách biết phải đi như thế nào. Rẽ hai lần là xuống tới một hang động dưới đất.
Nhìn từ cửa hang vào thì có vẻ hang không lớn lắm, ước có chừng chứa được ba người lớn, nhưng bên trong thì sâu hun hút.
Thành Chu thấy trước cửa hang có một tấm bảng, bèn bước lại nhìn nhìn.
Tựa đề tấm bảng là “Giới thiệu về động Chân Ngôn.”
“Tục truyền vào năm Đông Hán, Thái Thượng Lão Quân Trương Đạo Lăng bế quan giác ngộ đạo pháp, khiến mãnh thú trong núi thi nhau đến bái. Cuối cùng Trương Đạo Lăng xuất quan, cưỡi mãnh hổ mà đi. Từ đó trong động lưu lại một bức trấn phong (*) ở cửa hang, chính là nơi Trương Đạo Lăng lúc trước từng ngồi. Sau khi Trương Đạo Lăng giác ngộ được Vô Thượng đạo pháp rời đi, bức trấn phong ấy vẫn còn lưu lại bóng ngồi của Trương Đạo Lăng.
Người đời sau vô tình phát hiện ra rằng trấn phong có thể phân biệt được lời nói dối và nói thật của người đang nói, tính chuẩn xác ngang ngửa với máy phát hiện nói dối.”
Thành Chu khịt mũi, “Gió mát ghê.”
Tư Đồ vỗ vỗ hắn, “Thì truyền thuyết mà, ở đâu cũng vậy thôi. Không có mấy câu chuyện truyền thuyết thì lấy ai đến chơi ở một sườn núi nho nhỏ chưa đến ba trăm mét này?”
Trưởng tàu cũng lắc đầu, “Trước kia căn bản không có thứ này, càng không có truyền thuyết này, tất cả đều là bịa đặt cả.”
“Xem ra có kẻ đang cố gắng thúc đẩy ngành du lịch ở nơi đây nên mới bịa ra câu chuyện như vậy để tăng thêm bản sắc văn hoá. Nhưng dù là bịa chuyện thì cũng phải có một bức trấn phong mới được, anh có biết bức trấn phong nào như vậy không?” Tư Đồ hỏi.
Trưởng tàu mờ mịt, lắc đầu một lần nữa, “Tóm lại lúc tôi vẫn còn sống thì chưa từng nghe qua cũng không phát hiện thấy bức trấn phong kia bao giờ, lúc chết đi cũng không có chú ý tới. Dù sao trước lúc tôi rời khỏi hang động này thì không có du khách nào đến đây cả.”
Thành Chu trầm ngâm, “Xem độ mới của mấy tấm bảng chỉ đường thì thứ kia chắc chỉ mới xuất hiện vài năm trở lại đây thôi. Đi vào xem thử nào.”
Đến lúc này, Hồng Diệp cũng thức dậy.
Trượt xuống khỏi lưng Thành Chu, Hồng Diệp nghiêng đầu xem xét hang động tĩnh mịch, hô lên “Thật thú vị” rồi kéo Thành Chu đi vào trong.
Nghe Hồng Diệp nói thú vị, Tư Đồ chợt dừng bước, khẽ nheo mắt.
Lúc này, du khách trong động chẳng còn lại bao người. Cũng phải thôi, đã sắp ba giờ rưỡi chiều, cho dù là một điểm du lịch nhỏ đi chăng nữa thì cũng đã đến giờ trở về rồi.
Bên trong hang động có dây diện và một vài ngọn đèn nhỏ đúng chất le lói của đèn nhỏ, hoàn toàn không có hề có ánh sáng phản chiếu từ đá vôi như những hang động được khai thác hoàn thiện khác.
“Hang động này có hình dáng hồ lô, phía trước xem như đại sảnh, chính giữa có vài đường con hẹp, đằng sau còn có một hang động đá vôi rất lớn. Đi đường phải cẩn thận một chút vì bên dưới còn có tầng đá khác. Bên cạnh là khe nước, trông hẹp là thế nhưng lại khá sâu, không cẩn thận sẽ ngã xuống đấy.”
