Người Đưa Tin
Chương 20: Luân đôn
Bức tranh Marguerite Gachet đến trước Zizi, nó nằm trong thùng sau xe tải nhỏ, được ngụy trang cẩn thận, do một tài xế chuyên nghiệp lái đến từ ga Luân Đôn. Rồi nó được bí mật chuyển vào phòng tranh Isherwood thông qua khu bốc dỡ hàng hóa an toàn. Có hai gã thuộc đội bảo vệ của Wazir bin Talal theo dõi việc vận chuyển. Hai gã này yên vị trên một chiếc xe hơi đậu tại đường Duke, chính Jafar Sharuki, cận vệ cao cấp, cũng đang ngồi nhấm nháp món khoai tây chiên tại một quán bar cạnh phòng tranh của Isherwwod. Thư điện tử xác nhận tranh đã vận chuyển đến nơi an toàn được nhóm đặc vụ gửi đến nhà Surrey vào lúc 3 giờ 18 phút chiều. Dina nhận thư, và đọc thành tiếng cho Gabriel nghe. Lúc này anh đang đi đi lại lại trên tấm thảm cũ rích trải trong phòng khách. Thi thoảng anh ngừng bước, nghiêng đầu như đang lắng nghe tiếng nhạc văng vẳng từ xa, rồi lại tiếp tục cuộc hành trình đi tới đi lui trong phòng khách.
Trong Gabriel là cảm giác bất lực của một nhà viết kịch của đêm chính thức mở màn. Anh đã tạo ra nhân vật, diễn tập lời thoại với họ và sắp chứng kiến họ biểu diễn trên sân khấu. Đó là Isherwood trong trang phục đen sọc trắng với cà vạt đỏ may mắn của mình, anh ta uống nước và tranh thủ nhấm nháp móng tay ngón trỏ trái để giảm căng thẳng. Chiara ngồi sau mặt bàn gương bóng loáng, tóc búi cao, chân bắt tréo, còn Sarah, thanh lịch với bộ trang phục Chanel đen mua ở cửa hàng Harrods trước đó hai tuần, ngồi thẳng trên trường kỷ trong phòng trưng bày trên lầu. Cô đăm đăm nhìn bức họa Maguerite Gachet nhưng tâm trí lại nghĩ đến tên hung thần sắp sửa bước ra khỏi thang máy trong hai tiếng nữa. Nếu anh có thể phân lại vai diễn, có thể đó sẽ là vai của Sarah. Nhưng bây giờ thì đã quá trễ, sắp đến giờ mở màn rồi.
Cho nên, thay vì thế, nhà soạn kịch bất đắc dĩ của chúng ta đành phải đi đi lại lại trong lòng, nôn nóng chờ đợi thông tin cập nhật. Vào lúc 3 giờ 4 phút, chiếc phi cơ 747 của ngài Baker hạ dần cánh xuống sân bay, ngài Baker ở đây chính là bí danh cho Zizi al-Bakari. Lúc 3 giờ 32 phút, ngài Baker và đoàn tùy tùng làm xong thủ tục hải quan. Lúc 3 giờ 45 phút, họ leo lên những chiếc limousine đang đợi sẵn, 3 giờ 52 phút: xe bon bon lăn bánh trên quốc lộ A4. Lúc 4 giờ 9 phút cố vấn nghệ thuật của ngài Baker, với bí danh là Marlowe, từ đoàn xe hộ tống, gọi điện thoại cho Isherwood báo rằng xe đến trễ vài phút. Tuy vậy, mọi việc có vẻ tiến triển thuận lợi, vì vào lúc 4 giờ 27 phút, người ta đã thấy đoàn xe hộ tống từ quảng trường Piccadilly rẽ vào đường Duke. Đúng lúc đó, lộn xộn bắt đầu xảy ra, phần lỗi thuộc về đoàn xe của Zizi. Chuyện xảy ra là do chiếc limousine cố rẽ vào con đường chật hẹp Mason’s Yard. Thế nhưng chỉ đi được một đoạn ngắn, tài xế đành phải dừng chiếc xe cồng kềnh lại. Có lẽ do anh bạn cận vệ Sharuki đã tính toán không chính xác phạm vi lòng đường. Đó cũng là lúc Gabriel nhận một thông điệp từ nhóm tình báo của anh rằng ngài Baker, Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Giám đốc công ty Jihad, sẽ phải bước ra ngoài xe và cuốc bộ vào phòng tranh.
Sarah không thể kiên nhẫn ngồi chờ trong phòng trưng bày trên lầu được nữa, cô nhảy xuống lầu dưới, nơi là phòng làm việc của cô và Julian, ghé mắt quan sát khung cảnh đang diễn ra trên đoạn đường trước phòng tranh. Đây cũng là hành vi chống đối mệnh lệnh đầu tiên của cô, vì rằng Gabriel đã yêu cầu cô phải ở yên vị trí trên lầu, không được phép lộ mặt cho đến phút chót. Theo kế hoạch, sự xuất hiện của cô sẽ đồng thời với việc vén màn bức tranh Marguerite. Cô sẽ tuân theo mệnh lệnh, thế nhưng điều đó chỉ xảy ra sau khi cô được tận mắt diện kiến dung nhan Zizi. Sarah đã nghiên cứu nhân dạng của Zizi qua những bức ảnh Yossi đưa cho cô lúc trước, cô ghi nhớ tiếng nói của hắn trên video. Nhưng rõ ràng những cái đó không sống động bằng hình ảnh thật. Đó lý do khiến cô cãi lại mệnh lệnh, xuống quan sát Zizi và đoàn tùy tùng của hắn lần lượt tiến vào khu vực sân phòng tranh.
