Ngược Về Thời Minh
Chương 208: Điều quân khiển tướng như chơi
Mùi máu tanh tràn ngập không khí. Tuy trời đang rét lạnh song mùi tanh vẫn nồng nặc không tan.
Bá Nhan đứng sừng sững trước lều lớn của Khả Hãn, trợn trừng cặp mắt đỏ lừ màu máu như một con thú dữ. Mấy trăm thớt chiến mã bị giết trải đầy trên cánh đồng tuyết, máu tươi xổ ra ồng ộc, nhuộm đỏ cả mặt đất.
Của cải cướp bọc được trong lần xuất binh này đã hao tổn không còn gì, vốn nên sớm kịp thời rút lui nhưng vì đợi Hoàng đế nhà Minh rời thành để đánh một đòn chí mạng mà mấy vạn đại quân Thát Đát vẫn trù trừ không đi. Nay quân nhu lương thực đã dùng hết sạch, sĩ tốt chỉ có thể dựa vào cây cỏ đào bới trên đồng tuyết cùng chuột, sói, thỏ hoang mà duy trì sự sống.
Mấy vạn đại quân xới tung núi đồi sơn dã lùng bắt hết những chú chuột đồng vừa to vừa béo, lấy dao lóc thịt, lấy nước rửa sạch, triển khai cuộc vận động "toàn dân diệt chuột gây hại" hết sức oanh liệt. Chuột đồng thảo nguyên đào hang sống thành đàn, sau mùa đông một con chuột cỡ lớn phải tích trữ đến mấy chục cân cỏ khô. Những nơi bị nạn chuột phá hoại, đất đai bị chúng cày bới khắp nơi để đào hang nên đất màu bị trôi xói nghiêm trọng. Có nơi thậm chí còn hình thành cái gọi là "đất hoang của chuột": không còn một cành cây, một ngọn cỏ. Xem tình hình hiện nay, nạn chuột gây hại sẽ vì thế mà bị quét sạch, sang xuân mảnh thảo nguyên ngoài thành Đại Đồng này nhất định sẽ xanh mởn cỏ cây...
Nay binh sĩ đều áo quần rách rưới, ăn không đủ no. Nếu như tù trưởng các bộ lạc không biết cách một dãy Trường Thành là Hoàng đế Đại Minh mà nghiêm khắc quản thúc bộ hạ của mình thì chỉ e sớm đã có người nổi loạn.
Tái Lý Mộc Trác Nhĩ, mày đen như núi xa, mắt trong như thu thủy, khẽ khàng đi đến trước mặt Bá Nhan, lo lắng gọi:
- Đại hãn...
Hơi thở nặng nề lập tức ổn định lại, Bá Nhan nhìn cô nàng mỉm cười, cặp mắt khôi phục lại vẻ bình tĩnh và sắc sảo thông minh khi trước. Hắn hiên ngang cả tiếng nói với các thủ lĩnh và bọn sĩ tốt trước mặt:
- Chúng ta ở ngoài thành Đại Đồng khổ chiến gần sáu mươi ngày, quân mệt ngựa mỏi, lương thảo thiếu hụt. Thế thì tại sao không trở về thảo nguyên của chúng ta?
Ánh mắt sắc bén quét khắp một lượt, rồi hắn chỉ tay về phía Đại Đồng, cười to nói tiếp:
- Bởi vì Hoàng đế của Đại Minh đang ở ngay sau ngọn núi này. Trường thành trên núi này là bức tường vững chắc che chở cho người Hán, mà Hoàng đế Đại Minh lại là một bức Trường Thành trong lòng người Hán. Hoàng đế mà chết, thiên hạ tất đại loạn.
