Ngược Về Thời Minh
Chương 211: Công phu trốn chạy vô địch
Mấy vạn quân Thát Đát liều mạng tập kết về phía Bá Nhan Khả Hãn. Quân số bọn chúng quá lớn, ý chí liều chết chiến đấu cũng trở nên ngoan cường dị thường. Quân Minh không thể ngăn trở quân đội Thát Đát tập kết, đành thừa lúc đội hình bọn chúng đang bị chia cắt mà ra sức đâm chém, cố giết được càng nhiều kẻ địch càng tốt.
Đội kỵ binh quân Minh vừa phi vội tới cũng đã tham gia vào chiến trường đẫm máu. "Keng" một tiếng, cây thác thiên xoa trong tay một tên giặc Thát bị thanh đại đao trong tay viên kỵ sĩ phóng nhanh đến thuận thế choảng trúng, một sức mạnh không thể chống nổi hất tung thanh xoa bay xa hơn hai trượng.
Kỵ sĩ thứ hai đã đến. Lưỡi đao chĩa nghiêng về phía trước, mượn sức xông tới của khoái mã, dễ dàng vót lấy đầu tên Thát Đát đã mất binh khí. Thi thể không đầu vẫn đứng sững một lúc rồi mới phun máu ào ào, ngã oặt xuống đất.
Đang ở tư thế gò ngựa nghênh chiến, giặc Thát tự biết không thể đấu sức với kỵ mã quân Minh đang mượn sức ngựa lao tới. Dưới tình thế cấp bách, có mấy tên Thát Đát bèn phóng thương và kích trong tay phóng lao, mấy tên đứng xa hơn thì vội vã giương cung lắp tên bắn liên tục mấy mũi tên nhằm ngăn trở bớt thế xung phong của quân Minh.
Song bọn chúng còn chưa vững vị trí, thì kỵ binh đằng sau lại ùn ùn kéo qua, dẫn đầu là một viên tướng lĩnh mặt thanh mày tú, chính là Kinh Phật Nhi. Vốn hắn phụng mệnh thủ ở Phi Hồ Độ phòng ngừa có người bám theo Đoá Nhan Tam Vệ lén xông qua ải, nay trông thấy trên Trường Thành có khói lửa truyền tin, hắn bèn lập tức ra lệnh quân bảo vệ Phi Hồ Độ cảnh giới toàn diện, đề phòng giặc ngoài xâm nhập. Nhưng sau đó lại thấy trên đỉnh Bạch Đăng đốt lửa hiệu, hắn mới phát hiện có điều không ổn.
Tuy trên núi Bạch Đăng có trang bị lửa hiệu, nhưng vốn không có cơ hội dùng đến, trang bị chẳng qua cho có mà thôi. Cho dù binh mã Bá Nhan có mạnh cỡ nào cũng không thể trong khoảng thời gian ngắn như vậy mà có thể xông qua quan ải Trường Thành, ùa tới núi Bạch Đăng. Còn nếu Di Lặc giáo tụ tập dân chúng làm loạn, vây công núi Bạch Đăng, thì chỉ cần năm nghìn nhân mã trên núi và bảy nghìn phục binh cất giấu trong thành Đại Đồng là đủ để tiêu diệt bọn chúng cả chục lần.
Vậy, đã xảy ra chuyện gì khiến núi Bạch Đăng phải nổi lửa hiệu báo nguy? Phản ứng đầu tiên của Kinh Phật Nhi chính là "Đoá Nhan Tam Vệ giả trá!". Bọn chúng dẫn quân lên núi ký kết minh ước là giả, thí vua giết chúa mới là thật. Ngoài năm nghìn tinh binh của Đoá Nhan Tam Vệ ra, còn ai có thể nhanh chóng uy hiếp đám quân Minh cố thủ trên đỉnh núi đến như vậy? Thế là Kinh Phật Nhi không cần nghĩ ngợi gì, tức tốc dẫn hơn nghìn huynh đệ của hắn điên cuồng chạy về cứu giá.
Khi đến chân núi trông thấy trận chiến thảm liệt đang xảy ra trước mặt, Kinh Phật Nhi cũng giật nảy người. Ở đâu ra mà nhiều quân Thát Đát như vậy? Song lúc này hắn cũng không có thời gian đi hỏi nhiều đến thế; nếu hai bên đang chém giết, mình cũng đừng khách sáo gì hết mà xông lên giết người mới là chính đạo.
Trong tay Kinh Phật Nhi là một thanh đại khảm đao sống dày. Hắn đâm mạnh thanh đao tới trước, đại đao lướt qua ngực một tên tướng lĩnh Thát Đát vận giáp sắt hộ thân, tia lửa bắn lên, áo giáp hộ thân thủng một lỗ lớn kinh người, tức thì thịt bong máu vãi.
Nhát đao này vẫn chưa trí mạng, nhưng viên tướng lĩnh đó bị đâm ngã xuống ngựa, đang lăn mấy vòng trên đất. Không đợi hắn kịp bò dậy, vó ngựa cất lên rầm rầm đã đạp lên người hắn phóng qua. Tiếng la thét lẫn thân người giãy giụa chỉ kéo dài trong nháy mắt, khi một chiếc vó ngựa to bằng chiếc bát khác đạp lên lưng hắn, hắn đã không còn chút phản ứng.
Từng thanh đại đao điên cuồng vung chém, như bổ dưa thái rau, tước đi máu thịt một cách vô tình, mỗi khi ánh đao loé xuống, liền có máu tươi bắn lên.
Cuộc đại hỗn chiến đã bắt đầu. Khắp trên mảnh bình nguyên dưới núi Bạch Đăng là người với người. Toàn bộ vũ khí công kích tầm xa như cung tên, thương giáo, đều đã mất tác dụng, tất cả mọi người chỉ có thể nhặt lấy đao kiếm, đoản kích tìm lấy đối thủ mà đánh tay đôi. Đầu người lăn lông lốc, tay cụt bay tứ tung. Tiếng rên la rợn óc, tiếng vó ngựa hãi hùng, y hệt như chốn Tu La địa ngục.
Đến tận lúc này, Dương Lăng mới có thể thở phào nhẹ nhõm. Y lật đật chạy tới trước mặt Chính Đức, sụp người quỳ xuống, vui sướng bẩm:
- Chúc mừng Hoàng thượng! Hoàng thượng ngồi trong màn trướng bày kế, điềm tĩnh chỉ huy, khiến cho Bá Nhan không trộm được gà. Lần này quả thực hắn đã lỗ vốn lớn rồi!
Khuôn mặt tuấn tú trắng trẻo của Chính Đức cũng bị khói hun như vẽ bùa, hai con mắt đỏ ngầu, nhưng lại trông rất vui vẻ. Hắn vội bước tới đỡ Dương Lăng dậy, hớn hở:
- Dương ái khanh mau đứng lên đi. Dưới núi là hai lộ viện binh nào vậy? Bọn họ đến kịp thời như vậy, trẫm nhất định sẽ ban thưởng hậu hĩnh!
Không bỏ qua cơ hội tốt, Trương Vĩnh và Miêu Quỳ cũng lật đật bước lên ra sức nịnh hót Hoàng thượng một hồi.
Vừa rồi đám người Hoa Đáng thấy đỉnh núi suýt bị công chiếm, tim cả bọn đã nhảy lên tới cuống họng. Bọn họ thừa biết đã trúng kế hoãn binh của Dương Lăng, bị dụ dốc hết tinh binh giúp y giữ núi đợi đại quân tới bao vây Bá Nhan. Thực ra là Hoàng đế Đại Minh bị người ta lén tập kích, chẳng qua gặp được vận may mới chuyển nguy thành an mà thôi.
Song dưới tình thế này, hiện tại Chính Đức là bên thắng lớn, ai dám bước ra nói toạc sự thật để rước họa vào thân chứ? Hai bên đều biết rõ điều này, không cần phải nói ra.
Dù sao thì ván bài này Hoa Đáng cũng đã đặt đúng cửa, hắn bèn vội dẫn các thủ lĩnh bước tới nịnh hót Thiên Khả Hãn một lúc.
Ngân Kỳ nguýt Dương Lăng, thấp giọng:
- Số ngài thật tốt đấy!