Trưởng tàu giới thiệu hiện trạng hang động cho mọi người.
Bên khe nước có giăng một sợi dây thừng, trên sợi dây treo một bảng đánh dấu nguy hiểm.
Từ dây thừng đi vào trong sẽ thấy tất cả hang động lớn nhỏ, càng vào sâu đường càng hẹp dần.
Có hai đứa trẻ đang vui đùa ầm ĩ bên dây thừng bảo vệ. Trông chúng có vẻ rất hứng thú với Hồng Diệp, thi thoảng lại trộm nhìn cu cậu.
Hồng Diệp làm mặt quỷ với hai đứa.
Hai đứa trẻ sửng sốt một chút rồi chợt nhảy dựng lên mà cười, sau đó chụm đầu lại như đang bàn tán gì đó.
Thành Chu thấy hai đứa trẻ nghịch ngợm ấy liền cười cười dịu dàng, còn thuận tay xoa đầu con mình. Hai đứa nhỏ kia hẳn là dân bản xứ, cách ăn mặc rất chất phác, thoạt trông chắc cũng tầm sáu, bảy tuổi.
Ánh mắt trưởng tàu lướt qua hai đứa trẻ, ông chỉ vào phía trước nói: “Lối mòn kia cũng rất nguy hiểm đấy. Bình thường dù có người đi đằng sau thì cũng phải né trái né phải để đi lối kia vì nó bằng phẳng nhất. Còn những lối khác thì hoặc là dẫn đến khe nước ngầm, hoặc là dẫn vào ngõ cụt, cũng có khi quá chật, không ai lách qua nổi.”
Thành Chu nhìn hang động đá vôi rộng lớn như vậy, lại nghe trưởng tàu giới thiệu như thế liền không khỏi có chút tò mò, “Hố to như vậy có người đi qua hay có được sử dụng để làm gì không?”
“Có thể làm cái gì? Dự trữ lương thực, tránh bom hay đóng quân?” Trưởng tàu cười rộ lên, “Hang động đá vôi này của chúng tôi đúng là có nhiều truyền thuyết thật, nhưng chúng đều không quá đáng tin, người tin cũng không nhiều. Ngày xưa chiến tranh cũng không nghe người già nào bảo đã vào đây ẩn nấp cả. Nguyên nhân có lẽ là do nơi này quá ẩm thấp và địa hình quá nguy hiểm. Đúng rồi, tôi nhớ khi còn bé có chuyện về hai đứa trẻ ngã chết trong đây. A Như, em còn nhớ chuyện này không?”
A Như nghĩ nghĩ rồi vỗ tay một cái, “Đúng rồi, em có nhớ, khi đó em đã mười tuổi rồi. Em còn nhớ nhiều người lớn trong thôn đã đốt đuốc tìm khắp trong hang động, nhưng vẫn không tìm thấy hai đứa trẻ đó. Lúc ấy nhiều người truyện miệng nhau rằng có lẽ hai đứa trẻ ấy đã bị thần núi thu về làm đồng tử rồi.”
Thành Chu… dời ánh mắt khỏi hai đứa trẻ kia một cách vô cùng gian nan rồi cúi đầu nhìn con mình.
Hồng Diệp ngẩng đầu cười thảo mai với hắn, “Ba, hai con quỷ con kia mạnh lắm đó.”
Thành Chu nhéo nó một phát, không dám nhìn hai đứa trẻ kia nữa.
Nhưng chúng nó lại khá lấy làm hứng thú với bọn hắn. Có điều do Hồng Diệp và Tư Đồ ở gần đấy nên chúng không dám tiến đến quá gần, chỉ đi theo sau lưng Thành Chu.
Thành Chu lạnh cóng cả người.