Nay cơ hội đã đến! Nội ứng của chúng ta sẽ mở cổng Cự Lỗ khẩu, ta sẽ đích thân dẫn binh mã đại quân không ngừng nghỉ mà tập kích núi Bạch Đăng, còn tướng quân Hỏa Sư anh hùng thì tấn công Đại Đồng. Thành lũy Đại Đồng không gì phá nổi cũng có người của chúng ta, bọn họ sẽ mở cổng thành tây nghênh tiếp đại quân chúng ta tiến vào. Rượu mạnh ngon nhất, đàn bà da thịt mịn màng xinh đẹp nhất, tất cả đều sẽ ở đó đón chờ chúng ta hưởng thụ!
Hỡi các chiến sĩ thảo nguyên! Chiếm được toà thành lớn này rồi, nam đánh Thái Nguyên, bắc dẹp Tuyên Hoá, một nửa giang sơn sẽ nằm trong tầm tay chúng ta. Đại Đô sẽ lại trở về trong vòng tay của chúng ta; Trung Nguyên sẽ lại hoá thành bãi cỏ của chúng ta. Hãy tiến lên! Mỗi một thằng đàn ông người Hán đều sẽ trở thành nô lệ gác bên lều ngủ của các ngươi. Mỗi một con đàn bà người Hán sẽ cung kính hiến dâng cái đêm đầu tiên của mình cho các ngươi. Tất cả tài sản và đàn bà của người Hán đều sẽ mặc cho các người sử dụng!
Được Bá Nhan kích động, những tiếng hú gào như sói tru nối nhau hết đợt này đến đợt khác, dục vọng chinh phục và cướp đoạt lại một lần nữa nổi lên trong lòng mỗi một chiến sĩ Thát Đát. Hài lòng nhìn những chiến sĩ đã lấy lại sát khí đằng đằng, ý chí chiến đấu sôi sục, Bá Nhan vung tay quát lớn:
- Uống nước tuyết, ăn thịt ngựa, tất cả các chiến sĩ hãy ăn no một bữa! Lúc mặt trời lên đến đỉnh, chúng ta sẽ đánh vào quan ải!
Đám chiến sĩ khát máu đã phấn chấn hùng tâm, cả cánh đồng tuyết vì một trận chiến cuối cùng này mà đã sôi trào, từng miếng thịt ngựa to đùng vẫn còn hồng hồng đã liền bị bọn binh sĩ vớt ra khỏi nồi mà nhai nuốt như cọp đói. Tù trưởng các bộ lạc khua chiêng gióng trống chuẩn bị chiến tranh. Lều bạt và một ít xe ngựa thì giao cho đám lính già yếu bệnh tật trông coi, chỉ tập trung khinh kỵ và khoái mã chuẩn bị tập kích quan ải.
Ý chí chiến đấu tràn ngập doanh trại. Ngay cả những tên Thát Đát bị thương, bị bệnh, già yếu tàn tật cũng đều đến trước mặt thủ lĩnh của mình cố gắng tranh giành cơ hội xông lên quan ải, chém giết, cướp bóc, chiếm đoạt đàn bà. Không cần phải động viên gì thêm, mỗi một tên đều biết giang sơn người Hán giàu có và sung túc như thế nào, đàn bà con gái người Hán xinh đẹp ra làm sao. Sự tham lam đã khiến cho những binh sĩ yếu đuối nhất cũng hoá thành những con mãnh hổ.
Một người ăn mặc theo lối người Mông Cổ được dẫn nhanh vào lều Khả Hãn của Bá Nhan. Nghe gã nọ báo tin tức từ quan ải do Di Lặc giáo đưa tới xong thì Bá Nhan không khỏi biến sắc. Hắn trầm ngâm một lúc lâu rồi mới nhoẻn miệng cười, bảo với kẻ đưa tin:
- Tốt lắm, ta biết rồi. Ngươi hãy trở về sơn khẩu tiếp tục chờ tin tức kế tiếp.
Kẻ nọ đưa tay lên ngực làm lễ:
- Tuân lệnh! Bây giờ tôi sẽ trở về Cự Lỗ khẩu ngay.
Song gã ta vừa mới quay lưng, Bá Nhan liền rút nhanh thanh loan đao bóng loáng như tuyết đâm vào giữa sống lưng hắn. Kẻ nọ kinh ngạc quay đầu, sợ hãi nhìn chằm chằm vào Bá Nhan.
