Nhà Tuck Bất Tử
Chương 26
Tấm biển trước mặt đề hàng chữ CHÀO MỪNG ĐẾN TREEGAP, nhưng thật khó mà tin nổi rằng đây đúng thật là Treegap. Con đường chính chẳng thay đổi gì nhiều nhưng giờ lại thêm nhiều đường khác nữa cắt ngang qua. Đường đều đã được trải nhựa và có cả một lằn sơn trắng ngay chính giữa.
Bà Mae và ông Tuck, trên chiếc xe gỗ lộc cộc, chậm rãi xóc nảy đàng sau con ngựa béo già tiến vào Treegap. Họ luôn nhìn thấy sự thay đổi và quá quen với việc đó, nhưng ở đây điều đó dường như khiến họ choáng váng và u buồn.
"Nhìn kìa," ông Tuch nói.
"Nhìn kia, bà nó.
Không phải đó là chỗ khu rừng ngày xưa sao? Mất rồi! Không còn đến cả một cành hay gốc cây nữa! Cả nhà của con bé nữa - cũng đâu mất luôn rồi."
Thật khó mà nhận ra được thứ gì, nhưng hai người nghĩ, từ ngọn đồi nhỏ, nơi trước đây từng nằm bên ngoài ngôi làng và giờ đây có vẻ như đã trở thành một phần của nó, có thể xác định lại mọi thứ.
"Đúng rồi", bà Mae nói, "nó ở chỗ kia kìa, tôi tin là như vậy. Dĩ nhiên là, lâu quá rồi mình mới đán đây nên tôi cũng không chắc nữa."
Chỗ đó giờ đây là một trạm xăng. Một chàng trai trẻ trong chiếc quần yếm dính đầy dầu mỡ đang đánh bóng kính chắn gió chiếc xe hơi hiệu Hudson rộng rãi và gỉ sét. Khi bà Mae và ông Tuck đi ngang qua, anh ta cười toa toét và nói với người tài xế của chiếc Hudson, đang ngồi uể oải đằng sau tay lái, "Coi kìa. Từ dưới quê lên chờ thời vận đó." Và hai người khùng khục cười với nhau.
Bà Mae và ông Tuck tiếp tục lộc cộc lăn bánh vào làng, ngang qua một khi nhà cửa lộn xộn nhấp nhô rồi chẳng mấy chốc đã tới hàng loạt cửa hàng và những chỗ buôn bán kinh doanh khác: quầy xúc xích; tiệm giặt khô; hiệu thuốc; tiệm tạp hóa; một trạm xăng nữa và một tòa nhà cao cao màu trắng có cái mái hiên dễ chịu đằng trước, Khách sạn Treegap - Bữa ăn gia đình, Giá cả phải chăng. Cả bưu điện nữa. Và xa kia là nhà tù, giờ đã to lớn hơn nhiều, sơn màu nâu, cùng văn phòng dành cho quan chức của hạt. Một chiếc xe cảnh sát hai màu trắng đen đang đỗ đằng trước, trên nóc là chiếc đèn pha rọi bằng kính màu đỏ và một cần anten vô tuyến, giống như râu một chú bọ, gắn chặt trên kính chắn gió.
Bà Mae liếc qua nhà tù rồi vội nhìn đi chỗ khác. "Ông nhìn thấy đằng kia không?" bà nói, chỉ tay về phía trước. "Thấy cái quán đó không? Mình dừng lại đó uống cà phê đi. Được chứ?"
"Cũng được," ông Tuck nói. "Có thể họ biết gì đó."
Bên trong, quán ăn lấp lánh ánh bàn ghế crôm và có mùi của véc ni trộn với xốt cà chua nấm. Bà Mae và ông Tuck chọn chỗ ngồi trên mấy chiếc ghế đầu xoay tại cái quầy dài. Nhân viên phục vụ từ đằng sau bếp đi ra và định giá hai vị khách dưới con mắt nhà nghề. Họ trông cũng được. Hơi kỳ quặc một chút, có lẽ - đặc biệt là do quần áo của họ - nhưng trông có vẻ là người lương thiện. Anh ta đập cái thực đơn bằng bìa cứng đánh bẹt xuống trước mặt họ và tựa người vào cái máy ướp lạnh nước ngọt có ga vị cam. "Cô chú mới đến đây à?" anh ta hỏi.