Vòng vây trùng điệp đã được giải, Dương Lăng như vứt được đá tảng trong lòng, cảm thấy nhẹ nhõm cả người. Nghe vậy, y không khỏi cười nói:
- Số của bản quan lúc nào cũng tốt cả! Chỉ hại cô nương không thể trở thành Khả Đôn của Đại Hãn, thật là áy náy quá!
- Ngân Kỳ, lại đây ra mắt Thiên Khả Hãn!- Hoa Đáng cất tiếng gọi nàng, rồi khom người vỗ ngực bẩm với Chính Đức - Thưa Thiên Khả Hãn tôn quý, đây là đứa con gái Ngân Kỳ Kỳ Kỳ Cách của thần. Nó đòi đi theo tiểu thần để được yết kiến Thiên Khả Hãn, thần lo nó thất lễ trước mặt ngài, cho nên mới để nó cải trang làm thị vệ cận thân.
Nghe cha gọi mình, Ngân Kỳ quay sang hừ với Dương Lăng một cái vô thưởng vô phạt rồi rảo bước tới trước mặt Chính Đức thi lễ.
Sau một trận hỗn chiến, quân Minh đã xông tới dưới chân núi tụ tập thành một bước tường người, quân Thát Đát đối diện cũng dần co cụm lại, hai phe phòng thủ nghiêm ngặt. Dương Lăng bèn bẩm:
- Hoàng thượng, thần xin được xuống núi gặp gỡ tướng soái lĩnh binh một chốc.
Chính Đức gật đầu đồng ý, Dương Lăng lập tức dẫn hơn trăm tên thị vệ chạy xuống núi. Lúc này đại quân Thát Đát đã tập kết xong, quân số vẫn còn đông hơn quân Minh hơn một vạn. Vương Thủ Nhân bày nghiêm thế trận đối địch, đề phòng Bá Nhan tấn công. Còn bên phía đại kỳ của Bá Nhan, trong làn sóng la hò quái dị, đại quân Thát Đát cấp tốc rời khỏi chiến trường, chạy như điên về phía Đại Đồng.
Dương Lăng chạy tới bên Vương Thủ Nhân. Trong kinh hai người đã từng quen biết, lúc này cũng không có thời gian chào hỏi. Vương Thủ Nhân chỉ vội gật đầu tỏ ý chào, rồi liền tức tốc ra lệnh cho trung quân vẫy cờ truyền lệnh cho đại quân đuổi theo đánh giết những kẻ địch chậm chân.
Vương Thủ Nhân biết Hoàng đế còn ở trên núi, nên không dám xuất hết kỵ binh. Hơn nữa cho dù có xuất hết binh lực đi chăng nữa thì quân số vẫn còn thua xa đối phương, không thể tiêu diệt Bá Nhan hoàn toàn. Mà ngoài thành Đại Đồng còn có người Thát Đát, hai nhóm quân đó tụ hợp lại thì sẽ càng mạnh không thể chống nổi. Do đó, hắn chỉ hạ lệnh cho hai vị du kích tướng quân bày thế "đuổi sói ra khỏi ải" từ xa, giữ lại ba nghìn kỵ binh hộ giá dưới chân núi, còn mình đi theo Dương Lăng lên núi.
Trông thấy giặc Thát bỏ chạy, Kinh Phật Nhi bèn dẫn quân của mình reo hò đuổi theo chém địch, muốn gọi hắn trở lại cũng không kịp. Vương Thủ Nhân cũng không thấy mặt hắn trong đám loạn quân nên cũng không rõ đó là đội viện binh nào.
Bá Nhan đang tháo chạy, theo lý luận bình thường, truy sát bại binh là cơ hội hiếm có. Lúc giáp chiến với giặc Thát, quân của Vương Thủ Nhân hung hãn vô cùng, sao đến khi giặc Thát bỏ chạy hắn lại trở nên cẩn thận như vậy? Dương Lăng bụng đầy nghi vấn, rất khó hiểu sự thu xếp của Vương Thủ Nhân, cho nên giữa đường lên núi bèn hỏi luôn.
Vốn Vương Thủ Nhân rất có cảm tình với Dương Lăng. Hắn và Dương Nhất Thanh thì một an nhàn tại nhà, một bị nhốt trong đại lao, nay được tín nhiệm giao cho trọng trách như thế này là đều nhờ vào Dương Lăng đứng giữa hoà giải. Đại học sĩ Vương Hoa đã nhắc tới những chuyện này với con mình, vì vậy khi hắn càng có hảo cảm với Dương Lăng hơn.
Nghe Dương Lăng hỏi vậy, Vương Thủ Nhân mới cười khó xử đáp:
- Nếu như ti chức đoán không lầm, Cự Lỗ Môn đã lọt vào tay quân Thát Đát. Với tốc độ của kỵ binh bọn chúng, nếu muốn xông qua ải đột phá vòng vây, không ai sẽ có thể ngăn cản chúng được. Ưu thế của chúng ta là dựa vào binh lực chiến đấu trực diện, truy kích địch ở xa hậu phương không phải là sở trường của quân ta. Vả lại, cung đánh trận của giặc Thát bắn xa hơn trăm trượng, đặc biệt là tinh thông “Mông Cổ đãi xạ pháp”...
Trông thấy Dương Lăng nhíu mày nghi hoặc, hắn bèn giải thích:
- Ý là nói thuật cưỡi ngựa của chúng cao siêu, có thể vừa chạy vừa bắn tên ra phía sau. Đại nhân, tầm bắn của cung tên chúng ta không bằng giặc Thát, hơn nữa nếu chúng ta đuổi lên, vừa vặn hứng trọn tên bắn của giặc Thát; còn giặc Thát lại chạy lên phía trước, vừa khớp tránh được tên của quân ta. Chạy đi chạy lại như vậy, rốt cuộc bên trốn chạy sẽ giành được thắng lợi, ngược lại bên truy sát sẽ bị tổn thất lớn. Năm xưa thiết kỵ Mông Cổ viễn chinh các nước, nhờ vào phương pháp giả vờ trốn chạy này mà đã đánh thắng không biết bao nhiêu trận rồi.
Hơn nữa, ngựa Mông Cổ trông thì thấp bé như vậy, song lại dẻo dai vô cùng. Nó có thể chạy cự ly xa không cần phải nghỉ ngơi, hơn nữa bất kể giá rét hay nóng bức thế nào nó vẫn có thể sống được nơi dã ngoại. Kỵ binh chúng ta mới vừa đuổi tới, giờ đã mệt lử, bất luận là so về nhân số hay chiến lực đều kém hơn địch rất nhiều. Chẳng qua chúng ta chiếm được địa lợi và nhân hoà, cho nên Bá Nhan mới không còn lòng dạ nào ham chiến mà thôi.
Vả lại ngựa Mông Cổ cũng không đòi hỏi cao về thức ăn, chốn ở. Bất kể cao nguyên hoang mạc hay là đồng cỏ đất bằng, ngựa Mông Cổ cũng đều có thể tự tìm thấy thức ăn. Quân Mông Cổ đánh trận không bao giờ mang theo quân nhu. Một là bởi chúng dựa vào cướp bóc, dùng phương thức lấy chiến tranh nuôi chiến tranh; hai là bởi ngựa chúng phần lớn là ngựa cái, có thể cung cấp sữa ngựa để duy trì cuộc sống.
Người đời chỉ biết binh sĩ Mông Cổ cưỡi ngựa bắn cung đều giỏi, mà không biết rằng thuật trốn chạy của chúng càng đứng đầu thiên hạ. Giỏi nhất là giết địch trong lúc bỏ chạy, tiêu hao quân địch mà giành lấy thắng lợi. Bởi vậy cho nên trừ phi nắm chắc có thể ép chúng quyết chiến trực diện; bằng không bất cứ lúc nào, bất luận ở đâu binh lực chiến đấu cũng sẽ không bằng bọn chúng. Khi không thể ép chúng quyết chiến trực diện thì vạn lần không thể đuổi theo.
