Người Tình Trí Mạng
Chương 137: Đợi tôi [2540 chữ]
Thứ thay đổi chỉ có thời gian thôi.
Tả Thời sinh ra trong một gia đình nhiều đời theo nghiệp hí kịch, bố anh – Tả Quốc Đảng được mệnh danh là nghệ nhân hí kịch. Các đời chú bác, tiền bối trong nhà họ Tả cũng đều nhiều đời vào cung diễn kịch cho Hoàng thất, được Hoàng gia khâm điểm, nếu đặt vào thời đại ngày nay thì có thể nói là đại sư thuộc hàng quốc gia.
Nhưng mọi vinh hoa của nhà họ Tả đều dừng lại ở Tả Thời, vì anh hoàn toàn không thích hí kịch, cũng không thích hát hí khúc. Vì chuyện này, những đứa trẻ mà Tả Quốc Đảng nhận nuôi cũng phần nhiều là muốn bồi dưỡng cho thế hệ sau.
Thế nên ngày hôm đó Tả Quốc Đảng đã nhìn thấy Thương Xuyên, cũng đồng thời nhìn thấy Tưởng Ly đúng dịp tới thăm Thương Xuyên. Lúc đó, Tả Quốc Đảng bảo Tưởng Ly nói vài câu để nghe thử giọng. Cô không hiểu gì, bèn làm theo. Tả Quốc Đảng cảm thán: Đứa trẻ này có căn có cốt theo nghiệp hí kịch đấy, một mầm giống tuyệt vời.
Cô không hiểu vì sao Tả Quốc Đảng có thể nhìn ra được điều đó, tóm lại, bố mẹ nuôi của cô thấy có một nghệ nhân hí kịch tiếng tăm lẫy lừng nhận xét về con mình như vậy dĩ nhiên là rất vui, còn tha thiết mong Tả Quốc Đảng sẽ nhận cô làm học trò.
Khoảng thời gian vui vẻ nhất thời thơ ấu e rằng chính là những năm tháng cô sống trong kịch lầu, hát ca diễn múa. Cô học không tập trung chút nào, nhưng Tả Quốc Đảng lại dạy dỗ rất hết lòng. Tuy rằng Thương Xuyên được Tả Quốc Đảng nhận làm con nuôi, nhưng cũng phải gọi Tả Quốc Đảng một tiếng “sư phụ” theo đúng quy tắc của ngành nghề.
Thật ra lúc đó cô hoàn toàn không hiểu sự nặng nề và trang nghiêm của hí kịch, suy nghĩ duy nhất muốn học hí kịch là để có thể thường xuyên gặp Thương Xuyên. Và một người nữa cũng không nghiêm túc như cô là Tả Thời. Anh có một khứu giác nhạy bén. Trùng hợp thay, cô cũng vậy. Dần dần, hai người họ đều có hứng thú hơn với cỏ cây hoa lá. Vì chuyện này, cô bị Tả Quốc Đảng phạt không ít lần. Ở trong mắt ông, hí kịch là trời, còn tất cả những việc khác đều là bậy bạ.
Cứ như vậy, cô học hí kịch tới khoảng năm mười lăm tuổi rồi cùng bố mẹ nuôi chuyển đến Bắc Kinh. Vài năm sau, họ lại gặp gỡ nhau giữa thành phố Bắc Kinh rộng lớn này.
Năm họ gặp lại, cô đã đi sâu vào lĩnh vực phân tích mùi hương. Tả Thời cũng nghiên cứu chung một chuyên ngành với cô. Còn Thương Xuyên, tuy đã luyện được một giọng hát tuyệt vời nhưng chung quy vẫn không theo ngành hí kịch mà một lòng muốn làm diễn viên.
Vì chuyện này vào một ngày nào đó, ba người họ đều phải quỳ rạp trước mặt Tả Quốc Đảng chịu hình phạt. Cuối cùng, Tả Quốc Đảng vẫn không đành lòng trách mắng họ một câu, chỉ nói: “Luyện công học kịch, thứ luyện được là đức tính, thứ học được là làm người. Mấy đứa đã trưởng thành rồi, có thể kiên trì bền bỉ, nghiêm khắc với chính mình trong lĩnh vực mà mình thích thì cũng không uổng công ta dạy mấy đứa.”