"Vâng," ông Tuck đáp. "Chỉ đi ngang qua đây thôi."
"Nhìn cô chú cũng biết," anh nhân viên nói.
"Cho tôi hỏi thăm," ông Tuck thận trọng nói, tay chỉ vào cái thực đơn. "Ở đây từng có một cánh rừng phải không, đầu bên kia thị trấn ấy?"
"Đúng thế," anh ta nói. "Nhưng từng xảy ra một con bão sét lớn lắm, khoảng ba năm trước thì phải. Một cái cây bự bị sét đánh trúng chẻ làm đôi. Bắt lửa và cháy trụi lủi. Cày cả mặt đất lên nữa. Phải dùng xe ủi ra đó."
"Ồ," ông Tuck nói. Ông và bà liếc nhìn nhau.
"Làm ơn cho tôi cà phê," bà Mae nói. "Đen. Hai tách."
"Được rồi," nhân viên phục vụ nói. Anh ta mang tấm thực đơn đi, đổ cà phê vào hai cái tách bằng gốm dày rồi lại tiếp tục dựa lưng vào cái máy ướp lạnh nước ngọt.
"Trong khi rừng đó từng có một con suối nước ngọt," ông Tuck bạo gan nói, nhấm nháp tách cà phê.
"Tôi cũng chẳng biết gì về việc đó cả," người phục vụ nói. "Phải dùng xe ủi ra ủi phẳng hết rồi, như hồi nãy tôi nói đó."
"Ra thế," ông Tuck nói.
Và rồi sau đó, trong lúc bà Mae đi mua đồ dự trữ, ông Tuck đi bách bộ vào thị trấn - trở lại con đường mà họ đã qua - đến tận ngọn đồi nhỏ. Giờ đây chỗ đó đã mọc lên nhà cửa và cả một cửa hàng bán thức ăn gia súc và ngũ cốc, nhưng bên kia ngọn đồi, trong cái hàng rào sắt bao quanh là khu nghĩa trang.
Tim ông Tuck đập liên hồi. ông đã để ý trên đường vào đây. Cả bà Mae cũng thấy nữa. Họ chẳng hề nói với nhau lời nào về nó, nhưng cả hai đều biết rằng đó có thể là nơi chứa đựng câu trả lời cho mọi người điều còn lại. Ông Tuck vuốt cho thẳng lại cái áo khoác cũ kỹ. Ông đi xuyên qua cái cổng tò vò có những vòng xoắn trang trí bằng sắt và đừng lại, nheo mắt nhìn những hàng bia mộ đầy cỏ dại. Và rồi, xa xa về phía bên phải, ông nhìn thấy một tấm bia tưởng niệm cao, chắc là đã từng một thời đường bệ nhưng giờ hơi nghiêng một chút. Trên đó có khắc một cái tên: Foster.
Chậm rãi, ông Tuck tiến bước về phía tấm bia tưởng niệm và khi đến gần ông nhìn thấy những biển nhỏ hơn chung quanh đó. Đây là phần mộ của dòng họ. Rồi đột nhiên cổ họng ông thắt lại. Vì nó đang ở đó. Ông hằng muốn nó ở đó, nhưng giờ nhìn thấy nó, lòng ông lại tràn ngập nỗi đau buồn. Ông quỳ xuống và đọc hàng chữ khắc trên bia mộ:
Đồng tưởng nhớ
Winnifred Foster Jackson
Người vợ yêu dấu
Người mẹ kính yêu
1870-1948
"Vậy là," ông Tuck tự nói với mình. "Hai năm. Con bé ra đi được hai năm rồi." Ông đứng dậy nhìn quanh, bối rối, cố gạt đi cơn nghẹn ngào trong cổ họng. Nhưng chẳng có ai nhìn thấy ông. Nghĩa trang yên lặng như tờ. Trên những cành liễu đằng sau lưng, tiếng một chú chim sáo cánh đỏ líu lo. Ông Tuck vội vội vàng vàng quẹt mắt. Rồi ông lại vuốt thẳng áo khoác và giơ tay lên chào từ biệt. "Đúng là một cô bé ngoan," ông nói lớn. Và rồi ông quay người lại rời khỏi nghĩa trang, bước đi thật nhanh.