Dẫn đầu đoàn là Rafiq al-Kamal, trưởng nhóm cận vệ của Zizi. Ngoài đời, trông hắn kềnh càng hơn trong hình, nhưng di chuyển nhanh nhẹn y như người bằng nửa kích thước của hắn. Hắn không mặc áo khoác, vì áo khoác sẽ cản trở hành động rút súng tự vệ. Rafiq al-Kamal là kẻ vô lương tâm, Eli Lavon từng miêu tả về hắn như thế. Còn lúc này, hắn đảo mắt quan sát xung quanh khoảnh sân, theo cái cách người hướng đạo sinh dò tìm kẻ thù, rồi quay đầu, ra dấu an toàn theo ước định để đoàn người phía sau tiếp bước.
Kế đến là hai cô nàng cực kỳ xinh đẹp trong bộ áo khoác dài, tóc xoã đen tuyền, vẻ mặt cáu kỉnh vì phải lội bộ cả đoạn đường gần 50 mét từ chiếc xe hơi sang trọng vào phòng tranh. Cô nàng bên phải chính là Nadi al-Bakari, con gái cưng của Zizi, còn bên trái là Rahimah Hamza, con gái của Daoud Hamza, người Li-băng, từng tốt nghiệp Đại học Standford danh tiếng, hiện là quản lý tài chính tài ba của Tập đoàn AAB. Chính Hamza, cha cô ta đang đi sau vài bước, tay cầm điện thoại, chăm chú lắng nghe.
Tiếp theo là Herr Manfred Wehrli, Giám đốc ngân hàng Thụy Sĩ, nơi nắm giữ tiền của Zizi. Đi cạnh Wehrli là một chú nhóc, không rõ con cái nhà ai, và ngay sau chú ta, là hai cô nàng cũng không kém phần xinh đẹp, một cô với mái tóc vàng óng ả, còn cô kia thì tóc ngắn, màu hạt dẻ. Khi chú nhóc bất thình lình nghịch ngợm nhảy sang hướng khác, thì ngay lập tức bị chặn lại bởi người đàn ông có cái tên Jean-Michel, với động tác cực kỳ nhanh nhẹn. Hắn là một võ sỹ người Pháp, hiện là huấn luyện viên riêng kiêm cận vệ thân tín của Zizi.
Thứ nữa là Abdul-Jalil và Abdul-Hakim, hai luật sư được đào tạo bài bản ở nước Mỹ. Yossi từng tạm dừng bài huấn luyện nửa chừng chỉ để mỉa mai rằng Zizi cố tình chọn ra hai luật sư riêng với cái tên có thể dịch nôm na là: Tôi tớ của Vĩ nhân và Tôi tớ của nhà thông thái. Kế đến là Mansur, Giám đốc điều hành du lịch, Hansan, Giám đốc truyền thông, Andrew Malone, cố vấn nghệ thuật sắp hết nhiệm kỳ của Zizi. Cuối cùng, ngài Zizi cũng xuất hiện, được hai cận vệ khác là Wazir bin Talal và Jafar Sharuki hộ tống nghiêm ngặt.
Sarah ngưng quan sát, quay người đứng dậy. Chiara dõi theo cho đến lúc Sarah bước vào thang máy và nhấn nút di chuyển lên tầng trên cùng của tòa nhà. Một thoáng sau, cô đã yên vị trong phòng trưng bày, và ngay giữa phòng là bức tranh Van Gogh được phủ màn, nằm trên giá đỡ. Tiếng bước chân thình thịch của Rafig vang lên ở đầu cầu thang.
Cô không được nghĩ rằng hắn là một tên khủng bố, Gabriel đã căn dặn như vậy. Cô không được tự hỏi liệu tiền của hắn có nằm trong túi Marwan al-Shehhi hay có chi trả cho bất cứ tên khủng bố nào đã giết hại Ben hay không. Cô phải xem hắn là người đàn ông của sự giàu có và quyền lực. Đừng ve vãn, đừng dụ dỗ, mà hãy xem đó chỉ đơn thuần là một cuộc phỏng vấn. Cô sẽ không lên giường với hắn, mà cô sẽ làm việc cho hắn. Và cho dù cô làm gì đi chăng nữa, cũng không nên đưa ra bất kỳ lời khuyên nào, vì hành động đó sẽ làm hỏng vụ giao dịch cũng như các nhiệm vụ tiếp theo.
Cô nhìn lại hình dáng mình phản chiếu trong cánh cửa thang máy. Cô cảm nhận mình khác đi so với vẻ bề ngoài, vẫn với cái tên Sarah Bancroft, nhưng là một phiên bản khác, như là tác phẩm phục chế lại của cùng một bức tranh. Cô vuốt thẳng bộ đồ hiệu Chanel, và tự nhủ mình không vì Zizi, mà vì Gabriel. Và cô nghe văng vẳng từ phía dưới lầu, lần đầu tiên, giọng của quái nhân. “Chào ông Isherwood”, ngài Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Giám đốc điều hành của Tập đoàn Jihad nói. “Tôi tên là Abdul Azizal-Bakari. Andrew bảo tôi anh có một bức tranh hay hay dành cho tôi”.