Năm đó, Thương Xuyên đã bộc lộ tài năng của mình trong Học viện điện ảnh. Cô 20 tuổi, Tả Thời 22 tuổi. Tuy rằng cả cô và Tả Thời đều còn theo học nhưng đã đạt được một thành tựu nhỏ trong lĩnh vực mùi hương.
Cho tới, ba năm trước.
Thương Xuyên nhẹ nhàng xoay tách trà, môi lưỡi ngập tràn mùi vị của cây nữ lang. Cậu nói: “Tôi thường hay nghĩ nếu không có cậu thì nhất định không có Thương Xuyên của ngày hôm nay. Bộ phim năm đó đối với tốt quan trọng tột cùng. Nếu không nhờ có một tách nữ lang khi ấy thì tôi nghĩ mình chắc chắn sẽ làm hỏng sự nghiệp của mình.”
Tưởng Ly rót thêm trà cho cậu: “Năm đó cậu rất căng thẳng, cây nữ lang có tác dụng tuyệt vời nhất chính là giữ bình tĩnh, an thần, lại hợp với thể chất cơ thể cậu, thế nên cũng có thể coi là bốc thuốc đúng bệnh. Mấy năm nay cậu thuận buồm xuôi gió, những người trong giới đều biết cậu ôn hòa, điềm đạm, bây giờ bỗng dưng lại xuất hiện tật cũ, có thể nhận ra cậu rất thận trọng đối với bộ phim này.”
Thương Xuyên từ từ thưởng thức trà như đang đăm chiêu suy nghĩ gì. Rất lâu sau mới lên tiếng, có phần ngập ngừng: “Thật ra mấy ngày nay một là tinh thần của tôi luôn bị vai diễn trong phim ảnh hưởng, hai là cảm thấy…”
Tưởng Ly cầm tách trà, nhướng mắt nhìn cậu.
Cậu ngẩng lên nhìn thẳng vào cô, không tiếp tục câu nói ban nãy mà hỏi: “Cậu có biết Tả Thời đi đâu về đâu không?”
Ngón tay Tưởng Ly hơi dùng sức một chút: “Không biết.”
Thương Xuyên nhìn cô chằm chằm, lát sau mới nói: “Kể từ khi cậu và Tả Thời đều dính dáng tới cái người tên là Nhiêu Tôn đó, cả hai đều thay đổi rồi.”
“Thương Xuyên, thứ thay đổi chỉ có thời gian thôi.” Tưởng Ly khẽ lên tiếng.
“Vậy cậu nói cho tôi biết đi, ba năm trước rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì?” Thương Xuyên nhíu mày. Ba năm trước, cô và Tả Thời đồng thời mất tăm mất tích. Về sau, qua nhiều nguồn tin, cậu mới biết cô đã tới Thương Lăng. Nhưng tin tức về Tả Thời thì từ đầu tới cuối đều không có. Bây giờ cô đã quay trở về, nhưng Tả Thời vẫn bặt vô âm tín.
Tưởng Ly nhìn xuống tách trà, khuôn mặt cô cũng bình lặng như mặt nước trà vậy. Thương Xuyên đợi rất lâu không thấy cô trả lời, bèn ngồi thẳng dậy: “Tôi nghe nói được một số chuyện.”
Bấy giờ Tưởng Ly mới uống cạn trà trong tách, nói: “Một vài chuyện liên quan đến tôi, cậu nghe được cũng rất bình thường.”
“Bao gồm cả việc cậu đã giết Tả Thời rồi vào tù? Lẽ nào tất cả những chuyện này cũng là sự thật?” Thương Xuyên hỏi.
Tưởng Ly ra sức mím môi: “Không, tôi không giết Tả Thời, hơn nữa, tôi cũng chưa từng ngồi tù!”
“Cậu không giết Tả Thời, nhưng đến nay Tả Thời vẫn không một chút tung tích.” Thương Xuyên nhìn cô chằm chằm: “Chúng ta lớn lên cùng nhau, tuy rằng về sau có xa cách vài năm nhưng tôi tin là tôi vẫn khá hiểu cậu. Cậu trốn tránh ở Thương Lăng ba năm, bây giờ nếu đã dám quay về thì nhất định là về đây vì chuyện của Tả Thời. Lẽ nào Tả Thời bị người khác hại chết?”
Ngừng một chút, Thương Xuyên bổ sung thêm: “Hoặc là Nhiêu Tôn cũng không tránh khỏi can dự!”