Lát sau, khi ông và bà Mae ra khỏi Treegap, không nhìn ông, bà nói thật khẽ, "Nó mất rồi hả?"
Ông Tuck gật đầu. "Mất rồi," ông trả lời .
Sau đó là một khoảng lặng thật lâu giữa hai người, và rồi bà Mae lên tiếng, "Tội nghiệp thằng Jesse."
"Dù gì thì nó cũng biết rồi," ông Tuck nói. "Ít ra thì cũng biết là con sẽ bé sẽ không đến. Chúng
ta ai cũng biết điều đó, từ rất lâu rồi."
"Cũng vậy thôi," bà Mae nói. Bà thở dài. Rồi ngồi thẳng lưng hơn một chút, bà nói, "Giờ thì, mình đi đâu đây, hả ông Tuck? Chẳng cần phải quay trở lại đây nữa rồi."
"Vậy đó," ông Tuck nói. "Cứ đi con đường này thẳng tới trước đi. Rồi mình tính tiếp."
"Cũng được," bà Mae nói. Rồi đột nhiên bà đặt một bàn tay lên cánh tay ông và chỉ. "Coi chừng con cóc đó"
Ông Tuck cũng nhìn thấy nó. Ông ghìm cương ngựa lại và trèo xuống xe. Con cóc ấy đang ngồi chễm chệ ngay giữa đường, vô tư lự. Bên làn kia, một chiếc xe tải nhỏ rầm rầm chạy ngang qua, và trước làn gió do chiếc xe tạo ra, nó nhắm tịt mắt lại. Nhưng nó không hề di chuyển. Ông Tuck chờ đến khi chiếc xe chạy qua rồi mới nhặt con cóc lên và mang nó vào đám cỏ dại mọc bên đừơng. "Bọn ngốc nghếch này cứ nghĩ rằng mình bất tử hay sao ấy," ông nói với bà Mae.
Thế rồi họ lại lên đường, bỏ lại Treegap phía sau lưng, và khi họ đi, cái giai điệu nhẹ nhàng leng keng phát ra từ chiếc hộp nhạc ấy trôi lững lờ phía sau và cuối cùng vụt tắt phía xa cuối con đường.
Bà Mae và ông Tuck, trên chiếc xe gỗ lộc cộc, chậm rãi xóc nảy đàng sau con ngựa béo già tiến vào Treegap. Họ luôn nhìn thấy sự thay đổi và quá quen với việc đó, nhưng ở đây điều đó dường như khiến họ choáng váng và u buồn.
"Nhìn kìa," ông Tuch nói.
"Nhìn kia, bà nó.
Không phải đó là chỗ khu rừng ngày xưa sao? Mất rồi! Không còn đến cả một cành hay gốc cây nữa! Cả nhà của con bé nữa - cũng đâu mất luôn rồi."
Thật khó mà nhận ra được thứ gì, nhưng hai người nghĩ, từ ngọn đồi nhỏ, nơi trước đây từng nằm bên ngoài ngôi làng và giờ đây có vẻ như đã trở thành một phần của nó, có thể xác định lại mọi thứ.
"Đúng rồi", bà Mae nói, "nó ở chỗ kia kìa, tôi tin là như vậy. Dĩ nhiên là, lâu quá rồi mình mới đán đây nên tôi cũng không chắc nữa."
Chỗ đó giờ đây là một trạm xăng. Một chàng trai trẻ trong chiếc quần yếm dính đầy dầu mỡ đang đánh bóng kính chắn gió chiếc xe hơi hiệu Hudson rộng rãi và gỉ sét. Khi bà Mae và ông Tuck đi ngang qua, anh ta cười toa toét và nói với người tài xế của chiếc Hudson, đang ngồi uể oải đằng sau tay lái, "Coi kìa. Từ dưới quê lên chờ thời vận đó." Và hai người khùng khục cười với nhau.