Chuyến thang máy đầu tiên chỉ toàn những tên cận vệ. Rafig tiến thẳng vào phòng, dò xét cô từ đầu đến chân, trong khi Shakuri săm soi dưới trường kỷ xem có vũ khí bí mật nào giấu ở đó hay không. Võ sĩ Jean-Michel thì nện gót giày thình thịch rảo quanh căn phòng giống như một vũ sư ba lê chính hiệu. Chuyến thang máy kế tiếp là của Malone và Isherwood, cặp đôi này có vẻ vui sướng bên cạnh hai người đẹp Nadia và Rahimah. Cửa thang máy xịch mở lần nữa, lần này là ông chủ Zizi và bin Talal - cận vệ thân tín nhất. Thân hình béo phị được khéo léo che dấu bởi bộ quần áo màu sẫm, bộ râu tỉa tót cẩn thận, cùng với cái đầu hói cũng được chăm sóc không kém phần tỉ mỉ. Đôi mắt tinh ranh và nhanh nhẹn lập tức hướng tầm nhìn về phía người xa lạ duy nhất trong phòng.
Cô đừng mất công tự giới thiệu mình làm gì, Sarah ạ. Mà cũng đừng nhìn thẳng vào mắt hắn. Nếu cần phải có cử chỉ điệu bộ gì, nên để Zizi bộc lộ trước.
Sarah nhìn xuống chân. Cánh cửa thang máy lại xịch mở, hai tên Abdul và Abdul, những tôi tớ của Chủ nhân thông thái xuất hiện cùng lúc với Herr Wehrli - cái bị tiền Thụy Sĩ. Sarah nhìn họ, rồi liếc mắt nhìn Zizi, lúc ấy vẫn đang chăm chú quan sát cô.
“Xin thứ lỗi cho tôi, thưa ngài al-Bakari”, Isherwood mở lời. “Hôm nay, tôi không được chu đáo lắm. Đây là cô Sarah Bancroft, trợ lý Giám đốc của công ty. Sarah đã giúp chúng ta có được buổi hội ngộ hôm nay”.
Đừng bắt tay lâu với hắn. Nếu hắn có bắt tay với cô, thì chỉ bắt nhẹ, rồi thả tay ra ngay.
Sarah đứng thẳng, tay để sau lưng, mắt vẫn nhìn xuống. Cô cảm nhận được ánh mắt của Zizi. Cuối cùng hắn tiến về phía trước và chìa tay ra “Chào cô, rất hân hạnh được gặp cô”. Sarah nghe thấy mình thốt lên. “Tôi cũng rất hân hạnh, thưa ngài al-Bakari”.
Zizi mỉm cười và nắm tay cô lâu hơn mức cần thiết, thế rồi, hắn đột ngột buông tay và đi về phía bức tranh. Sarah quay lại, quan sát hắn từ phía sau, cô nhận thấy một bờ vai hẹp không tương xứng với vòng eo khá rộng. “Tôi rất muốn xem tranh”, hắn cất lời, không rõ dành cho ai. Sarah chợt nhớ tới lời Gabriel.
Hãy để của Zizi tự dẫn dắt mọi việc. Nếu cô bắt hắn ngồi nghe câu chuyện cả buổi thì chỉ tổ làm hắn nổi điên. Hãy nhớ rằng ngôi sao của vở diễn là Zizi chứ không phải bức tranh mà hắn ta muốn mua.
Sarah tiến lên phía trước, khéo léo không để chạm vai Zizi, và bắt đầu tháo tấm vải choàng xuống. Cô làm công việc này một cách tỉ mỉ, kéo dài thời gian đứng trước bức tranh, che tầm nhìn của Zizi trước khi để bức tranh lộ diện. “Tôi xin giới thiệu với ngài bức tranh Thiếu nữ Marguerite Gachet tại bàn trang điểm của danh họa Vincent Van Gogh”, cô trịnh trọng tuyên bố và tiếp lời. “ Tranh làm từ chất liệu sơn dầu, được vẽ tại Auvers vào tháng 7 năm 1890”.
Những tiếng trầm trồ thán phục vang lên từ phía đám tùy tùng của Zizi, chỉ mình hắn là im lặng. Cặp mắt đen u ám của hắn đảo quanh trên bức tranh, vẻ mặt kín bưng. Một lát sau, hắn thôi không chú ý bức tranh nữa mà quay sang Isherwood.
“Anh bạn tìm thấy bức tranh ở đâu vậy?”
“Tôi ước gì mình đã làm điều ấy, thưa ngài al-Bakari kính mến, nhưng chính cô Sarah đây mới là người khám phá ra nó”.
Zizi chuyển hướng sang Sarah. “Là cô à?”. Giọng hắn có chút thán phục.
“Vâng, thưa ngài al-Bakari”.
“Vậy thì tôi xin hỏi lại điều tôi đã hỏi Isherwood nhé. Cô tìm thấy tranh ở đâu vậy?”
“Như những gì ông Malone đã biết, chủ nhân bức tranh không muốn được nêu tên”.
“Tôi không hỏi về chủ nhân, tôi chỉ muốn biết làm thế nào cô tìm ra nó mà thôi”.
Cô phải cho hắn biết điều gì đó, Sarah ạ. Hắn có quyền được biết, nhưng hãy tỏ vẻ do dự và bí ẩn, vì hắn là loại người thích được khám phá.
“Đó là kết quả tìm tòi công phu trong vài năm của tôi, thưa ngài”.
“Hay lắm! Cho tôi biết thêm được chứ, cô Bancroft”.
“Tôi e rằng tôi không thể nói thêm gì, vì như thế sẽ vi phạm sự thỏa thuận giữa tôi và những chủ nhân, thưa ngài al-Bakari”.
“Một chủ nhân chứ nhỉ”, Zizi sửa lời cô. “Andrew cho tôi biết, bức tranh là sở hữu của một phụ nữ người Pháp”.
“Đúng vậy thưa ông, nhưng tôi chỉ có thể khẳng định đến thế mà thôi”.