Hơi thở của Tưởng Ly như bị một lưỡi cưa xén qua, mỗi nhát cưa đều lại sống mũi đau đớn. Cô lắc đầu: “Cũng không liên quan đến Nhiêu Tôn.” Cô ngẩng lên nhìn Thương Xuyên: “Hơn nữa tôi quay về, chỉ vì muốn quay về thôi.”
Thương Xuyên nhìn cô vẻ hồ nghi.
“Tôi về đây là muốn giải quyết một số chuyện, nhưng không phải như cậu nghĩ.”
Thương Xuyên khẽ nheo mắt lại: “Ý của cậu là Tả Thời chỉ mất tích?”
Tưởng Ly cắn môi: “Phải.”
Thương Xuyên không nói nữa, dựa vào lưng ghế sofa, tay vẫn xoay nhẹ nhàng tách trà. Tưởng Ly chỉ cần hơi ngước mắt lên là có thể nhìn thấy động tác xoay trà ấy, đó là cử động Tả Thời quen dùng khi uống trà.
Rất lâu sau, Thương Xuyên mới lên tiếng, thanh âm rất trầm: “Những cô nhi giống như chúng ta, cho dù cố gắng cả đời thật ra thì vẫn cô độc. Trên đời này tôi không có người thân nào cả, ngoài sư phụ ra thì chỉ còn cậu và Tả Thời. Cậu là người bạn tốt nhất của tôi, Tả Thời cũng vậy. Ở trong mắt tôi, hai người còn quan trọng hơn cả tính mạng của tôi nữa. Thế nên, nếu cậu có gì giấu giếm không nói với tôi thì tôi còn khó chịu hơn là bị giết chết.”
Tưởng Ly nhìn Thương Xuyên vẻ đau lòng: “Có những chuyện không nói, không vì lý do gì khác, chỉ là không biết phải mở lời thế nào mà thôi. Thương Xuyên, tôi không muốn nhắc lại chuyện của ba năm trước. Mà tôi nghĩ… Nếu đổi lại là Tả Thời, anh ấy cũng chọn cách không nhắc đến giống tôi.”
Thương Xuyên từ từ uống hết tách trà: “Cậu có những chuyện cậu không biết nên nói thế nào, ví dụ như Tả Thời, ví dụ như những lời đồn đại về cậu. Tôi cũng có những chuyện tôi không biết nên nói thế nào, ví dụ như câu nói còn dang dở của tôi ban nãy.”
“Cũng liên quan đến Tả Thời?” Tưởng Ly nhạy cảm hỏi.
Thương Xuyên gật đầu, đặt tách trà xuống: “Thật ra… tôi vẫn luôn có một dự cảm.” Cậu nhướng mày nhìn cô: “Tôi cảm thấy, Tả Thời đã chết rồi.”
Trái tim Tưởng Ly chợt nghẹn lại.
***
“Anh hùng thất bại, ngược lại bị tiểu nhân ức hiếp, căm hận người nghĩa hiệp, đố kỵ kẻ hiền tài, hạn trong ba ngày, lập xong danh trạng, mong được chấp nhận…”*
*Một đoạn hí kịch đã được dịch nghĩa.
“Không, đừng ép tôi! Cầu xin anh…”
“Anh là đồ điên! Anh sẽ gặp báo ứng đấy!”
“Liệu có gặp báo ứng hay không thì không biết, tôi chỉ biết, từ nay về sau sẽ không còn ai tin lời cô nói nữa…”
“Hạ Hạ…”*
*Toàn bộ xưng hô trong đoạn thoại in nghiêng chưa rõ giới tính, chưa rõ tuổi tác, chỉ tạm đặt.
Tưởng Ly choàng tỉnh giấc, câu cuối cùng vọng lại bên tai là danh xưng mà Tả Thời hay dùng để gọi cô. Trán lấm tấm mồ hôi, lạnh lẽo, cho dù trong phòng gió điều hòa đang thổi vù vù, cô vẫn cảm thấy buốt giá.
Cái lạnh lẽo tận đáy lòng làm sao điều hòa có thể sưởi ấm được? Huống hồ đây còn là tiết trời đầu xuân mới ấm và còn giữ khá nhiều lạnh?
Tưởng Ly vùi mặt vào lòng bàn tay, tất cả quá khứ đều hóa thành ác mộng, giống ma oan hồn đòi mạng đang bám riết lấy cô.