Bà Mae và ông Tuck tiếp tục lộc cộc lăn bánh vào làng, ngang qua một khi nhà cửa lộn xộn nhấp nhô rồi chẳng mấy chốc đã tới hàng loạt cửa hàng và những chỗ buôn bán kinh doanh khác: quầy xúc xích; tiệm giặt khô; hiệu thuốc; tiệm tạp hóa; một trạm xăng nữa và một tòa nhà cao cao màu trắng có cái mái hiên dễ chịu đằng trước, Khách sạn Treegap - Bữa ăn gia đình, Giá cả phải chăng. Cả bưu điện nữa. Và xa kia là nhà tù, giờ đã to lớn hơn nhiều, sơn màu nâu, cùng văn phòng dành cho quan chức của hạt. Một chiếc xe cảnh sát hai màu trắng đen đang đỗ đằng trước, trên nóc là chiếc đèn pha rọi bằng kính màu đỏ và một cần anten vô tuyến, giống như râu một chú bọ, gắn chặt trên kính chắn gió.
Bà Mae liếc qua nhà tù rồi vội nhìn đi chỗ khác. "Ông nhìn thấy đằng kia không?" bà nói, chỉ tay về phía trước. "Thấy cái quán đó không? Mình dừng lại đó uống cà phê đi. Được chứ?"
"Cũng được," ông Tuck nói. "Có thể họ biết gì đó."
Bên trong, quán ăn lấp lánh ánh bàn ghế crôm và có mùi của véc ni trộn với xốt cà chua nấm. Bà Mae và ông Tuck chọn chỗ ngồi trên mấy chiếc ghế đầu xoay tại cái quầy dài. Nhân viên phục vụ từ đằng sau bếp đi ra và định giá hai vị khách dưới con mắt nhà nghề. Họ trông cũng được. Hơi kỳ quặc một chút, có lẽ - đặc biệt là do quần áo của họ - nhưng trông có vẻ là người lương thiện. Anh ta đập cái thực đơn bằng bìa cứng đánh bẹt xuống trước mặt họ và tựa người vào cái máy ướp lạnh nước ngọt có ga vị cam. "Cô chú mới đến đây à?" anh ta hỏi.
"Vâng," ông Tuck đáp. "Chỉ đi ngang qua đây thôi."
"Nhìn cô chú cũng biết," anh nhân viên nói.
"Cho tôi hỏi thăm," ông Tuck thận trọng nói, tay chỉ vào cái thực đơn. "Ở đây từng có một cánh rừng phải không, đầu bên kia thị trấn ấy?"
"Đúng thế," anh ta nói. "Nhưng từng xảy ra một con bão sét lớn lắm, khoảng ba năm trước thì phải. Một cái cây bự bị sét đánh trúng chẻ làm đôi. Bắt lửa và cháy trụi lủi. Cày cả mặt đất lên nữa. Phải dùng xe ủi ra đó."
"Ồ," ông Tuck nói. Ông và bà liếc nhìn nhau.
"Làm ơn cho tôi cà phê," bà Mae nói. "Đen. Hai tách."
"Được rồi," nhân viên phục vụ nói. Anh ta mang tấm thực đơn đi, đổ cà phê vào hai cái tách bằng gốm dày rồi lại tiếp tục dựa lưng vào cái máy ướp lạnh nước ngọt.
"Trong khi rừng đó từng có một con suối nước ngọt," ông Tuck bạo gan nói, nhấm nháp tách cà phê.
"Tôi cũng chẳng biết gì về việc đó cả," người phục vụ nói. "Phải dùng xe ủi ra ủi phẳng hết rồi, như hồi nãy tôi nói đó."
"Ra thế," ông Tuck nói.
Và rồi sau đó, trong lúc bà Mae đi mua đồ dự trữ, ông Tuck đi bách bộ vào thị trấn - trở lại con đường mà họ đã qua - đến tận ngọn đồi nhỏ. Giờ đây chỗ đó đã mọc lên nhà cửa và cả một cửa hàng bán thức ăn gia súc và ngũ cốc, nhưng bên kia ngọn đồi, trong cái hàng rào sắt bao quanh là khu nghĩa trang.