“Nhưng tôi vẫn hết sức tò mò về việc làm sao cô lại tìm ra bức tranh”. Hắn khoanh tay trước ngực và tiếp. “Tôi thích nghe truyện trinh thám lắm”.
“Tôi rất muốn làm ông hài lòng, nhưng tôi không thể. Tuy vậy tôi có thể cho ông biết rằng tôi đã mất hai năm đi tìm bức tranh này ở Pháp và Auvers, thêm một năm nữa mới thuyết phục được chủ nhân nhượng lại nó cho tôi”.
“Có thể một ngày nào đó, khi ta đã biết nhau nhiều hơn, tôi sẽ có hân hạnh được nghe cô kể về câu chuyện lý thú ấy”.
“Tôi cũng mong vậy, thưa ngài”, cô trả lời. “Riêng về nguồn gốc của bức tranh, chúng tôi xin khẳng định chắc chắn đây chính là nguyên tác của danh họa Vincent, và chúng tôi có đủ giấy tờ chứng thực điều này”.
“Đương nhiên tôi rất vui nếu được xem qua giấy chứng nhận, cô Bancroft ạ, nhưng thật tình mà nói, tôi cũng không nhất thiết phải làm điều đó. Cô thấy đấy, đây rõ ràng là tác phẩm của Van Gogh”. Nói đoạn hắn đặt tay lên vai Sarah. “Cô lại đây”, giọng hắn đầy vẻ trìu mến. “Tôi sẽ cho cô xem cái này”.
Sarah tiến lại gần. Zizi chỉ tay vào góc trái bức tranh.
“Cô nhìn thấy vết nhỏ trên bề mặt tranh chứ? Nếu tôi không lầm, đó là dấu tay của Vincent. Vicent nổi tiếng cẩu thả về việc bảo quản tác phẩm của mình. Khi hoàn thành bức tranh này, rất có thể ông đã cầm vào phía trên bức tranh để đưa nó từ Auvers về phòng tranh riêng ở nhà nghỉ Café Ravoux. Căn phòng lúc nào cũng chất đầy tranh, tranh chất quanh tường, tấm này chồng lên tấm kia. Ông ta vẽ nhanh đến nỗi có khi bức này chưa khô là đã để bức khác lên trên. Vì vậy, nếu quan sát kỹ cô sẽ thấy rất nhiều vết cọ xát trên bề mặt tranh”.
Tay hắn vẫn đặt trên vai Sarah.
“Rất ấn tượng, thưa ngài al-Bakari. Nhưng tôi không ngạc nhiên về điều này, tài thẩm tranh của ông đã vang lừng trước khi tôi gặp ông”.
“Tôi nhận ra rằng một người đàn ông ở vị trí quan trọng như tôi không thể chỉ dựa vào lời của người khác. Phải luôn cảnh giác với những mưu mô, gian kế lọc lừa. Và tôi tự tin rằng đến tận bây giờ, không có ai có thể qua mặt tôi, trong kinh doanh cũng như trong nghệ thuật”.
“Chỉ có kẻ ngốc mới làm như vậy, thưa ngài al-Bakari”.
Zizi quay sang Isherwood và nói tiếp. “Anh bạn có vẻ có duyên với những bức tranh chưa được công bố bao giờ nhỉ. Tôi cũng từng nghe đồn anh khám phá ra bức Ruben, có đúng thế không?”
“Vâng, đúng vậy”.
“Và bây giờ là đến lượt tranh của Van Gogh”. Rồi hắn quay lại nhìn bức tranh. “Andrew bảo ông đã đưa ra giá bán rồi”.
“Chúng tôi nghĩ giá đó hoàn toàn hợp lý thưa ngài”.
“Tôi cũng nghĩ vậy”. Hắn đưa mắt về phía Herr Wehrli, Giám đốc ngân hàng. “Manfred này, trong tài khoản của tôi có đủ tám mươi lăm triệu không?”
“Đủ đấy, Zizi”.
“Vậy là chúng ta có thể tiến hành giao dịch, ông Isherwood”. Hắn quay sang nhìn Sarah và nói. “Tôi sẽ đưa Marguerite đi”.
Vào lúc 4 giờ 53 phút, nhóm đặc vụ báo cho Gabriel biết rằng việc mua bán đang được tiến hành tại khu văn phòng bên dưới. Isherwood đang thảo luận với Herr Wehrli và Abdul & Abdul về các phương thức thanh toán và chuyển khoản. Cuộc thương lượng kéo dài một giờ đồng hồ, và lúc 6 giờ 5 phút, ngài Baker cùng đoàn tùy tùng băng qua khoảng sân đến nơi đỗ xe trên đường Duke. Lần này, đến lượt Eli Lavon bám theo đoàn. Lúc đầu, có vẻ như đích đến của đoàn người là Mayfair, nhưng vào lúc 6 giờ 15 phút, ngài Baker và những người hộ tống chuyển hướng sang Heathrow để đến một nơi không xác định. Gabriel ra lệnh cho Lavon ngưng theo dõi. Bây giờ anh chẳng quan tâm họ sẽ đi đâu, vì anh biết sẽ sớm gặp lại họ.
Đoạn băng ghi hình được chuyển đến lúc 7 giờ 45 phút. Nó được ghi lại băng máy camera bảo vệ gắn ở góc trên phòng trưng bày. Khi Gabriel xem băng, anh có cảm giác như mình đang ngồi ở hàng ghế cao và quan sát sân khấu.
“Đây là cô Sarah Bancroft, trợ lý Giám đốc của công ty. Sarah đã giúp chúng ta có được buổi hội ngộ hôm nay…”.
“Vậy là chúng ta có thể tiến hành giao dịch, ông Isherwood. Tôi sẽ đưa Marguerite đi”.