Bá Nhan mỉm cười ác độc. Đao rời thân, máu phun ra, kẻ nọ ngã sấp xuống mặt đất. Trác Nhĩ kinh hãi bụm miệng, đến khi kẻ nọ tắt thở, cô nàng mới hoảng sợ hỏi:
- Đại Hãn, sao ngài lại giết hắn?
Sắc mặt Bá Nhan xám xịt. Thấy trong lều không có người ngoài, hắn mới trầm giọng đáp:
- Mới vừa nhận được tin nội ứng tại thành tây Đại Đồng của Di Lặc giáo đã bị khâm sai nhà Minh chém chết rồi. Vốn định tiến thẳng đoạt lấy Đại Đồng, bắc ngăn quân Minh về ải tiếp viện, nam chặn đường lui của Chính Đức, sau đó...
Trác Nhĩ lo lắng hỏi:
- Vậy giờ phải làm sao?
Bá Nhan lắc đầu bảo:
- Không còn đường lui nữa rồi. Không thể để lộ tin này được. Tên thám tử này là người của Thổ Mặc Đặc thuộc bộ lạc Quách Lặc Tân, là người trong tộc của Hỏa Sư. Không thể để bộ lạc của Hỏa Sư biết ta đã nhận được tin tức này. - Đoạn hắn liếc cái xác nằm trên mặt đất rồi thờ ơ nói tiếp, - Để Hỏa Sư tiếp tục đi gặp cục xương cứng đó đi, chúng ta giết Hoàng đế trước, sau đó lại quay về cùng chiếm lấy Đại Đồng!
*****
Cự Lỗ khẩu chỉ là một thành lũy bằng đất. Do nó bị kẹp giữa hai quả núi, địa thế hiểm trở, trước mặt là một lòng chảo chật hẹp, Thát Đạt lại không có vũ khí công thành quá lợi hại nên không thể đánh chiếm thành nhanh chóng. Vì vậy, một khi phát hiện bị địch tiến công thì nơi đây bèn nổi lửa khói phong hỏa đài, các quan ải chung quanh liền có thể mau chóng thông qua Trường Thành mà điều quân đến tiếp viện, cho nên bình thường nơi đây chỉ có binh lực của hai bách hộ trú đóng, do một vị Phó thiên tổng cai quản, kiêm quản một Bách hộ sở (gồm 112 người - xem chú thích chương 43).
Sau khi đại quân của Bá Nhan Khả Hãn tiến vào trong ranh giới Sơn Tây, nơi này được điều động thêm một trăm tăng binh (quân đội hoà thượng - ND) từ Ngũ Đài Sơn. Thời đó nghĩa dũng và tăng binh thường được điều động tham gia chiến đấu mỗi khi có chiến sự, sau chiến tranh lại trở về địa phương cũ.
Vị Phó thiên tổng này tuổi hơn hai mươi, họ Lý tên Nghĩa, mới vừa nhậm chức được hơn một năm. Người này anh tuấn bất phàm nhưng võ nghệ rất cao siêu, tính tình lại điềm đạm. Hắn không hề truy cứu chuyện sĩ tốt thỉnh thoảng lén mua bán nồi sắt, lọ sành với dân du mục Thát Đát, cho nên rất được bọn tướng sĩ ủng hộ và yêu mến.
Hôm nay, bình minh vừa ló dạng hắn đã bồn chồn leo lên trạm quan sát liên tục ngóng nhìn về phía khe núi ngoài quan ải. Sĩ tốt gác trạm trông thấy Phó thiên tổng đại nhân mặt mày căng thẳng liền cười nói:
- Đại nhân, tuy Dương tổng chế đã hạ lệnh trong những ngày này toàn bộ quan ải, vệ sở, phong hỏa đài phải cảnh giới toàn diện, nhưng nghe nói rằng đại quân Bá Nhan thiếu thốn lương thảo, không phải đã chuẩn bị trở về đại mạc rồi sao? Đại nhân hà tất phải lo lắng như vậy! Hơn nữa từ lúc nổ ra chiến sự đến nay, quan ải này của chúng ta vẫn chỉ bị vài tốp giặc Thát tới quấy phá, lúc này càng sẽ không có đại quân đến tập kích đâu.