Dương Lăng nghe mà ấn đường chau lại, chợt bảo:
- Nghe Vương đại nhân nói vậy, bản quan khiếp sợ vô cùng. Thảo nguyên sa mạc là bãi săn thiên nhiên của bọn chúng. Nếu như không khiến chúng tự tàn sát làm hao mòn thực lực của nhau, thì cho dù quân ta gấp mấy lần quân địch, việc đối phó với mấy vạn thậm chí mấy chục vạn quân Thát Đát cũng đều phải bỏ ra cái giá không biết sẽ lớn đến dường nào.
Vương Thủ Nhân mỉm cười:
- Chính là như vậy! Cho nên nếu đã không thể tận diệt Bá Nhan và Hỏa Sư trong biên cảnh Đại Minh ta, chi bằng để chúng cùng nhau chạy về thảo nguyên. Chờ diệu kế của đại nhân phát huy hiệu quả, chúng ta lại mời chúng quay lại cũng không muộn.
Hai người đưa mắt nhìn nhau cùng cười, có cảm giác đồng cảm lẫn mến mộ giữa những người hiểu biết.
Giữa Đoá Nhan Tam Vệ cùng Thát Đát và quân Minh thường xuyên xảy ra chiến tranh, cho nên bọn họ hiểu rõ chiến lực và tính cơ động của đôi bên. Vì vậy khi thấy Bá Nhan dẫn quân đột phá vòng vây, quân Minh đang đuổi theo sau lại có binh lực thua kém Thát Đát thấy rõ thì Bá Nhan đoán rằng trận này khó mà tận diệt Thát Đát tại đây.
Có điều quân tinh nhuệ Thát Đát có bốn năm vạn quân, nay cả chết lẫn bị thương nằm lại đây gần một vạn người. Đối với triều đình nhà Minh thì con số một vạn người này chẳng là gì, song đối với những bộ lạc thảo nguyên, con số này có ý nghĩa lớn đến thế nào bọn họ đều biết rõ rành rành. Huống hồ phía trước còn có quân đội Đại Minh trở về cứu viện, nên đến khi quân Thát Đát thực sự xông được qua quan ải thì không biết sẽ còn tổn thất biết bao nhiêu người ngựa nữa.
Bên này yếu đi thì bên kia mạnh lên. Được Đại Minh chống lưng, Hoa Đáng dường như thấy được ngôi báu Đại Hãn Mông Cổ đã vẫy tay gọi mình.
Thế là Hoa Đáng mừng rỡ cáo từ Chính Đức. Bá Nhan rời khỏi quan ải ắt sẽ chạy không ngừng nghỉ trở về đại mạc, vừa vặn chắn ngay trên đường bọn họ trở về Đoá Nhan Tam Vệ, cho nên bọn họ phải mau chóng ly khai. Ngoài ra cũng cần phải trở về để sớm chuẩn bị phòng ngừa Thát Đát lại quay sang cướp đoạt lương thảo của bọn họ.
Chính Đức đồng ý ngay, sai người lấy năm nghìn lạng vàng ròng, năm mươi rương tơ lụa và bánh trà được chuẩn bị sẵn trong hang ra tặng cho Đoá Nhan Tam Vệ. Ba nghìn kỵ binh còn lại của Đoá Nhan mang theo giấc mơ trở thành vì vua của đại mạc phóng ngựa về phía Phi Hồ Độ dưới sự hướng dẫn của kỵ binh quân Minh.
Sau khi bọn họ đi rồi, Chính Đức bèn gọi Vương Thủ Nhân lại, hỏi rõ nhân thân của hắn. Khi biết được hắn là con của đại học sĩ Vương Hoa, Thái phó của phụ hoàng mình, thì Chính Đức không khỏi mừng rỡ bảo:
- Tốt lắm! Quả nhiên hổ phụ không sinh khuyển tử. Ái khanh cứu giá kịp thời, vây hãm Thát Đát, giúp đỡ xã tắc, sau khi hồi kinh trẫm nhất định sẽ luận công ban thưởng.
Đoạn hắn sa sầm nét mặt, nghiêm giọng:
- Trẫm cùng Dương khanh bày diệu kế diệt trừ cái hoạ trăm năm. Nay mục đích phân hoá hai đại thủ lĩnh của Thát Đát đã đạt được; mục đích lập minh hữu cùng Đoá Nhan Tam Vệ, xua sói đấu cọp cũng đã đạt được. Thế nhưng Tam biên tổng chế Dương Nhất Thanh đang làm gì chứ?
Trẫm có rãnh trời Trường Thành chống giữ, trẫm bày binh mười vạn cho quan ải! Thế mà ngay ngoài thành Đại Đồng này, Bá Nhan lại có thể lùa toàn bộ đại quân xâm nhập biên cảnh, suýt nữa lấy đầu của trẫm! Dương Nhất Thanh tội không thể tha! Trẫm nhất định sẽ xử hắn thật nặng!
Thấy tiểu hoàng đế toát sát khí lẫm liệt, Vương Thủ Nhân rùng mình, thầm nhủ Dương Nhất Thanh tiêu rồi.
Suy nghĩ một lúc, hắn từ tốn thưa:
- Vi thần vốn dĩ bám theo sau đuôi Hỏa Sư, trông thấy khói hiệu nổi lên liền chạy vội tới cứu giá, cho nên vẫn không rõ tường tận Bá Nhan xâm nhập quan ải thế nào, vốn không tiện xen vào...
Nhưng trong lúc lùng đuổi Bá Nhan, thấy đại quân của hắn không hề có dấu hiệu gì là vừa trải qua chiến đấu gian khổ mà lại có vẻ dễ dàng tiến thẳng vào trong quan ải. Thần nghi ngờ trong tướng lĩnh canh giữ biên giới đã có người tư thông Thát Đát. Dương tổng chế mới vừa nhậm chức liền đã phải lĩnh quân tác chiến, cho nên quả thật không kịp chỉnh đốn tướng lĩnh phòng thủ các quan ải. Nếu... nếu như có người mở cửa dâng ải cho giặc, ấy không phải là tội của Dương tổng chế vậy...
Chỉ huy tác chiến bất lực, gây tổn thương lớn là đủ bị tống vào trong đại lao. Nay Hoàng đế gặp mặt Đoá Nhan Tam Vệ trên núi Bạch Đăng, đã thông báo cho Dương Nhất Thanh từ trước, chỉ sử dụng năm nghìn tinh binh thuộc Kinh doanh nhằm đề phòng giặc trong là Di Lặc giáo, còn hắn thì phòng bị giặc ngoài. Thế mà đại quân của Bá Nha lại vẫn dễ dàng chọc thủng khu vực phòng thủ của hắn, xuất hiện dưới chân núi Bạch Đăng một cách đường hoàng, suýt nữa đẩy Hoàng đế vào chỗ chết, chỉ bị chém đầu đã là xử nhẹ tội lắm rồi.
Không dám trực tiếp ra mặt gỡ tội cho ông ta, Vương Thủ Nhân chỉ giải thích qua rồi nhìn sang Dương Lăng với ánh mắt khẩn cầu. Hiện tại người có thể thuyết phục được Hoàng đế đại khái chỉ có Trương Vĩnh và Dương Lăng. Hắn không quen biết Trương Vĩnh, cho nên chỉ có thể trông mong Dương Lăng ra mặt nói hộ.
Ngụ ý của hắn là, đúng là Dương Nhất Thanh là Tam biên tổng chế phụ trách việc phòng ngự khu vực này, nhưng lần này Bá Nhan xông qua quan ải không phải là vì Dương Nhất Thanh chỉ huy không giỏi mà là vì có nội gián tiếp ứng; cho dù Gia Cát Vũ Hầu sống lại cũng không thể sắp xếp đề phòng chu toàn. Chẳng lẽ lại đem thay hết toàn bộ tướng lĩnh tam quan bằng tâm phúc của ông ta? Nếu thật sự muốn truy cứu... có lẽ nên truy cứu kẻ đã đề bạt nội gián đi nhậm chức ở biên ải hiểm yếu mới phải.