Hồng Diệp lại không bộc phát tính cách thị uy lãnh thổ như mọi lần, còn bỏ tay Thành Chu ra mà vẫy vẫy với hai con quỷ nhỏ.
Hai con quỷ nhỏ nhìn nhau rồi nhảy chân sáo đến trước mặt Hồng Diệp.
Con quỷ nhỏ trông lớn hơn đứng chống nạnh với Hồng Diệp.
Hồng Diệp đá vào chân con quỷ nhỏ đó một cái.
Con quỷ hét lên một tiếng rồi phóng ra nấp sau lưng bạn mình.
Hồng Diệp lại ngoắc chúng. Lần này hai con quỷ nhỏ không dám kênh kiệu nữa, ngoan ngoãn đi đến trước Hồng Diệp.
Thành Chu thấy ba quả đầu nhỏ chụm lại xì xà xì xầm. Hắn cực kì tò mò về cuộc đối thoại của chúng nhưng nào dám tiến lên nghe lén.
Một lát sau, hai con quỷ nhỏ cùng gật đầu với Hồng Diệp, cười toe toét nhảy vào khe nước chảy kế bên và biến mất.
Thành Chu đi tới hỏi Hồng Diệp, “Nhóc mày nói gì với tụi nó vậy?”
Hồng Diệp trâng tráo đáp: “Tôi bảo bọn nó làm việc cho tôi, không làm là tôi ăn hết bọn nó, thế nên bọn nó đã nhận lời rồi.”
“Nhóc mày bảo tụi nó làm gì vậy?”
Hồng Diệp khoát tay chặn phắt lại, “Khỏi cần anh quan tâm!”
Thành Chu nhìn con đầy u oán*. Hắn làm cha mà chả cho hắn chút tôn nghiêm nào hết trơn à.
Hồng Diệp nắm tay của anh nhà lên rồi hôn “chụt” một cái, xem như dỗ dành hắn.
Thành Chu… Lòng tự tôn vừa bị nghiền nát của anh nhà liền khép lại ngay tắp lự. Ảnh lập tức cười toe, nắm tay con đi tơn tơn về phía trước.
A Như nhìn cảnh hai cha con ngô nghê như thế mà lòng hâm mộ đến cực điểm.
Trưởng tàu nắm tay bà, thấp giọng nói: “Kiếp sau chúng ta nhất định sẽ ở bên nhau, nhất định sẽ có đứa con của riêng hai ta. Nhất định sẽ có…”
A Như nghẹn ngào.
“Thi cốt anh bị chôn ở nơi nào?” Tư Đồ hỏi.
A Như nhanh chóng lau mắt. Trưởng tàu chỉ về phía trước, “Sau động. Bọn chúng đánh chết tôi trước động, nhưng chôn hài cốt tôi ở sâu trong động.”
Thành Chu cũng nghe thấy, đi đến ngã rẽ theo hướng chỉ tay của trưởng tàu.
“Chúng ta đi vào chỗ nào trước đây? Bên trái động Chân Ngôn có một hang động, vậy muốn đi ra sau động thì đi theo hang động còn lại à?” Thành Chu dò hỏi ý kiến mọi người.
Kết quả tất cả mọi người đều nhìn sang Hồng Diệp.
Hồng Diệp đột nhiên nói: “Đây là một nơi tốt.”
“Hở?”
“Không khí nơi đây khá khác với những nơi còn lại. Theo khoa học mà nói thì là từ trường có vấn đề, theo tín ngưỡng mà nói mà thì nơi này là một cái âm huyệt.”
Hồng Diệp nói với trưởng tàu: “May cho ông đấy, nếu như ông không chết ở chỗ này thì e rằng ông không thể rời khỏi hang động này này chỉ trong vòng mười năm đâu, hơn thế ông cũng không thể nào có được sức mạnh cả. Bình thường âm hồn muốn lớn mạnh thì phương pháp tốt nhất là thôn phệ các âm hồn khác giống như Tư Đồ ấy. Nhưng ông lại nhờ mỗi âm khí nơi này mà có được sức mạnh và duy trì được nguyên vẹn ý thức.”