Lý Nghĩa cười lớn bảo:
- Nói đúng lắm! Có điều quân lệnh của Tổng chế đại nhân nghiêm minh, cái gì nên kiểm tra thì vẫn phải kiểm tra thôi.
Đoạn hắn đảo tròng mắt, nhìn ngó chung quanh, sau đó thân thiết vỗ vai sĩ tốt nọ, nhỏ giọng nói tiếp:
- Biết cuộc sống nhà ngươi hơi vất vả, bản quan sẽ không để ý đến việc ngươi mua bán vài cái nồi niêu chậu chảo đâu. Có điều mấy ngày nay bên trên tra xét ngặt nghèo, đừng để xảy ra chuyện gì đó nhé.
Tiểu binh nọ cảm kích thưa:
- Đa tạ đại nhân! Tiểu nhân biết chừng ạ! Sẽ không mang phiền phức đến cho ngài đâu. Hề hề, đợi mấy ngày nữa đại quân Bá Nhan rút đi rồi hẵng tiếp vậy.
Lý Nghĩa gật gù, cười nói:
- Đứng suốt buổi sáng, các ngươi cũng đã mệt rồi, lui xuống nghỉ ngơi cả đi. Ta sẽ điều đám tăng binh nọ lên thủ thành. Chúng ta lăn lộn mưa gió quanh năm suốt tháng, bọn chúng tên nào tên nấy được nuôi dưỡng kỹ trong chùa thành ra tai to mặt lớn, phương phi tốt tướng; đến lúc bọn chúng phải bỏ ra chút sức rồi.
Binh lính thủ thành cả mừng, mấy người bọn họ liền khúm núm lấy lòng:
- Đa tạ đại nhân quan tâm! Để tiểu nhân đi gọi bọn chúng lên đây.
Chỉ một chốc sau, bốn mươi gã tăng binh đã trèo lên lầu thành, mấy chục quan binh thủ thành cùng chen nhau đi xuống. Lý Nghĩa trông thấy vị tăng quan (chỉ huy tăng binh - ND) tuổi gần ngũ tuần bước đi có phần chậm chạp, ánh mắt không khỏi ngưng tụ. Đợi lão đến gần, hắn mới nhỏ giọng hỏi:
- Sao vậy, vết thương vẫn chưa lành à?
Tăng quan nọ múa cây thuyền trượng "lẻng xẻng" vài đường, rồi cười đáp:
- Nhị thiếu chủ, thủ hạ đã khỏi nhiều rồi. Lần này không dám động tay động chân nhiều cho nên thân thể được tịnh dưỡng đến mức béo núc. Khà! Phải nói cái con lừa trọc trên Ngũ Đài Sơn đó thật là lợi hại, cái xẻng nọ suýt nữa đã xén đùi thủ hạ làm đôi rồi. Khôi phục được đến như thế này đã là may mắn lắm rồi.
Đoạn hắn nhìn ra ngoài quan ải nói tiếp:
- Vừa nãy thiếu chủ sai người của Phương bách hộ đi chuyển cây lăn và dầu tung. Cớ này có phần khiên cưỡng, tại hạ trông thấy Phương bách hộ có vẻ ấm ức lắm, chốc nữa không chừng hắn sẽ bẩm báo với cấp trên là Tề tham tướng đây. Thiếu chủ nên cẩn thận một chút.