Hiểu được ý trong lời của Thủ Nhân, Dương Lăng bèn vội bước tới rỉ tai Chính Đức:
- Hoàng thượng mới vừa kế vị liền đã lên núi Bạch Đăng thương thảo với Đoá Nhan Tam Vệ, kết minh tương trợ lẫn nhau, giúp yên ổn Liêu Đông, ấy là công tích văn trị to lớn vậy. Tương kế tựu kế, lấy thân làm mồi, dụ giặc vào tròng, lấy ít thắng nhiều, giết địch hơn vạn, lập nên chiến tích lẫy lừng nhất từ thuở Vĩnh Lạc đại đế xua quân bắc phạt, ấy là thành tựu võ công vĩ đại vậy.
Dương tổng chế vừa đến biên thùy liền đã kềm chặt Bá Nhan, lại tách một đạo kỳ binh tập kích sau lưng địch, giúp Hoàng thượng phân hoá Thát Đát, lập được công trạng lẫy lừng, thật sự là tướng tài khó được. Bá Nhan vượt ải không phải là tội Dương tổng chế thua trận. Nếu trách phạt quá nặng, khó tránh tổn thương đến lòng tướng sĩ biên cương, lại khó tránh bá quan trong triều nảy lòng nghi ngờ. Vả lại bọn họ vốn phản đối Hoàng thượng đích thân tuần thú, nếu làm vậy chẳng phải sẽ tạo thêm cơ hội cho bọn họ ư?
"Văn trị, võ công"? "Chiến tích lẫy lừng nhất từ thuở Vĩnh Lạc đại đế xua quân bắc phạt"? Nghe xong hai câu này, Chính Đức vốn thích được nịnh bợ liền hớn hở mặt mày, vội bảo:
- Ái khanh nói rất phải, suýt nữa thì trẫm đã tự hủy chiến công... à không... tự hủy trường thành (ý là Dương Nhất Thanh – Ba_Van) của mình rồi. Dương Nhất Thanh vẫn là tướng tài canh giữ biên cương hiếm có. Có điều chuyện này tuy không thể làm lớn, song vẫn phải điều tra biên quân tận tường, phàm là kẻ khả nghi đều phải thay mới hết. Chuyện này trẫm sẽ giao cho khanh làm. Tướng lĩnh canh giữ biên quan có nhiều gian tế trà trộn vào như vậy, có trời mới biết lúc nào lúc nào sẽ trở thành đại họa?
Dương Lăng vội gật đầu khen phải. Vương Thủ Nhân nhìn y đầy cảm kích, rồi xin phép Hoàng đế quay trở xuống núi. Hắn bắt đầu chỉ huy sĩ tốt kiểm kê thương vong, quét dọn chiến trường, giam giữ tù binh, đồng thời sai người chạy về Đại Đồng theo dõi tình hình cuộc chiến để quyết định hành động kế tiếp của Hoàng đế.
...
Khi trông thấy lửa hiệu từ phía Đại Đồng, Trung vệ chỉ huy sứ của Thái Nguyên vệ là Đặng Học Anh liền lập tức chạy vào trong lều soái của Trương Dần bẩm báo, tiếp đó Tả chỉ huy sứ cùng các tướng lĩnh cao cấp đưới trướng đều giáp trụ chỉnh tề lần lượt kéo đến lều soái.
Trương Dần thầm cao hứng trong lòng. Đã mấy ngày rồi mà Bá Nhan vẫn chưa thực hiện cuộc tấn công quan ải có quy mô nào, nay lửa hiệu được đốt lên, tám chín phần mười là đã tập kích quan ải thành công. Khổ tâm sắp đặt bao năm, rốt cuộc hôm nay đã có kết quả, bảo sao mà hắn không mừng như điên cho được?
Ý định ban đầu của Trương Dần là đóng quân tại chỗ, lẳng lặng ngồi chờ xem kết quả cuộc chiến. Dương Nhất Thanh điều đại quân của hắn tới, vốn để đề phòng Bá Nhan tiến đánh quan ải trong lúc Hoàng đế liên kết đồng minh, cho nên chỉ ra lệnh cho hắn chi viện thành lũy bị tập kích. Nhưng Dương Nhất Thanh không ngờ đại quân Bá Nhan lại có nội ứng từ trước, dễ dàng đột nhập vào quan ải tiến thẳng đến núi Bạch Đăng.
Nếu như hai bên quyết chiến giằng co trên quan ải, thì còn kịp phái người thông tri cho Trương Dần. Đằng này đã Bá Nhan lao thẳng tới chân núi Bạch Đăng rồi thì Dương Nhất Thanh mới được bẩm báo, thế là ông ta hồn phi phách tán, lập tức điều động đại quân từ quan ải lại, đồng thời phái quân dịch trạm điều động gấp Trương Dần về cứu viện. Còn về phần đại quân hắn có đến kịp để cứu giá hay không thì ông ta cũng chẳng còn thời gian để mà quan tâm nữa.
Khoái mã trạm dịch mang lệnh tiễn của Dương tổng chế còn chưa tới, nội bộ tướng lĩnh đội quân của Thái Nguyên vệ đã cãi nhau ỏm tỏi. Trương Dần thì cho rằng cứ nên tuân theo mệnh lệnh của Dương Nhất Thanh, đóng quân tại chỗ chờ lệnh rồi mới quyết định hành động kế tiếp. Trung vệ chỉ huy sứ Đặng Học Anh thì lại cho rằng nên làm theo thông lệ, khi có lửa hiệu nổi lên, quân trú đóng lân cận phải tức tốc tiếp viện quan ải. Tả vệ chỉ huy sứ Quan Dũng thì lại khăng khăng rằng "tướng ở ngoài trận không nhất thiết phải tuân quân lệnh", nếu lửa hiệu đã nổi thì nên lập tức chạy về Đại Đồng để phòng bất trắc.
Trương Dần cố ý kéo dài thời gian, dung túng cho hai tướng tranh chấp, còn mình thì ngồi ngoài xem, chỉ phái thám mã sử dụng khoái mã đi Đại Đồng dò sát quân tình. Mãi đến lúc tranh cãi gần được một canh giờ, nhận định cho dù bây giờ có nhổ trại ngay lập tức thì cũng không kịp tiếp viện núi Bạch Đăng, hắn mới bèn "quyết đoán" làm theo ý kiến của Quan Dũng, khởi binh tiến về Đại Đồng.
Đại quân đi được nửa đường thì gặp được quân dịch trạm do Dương Nhất Thanh cử đến. Các tướng nghe báo Bá Nhan đã công phá quan ải, đang đánh về hướng núi Bạch Đăng thì hoảng hốt thất kinh, liền gấp rút chỉ huy đại quân chi viện.
Khi đi qua Kháng Hồ Bảo nơi Vương Thủ Nhân tiến vào quan ải, thám mã của hắn cũng đã đưa tin báo Đại Đồng và núi Bạch Đăng cùng đang bị bao vây, Vương Thủ Nhân mang tinh kỵ gấp rút tiếp viện núi Bạch Đăng, đại quân của Dương Nhất Thanh cũng đang trên đường trở về tiếp viện.
Vốn Trương Dần dự liệu rằng quân giữ ải đều là lính bộ nên không thể chi viện Bạch Đăng kịp thời, giờ hắn nghe nói đội quân chuyên tìm giặc tác chiến ngoài quan ải của Vương Thủ Nhân đi sau mà tới trước, không ngờ đã chạy tới núi Bạch Đăng, thì không khỏi cảm thấy bất an trong lòng. Toàn bộ quân sỹ của Vương Thủ Nhân đều là kỵ binh. Một vạn sáu, vạn bảy kỵ mã tuy thua xa binh mã Bá Nhan về số lượng, nhưng nếu dùng để giữ núi thì lại dư giả đến thừa. Nếu như bọn họ chạy đến kịp, diệu kế tìm thắng lợi trong nguy hiểm của hắn nhất định sẽ thất bại trong gang tấc.
Thấy Trương Dần bồn chồn lo lắng ra mặt, Tả và Trung chỉ huy sứ lại tưởng đại nhân trung thành tận tụy, lo lắng cho an nguy của Hoàng thượng nên bèn giục binh mã vứt bỏ quân trang nặng nề, chỉ đeo hành trang gọn nhẹ chạy nhanh tới Đại Đồng.