Gabriel dừng đoạn băng và nhìn Dina. Cô lên tiếng. “Anh đã bán cho hắn một cô gái, bây giờ chuẩn bị thêm một cô nữa”.
Gabriel mở lại băng ghi âm cuộc nói chuyện giữa Isherwood và Andrew Malone.
“Đó không phải là tiền của Zizi. Đó là tiền của tôi. Zizi không biết được, khuất mắt trông coi mà”.
“Lỡ ông ta biết thì sao? Ông ta sẽ đày anh đến thung lũng cát Empty Quarter rồi để mặc anh cho lũ kền kền phanh thây”.
Trong Gabriel là cảm giác bất lực của một nhà viết kịch của đêm chính thức mở màn. Anh đã tạo ra nhân vật, diễn tập lời thoại với họ và sắp chứng kiến họ biểu diễn trên sân khấu. Đó là Isherwood trong trang phục đen sọc trắng với cà vạt đỏ may mắn của mình, anh ta uống nước và tranh thủ nhấm nháp móng tay ngón trỏ trái để giảm căng thẳng. Chiara ngồi sau mặt bàn gương bóng loáng, tóc búi cao, chân bắt tréo, còn Sarah, thanh lịch với bộ trang phục Chanel đen mua ở cửa hàng Harrods trước đó hai tuần, ngồi thẳng trên trường kỷ trong phòng trưng bày trên lầu. Cô đăm đăm nhìn bức họa Maguerite Gachet nhưng tâm trí lại nghĩ đến tên hung thần sắp sửa bước ra khỏi thang máy trong hai tiếng nữa. Nếu anh có thể phân lại vai diễn, có thể đó sẽ là vai của Sarah. Nhưng bây giờ thì đã quá trễ, sắp đến giờ mở màn rồi.
Cho nên, thay vì thế, nhà soạn kịch bất đắc dĩ của chúng ta đành phải đi đi lại lại trong lòng, nôn nóng chờ đợi thông tin cập nhật. Vào lúc 3 giờ 4 phút, chiếc phi cơ 747 của ngài Baker hạ dần cánh xuống sân bay, ngài Baker ở đây chính là bí danh cho Zizi al-Bakari. Lúc 3 giờ 32 phút, ngài Baker và đoàn tùy tùng làm xong thủ tục hải quan. Lúc 3 giờ 45 phút, họ leo lên những chiếc limousine đang đợi sẵn, 3 giờ 52 phút: xe bon bon lăn bánh trên quốc lộ A4. Lúc 4 giờ 9 phút cố vấn nghệ thuật của ngài Baker, với bí danh là Marlowe, từ đoàn xe hộ tống, gọi điện thoại cho Isherwood báo rằng xe đến trễ vài phút. Tuy vậy, mọi việc có vẻ tiến triển thuận lợi, vì vào lúc 4 giờ 27 phút, người ta đã thấy đoàn xe hộ tống từ quảng trường Piccadilly rẽ vào đường Duke. Đúng lúc đó, lộn xộn bắt đầu xảy ra, phần lỗi thuộc về đoàn xe của Zizi. Chuyện xảy ra là do chiếc limousine cố rẽ vào con đường chật hẹp Mason’s Yard. Thế nhưng chỉ đi được một đoạn ngắn, tài xế đành phải dừng chiếc xe cồng kềnh lại. Có lẽ do anh bạn cận vệ Sharuki đã tính toán không chính xác phạm vi lòng đường. Đó cũng là lúc Gabriel nhận một thông điệp từ nhóm tình báo của anh rằng ngài Baker, Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Giám đốc công ty Jihad, sẽ phải bước ra ngoài xe và cuốc bộ vào phòng tranh.
Sarah không thể kiên nhẫn ngồi chờ trong phòng trưng bày trên lầu được nữa, cô nhảy xuống lầu dưới, nơi là phòng làm việc của cô và Julian, ghé mắt quan sát khung cảnh đang diễn ra trên đoạn đường trước phòng tranh. Đây cũng là hành vi chống đối mệnh lệnh đầu tiên của cô, vì rằng Gabriel đã yêu cầu cô phải ở yên vị trí trên lầu, không được phép lộ mặt cho đến phút chót. Theo kế hoạch, sự xuất hiện của cô sẽ đồng thời với việc vén màn bức tranh Marguerite. Cô sẽ tuân theo mệnh lệnh, thế nhưng điều đó chỉ xảy ra sau khi cô được tận mắt diện kiến dung nhan Zizi. Sarah đã nghiên cứu nhân dạng của Zizi qua những bức ảnh Yossi đưa cho cô lúc trước, cô ghi nhớ tiếng nói của hắn trên video. Nhưng rõ ràng những cái đó không sống động bằng hình ảnh thật. Đó lý do khiến cô cãi lại mệnh lệnh, xuống quan sát Zizi và đoàn tùy tùng của hắn lần lượt tiến vào khu vực sân phòng tranh.
Dẫn đầu đoàn là Rafiq al-Kamal, trưởng nhóm cận vệ của Zizi. Ngoài đời, trông hắn kềnh càng hơn trong hình, nhưng di chuyển nhanh nhẹn y như người bằng nửa kích thước của hắn. Hắn không mặc áo khoác, vì áo khoác sẽ cản trở hành động rút súng tự vệ. Rafiq al-Kamal là kẻ vô lương tâm, Eli Lavon từng miêu tả về hắn như thế. Còn lúc này, hắn đảo mắt quan sát xung quanh khoảnh sân, theo cái cách người hướng đạo sinh dò tìm kẻ thù, rồi quay đầu, ra dấu an toàn theo ước định để đoàn người phía sau tiếp bước.