Lý Nghĩa cười nhạt, vỗ vỗ lên lỗ châu mai đáp:
- Cha đã bí mật đưa ta vào trong quân đội, vốn là muốn nắm vững binh quyền trước rồi mới từ từ mà tính kế. Nay Hoàng đế đến Đại Đồng là cơ hội nghìn năm khó gặp, chức quan này ta cũng không thể tiếp tục làm nữa rồi. Chốc nửa cửa ải mở ra, Lý tham tướng này cũng sẽ biến mất khỏi thế gian, mặc hắn có thích thì cứ đi mà hặc tội. Không giữ hắn lại đây chờ chết là đã tận tình tận nghĩa với hắn lắm rồi. Ha ha ha!!!
Vừa dứt tiếng cười, hắn lại hỏi:
- Dưới thành đã chuẩn bị xong hết chưa?
Gã tăng quan đầu tròn tai béo, mặt mũi hồng hào gật đầu đáp:
- Thiếu chủ yên tâm, chúng tôi là tăng nhân, không ngồi chung mâm cùng quan binh. Vừa nãy đã sai người bỏ thuốc vào trong đồ ăn của chúng rồi, chốc nữa sẽ có thể giết chúng như giết heo thôi...
Hắn vừa nói đến đây, dưới lầu thành đã vọng lại tiếng rú thảm thiết. Hai người không khỏi đưa mắt nhìn nhau cả cười.
Từ xa, tên rít xuyên mây, âm thanh chói tai từ trong hẻm núi rì rầm vọng lại; tên bay xé gió, vó ngựa như sấm. Một đội kỵ mã đông nghìn nghịt như kiến ùn ùn kéo tới, trông như một tấm thảm đen kịt được trải dài, trong chớp mắt đã bao phủ khắp mặt đất.
Chỉ trong khoảng một nén nhang, ngoài quan ải đã đầy đặc người la ngựa hí, phủ kín cả mặt đất...
*****
Đến dưới chân núi, Dương Lăng mới biết rằng vị sứ giả Nặc Mộc Đồ nọ chính là Hoa Đáng. Người Hán có thói quen hai quân giao chiến không chém sứ giả. Ngoại tộc biết rõ điểm này nên từ xưa thường có Khả Hãn đích thân cải trang làm sứ thần đến viếng đất Hán, tận mắt ngắm nhìn giang sơn người Hán. Sự tình trọng đại như vậy khó trách Hoa Đáng muốn tự thân xuất mã đàm phán cùng triều đình nhà Minh.
Lúc này, trong căn lều lớn trên đỉnh núi Bạch Đăng, khách và chủ đều đang vui vẻ. Chính Đức tự tay viết quốc thư, đóng thêm ngự ấn, chấp thuận việc hợp tác và buôn bán song phương, đồng thời phong Hoa Đáng làm Thuận Minh vương, nhảy một bước từ một viên quan chỉ huy quân sự của Đại Minh có chức Đồng tri thành Khả Hãn Thuận Minh. Cương vị phiên quốc và thuộc quốc đương nhiên khác biệt, Hoa Đáng cảm thấy lưng mình đã thẳng lên không ít.
Dương Lăng mỉm cười bước ra cửa lều, hô to:
- Người đâu, dâng bữa!
Hai nhóm tiểu thái giám đến từ phủ Đại vương nối đuôi nhau tiến vào, những mâm đĩa tinh mỹ óng ánh như ngọc chứa đầy những món ăn tinh xảo lần lượt được mang đặt trên bàn Chính Đức và thủ lĩnh các bộ lạc.
Mặc dù trên núi điều kiện sơ sài, nhưng màu sắc và hương vị các loại món ăn được các vị ngự trù và đầu bếp vương phủ do Dương Lăng đưa tới chuyên tâm chế biến đều rất tuyệt vời, thể hiện rõ khí phách quốc gia, khiến cho thủ lĩnh các bộ lạc nọ khen ngợi không thôi. Bọn họ tròn mắt cầm dao mà thấy lúng túng, dùng tay bốc lấy thì lại ngượng ngùng, chỉ biết thở dài tán thưởng mà thôi.
Cha được phong làm Khả Hãn, thân phận của Ngân Kỳ cô nương đã là công chúa, tuy nhiên lúc này cô nàng vẫn vận nam trang. Trong lều phần lớn đều là những nhân vật hét ra lửa hùng cứ một phương, không ai để ý đến một tiểu thị vệ đứng sau lưng Hoa Đáng như cô nàng.