Đại quân mới vừa tới con đường chính dẫn tới Cự Lỗ Môn, mọi người đã nghe thấy tiếng vó ngựa như sấm vọng lại từ xa, dường như muôn ngựa rong ruổi. Đại quân của Bá Nhan Khả Hãn ra sức tháo chạy về Đại Đồng, tụ họp với đội binh mã của Hỏa Sư đang công thành trong vô vọng đã cùng trốn chạy đến...
Đội kỵ binh quân Minh vừa phi vội tới cũng đã tham gia vào chiến trường đẫm máu. "Keng" một tiếng, cây thác thiên xoa trong tay một tên giặc Thát bị thanh đại đao trong tay viên kỵ sĩ phóng nhanh đến thuận thế choảng trúng, một sức mạnh không thể chống nổi hất tung thanh xoa bay xa hơn hai trượng.
Kỵ sĩ thứ hai đã đến. Lưỡi đao chĩa nghiêng về phía trước, mượn sức xông tới của khoái mã, dễ dàng vót lấy đầu tên Thát Đát đã mất binh khí. Thi thể không đầu vẫn đứng sững một lúc rồi mới phun máu ào ào, ngã oặt xuống đất.
Đang ở tư thế gò ngựa nghênh chiến, giặc Thát tự biết không thể đấu sức với kỵ mã quân Minh đang mượn sức ngựa lao tới. Dưới tình thế cấp bách, có mấy tên Thát Đát bèn phóng thương và kích trong tay phóng lao, mấy tên đứng xa hơn thì vội vã giương cung lắp tên bắn liên tục mấy mũi tên nhằm ngăn trở bớt thế xung phong của quân Minh.
Song bọn chúng còn chưa vững vị trí, thì kỵ binh đằng sau lại ùn ùn kéo qua, dẫn đầu là một viên tướng lĩnh mặt thanh mày tú, chính là Kinh Phật Nhi. Vốn hắn phụng mệnh thủ ở Phi Hồ Độ phòng ngừa có người bám theo Đoá Nhan Tam Vệ lén xông qua ải, nay trông thấy trên Trường Thành có khói lửa truyền tin, hắn bèn lập tức ra lệnh quân bảo vệ Phi Hồ Độ cảnh giới toàn diện, đề phòng giặc ngoài xâm nhập. Nhưng sau đó lại thấy trên đỉnh Bạch Đăng đốt lửa hiệu, hắn mới phát hiện có điều không ổn.
Tuy trên núi Bạch Đăng có trang bị lửa hiệu, nhưng vốn không có cơ hội dùng đến, trang bị chẳng qua cho có mà thôi. Cho dù binh mã Bá Nhan có mạnh cỡ nào cũng không thể trong khoảng thời gian ngắn như vậy mà có thể xông qua quan ải Trường Thành, ùa tới núi Bạch Đăng. Còn nếu Di Lặc giáo tụ tập dân chúng làm loạn, vây công núi Bạch Đăng, thì chỉ cần năm nghìn nhân mã trên núi và bảy nghìn phục binh cất giấu trong thành Đại Đồng là đủ để tiêu diệt bọn chúng cả chục lần.
Vậy, đã xảy ra chuyện gì khiến núi Bạch Đăng phải nổi lửa hiệu báo nguy? Phản ứng đầu tiên của Kinh Phật Nhi chính là "Đoá Nhan Tam Vệ giả trá!". Bọn chúng dẫn quân lên núi ký kết minh ước là giả, thí vua giết chúa mới là thật. Ngoài năm nghìn tinh binh của Đoá Nhan Tam Vệ ra, còn ai có thể nhanh chóng uy hiếp đám quân Minh cố thủ trên đỉnh núi đến như vậy? Thế là Kinh Phật Nhi không cần nghĩ ngợi gì, tức tốc dẫn hơn nghìn huynh đệ của hắn điên cuồng chạy về cứu giá.
Khi đến chân núi trông thấy trận chiến thảm liệt đang xảy ra trước mặt, Kinh Phật Nhi cũng giật nảy người. Ở đâu ra mà nhiều quân Thát Đát như vậy? Song lúc này hắn cũng không có thời gian đi hỏi nhiều đến thế; nếu hai bên đang chém giết, mình cũng đừng khách sáo gì hết mà xông lên giết người mới là chính đạo.
Trong tay Kinh Phật Nhi là một thanh đại khảm đao sống dày. Hắn đâm mạnh thanh đao tới trước, đại đao lướt qua ngực một tên tướng lĩnh Thát Đát vận giáp sắt hộ thân, tia lửa bắn lên, áo giáp hộ thân thủng một lỗ lớn kinh người, tức thì thịt bong máu vãi.
Nhát đao này vẫn chưa trí mạng, nhưng viên tướng lĩnh đó bị đâm ngã xuống ngựa, đang lăn mấy vòng trên đất. Không đợi hắn kịp bò dậy, vó ngựa cất lên rầm rầm đã đạp lên người hắn phóng qua. Tiếng la thét lẫn thân người giãy giụa chỉ kéo dài trong nháy mắt, khi một chiếc vó ngựa to bằng chiếc bát khác đạp lên lưng hắn, hắn đã không còn chút phản ứng.
Từng thanh đại đao điên cuồng vung chém, như bổ dưa thái rau, tước đi máu thịt một cách vô tình, mỗi khi ánh đao loé xuống, liền có máu tươi bắn lên.
Cuộc đại hỗn chiến đã bắt đầu. Khắp trên mảnh bình nguyên dưới núi Bạch Đăng là người với người. Toàn bộ vũ khí công kích tầm xa như cung tên, thương giáo, đều đã mất tác dụng, tất cả mọi người chỉ có thể nhặt lấy đao kiếm, đoản kích tìm lấy đối thủ mà đánh tay đôi. Đầu người lăn lông lốc, tay cụt bay tứ tung. Tiếng rên la rợn óc, tiếng vó ngựa hãi hùng, y hệt như chốn Tu La địa ngục.
Đến tận lúc này, Dương Lăng mới có thể thở phào nhẹ nhõm. Y lật đật chạy tới trước mặt Chính Đức, sụp người quỳ xuống, vui sướng bẩm:
- Chúc mừng Hoàng thượng! Hoàng thượng ngồi trong màn trướng bày kế, điềm tĩnh chỉ huy, khiến cho Bá Nhan không trộm được gà. Lần này quả thực hắn đã lỗ vốn lớn rồi!
Khuôn mặt tuấn tú trắng trẻo của Chính Đức cũng bị khói hun như vẽ bùa, hai con mắt đỏ ngầu, nhưng lại trông rất vui vẻ. Hắn vội bước tới đỡ Dương Lăng dậy, hớn hở:
- Dương ái khanh mau đứng lên đi. Dưới núi là hai lộ viện binh nào vậy? Bọn họ đến kịp thời như vậy, trẫm nhất định sẽ ban thưởng hậu hĩnh!
Không bỏ qua cơ hội tốt, Trương Vĩnh và Miêu Quỳ cũng lật đật bước lên ra sức nịnh hót Hoàng thượng một hồi.
Vừa rồi đám người Hoa Đáng thấy đỉnh núi suýt bị công chiếm, tim cả bọn đã nhảy lên tới cuống họng. Bọn họ thừa biết đã trúng kế hoãn binh của Dương Lăng, bị dụ dốc hết tinh binh giúp y giữ núi đợi đại quân tới bao vây Bá Nhan. Thực ra là Hoàng đế Đại Minh bị người ta lén tập kích, chẳng qua gặp được vận may mới chuyển nguy thành an mà thôi.
Song dưới tình thế này, hiện tại Chính Đức là bên thắng lớn, ai dám bước ra nói toạc sự thật để rước họa vào thân chứ? Hai bên đều biết rõ điều này, không cần phải nói ra.
Dù sao thì ván bài này Hoa Đáng cũng đã đặt đúng cửa, hắn bèn vội dẫn các thủ lĩnh bước tới nịnh hót Thiên Khả Hãn một lúc.
Ngân Kỳ nguýt Dương Lăng, thấp giọng:
- Số ngài thật tốt đấy!
Vòng vây trùng điệp đã được giải, Dương Lăng như vứt được đá tảng trong lòng, cảm thấy nhẹ nhõm cả người. Nghe vậy, y không khỏi cười nói:
- Số của bản quan lúc nào cũng tốt cả! Chỉ hại cô nương không thể trở thành Khả Đôn của Đại Hãn, thật là áy náy quá!