Oan hồn…
Cô bất thình lình nhớ lại câu nói cuối cùng của Thương Xuyên: Tối đó, hình như tôi đã nhìn thấy Tả Thời hát kịch trên sân khấu. Câu hát “Căm hận người nghĩa hiệp, đố kỵ kẻ hiền tài, hạn trong ba ngày, lập xong danh trạng, mong được chấp nhận…” vẫn cứ trúc trắc khó nghe như ngày nào.
Từng sợi dây thần kinh của Tưởng Ly giật lên đau nhức, giống như có ai cầm dao khoắng nhặng lên trong đầu vậy. Phải, trong mơ cô cũng mơ thấy cảnh anh hát khúc đó.
Bàn tay cô đang run rẩy, khí lạnh giống như bàn tay bóp chặt cổ cô, khiến cô không sao hít thở nổi, tưởng ngạt thở. Một sự tuyệt vọng và sợ hãi chưa từng có quấn chặt lấy cô, khiến cô không thể ở đây thêm một giây một phút nào nữa.
Cô lần sờ tìm ra di động, khi ấn nút gọi tay vẫn còn run. Sau khi thực hiện cuộc gọi, cô bỗng dưng không biết phải mở lời thế nào. Ngay cả việc vì sao gọi cho anh cô cũng không rõ, chỉ cảm thấy, vào lúc này dường như chỉ có anh mới có thể mang tới cho cô ấm áp.
Thanh âm ấy rất khẽ, rất dịu dàng. Thấy cô gọi mà không nói gì, anh hỏi: “Sao vậy?”
Tưởng Ly dựa vào đầu giường, từng lớp khí ấm áp như đè thẳng xuống người, nhưng cô vẫn không sao cảm thấy hết lạnh. Cô khô họng lên tiếng: “Anh vẫn chưa ngủ sao?”
“Ừm.”
Cô nhìn giờ, hai giờ sáng.
“Lục Đông Thâm.” Cô ra sức nắm chặt di động: “Tôi muốn về nhà.”
“Bây giờ ư?”
“Phải, bây giờ.” Nói xong, cả người cô co quắp lại, cơn rét run trong lòng đủ khiến răng môi của cô va vào nhau lập cập.
“Được, đợi tôi.”
Tả Thời sinh ra trong một gia đình nhiều đời theo nghiệp hí kịch, bố anh – Tả Quốc Đảng được mệnh danh là nghệ nhân hí kịch. Các đời chú bác, tiền bối trong nhà họ Tả cũng đều nhiều đời vào cung diễn kịch cho Hoàng thất, được Hoàng gia khâm điểm, nếu đặt vào thời đại ngày nay thì có thể nói là đại sư thuộc hàng quốc gia.
Nhưng mọi vinh hoa của nhà họ Tả đều dừng lại ở Tả Thời, vì anh hoàn toàn không thích hí kịch, cũng không thích hát hí khúc. Vì chuyện này, những đứa trẻ mà Tả Quốc Đảng nhận nuôi cũng phần nhiều là muốn bồi dưỡng cho thế hệ sau.
Thế nên ngày hôm đó Tả Quốc Đảng đã nhìn thấy Thương Xuyên, cũng đồng thời nhìn thấy Tưởng Ly đúng dịp tới thăm Thương Xuyên. Lúc đó, Tả Quốc Đảng bảo Tưởng Ly nói vài câu để nghe thử giọng. Cô không hiểu gì, bèn làm theo. Tả Quốc Đảng cảm thán: Đứa trẻ này có căn có cốt theo nghiệp hí kịch đấy, một mầm giống tuyệt vời.
Cô không hiểu vì sao Tả Quốc Đảng có thể nhìn ra được điều đó, tóm lại, bố mẹ nuôi của cô thấy có một nghệ nhân hí kịch tiếng tăm lẫy lừng nhận xét về con mình như vậy dĩ nhiên là rất vui, còn tha thiết mong Tả Quốc Đảng sẽ nhận cô làm học trò.
Khoảng thời gian vui vẻ nhất thời thơ ấu e rằng chính là những năm tháng cô sống trong kịch lầu, hát ca diễn múa. Cô học không tập trung chút nào, nhưng Tả Quốc Đảng lại dạy dỗ rất hết lòng. Tuy rằng Thương Xuyên được Tả Quốc Đảng nhận làm con nuôi, nhưng cũng phải gọi Tả Quốc Đảng một tiếng “sư phụ” theo đúng quy tắc của ngành nghề.