Nghe thấy Tư Đồ dùng cách thôn phệ những âm hồn khác để mạnh hơn, ba người còn lại đều cảm thấy run sợ, kể cả Thành Chu.
Tư Đồ cười nhạt, tựa như hoàn toàn không biết phương pháp của mình có vấn đề gì.
Thành Chu cảm thấy nét mặt của mình không ổn lắm, bèn lập tức giấu đi mà vỗ vỗ cánh tay Tư Đồ, ra sức khen gã: “Trâu bò quá nha!”
Tư Đồ câm nín nhìn hắn… Cậu đem thân ra làm thức ăn để nuôi một con hung hồn ác quỷ như con đẻ vậy mà bảo ai trâu hơn ai?
“Vậy theo ngài nói, lẽ ra nơi này phải càng có nhiều hồn ma chứ nhỉ?” Trưởng tàu không rõ tại sao mình lại có cảm giác sợ hãi cực độ như muốn quỳ xuống trước mặt đứa trẻ tên Hồng Diệp này, đến nỗi tự đáy lòng phải dùng cách xưng hô tôn kính như thế này để nói chuyện với nó.
Hồng Diệp nghiêng mắt nhìn ông, “Ông nghĩ con nít có thể uống nhân sâm không? Bình thường những du hồn có ý thức không trọn vẹn bay đến nơi đây sẽ bị từ trường tại đây đồng hóa, mà cho dù chúng có ý thức nguyên vẹn, nếu như không chết trong động này mà từ bên ngoài vào cũng sẽ bị âm khí tại đây tự động bài xích thôi.”
Ngoại trừ Tư Đồ, những người khác trông như không hiểu gì cả.
Thành Chu càng đụt mặt ra, vẻ như “con của ba thông minh quá, nhưng con có thể phổ cập cho tụi ba một chút tri thức siêu nhiên được không”.
Hồng Diệp chẳng muốn trả lời, Tư Đồ bèn giải thích đơn giản: “Âm huyệt cũng chia thành nhiều loại, không phải hồn ma nào đến những nơi có nhiều âm khí là được bồi dưỡng sức mạnh đâu. Ví von như thế này, chúng ta cũng biết đất đen khá phì nhiêu, nhưng đâu phải loài cây nào cũng thích hợp để trồng trên đất đen đâu.”
Thành Chu tỏ ý đã hiểu.
Tư Đồ nói tiếp: “Tuy anh Đan chết đi ở đây, nhưng hồn phách của anh ấy hệt như đã gắn bó với nơi này từ lúc mới sinh ra đời, như một thành viên thuộc về âm huyệt này. Thêm vào đó, anh ấy chết đi với oán niệm dày đặc, lại thêm chấp niệm muốn gặp lại người yêu nên mới không bị âm khí tại đây đồng hóa, trái lại còn có thể sử dụng âm khí tự nuôi mình.”
“Vậy sao tôi lại rời khỏi đây được?” Trưởng tàu thỉnh giáo.
“Một là bởi vì anh quá mong muốn rời khỏi nơi đây. Còn một là… ở đây có kẻ nào đó mạnh hơn anh, không muốn anh lớn mạnh hơn nữa vì anh sẽ là mối đe doạ của hắn, nên hắn mới đuổi anh đi.”
“Vậy kẻ còn mạnh hơn cả trưởng tàu ở nơi nào? Có phải hai con quỷ con kia không?” Thành Chu nhìn tới nhìn lui nghi thần nghi quỷ, mỗi một du khách từ trong động đi ra đều trở thành đối tượng tình nghi của hắn.
Du khách cũng hiểu được ánh mắt khó lường của hắn nên cả đám đều tránh hắn mà đi.