- Ngân Kỳ, lại đây ra mắt Thiên Khả Hãn!- Hoa Đáng cất tiếng gọi nàng, rồi khom người vỗ ngực bẩm với Chính Đức - Thưa Thiên Khả Hãn tôn quý, đây là đứa con gái Ngân Kỳ Kỳ Kỳ Cách của thần. Nó đòi đi theo tiểu thần để được yết kiến Thiên Khả Hãn, thần lo nó thất lễ trước mặt ngài, cho nên mới để nó cải trang làm thị vệ cận thân.
Nghe cha gọi mình, Ngân Kỳ quay sang hừ với Dương Lăng một cái vô thưởng vô phạt rồi rảo bước tới trước mặt Chính Đức thi lễ.
Sau một trận hỗn chiến, quân Minh đã xông tới dưới chân núi tụ tập thành một bước tường người, quân Thát Đát đối diện cũng dần co cụm lại, hai phe phòng thủ nghiêm ngặt. Dương Lăng bèn bẩm:
- Hoàng thượng, thần xin được xuống núi gặp gỡ tướng soái lĩnh binh một chốc.
Chính Đức gật đầu đồng ý, Dương Lăng lập tức dẫn hơn trăm tên thị vệ chạy xuống núi. Lúc này đại quân Thát Đát đã tập kết xong, quân số vẫn còn đông hơn quân Minh hơn một vạn. Vương Thủ Nhân bày nghiêm thế trận đối địch, đề phòng Bá Nhan tấn công. Còn bên phía đại kỳ của Bá Nhan, trong làn sóng la hò quái dị, đại quân Thát Đát cấp tốc rời khỏi chiến trường, chạy như điên về phía Đại Đồng.
Dương Lăng chạy tới bên Vương Thủ Nhân. Trong kinh hai người đã từng quen biết, lúc này cũng không có thời gian chào hỏi. Vương Thủ Nhân chỉ vội gật đầu tỏ ý chào, rồi liền tức tốc ra lệnh cho trung quân vẫy cờ truyền lệnh cho đại quân đuổi theo đánh giết những kẻ địch chậm chân.
Vương Thủ Nhân biết Hoàng đế còn ở trên núi, nên không dám xuất hết kỵ binh. Hơn nữa cho dù có xuất hết binh lực đi chăng nữa thì quân số vẫn còn thua xa đối phương, không thể tiêu diệt Bá Nhan hoàn toàn. Mà ngoài thành Đại Đồng còn có người Thát Đát, hai nhóm quân đó tụ hợp lại thì sẽ càng mạnh không thể chống nổi. Do đó, hắn chỉ hạ lệnh cho hai vị du kích tướng quân bày thế "đuổi sói ra khỏi ải" từ xa, giữ lại ba nghìn kỵ binh hộ giá dưới chân núi, còn mình đi theo Dương Lăng lên núi.
Trông thấy giặc Thát bỏ chạy, Kinh Phật Nhi bèn dẫn quân của mình reo hò đuổi theo chém địch, muốn gọi hắn trở lại cũng không kịp. Vương Thủ Nhân cũng không thấy mặt hắn trong đám loạn quân nên cũng không rõ đó là đội viện binh nào.
Bá Nhan đang tháo chạy, theo lý luận bình thường, truy sát bại binh là cơ hội hiếm có. Lúc giáp chiến với giặc Thát, quân của Vương Thủ Nhân hung hãn vô cùng, sao đến khi giặc Thát bỏ chạy hắn lại trở nên cẩn thận như vậy? Dương Lăng bụng đầy nghi vấn, rất khó hiểu sự thu xếp của Vương Thủ Nhân, cho nên giữa đường lên núi bèn hỏi luôn.
Vốn Vương Thủ Nhân rất có cảm tình với Dương Lăng. Hắn và Dương Nhất Thanh thì một an nhàn tại nhà, một bị nhốt trong đại lao, nay được tín nhiệm giao cho trọng trách như thế này là đều nhờ vào Dương Lăng đứng giữa hoà giải. Đại học sĩ Vương Hoa đã nhắc tới những chuyện này với con mình, vì vậy khi hắn càng có hảo cảm với Dương Lăng hơn.
Nghe Dương Lăng hỏi vậy, Vương Thủ Nhân mới cười khó xử đáp:
- Nếu như ti chức đoán không lầm, Cự Lỗ Môn đã lọt vào tay quân Thát Đát. Với tốc độ của kỵ binh bọn chúng, nếu muốn xông qua ải đột phá vòng vây, không ai sẽ có thể ngăn cản chúng được. Ưu thế của chúng ta là dựa vào binh lực chiến đấu trực diện, truy kích địch ở xa hậu phương không phải là sở trường của quân ta. Vả lại, cung đánh trận của giặc Thát bắn xa hơn trăm trượng, đặc biệt là tinh thông “Mông Cổ đãi xạ pháp”...
Trông thấy Dương Lăng nhíu mày nghi hoặc, hắn bèn giải thích:
- Ý là nói thuật cưỡi ngựa của chúng cao siêu, có thể vừa chạy vừa bắn tên ra phía sau. Đại nhân, tầm bắn của cung tên chúng ta không bằng giặc Thát, hơn nữa nếu chúng ta đuổi lên, vừa vặn hứng trọn tên bắn của giặc Thát; còn giặc Thát lại chạy lên phía trước, vừa khớp tránh được tên của quân ta. Chạy đi chạy lại như vậy, rốt cuộc bên trốn chạy sẽ giành được thắng lợi, ngược lại bên truy sát sẽ bị tổn thất lớn. Năm xưa thiết kỵ Mông Cổ viễn chinh các nước, nhờ vào phương pháp giả vờ trốn chạy này mà đã đánh thắng không biết bao nhiêu trận rồi.
Hơn nữa, ngựa Mông Cổ trông thì thấp bé như vậy, song lại dẻo dai vô cùng. Nó có thể chạy cự ly xa không cần phải nghỉ ngơi, hơn nữa bất kể giá rét hay nóng bức thế nào nó vẫn có thể sống được nơi dã ngoại. Kỵ binh chúng ta mới vừa đuổi tới, giờ đã mệt lử, bất luận là so về nhân số hay chiến lực đều kém hơn địch rất nhiều. Chẳng qua chúng ta chiếm được địa lợi và nhân hoà, cho nên Bá Nhan mới không còn lòng dạ nào ham chiến mà thôi.
Vả lại ngựa Mông Cổ cũng không đòi hỏi cao về thức ăn, chốn ở. Bất kể cao nguyên hoang mạc hay là đồng cỏ đất bằng, ngựa Mông Cổ cũng đều có thể tự tìm thấy thức ăn. Quân Mông Cổ đánh trận không bao giờ mang theo quân nhu. Một là bởi chúng dựa vào cướp bóc, dùng phương thức lấy chiến tranh nuôi chiến tranh; hai là bởi ngựa chúng phần lớn là ngựa cái, có thể cung cấp sữa ngựa để duy trì cuộc sống.
Người đời chỉ biết binh sĩ Mông Cổ cưỡi ngựa bắn cung đều giỏi, mà không biết rằng thuật trốn chạy của chúng càng đứng đầu thiên hạ. Giỏi nhất là giết địch trong lúc bỏ chạy, tiêu hao quân địch mà giành lấy thắng lợi. Bởi vậy cho nên trừ phi nắm chắc có thể ép chúng quyết chiến trực diện; bằng không bất cứ lúc nào, bất luận ở đâu binh lực chiến đấu cũng sẽ không bằng bọn chúng. Khi không thể ép chúng quyết chiến trực diện thì vạn lần không thể đuổi theo.
Dương Lăng nghe mà ấn đường chau lại, chợt bảo:
- Nghe Vương đại nhân nói vậy, bản quan khiếp sợ vô cùng. Thảo nguyên sa mạc là bãi săn thiên nhiên của bọn chúng. Nếu như không khiến chúng tự tàn sát làm hao mòn thực lực của nhau, thì cho dù quân ta gấp mấy lần quân địch, việc đối phó với mấy vạn thậm chí mấy chục vạn quân Thát Đát cũng đều phải bỏ ra cái giá không biết sẽ lớn đến dường nào.