Thấy Dương Lăng gọi người dâng món, Ngân Kỳ bèn liếc xéo y rồi cũng bước ra ngoài lều, vỗ tay ba cái. Bốn gã Mông Cổ cao to khiêng vào trong lều một chiếc bàn sơn son, trên đặt một con dê béo nướng sẵn quấn bằng lụa đỏ. Bọn chúng quay về phía Chính Đức quỳ một gối xuống đất, đặt nắm tay lên ngực làm lễ rồi mới lặng lẽ lui ra.
Con dê thiến hai tuổi béo ục, da vàng óng ánh, da giòn thịt thơm, được quay nguyên khối nên thịt rất thơm ngon, trong lều tức thì tỏa ra mùi thịt dê nướng thơm lừng. Hoa Đáng đứng dậy đi đến trước chiếc bàn sơn son, rút từ trong thắt lưng ra thanh loan đao nhỏ bằng bạc, thoăn thoắt xẻ phần xương vai, cắm trên đầu mũi dao.
Nữ Chân Tam Bộ thì đề cử thủ lĩnh Chúc Khổng Cách của Hải Tây Nữ Chân tiến lên. Trên chiếc bàn son bày sẵn một cái chén bằng bạc, một cái bình bằng bạc. Chúc Khổng Cách lấy đao cẩn thận rọc bụng dê, đổ nước canh dê thơm phức từ trong bụng ra nửa chén, rồi lại rót thứ nước trong vắt từ trong chiếc bình bạc ra nửa chén, khuấy đều. Sau đó hai người cùng bước đến trước mặt Chính Đức.
Tức thì thị vệ đứng sau lưng Chính Đức đứng bật dậy, tay dằn bội đao. Ngũ Hán Siêu đứng bên cạnh sải tới một bước, ngón tay kẹp chặt hai chiếc phi tiêu kim tiền. Dù biết hai vị thủ lĩnh này không thể hành thích Hoàng đế vào lúc này nhưng bọn họ vẫn không dám lơ là chút nào.
Cũng may Hoa Đáng và Chúc Khổng Cách cũng biết rõ lễ nghi. Hai người bước tới trước mặt Chính Đức cách ba bước thì dừng lại, khuỵu một gối xuống đất. Hoa Đáng mở miệng hát:
- Thiên Khả Hãn tôn quý trên cao, xin hãy cho phép thần dâng trọn con dê béo mềm này. Sống lưng của nó to lớn như vòm trời rộng khoát, bốn chân của nó to béo như đất đai phì nhiêu, cái đầu của nó ngẩng cao như núi cao hùng vĩ, ống xương của nó chắc khoẻ như cây đàn hương trên núi. Thiên Khả Hãn được ban nhiều lộc phước, xin ngài hãy hưởng dụng nó...
Một đại hán to cao vạm vỡ như vậy lại quỳ ở đó hát một cách hết sức nghiêm túc khiến Chính Đức vừa thấy lạ vừa thấy buồn cười. Trương Vĩnh và Miêu Quỳ đứng ở hai bên bước lên định nhận lấy lễ vật do hai vị thủ lĩnh cung phụng. Dựa theo nghi thức thì phải do Chính Đức tự tay nhận lấy nên Hoa Đáng chỉ liếc xéo bọn họ mà không chịu buông tay. Không khí trong lều ngay lập tức hơi căng thẳng.
Chính Đức cười ha hả bảo:
- Các ngươi lui xuống đi! Mời Thuận Minh vương và thủ lĩnh Chúc Khổng Cách tiến lên!