Thật ra lúc đó cô hoàn toàn không hiểu sự nặng nề và trang nghiêm của hí kịch, suy nghĩ duy nhất muốn học hí kịch là để có thể thường xuyên gặp Thương Xuyên. Và một người nữa cũng không nghiêm túc như cô là Tả Thời. Anh có một khứu giác nhạy bén. Trùng hợp thay, cô cũng vậy. Dần dần, hai người họ đều có hứng thú hơn với cỏ cây hoa lá. Vì chuyện này, cô bị Tả Quốc Đảng phạt không ít lần. Ở trong mắt ông, hí kịch là trời, còn tất cả những việc khác đều là bậy bạ.
Cứ như vậy, cô học hí kịch tới khoảng năm mười lăm tuổi rồi cùng bố mẹ nuôi chuyển đến Bắc Kinh. Vài năm sau, họ lại gặp gỡ nhau giữa thành phố Bắc Kinh rộng lớn này.
Năm họ gặp lại, cô đã đi sâu vào lĩnh vực phân tích mùi hương. Tả Thời cũng nghiên cứu chung một chuyên ngành với cô. Còn Thương Xuyên, tuy đã luyện được một giọng hát tuyệt vời nhưng chung quy vẫn không theo ngành hí kịch mà một lòng muốn làm diễn viên.
Vì chuyện này vào một ngày nào đó, ba người họ đều phải quỳ rạp trước mặt Tả Quốc Đảng chịu hình phạt. Cuối cùng, Tả Quốc Đảng vẫn không đành lòng trách mắng họ một câu, chỉ nói: “Luyện công học kịch, thứ luyện được là đức tính, thứ học được là làm người. Mấy đứa đã trưởng thành rồi, có thể kiên trì bền bỉ, nghiêm khắc với chính mình trong lĩnh vực mà mình thích thì cũng không uổng công ta dạy mấy đứa.”
Năm đó, Thương Xuyên đã bộc lộ tài năng của mình trong Học viện điện ảnh. Cô 20 tuổi, Tả Thời 22 tuổi. Tuy rằng cả cô và Tả Thời đều còn theo học nhưng đã đạt được một thành tựu nhỏ trong lĩnh vực mùi hương.
Cho tới, ba năm trước.
Thương Xuyên nhẹ nhàng xoay tách trà, môi lưỡi ngập tràn mùi vị của cây nữ lang. Cậu nói: “Tôi thường hay nghĩ nếu không có cậu thì nhất định không có Thương Xuyên của ngày hôm nay. Bộ phim năm đó đối với tốt quan trọng tột cùng. Nếu không nhờ có một tách nữ lang khi ấy thì tôi nghĩ mình chắc chắn sẽ làm hỏng sự nghiệp của mình.”
Tưởng Ly rót thêm trà cho cậu: “Năm đó cậu rất căng thẳng, cây nữ lang có tác dụng tuyệt vời nhất chính là giữ bình tĩnh, an thần, lại hợp với thể chất cơ thể cậu, thế nên cũng có thể coi là bốc thuốc đúng bệnh. Mấy năm nay cậu thuận buồm xuôi gió, những người trong giới đều biết cậu ôn hòa, điềm đạm, bây giờ bỗng dưng lại xuất hiện tật cũ, có thể nhận ra cậu rất thận trọng đối với bộ phim này.”
Thương Xuyên từ từ thưởng thức trà như đang đăm chiêu suy nghĩ gì. Rất lâu sau mới lên tiếng, có phần ngập ngừng: “Thật ra mấy ngày nay một là tinh thần của tôi luôn bị vai diễn trong phim ảnh hưởng, hai là cảm thấy…”
Tưởng Ly cầm tách trà, nhướng mắt nhìn cậu.
Cậu ngẩng lên nhìn thẳng vào cô, không tiếp tục câu nói ban nãy mà hỏi: “Cậu có biết Tả Thời đi đâu về đâu không?”
Ngón tay Tưởng Ly hơi dùng sức một chút: “Không biết.”
Thương Xuyên nhìn cô chằm chằm, lát sau mới nói: “Kể từ khi cậu và Tả Thời đều dính dáng tới cái người tên là Nhiêu Tôn đó, cả hai đều thay đổi rồi.”