Vương Thủ Nhân mỉm cười:
- Chính là như vậy! Cho nên nếu đã không thể tận diệt Bá Nhan và Hỏa Sư trong biên cảnh Đại Minh ta, chi bằng để chúng cùng nhau chạy về thảo nguyên. Chờ diệu kế của đại nhân phát huy hiệu quả, chúng ta lại mời chúng quay lại cũng không muộn.
Hai người đưa mắt nhìn nhau cùng cười, có cảm giác đồng cảm lẫn mến mộ giữa những người hiểu biết.
Giữa Đoá Nhan Tam Vệ cùng Thát Đát và quân Minh thường xuyên xảy ra chiến tranh, cho nên bọn họ hiểu rõ chiến lực và tính cơ động của đôi bên. Vì vậy khi thấy Bá Nhan dẫn quân đột phá vòng vây, quân Minh đang đuổi theo sau lại có binh lực thua kém Thát Đát thấy rõ thì Bá Nhan đoán rằng trận này khó mà tận diệt Thát Đát tại đây.
Có điều quân tinh nhuệ Thát Đát có bốn năm vạn quân, nay cả chết lẫn bị thương nằm lại đây gần một vạn người. Đối với triều đình nhà Minh thì con số một vạn người này chẳng là gì, song đối với những bộ lạc thảo nguyên, con số này có ý nghĩa lớn đến thế nào bọn họ đều biết rõ rành rành. Huống hồ phía trước còn có quân đội Đại Minh trở về cứu viện, nên đến khi quân Thát Đát thực sự xông được qua quan ải thì không biết sẽ còn tổn thất biết bao nhiêu người ngựa nữa.
Bên này yếu đi thì bên kia mạnh lên. Được Đại Minh chống lưng, Hoa Đáng dường như thấy được ngôi báu Đại Hãn Mông Cổ đã vẫy tay gọi mình.
Thế là Hoa Đáng mừng rỡ cáo từ Chính Đức. Bá Nhan rời khỏi quan ải ắt sẽ chạy không ngừng nghỉ trở về đại mạc, vừa vặn chắn ngay trên đường bọn họ trở về Đoá Nhan Tam Vệ, cho nên bọn họ phải mau chóng ly khai. Ngoài ra cũng cần phải trở về để sớm chuẩn bị phòng ngừa Thát Đát lại quay sang cướp đoạt lương thảo của bọn họ.
Chính Đức đồng ý ngay, sai người lấy năm nghìn lạng vàng ròng, năm mươi rương tơ lụa và bánh trà được chuẩn bị sẵn trong hang ra tặng cho Đoá Nhan Tam Vệ. Ba nghìn kỵ binh còn lại của Đoá Nhan mang theo giấc mơ trở thành vì vua của đại mạc phóng ngựa về phía Phi Hồ Độ dưới sự hướng dẫn của kỵ binh quân Minh.
Sau khi bọn họ đi rồi, Chính Đức bèn gọi Vương Thủ Nhân lại, hỏi rõ nhân thân của hắn. Khi biết được hắn là con của đại học sĩ Vương Hoa, Thái phó của phụ hoàng mình, thì Chính Đức không khỏi mừng rỡ bảo:
- Tốt lắm! Quả nhiên hổ phụ không sinh khuyển tử. Ái khanh cứu giá kịp thời, vây hãm Thát Đát, giúp đỡ xã tắc, sau khi hồi kinh trẫm nhất định sẽ luận công ban thưởng.
Đoạn hắn sa sầm nét mặt, nghiêm giọng:
- Trẫm cùng Dương khanh bày diệu kế diệt trừ cái hoạ trăm năm. Nay mục đích phân hoá hai đại thủ lĩnh của Thát Đát đã đạt được; mục đích lập minh hữu cùng Đoá Nhan Tam Vệ, xua sói đấu cọp cũng đã đạt được. Thế nhưng Tam biên tổng chế Dương Nhất Thanh đang làm gì chứ?
Trẫm có rãnh trời Trường Thành chống giữ, trẫm bày binh mười vạn cho quan ải! Thế mà ngay ngoài thành Đại Đồng này, Bá Nhan lại có thể lùa toàn bộ đại quân xâm nhập biên cảnh, suýt nữa lấy đầu của trẫm! Dương Nhất Thanh tội không thể tha! Trẫm nhất định sẽ xử hắn thật nặng!
Thấy tiểu hoàng đế toát sát khí lẫm liệt, Vương Thủ Nhân rùng mình, thầm nhủ Dương Nhất Thanh tiêu rồi.
Suy nghĩ một lúc, hắn từ tốn thưa:
- Vi thần vốn dĩ bám theo sau đuôi Hỏa Sư, trông thấy khói hiệu nổi lên liền chạy vội tới cứu giá, cho nên vẫn không rõ tường tận Bá Nhan xâm nhập quan ải thế nào, vốn không tiện xen vào...
Nhưng trong lúc lùng đuổi Bá Nhan, thấy đại quân của hắn không hề có dấu hiệu gì là vừa trải qua chiến đấu gian khổ mà lại có vẻ dễ dàng tiến thẳng vào trong quan ải. Thần nghi ngờ trong tướng lĩnh canh giữ biên giới đã có người tư thông Thát Đát. Dương tổng chế mới vừa nhậm chức liền đã phải lĩnh quân tác chiến, cho nên quả thật không kịp chỉnh đốn tướng lĩnh phòng thủ các quan ải. Nếu... nếu như có người mở cửa dâng ải cho giặc, ấy không phải là tội của Dương tổng chế vậy...
Chỉ huy tác chiến bất lực, gây tổn thương lớn là đủ bị tống vào trong đại lao. Nay Hoàng đế gặp mặt Đoá Nhan Tam Vệ trên núi Bạch Đăng, đã thông báo cho Dương Nhất Thanh từ trước, chỉ sử dụng năm nghìn tinh binh thuộc Kinh doanh nhằm đề phòng giặc trong là Di Lặc giáo, còn hắn thì phòng bị giặc ngoài. Thế mà đại quân của Bá Nha lại vẫn dễ dàng chọc thủng khu vực phòng thủ của hắn, xuất hiện dưới chân núi Bạch Đăng một cách đường hoàng, suýt nữa đẩy Hoàng đế vào chỗ chết, chỉ bị chém đầu đã là xử nhẹ tội lắm rồi.
Không dám trực tiếp ra mặt gỡ tội cho ông ta, Vương Thủ Nhân chỉ giải thích qua rồi nhìn sang Dương Lăng với ánh mắt khẩn cầu. Hiện tại người có thể thuyết phục được Hoàng đế đại khái chỉ có Trương Vĩnh và Dương Lăng. Hắn không quen biết Trương Vĩnh, cho nên chỉ có thể trông mong Dương Lăng ra mặt nói hộ.
Ngụ ý của hắn là, đúng là Dương Nhất Thanh là Tam biên tổng chế phụ trách việc phòng ngự khu vực này, nhưng lần này Bá Nhan xông qua quan ải không phải là vì Dương Nhất Thanh chỉ huy không giỏi mà là vì có nội gián tiếp ứng; cho dù Gia Cát Vũ Hầu sống lại cũng không thể sắp xếp đề phòng chu toàn. Chẳng lẽ lại đem thay hết toàn bộ tướng lĩnh tam quan bằng tâm phúc của ông ta? Nếu thật sự muốn truy cứu... có lẽ nên truy cứu kẻ đã đề bạt nội gián đi nhậm chức ở biên ải hiểm yếu mới phải.
Hiểu được ý trong lời của Thủ Nhân, Dương Lăng bèn vội bước tới rỉ tai Chính Đức:
- Hoàng thượng mới vừa kế vị liền đã lên núi Bạch Đăng thương thảo với Đoá Nhan Tam Vệ, kết minh tương trợ lẫn nhau, giúp yên ổn Liêu Đông, ấy là công tích văn trị to lớn vậy. Tương kế tựu kế, lấy thân làm mồi, dụ giặc vào tròng, lấy ít thắng nhiều, giết địch hơn vạn, lập nên chiến tích lẫy lừng nhất từ thuở Vĩnh Lạc đại đế xua quân bắc phạt, ấy là thành tựu võ công vĩ đại vậy.