Tim ông Tuck đập liên hồi. ông đã để ý trên đường vào đây. Cả bà Mae cũng thấy nữa. Họ chẳng hề nói với nhau lời nào về nó, nhưng cả hai đều biết rằng đó có thể là nơi chứa đựng câu trả lời cho mọi người điều còn lại. Ông Tuck vuốt cho thẳng lại cái áo khoác cũ kỹ. Ông đi xuyên qua cái cổng tò vò có những vòng xoắn trang trí bằng sắt và đừng lại, nheo mắt nhìn những hàng bia mộ đầy cỏ dại. Và rồi, xa xa về phía bên phải, ông nhìn thấy một tấm bia tưởng niệm cao, chắc là đã từng một thời đường bệ nhưng giờ hơi nghiêng một chút. Trên đó có khắc một cái tên: Foster.
Chậm rãi, ông Tuck tiến bước về phía tấm bia tưởng niệm và khi đến gần ông nhìn thấy những biển nhỏ hơn chung quanh đó. Đây là phần mộ của dòng họ. Rồi đột nhiên cổ họng ông thắt lại. Vì nó đang ở đó. Ông hằng muốn nó ở đó, nhưng giờ nhìn thấy nó, lòng ông lại tràn ngập nỗi đau buồn. Ông quỳ xuống và đọc hàng chữ khắc trên bia mộ:
Đồng tưởng nhớ
Winnifred Foster Jackson
Người vợ yêu dấu
Người mẹ kính yêu
1870-1948
"Vậy là," ông Tuck tự nói với mình. "Hai năm. Con bé ra đi được hai năm rồi." Ông đứng dậy nhìn quanh, bối rối, cố gạt đi cơn nghẹn ngào trong cổ họng. Nhưng chẳng có ai nhìn thấy ông. Nghĩa trang yên lặng như tờ. Trên những cành liễu đằng sau lưng, tiếng một chú chim sáo cánh đỏ líu lo. Ông Tuck vội vội vàng vàng quẹt mắt. Rồi ông lại vuốt thẳng áo khoác và giơ tay lên chào từ biệt. "Đúng là một cô bé ngoan," ông nói lớn. Và rồi ông quay người lại rời khỏi nghĩa trang, bước đi thật nhanh.
Lát sau, khi ông và bà Mae ra khỏi Treegap, không nhìn ông, bà nói thật khẽ, "Nó mất rồi hả?"
Ông Tuck gật đầu. "Mất rồi," ông trả lời .
Sau đó là một khoảng lặng thật lâu giữa hai người, và rồi bà Mae lên tiếng, "Tội nghiệp thằng Jesse."
"Dù gì thì nó cũng biết rồi," ông Tuck nói. "Ít ra thì cũng biết là con sẽ bé sẽ không đến. Chúng
ta ai cũng biết điều đó, từ rất lâu rồi."
"Cũng vậy thôi," bà Mae nói. Bà thở dài. Rồi ngồi thẳng lưng hơn một chút, bà nói, "Giờ thì, mình đi đâu đây, hả ông Tuck? Chẳng cần phải quay trở lại đây nữa rồi."
"Vậy đó," ông Tuck nói. "Cứ đi con đường này thẳng tới trước đi. Rồi mình tính tiếp."
"Cũng được," bà Mae nói. Rồi đột nhiên bà đặt một bàn tay lên cánh tay ông và chỉ. "Coi chừng con cóc đó"
Ông Tuck cũng nhìn thấy nó. Ông ghìm cương ngựa lại và trèo xuống xe. Con cóc ấy đang ngồi chễm chệ ngay giữa đường, vô tư lự. Bên làn kia, một chiếc xe tải nhỏ rầm rầm chạy ngang qua, và trước làn gió do chiếc xe tạo ra, nó nhắm tịt mắt lại. Nhưng nó không hề di chuyển. Ông Tuck chờ đến khi chiếc xe chạy qua rồi mới nhặt con cóc lên và mang nó vào đám cỏ dại mọc bên đừơng. "Bọn ngốc nghếch này cứ nghĩ rằng mình bất tử hay sao ấy," ông nói với bà Mae.
Thế rồi họ lại lên đường, bỏ lại Treegap phía sau lưng, và khi họ đi, cái giai điệu nhẹ nhàng leng keng phát ra từ chiếc hộp nhạc ấy trôi lững lờ phía sau và cuối cùng vụt tắt phía xa cuối con đường.
Tác giả :
Natalie Babbit