Hai người Trương Vĩnh đành phải lui về. Hai người Hoa Đáng bước đến trước bàn của Chính Đức, khom lưng dâng đặt lễ vật lên bàn. Tuy Hoa Đáng cố tình chĩa mũi cây đao bạc nọ về phía mình, nhưng nếu thuận tay đâm tới, góc độ này có thể vừa vặn đâm ngay vào cổ họng Chính Đức. Thế nhưng Chính Đức mặt không đổi sắc thản nhiên cầm lấy cây đao bạc cắm miếng thịt dê béo nọ từ tay Hoa Đáng rồi đặt xuống bàn, gật đầu mỉm cười với hắn, rồi lại đón lấy chiếc bát bạc từ trong tay Chúc Khổng Cách, đặt sang một bên.
Trong mắt Hoa Đáng thoáng hiện lên vẻ khâm phục, hắn lại quỳ xuống trước bàn Chính Đức, cầm lấy bình ngọc trên bàn, rót đầy một chén, dâng hai tay lên cho Chính Đức. Chính Đức đón lấy rồi uống cạn một hơi. Thân là Thiên Khả Hãn, Chính Đức chịu uống cạn rượu mời của bọn họ không chừa một giọt là biểu hiện rất tôn trọng bọn họ. Hoa Đáng và Chúc Khổng Cách và thậm chí là tất cả thủ lĩnh các bộ lạc thấy vậy đều lộ vẻ mừng rỡ.
Chính Đức cũng tự tay cầm lấy bình rượu, rót một chén cho Hoa Đáng và Chúc Khổng Cách, sau đó lại rót cho mình một chén, đứng dậy cười nói:
- Nào, chúng ta hãy uống cạn chén này!
Hoa Đáng và Chúc Khổng Cách hai tay nâng lấy chén, lui về sau mấy bước, đứng phía trước thủ lĩnh các bộ lạc, dẫn đầu các thủ lĩnh đồng thanh hưởng ứng:
- Tạ ơn Thiên Khả Hãn, mọi người cùng uống nào!
Tất cả mọi người trong lều lớn lần lượt nâng chén uống cạn.
Tiệc rượu mừng lễ kết minh chính thức được bắt đầu. Thủ lĩnh các bộ lạc thay phiên nhau kính rượu Thiên tử và sứ thần Đại Minh. Dương Lăng biết được khi những người Mông Cổ này kính rượu mà mình không uống hết thì rất phi lễ, cho nên trước đó y sớm đã kiếm mấy chén rượu bằng bạc nhìn thì khá bề thế nhưng đáy thì nông tẹt, vậy mà y vẫn bị ép uống đến ngà ngà say.
Dương Lăng đứng dậy mời lại thủ lĩnh các bộ lạc. Đang lúc không khí trong lều hết sức chan hòa, chợt mọi người nghe thấy có tiếng pháo hiệu. Tiếng cười nói trong lều tức thì ngưng bặt. Dương Lăng kinh ngạc, lập tức chạy ào ra ngoài, mấy viên thị vệ vội nhanh chóng che chắn trước mặt Chính Đức.
Dương Lăng vừa chạy vội ra ngoài, thủ lĩnh các bộ lạc cũng căng thẳng lục tục kéo nhau ra xem. Cả bọn thấy từ trên đỉnh ngọn núi đằng xa, khói lửa đang bốc lên dày đặc, binh sĩ dưới núi náo loạn. Phía Đại Đồng có một đội nhân mã đang phóng nhanh tới.
Dương Lăng kinh hãi:
- Đã xảy ra chuyện gì vậy?
Tiếc rằng thời này chưa có điện thoại điện báo, tuy thấy khói hiệu truyền tin nên y biết đã xảy ra biến cố quân sự trọng đại, song bên cạnh lại không ai biết rõ rốt cuộc là đã xảy ra chuyện gì.
Thủ lĩnh bộ lạc Ông Ngưu Đặc là Ô Lạp Nhĩ vừa giận dữ vừa khiếp sợ, trông thấy đằng xa có đại đội nhân mã đang chạy lại, trực giác mách gã rằng Dương Lăng muốn mượn việc kết minh mà bắt sạch bọn họ.