“Thương Xuyên, thứ thay đổi chỉ có thời gian thôi.” Tưởng Ly khẽ lên tiếng.
“Vậy cậu nói cho tôi biết đi, ba năm trước rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì?” Thương Xuyên nhíu mày. Ba năm trước, cô và Tả Thời đồng thời mất tăm mất tích. Về sau, qua nhiều nguồn tin, cậu mới biết cô đã tới Thương Lăng. Nhưng tin tức về Tả Thời thì từ đầu tới cuối đều không có. Bây giờ cô đã quay trở về, nhưng Tả Thời vẫn bặt vô âm tín.
Tưởng Ly nhìn xuống tách trà, khuôn mặt cô cũng bình lặng như mặt nước trà vậy. Thương Xuyên đợi rất lâu không thấy cô trả lời, bèn ngồi thẳng dậy: “Tôi nghe nói được một số chuyện.”
Bấy giờ Tưởng Ly mới uống cạn trà trong tách, nói: “Một vài chuyện liên quan đến tôi, cậu nghe được cũng rất bình thường.”
“Bao gồm cả việc cậu đã giết Tả Thời rồi vào tù? Lẽ nào tất cả những chuyện này cũng là sự thật?” Thương Xuyên hỏi.
Tưởng Ly ra sức mím môi: “Không, tôi không giết Tả Thời, hơn nữa, tôi cũng chưa từng ngồi tù!”
“Cậu không giết Tả Thời, nhưng đến nay Tả Thời vẫn không một chút tung tích.” Thương Xuyên nhìn cô chằm chằm: “Chúng ta lớn lên cùng nhau, tuy rằng về sau có xa cách vài năm nhưng tôi tin là tôi vẫn khá hiểu cậu. Cậu trốn tránh ở Thương Lăng ba năm, bây giờ nếu đã dám quay về thì nhất định là về đây vì chuyện của Tả Thời. Lẽ nào Tả Thời bị người khác hại chết?”
Ngừng một chút, Thương Xuyên bổ sung thêm: “Hoặc là Nhiêu Tôn cũng không tránh khỏi can dự!”
Hơi thở của Tưởng Ly như bị một lưỡi cưa xén qua, mỗi nhát cưa đều lại sống mũi đau đớn. Cô lắc đầu: “Cũng không liên quan đến Nhiêu Tôn.” Cô ngẩng lên nhìn Thương Xuyên: “Hơn nữa tôi quay về, chỉ vì muốn quay về thôi.”
Thương Xuyên nhìn cô vẻ hồ nghi.
“Tôi về đây là muốn giải quyết một số chuyện, nhưng không phải như cậu nghĩ.”
Thương Xuyên khẽ nheo mắt lại: “Ý của cậu là Tả Thời chỉ mất tích?”
Tưởng Ly cắn môi: “Phải.”
Thương Xuyên không nói nữa, dựa vào lưng ghế sofa, tay vẫn xoay nhẹ nhàng tách trà. Tưởng Ly chỉ cần hơi ngước mắt lên là có thể nhìn thấy động tác xoay trà ấy, đó là cử động Tả Thời quen dùng khi uống trà.
Rất lâu sau, Thương Xuyên mới lên tiếng, thanh âm rất trầm: “Những cô nhi giống như chúng ta, cho dù cố gắng cả đời thật ra thì vẫn cô độc. Trên đời này tôi không có người thân nào cả, ngoài sư phụ ra thì chỉ còn cậu và Tả Thời. Cậu là người bạn tốt nhất của tôi, Tả Thời cũng vậy. Ở trong mắt tôi, hai người còn quan trọng hơn cả tính mạng của tôi nữa. Thế nên, nếu cậu có gì giấu giếm không nói với tôi thì tôi còn khó chịu hơn là bị giết chết.”
Tưởng Ly nhìn Thương Xuyên vẻ đau lòng: “Có những chuyện không nói, không vì lý do gì khác, chỉ là không biết phải mở lời thế nào mà thôi. Thương Xuyên, tôi không muốn nhắc lại chuyện của ba năm trước. Mà tôi nghĩ… Nếu đổi lại là Tả Thời, anh ấy cũng chọn cách không nhắc đến giống tôi.”
Thương Xuyên từ từ uống hết tách trà: “Cậu có những chuyện cậu không biết nên nói thế nào, ví dụ như Tả Thời, ví dụ như những lời đồn đại về cậu. Tôi cũng có những chuyện tôi không biết nên nói thế nào, ví dụ như câu nói còn dang dở của tôi ban nãy.”