Tư Đồ thấy Thành Chu hoàn toàn không nhận ra hắn đã bị đám du khách kì thị, bèn không khỏi cười nói: “Không cần lo lắng, kẻ đó chắc không có ác ý gì đâu. Nếu không hắn đã hoàn toàn thôn phệ anh Đan chứ không thả anh ấy đi khỏi đây đâu.”
“Vậy chuyện động Chân Ngôn có thể nghiệm chứng lời nói thật giả có liên quan với kẻ đó không?” Não bộ Thành Chu chợt loé lên.
“Có liên quan hay không, chúng ta cứ đi vào hỏi một chút là biết thôi.” Hồng Diệp thấy động bên trái không có người chiếm bèn lập tức kéo Thành Chu đi vào.
============
(*) Trấn phong còn gọi là Ảnh Bích 影壁, Chiếu Bích 照壁, thời cổ gọi là Tiêu Tường 萧墙. Đây là một kiểu tường chắn đứng tách biệt trong quần thể kiến trúc, được lưu truyền tại các nước Trung Quốc (tính cả Mãn Châu), Việt Nam và Lưu Cầu. Người Việt Nam gọi là trấn phong.
Trấn phong có tác dụng tương tự bình phong, chỉ khác chất liệu và vị trí đặt dựng.
Trấn phong có thể đặt ở phía ngoài cổng nhà (cửa lớn, đại môn) hoặc phía trong của cổng, thông thường do gạch xếp thành, và gồm 3 bộ phận: Tọa (nền), Thân, Đỉnh. Phần trung tâm của thân được gọi là trấn phong tâm. Phần trấn phong tâm này ở Trung Quốc và Việt Nam do các viên gạch vuông xếp chéo góc 45 độ dính chồng lên nhau mà thành. Ở phần tâm này có thể không trang trí bất cứ cái gì, (có điều phải mài đá thật kỹ sao cho các viên gạch chắp khớp với nhau sao cho cực kỳ khít nhau). Hoặc có thể chạm trổ, tô vẽ gạch tạo nên các tranh vẽ Cát Tường (tranh có chủ đề cầu phúc cầu may) trang trí.
Đỉnh trấn phong có dạng chữ nhất (一) hoặc dạng chữ bát (八). Trấn phong của Việt Nam, chủ yếu có đỉnh dạng chữ Bát (ở chính giữa nhô cao, hai bên thấp xuống). “Trấn Phong” của Trung Quốc, chủ yếu có Đỉnh dạng chữ Nhất.
Còn bình phong thì là nội thất trong nhà, có tác dụng ngăn cách một không gian riêng biệt với những không gian khác, hoặc ngăn chặn ánh sáng lẫn khí phong trực tiếp xâm nhập vào phòng (chữ Bình Phong nghĩa là chắn gió), cũng thích hợp, tiện dụng khi thay đồ, nghỉ ngơi, tắm rửa và các sinh hoạt cá nhân khác. Bình phong thông thường có dạng nhiều phiến gỗ (hay Bình Phiến 屏扇) ghép lại như cánh cửa xếp, có thể trang trí, chạm khắc hoặc dán tranh vẽ lên. Chất liệu của bình phong khá đa dạng như gỗ ép, hoặc gỗ chạm, gỗ khảm trai, hoặc dán tranh họa, hoặc gắn lụa thêu.
Hình dưới là trấn phong của Trung Quốc, được đặt ở ngoài trời.
Mấy thông tin này Cá sưu tầm được từ nhóm Đại Việt Cổ Phong trên fb. Hầu hết các thành viên trong nhóm đều có kiến thức rất khủng về các chủ đề đa dạng như trang phục, kiến trúc, phong tục, tín ngưỡng và lịch sử các nước trong khu vực Châu Á. Nếu bạn nào có hứng thú nghiên cứu về những lĩnh vực này thì tham gia nhóm nhé. Các đàn anh đàn chị trong nhóm giỏi & nhiệt tình lắm á XD
Tác giả :
Dịch Nhân Bắc