Kế đến là hai cô nàng cực kỳ xinh đẹp trong bộ áo khoác dài, tóc xoã đen tuyền, vẻ mặt cáu kỉnh vì phải lội bộ cả đoạn đường gần 50 mét từ chiếc xe hơi sang trọng vào phòng tranh. Cô nàng bên phải chính là Nadi al-Bakari, con gái cưng của Zizi, còn bên trái là Rahimah Hamza, con gái của Daoud Hamza, người Li-băng, từng tốt nghiệp Đại học Standford danh tiếng, hiện là quản lý tài chính tài ba của Tập đoàn AAB. Chính Hamza, cha cô ta đang đi sau vài bước, tay cầm điện thoại, chăm chú lắng nghe.
Tiếp theo là Herr Manfred Wehrli, Giám đốc ngân hàng Thụy Sĩ, nơi nắm giữ tiền của Zizi. Đi cạnh Wehrli là một chú nhóc, không rõ con cái nhà ai, và ngay sau chú ta, là hai cô nàng cũng không kém phần xinh đẹp, một cô với mái tóc vàng óng ả, còn cô kia thì tóc ngắn, màu hạt dẻ. Khi chú nhóc bất thình lình nghịch ngợm nhảy sang hướng khác, thì ngay lập tức bị chặn lại bởi người đàn ông có cái tên Jean-Michel, với động tác cực kỳ nhanh nhẹn. Hắn là một võ sỹ người Pháp, hiện là huấn luyện viên riêng kiêm cận vệ thân tín của Zizi.
Thứ nữa là Abdul-Jalil và Abdul-Hakim, hai luật sư được đào tạo bài bản ở nước Mỹ. Yossi từng tạm dừng bài huấn luyện nửa chừng chỉ để mỉa mai rằng Zizi cố tình chọn ra hai luật sư riêng với cái tên có thể dịch nôm na là: Tôi tớ của Vĩ nhân và Tôi tớ của nhà thông thái. Kế đến là Mansur, Giám đốc điều hành du lịch, Hansan, Giám đốc truyền thông, Andrew Malone, cố vấn nghệ thuật sắp hết nhiệm kỳ của Zizi. Cuối cùng, ngài Zizi cũng xuất hiện, được hai cận vệ khác là Wazir bin Talal và Jafar Sharuki hộ tống nghiêm ngặt.
Sarah ngưng quan sát, quay người đứng dậy. Chiara dõi theo cho đến lúc Sarah bước vào thang máy và nhấn nút di chuyển lên tầng trên cùng của tòa nhà. Một thoáng sau, cô đã yên vị trong phòng trưng bày, và ngay giữa phòng là bức tranh Van Gogh được phủ màn, nằm trên giá đỡ. Tiếng bước chân thình thịch của Rafig vang lên ở đầu cầu thang.
Cô không được nghĩ rằng hắn là một tên khủng bố, Gabriel đã căn dặn như vậy. Cô không được tự hỏi liệu tiền của hắn có nằm trong túi Marwan al-Shehhi hay có chi trả cho bất cứ tên khủng bố nào đã giết hại Ben hay không. Cô phải xem hắn là người đàn ông của sự giàu có và quyền lực. Đừng ve vãn, đừng dụ dỗ, mà hãy xem đó chỉ đơn thuần là một cuộc phỏng vấn. Cô sẽ không lên giường với hắn, mà cô sẽ làm việc cho hắn. Và cho dù cô làm gì đi chăng nữa, cũng không nên đưa ra bất kỳ lời khuyên nào, vì hành động đó sẽ làm hỏng vụ giao dịch cũng như các nhiệm vụ tiếp theo.
Cô nhìn lại hình dáng mình phản chiếu trong cánh cửa thang máy. Cô cảm nhận mình khác đi so với vẻ bề ngoài, vẫn với cái tên Sarah Bancroft, nhưng là một phiên bản khác, như là tác phẩm phục chế lại của cùng một bức tranh. Cô vuốt thẳng bộ đồ hiệu Chanel, và tự nhủ mình không vì Zizi, mà vì Gabriel. Và cô nghe văng vẳng từ phía dưới lầu, lần đầu tiên, giọng của quái nhân. “Chào ông Isherwood”, ngài Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Giám đốc điều hành của Tập đoàn Jihad nói. “Tôi tên là Abdul Azizal-Bakari. Andrew bảo tôi anh có một bức tranh hay hay dành cho tôi”.
Chuyến thang máy đầu tiên chỉ toàn những tên cận vệ. Rafig tiến thẳng vào phòng, dò xét cô từ đầu đến chân, trong khi Shakuri săm soi dưới trường kỷ xem có vũ khí bí mật nào giấu ở đó hay không. Võ sĩ Jean-Michel thì nện gót giày thình thịch rảo quanh căn phòng giống như một vũ sư ba lê chính hiệu. Chuyến thang máy kế tiếp là của Malone và Isherwood, cặp đôi này có vẻ vui sướng bên cạnh hai người đẹp Nadia và Rahimah. Cửa thang máy xịch mở lần nữa, lần này là ông chủ Zizi và bin Talal - cận vệ thân tín nhất. Thân hình béo phị được khéo léo che dấu bởi bộ quần áo màu sẫm, bộ râu tỉa tót cẩn thận, cùng với cái đầu hói cũng được chăm sóc không kém phần tỉ mỉ. Đôi mắt tinh ranh và nhanh nhẹn lập tức hướng tầm nhìn về phía người xa lạ duy nhất trong phòng.