“Cũng liên quan đến Tả Thời?” Tưởng Ly nhạy cảm hỏi.
Thương Xuyên gật đầu, đặt tách trà xuống: “Thật ra… tôi vẫn luôn có một dự cảm.” Cậu nhướng mày nhìn cô: “Tôi cảm thấy, Tả Thời đã chết rồi.”
Trái tim Tưởng Ly chợt nghẹn lại.
***
“Anh hùng thất bại, ngược lại bị tiểu nhân ức hiếp, căm hận người nghĩa hiệp, đố kỵ kẻ hiền tài, hạn trong ba ngày, lập xong danh trạng, mong được chấp nhận…”*
*Một đoạn hí kịch đã được dịch nghĩa.
“Không, đừng ép tôi! Cầu xin anh…”
“Anh là đồ điên! Anh sẽ gặp báo ứng đấy!”
“Liệu có gặp báo ứng hay không thì không biết, tôi chỉ biết, từ nay về sau sẽ không còn ai tin lời cô nói nữa…”
“Hạ Hạ…”*
*Toàn bộ xưng hô trong đoạn thoại in nghiêng chưa rõ giới tính, chưa rõ tuổi tác, chỉ tạm đặt.
Tưởng Ly choàng tỉnh giấc, câu cuối cùng vọng lại bên tai là danh xưng mà Tả Thời hay dùng để gọi cô. Trán lấm tấm mồ hôi, lạnh lẽo, cho dù trong phòng gió điều hòa đang thổi vù vù, cô vẫn cảm thấy buốt giá.
Cái lạnh lẽo tận đáy lòng làm sao điều hòa có thể sưởi ấm được? Huống hồ đây còn là tiết trời đầu xuân mới ấm và còn giữ khá nhiều lạnh?
Tưởng Ly vùi mặt vào lòng bàn tay, tất cả quá khứ đều hóa thành ác mộng, giống ma oan hồn đòi mạng đang bám riết lấy cô.
Oan hồn…
Cô bất thình lình nhớ lại câu nói cuối cùng của Thương Xuyên: Tối đó, hình như tôi đã nhìn thấy Tả Thời hát kịch trên sân khấu. Câu hát “Căm hận người nghĩa hiệp, đố kỵ kẻ hiền tài, hạn trong ba ngày, lập xong danh trạng, mong được chấp nhận…” vẫn cứ trúc trắc khó nghe như ngày nào.
Từng sợi dây thần kinh của Tưởng Ly giật lên đau nhức, giống như có ai cầm dao khoắng nhặng lên trong đầu vậy. Phải, trong mơ cô cũng mơ thấy cảnh anh hát khúc đó.
Bàn tay cô đang run rẩy, khí lạnh giống như bàn tay bóp chặt cổ cô, khiến cô không sao hít thở nổi, tưởng ngạt thở. Một sự tuyệt vọng và sợ hãi chưa từng có quấn chặt lấy cô, khiến cô không thể ở đây thêm một giây một phút nào nữa.
Cô lần sờ tìm ra di động, khi ấn nút gọi tay vẫn còn run. Sau khi thực hiện cuộc gọi, cô bỗng dưng không biết phải mở lời thế nào. Ngay cả việc vì sao gọi cho anh cô cũng không rõ, chỉ cảm thấy, vào lúc này dường như chỉ có anh mới có thể mang tới cho cô ấm áp.
Thanh âm ấy rất khẽ, rất dịu dàng. Thấy cô gọi mà không nói gì, anh hỏi: “Sao vậy?”
Tưởng Ly dựa vào đầu giường, từng lớp khí ấm áp như đè thẳng xuống người, nhưng cô vẫn không sao cảm thấy hết lạnh. Cô khô họng lên tiếng: “Anh vẫn chưa ngủ sao?”
“Ừm.”
Cô nhìn giờ, hai giờ sáng.
“Lục Đông Thâm.” Cô ra sức nắm chặt di động: “Tôi muốn về nhà.”
“Bây giờ ư?”
“Phải, bây giờ.” Nói xong, cả người cô co quắp lại, cơn rét run trong lòng đủ khiến răng môi của cô va vào nhau lập cập.
“Được, đợi tôi.”
Tác giả :
Ân Tầm