Dương tổng chế vừa đến biên thùy liền đã kềm chặt Bá Nhan, lại tách một đạo kỳ binh tập kích sau lưng địch, giúp Hoàng thượng phân hoá Thát Đát, lập được công trạng lẫy lừng, thật sự là tướng tài khó được. Bá Nhan vượt ải không phải là tội Dương tổng chế thua trận. Nếu trách phạt quá nặng, khó tránh tổn thương đến lòng tướng sĩ biên cương, lại khó tránh bá quan trong triều nảy lòng nghi ngờ. Vả lại bọn họ vốn phản đối Hoàng thượng đích thân tuần thú, nếu làm vậy chẳng phải sẽ tạo thêm cơ hội cho bọn họ ư?
"Văn trị, võ công"? "Chiến tích lẫy lừng nhất từ thuở Vĩnh Lạc đại đế xua quân bắc phạt"? Nghe xong hai câu này, Chính Đức vốn thích được nịnh bợ liền hớn hở mặt mày, vội bảo:
- Ái khanh nói rất phải, suýt nữa thì trẫm đã tự hủy chiến công... à không... tự hủy trường thành (ý là Dương Nhất Thanh – Ba_Van) của mình rồi. Dương Nhất Thanh vẫn là tướng tài canh giữ biên cương hiếm có. Có điều chuyện này tuy không thể làm lớn, song vẫn phải điều tra biên quân tận tường, phàm là kẻ khả nghi đều phải thay mới hết. Chuyện này trẫm sẽ giao cho khanh làm. Tướng lĩnh canh giữ biên quan có nhiều gian tế trà trộn vào như vậy, có trời mới biết lúc nào lúc nào sẽ trở thành đại họa?
Dương Lăng vội gật đầu khen phải. Vương Thủ Nhân nhìn y đầy cảm kích, rồi xin phép Hoàng đế quay trở xuống núi. Hắn bắt đầu chỉ huy sĩ tốt kiểm kê thương vong, quét dọn chiến trường, giam giữ tù binh, đồng thời sai người chạy về Đại Đồng theo dõi tình hình cuộc chiến để quyết định hành động kế tiếp của Hoàng đế.
...
Khi trông thấy lửa hiệu từ phía Đại Đồng, Trung vệ chỉ huy sứ của Thái Nguyên vệ là Đặng Học Anh liền lập tức chạy vào trong lều soái của Trương Dần bẩm báo, tiếp đó Tả chỉ huy sứ cùng các tướng lĩnh cao cấp đưới trướng đều giáp trụ chỉnh tề lần lượt kéo đến lều soái.
Trương Dần thầm cao hứng trong lòng. Đã mấy ngày rồi mà Bá Nhan vẫn chưa thực hiện cuộc tấn công quan ải có quy mô nào, nay lửa hiệu được đốt lên, tám chín phần mười là đã tập kích quan ải thành công. Khổ tâm sắp đặt bao năm, rốt cuộc hôm nay đã có kết quả, bảo sao mà hắn không mừng như điên cho được?
Ý định ban đầu của Trương Dần là đóng quân tại chỗ, lẳng lặng ngồi chờ xem kết quả cuộc chiến. Dương Nhất Thanh điều đại quân của hắn tới, vốn để đề phòng Bá Nhan tiến đánh quan ải trong lúc Hoàng đế liên kết đồng minh, cho nên chỉ ra lệnh cho hắn chi viện thành lũy bị tập kích. Nhưng Dương Nhất Thanh không ngờ đại quân Bá Nhan lại có nội ứng từ trước, dễ dàng đột nhập vào quan ải tiến thẳng đến núi Bạch Đăng.
Nếu như hai bên quyết chiến giằng co trên quan ải, thì còn kịp phái người thông tri cho Trương Dần. Đằng này đã Bá Nhan lao thẳng tới chân núi Bạch Đăng rồi thì Dương Nhất Thanh mới được bẩm báo, thế là ông ta hồn phi phách tán, lập tức điều động đại quân từ quan ải lại, đồng thời phái quân dịch trạm điều động gấp Trương Dần về cứu viện. Còn về phần đại quân hắn có đến kịp để cứu giá hay không thì ông ta cũng chẳng còn thời gian để mà quan tâm nữa.
Khoái mã trạm dịch mang lệnh tiễn của Dương tổng chế còn chưa tới, nội bộ tướng lĩnh đội quân của Thái Nguyên vệ đã cãi nhau ỏm tỏi. Trương Dần thì cho rằng cứ nên tuân theo mệnh lệnh của Dương Nhất Thanh, đóng quân tại chỗ chờ lệnh rồi mới quyết định hành động kế tiếp. Trung vệ chỉ huy sứ Đặng Học Anh thì lại cho rằng nên làm theo thông lệ, khi có lửa hiệu nổi lên, quân trú đóng lân cận phải tức tốc tiếp viện quan ải. Tả vệ chỉ huy sứ Quan Dũng thì lại khăng khăng rằng "tướng ở ngoài trận không nhất thiết phải tuân quân lệnh", nếu lửa hiệu đã nổi thì nên lập tức chạy về Đại Đồng để phòng bất trắc.
Trương Dần cố ý kéo dài thời gian, dung túng cho hai tướng tranh chấp, còn mình thì ngồi ngoài xem, chỉ phái thám mã sử dụng khoái mã đi Đại Đồng dò sát quân tình. Mãi đến lúc tranh cãi gần được một canh giờ, nhận định cho dù bây giờ có nhổ trại ngay lập tức thì cũng không kịp tiếp viện núi Bạch Đăng, hắn mới bèn "quyết đoán" làm theo ý kiến của Quan Dũng, khởi binh tiến về Đại Đồng.
Đại quân đi được nửa đường thì gặp được quân dịch trạm do Dương Nhất Thanh cử đến. Các tướng nghe báo Bá Nhan đã công phá quan ải, đang đánh về hướng núi Bạch Đăng thì hoảng hốt thất kinh, liền gấp rút chỉ huy đại quân chi viện.
Khi đi qua Kháng Hồ Bảo nơi Vương Thủ Nhân tiến vào quan ải, thám mã của hắn cũng đã đưa tin báo Đại Đồng và núi Bạch Đăng cùng đang bị bao vây, Vương Thủ Nhân mang tinh kỵ gấp rút tiếp viện núi Bạch Đăng, đại quân của Dương Nhất Thanh cũng đang trên đường trở về tiếp viện.
Vốn Trương Dần dự liệu rằng quân giữ ải đều là lính bộ nên không thể chi viện Bạch Đăng kịp thời, giờ hắn nghe nói đội quân chuyên tìm giặc tác chiến ngoài quan ải của Vương Thủ Nhân đi sau mà tới trước, không ngờ đã chạy tới núi Bạch Đăng, thì không khỏi cảm thấy bất an trong lòng. Toàn bộ quân sỹ của Vương Thủ Nhân đều là kỵ binh. Một vạn sáu, vạn bảy kỵ mã tuy thua xa binh mã Bá Nhan về số lượng, nhưng nếu dùng để giữ núi thì lại dư giả đến thừa. Nếu như bọn họ chạy đến kịp, diệu kế tìm thắng lợi trong nguy hiểm của hắn nhất định sẽ thất bại trong gang tấc.
Thấy Trương Dần bồn chồn lo lắng ra mặt, Tả và Trung chỉ huy sứ lại tưởng đại nhân trung thành tận tụy, lo lắng cho an nguy của Hoàng thượng nên bèn giục binh mã vứt bỏ quân trang nặng nề, chỉ đeo hành trang gọn nhẹ chạy nhanh tới Đại Đồng.
Đại quân mới vừa tới con đường chính dẫn tới Cự Lỗ Môn, mọi người đã nghe thấy tiếng vó ngựa như sấm vọng lại từ xa, dường như muôn ngựa rong ruổi. Đại quân của Bá Nhan Khả Hãn ra sức tháo chạy về Đại Đồng, tụ họp với đội binh mã của Hỏa Sư đang công thành trong vô vọng đã cùng trốn chạy đến...
Tác giả :
Nguyệt Quan