Cô đừng mất công tự giới thiệu mình làm gì, Sarah ạ. Mà cũng đừng nhìn thẳng vào mắt hắn. Nếu cần phải có cử chỉ điệu bộ gì, nên để Zizi bộc lộ trước.
Sarah nhìn xuống chân. Cánh cửa thang máy lại xịch mở, hai tên Abdul và Abdul, những tôi tớ của Chủ nhân thông thái xuất hiện cùng lúc với Herr Wehrli - cái bị tiền Thụy Sĩ. Sarah nhìn họ, rồi liếc mắt nhìn Zizi, lúc ấy vẫn đang chăm chú quan sát cô.
“Xin thứ lỗi cho tôi, thưa ngài al-Bakari”, Isherwood mở lời. “Hôm nay, tôi không được chu đáo lắm. Đây là cô Sarah Bancroft, trợ lý Giám đốc của công ty. Sarah đã giúp chúng ta có được buổi hội ngộ hôm nay”.
Đừng bắt tay lâu với hắn. Nếu hắn có bắt tay với cô, thì chỉ bắt nhẹ, rồi thả tay ra ngay.
Sarah đứng thẳng, tay để sau lưng, mắt vẫn nhìn xuống. Cô cảm nhận được ánh mắt của Zizi. Cuối cùng hắn tiến về phía trước và chìa tay ra “Chào cô, rất hân hạnh được gặp cô”. Sarah nghe thấy mình thốt lên. “Tôi cũng rất hân hạnh, thưa ngài al-Bakari”.
Zizi mỉm cười và nắm tay cô lâu hơn mức cần thiết, thế rồi, hắn đột ngột buông tay và đi về phía bức tranh. Sarah quay lại, quan sát hắn từ phía sau, cô nhận thấy một bờ vai hẹp không tương xứng với vòng eo khá rộng. “Tôi rất muốn xem tranh”, hắn cất lời, không rõ dành cho ai. Sarah chợt nhớ tới lời Gabriel.
Hãy để của Zizi tự dẫn dắt mọi việc. Nếu cô bắt hắn ngồi nghe câu chuyện cả buổi thì chỉ tổ làm hắn nổi điên. Hãy nhớ rằng ngôi sao của vở diễn là Zizi chứ không phải bức tranh mà hắn ta muốn mua.
Sarah tiến lên phía trước, khéo léo không để chạm vai Zizi, và bắt đầu tháo tấm vải choàng xuống. Cô làm công việc này một cách tỉ mỉ, kéo dài thời gian đứng trước bức tranh, che tầm nhìn của Zizi trước khi để bức tranh lộ diện. “Tôi xin giới thiệu với ngài bức tranh Thiếu nữ Marguerite Gachet tại bàn trang điểm của danh họa Vincent Van Gogh”, cô trịnh trọng tuyên bố và tiếp lời. “ Tranh làm từ chất liệu sơn dầu, được vẽ tại Auvers vào tháng 7 năm 1890”.
Những tiếng trầm trồ thán phục vang lên từ phía đám tùy tùng của Zizi, chỉ mình hắn là im lặng. Cặp mắt đen u ám của hắn đảo quanh trên bức tranh, vẻ mặt kín bưng. Một lát sau, hắn thôi không chú ý bức tranh nữa mà quay sang Isherwood.
“Anh bạn tìm thấy bức tranh ở đâu vậy?”
“Tôi ước gì mình đã làm điều ấy, thưa ngài al-Bakari kính mến, nhưng chính cô Sarah đây mới là người khám phá ra nó”.
Zizi chuyển hướng sang Sarah. “Là cô à?”. Giọng hắn có chút thán phục.
“Vâng, thưa ngài al-Bakari”.
“Vậy thì tôi xin hỏi lại điều tôi đã hỏi Isherwood nhé. Cô tìm thấy tranh ở đâu vậy?”
“Như những gì ông Malone đã biết, chủ nhân bức tranh không muốn được nêu tên”.
“Tôi không hỏi về chủ nhân, tôi chỉ muốn biết làm thế nào cô tìm ra nó mà thôi”.
Cô phải cho hắn biết điều gì đó, Sarah ạ. Hắn có quyền được biết, nhưng hãy tỏ vẻ do dự và bí ẩn, vì hắn là loại người thích được khám phá.
“Đó là kết quả tìm tòi công phu trong vài năm của tôi, thưa ngài”.
“Hay lắm! Cho tôi biết thêm được chứ, cô Bancroft”.
“Tôi e rằng tôi không thể nói thêm gì, vì như thế sẽ vi phạm sự thỏa thuận giữa tôi và những chủ nhân, thưa ngài al-Bakari”.
“Một chủ nhân chứ nhỉ”, Zizi sửa lời cô. “Andrew cho tôi biết, bức tranh là sở hữu của một phụ nữ người Pháp”.
“Đúng vậy thưa ông, nhưng tôi chỉ có thể khẳng định đến thế mà thôi”.
“Nhưng tôi vẫn hết sức tò mò về việc làm sao cô lại tìm ra bức tranh”. Hắn khoanh tay trước ngực và tiếp. “Tôi thích nghe truyện trinh thám lắm”.
“Tôi rất muốn làm ông hài lòng, nhưng tôi không thể. Tuy vậy tôi có thể cho ông biết rằng tôi đã mất hai năm đi tìm bức tranh này ở Pháp và Auvers, thêm một năm nữa mới thuyết phục được chủ nhân nhượng lại nó cho tôi”.
“Có thể một ngày nào đó, khi ta đã biết nhau nhiều hơn, tôi sẽ có hân hạnh được nghe cô kể về câu chuyện lý thú ấy”.
“Tôi cũng mong vậy, thưa ngài”, cô trả lời. “Riêng về nguồn gốc của bức tranh, chúng tôi xin khẳng định chắc chắn đây chính là nguyên tác của danh họa Vincent, và chúng tôi có đủ giấy tờ chứng thực điều này”.
“Đương nhiên tôi rất vui nếu được xem qua giấy chứng nhận, cô Bancroft ạ, nhưng thật tình mà nói, tôi cũng không nhất thiết phải làm điều đó. Cô thấy đấy, đây rõ ràng là tác phẩm của Van Gogh”. Nói đoạn hắn đặt tay lên vai Sarah. “Cô lại đây”, giọng hắn đầy vẻ trìu mến. “Tôi sẽ cho cô xem cái này”.
Sarah tiến lại gần. Zizi chỉ tay vào góc trái bức tranh.
“Cô nhìn thấy vết nhỏ trên bề mặt tranh chứ? Nếu tôi không lầm, đó là dấu tay của Vincent. Vicent nổi tiếng cẩu thả về việc bảo quản tác phẩm của mình. Khi hoàn thành bức tranh này, rất có thể ông đã cầm vào phía trên bức tranh để đưa nó từ Auvers về phòng tranh riêng ở nhà nghỉ Café Ravoux. Căn phòng lúc nào cũng chất đầy tranh, tranh chất quanh tường, tấm này chồng lên tấm kia. Ông ta vẽ nhanh đến nỗi có khi bức này chưa khô là đã để bức khác lên trên. Vì vậy, nếu quan sát kỹ cô sẽ thấy rất nhiều vết cọ xát trên bề mặt tranh”.
Tay hắn vẫn đặt trên vai Sarah.
“Rất ấn tượng, thưa ngài al-Bakari. Nhưng tôi không ngạc nhiên về điều này, tài thẩm tranh của ông đã vang lừng trước khi tôi gặp ông”.
“Tôi nhận ra rằng một người đàn ông ở vị trí quan trọng như tôi không thể chỉ dựa vào lời của người khác. Phải luôn cảnh giác với những mưu mô, gian kế lọc lừa. Và tôi tự tin rằng đến tận bây giờ, không có ai có thể qua mặt tôi, trong kinh doanh cũng như trong nghệ thuật”.
“Chỉ có kẻ ngốc mới làm như vậy, thưa ngài al-Bakari”.
Zizi quay sang Isherwood và nói tiếp. “Anh bạn có vẻ có duyên với những bức tranh chưa được công bố bao giờ nhỉ. Tôi cũng từng nghe đồn anh khám phá ra bức Ruben, có đúng thế không?”
“Vâng, đúng vậy”.
“Và bây giờ là đến lượt tranh của Van Gogh”. Rồi hắn quay lại nhìn bức tranh. “Andrew bảo ông đã đưa ra giá bán rồi”.
“Chúng tôi nghĩ giá đó hoàn toàn hợp lý thưa ngài”.
“Tôi cũng nghĩ vậy”. Hắn đưa mắt về phía Herr Wehrli, Giám đốc ngân hàng. “Manfred này, trong tài khoản của tôi có đủ tám mươi lăm triệu không?”
“Đủ đấy, Zizi”.
“Vậy là chúng ta có thể tiến hành giao dịch, ông Isherwood”. Hắn quay sang nhìn Sarah và nói. “Tôi sẽ đưa Marguerite đi”.
Vào lúc 4 giờ 53 phút, nhóm đặc vụ báo cho Gabriel biết rằng việc mua bán đang được tiến hành tại khu văn phòng bên dưới. Isherwood đang thảo luận với Herr Wehrli và Abdul & Abdul về các phương thức thanh toán và chuyển khoản. Cuộc thương lượng kéo dài một giờ đồng hồ, và lúc 6 giờ 5 phút, ngài Baker cùng đoàn tùy tùng băng qua khoảng sân đến nơi đỗ xe trên đường Duke. Lần này, đến lượt Eli Lavon bám theo đoàn. Lúc đầu, có vẻ như đích đến của đoàn người là Mayfair, nhưng vào lúc 6 giờ 15 phút, ngài Baker và những người hộ tống chuyển hướng sang Heathrow để đến một nơi không xác định. Gabriel ra lệnh cho Lavon ngưng theo dõi. Bây giờ anh chẳng quan tâm họ sẽ đi đâu, vì anh biết sẽ sớm gặp lại họ.
Đoạn băng ghi hình được chuyển đến lúc 7 giờ 45 phút. Nó được ghi lại băng máy camera bảo vệ gắn ở góc trên phòng trưng bày. Khi Gabriel xem băng, anh có cảm giác như mình đang ngồi ở hàng ghế cao và quan sát sân khấu.
“Đây là cô Sarah Bancroft, trợ lý Giám đốc của công ty. Sarah đã giúp chúng ta có được buổi hội ngộ hôm nay…”.
“Vậy là chúng ta có thể tiến hành giao dịch, ông Isherwood. Tôi sẽ đưa Marguerite đi”.
Gabriel dừng đoạn băng và nhìn Dina. Cô lên tiếng. “Anh đã bán cho hắn một cô gái, bây giờ chuẩn bị thêm một cô nữa”.
Gabriel mở lại băng ghi âm cuộc nói chuyện giữa Isherwood và Andrew Malone.
“Đó không phải là tiền của Zizi. Đó là tiền của tôi. Zizi không biết được, khuất mắt trông coi mà”.
“Lỡ ông ta biết thì sao? Ông ta sẽ đày anh đến thung lũng cát Empty Quarter rồi để mặc anh cho lũ kền kền phanh thây”.
Tác giả :
Daniel Silva