Không chút nghĩ ngợi, Ô Lạp Nhĩ rút nhanh loan đao, phóng người qua gác đao lên cổ Dương Lăng, giận dữ quát:
- Bọn Hán chúng mày gạt tao! Đại thủ lĩnh, hãy mau dẫn người xông xuống núi. Cướp ngựa rời khỏi quan ải!
Ngũ Hán Siêu được Dương Lăng năm lần bảy lượt dặn dò, bảo hắn nhất định phải bảo hộ Hoàng đế được chu toàn, cho nên vừa nãy khi Dương Lăng chạy ra khỏi lều chàng ta hơi do dự một chút, nay chỉ trong nháy mắt Dương Lăng đã bị Ô Lạp Nhĩ chế ngự. Thấy đã có bọn thị vệ bảo vệ Chính Đức, Ngũ Hán Siêu bèn phóng người lại, tay phải cầm kiếm, tay trái kẹp ám khí, định giết chết Ô Lạp Nhĩ cứu đại nhân ra.
Dương Lăng trông thấy thủ lĩnh các bộ lạc Đoá Nhan đều cầm chắc đao trên tay, đang căng thẳng đến cực độ, ngay cả thủ lĩnh của Nữ Chân Tam Bộ và thị vệ của bọn họ cũng đã cầm lấy binh khí, căng thẳng đề phòng động tĩnh từ phía thị vệ quân Minh. Y biết rõ nếu như Ngũ Hán Siêu giết chết Ô Lạp Nhĩ cứu mình về, cuộc chiến toàn diện giữa Đại Minh và Đoá Nhan Tam Vệ nhất định sẽ nổ ra khắp cả trên lẫn dưới núi, khi đó sẽ chẳng còn bất kỳ cơ hội nào để mà giải thích nữa. Thế là không chút nghĩ ngợi gì, y lập tức trừng mắt quát:
- Ngũ Hán Siêu, dừng tay!
Ngũ Hán Siêu thoáng sững lại, thân hình đang chực phóng vọt đột nhiên dừng lại tại chỗ. Lúc này Chính Đức cũng đã bước ra khỏi lều dưới sự bảo vệ của các thị vệ, hắn đẩy thị vệ che chắn trước mặt ra, bước mấy bước về phía trước quát lớn:
- To gan! Trẫm đường đường là thiên tử, là Thiên Khả Hãn của Đại Minh, há sẽ làm chuyện bẩn thỉu lấy kết minh làm mồi, dụ thủ lĩnh các bộ lạc ra để giết hay sao? Thả người của trẫm ra!
Tuy Chính Đức còn nhỏ tuổi, mặc long bào vào người vẫn trông như thằng bé mới lớn, nhưng lúc này lời quát lẫm liệt lại không cần giận dữ mà vẫn oai nghiêm, khiến tên Ô Lạp Nhi thân thể như gấu nọ cảm thấy khiếp sợ, không khỏi đưa mắt nhìn về phía Hoa Đáng dò hỏi.
Đương lúc Hoa Đáng còn do dự không biết có nên tin lời của Chính Đức hay không, Ngân Kỳ đã bước ra phía trước, nói lớn:
- Đừng có hoảng sợ, người Minh không có ác ý với chúng ta đâu.
Nói đoạn xoay người về phía thủ lĩnh các bộ lạc và thị vệ đang cầm đao cầm kiếm, cô nàng giơ cao hai tay, trấn an:
- Người Minh nổi lửa khói báo động tức là thông báo có ngoại địch xâm nhập. Giả như Hoàng đế Đại Minh muốn giết chúng ta, hắn sẽ ‘giương cờ gióng trống’, lặng lẽ điều binh, thừa lúc chúng ta xuống núi mà động thủ, chứ làm gì mà ‘ngưng trống dẹp cờ’, làm chuyện ai ai cũng có thể thấy, ai ai cũng có thể nghe như thế này?
(Cô nương Ngân Kỳ sử dụng nhầm thành ngữ, lẫn lộn “giương cờ giống trống” với “ngưng trống dẹp cờ” - Ba_Van)
Rồi nàng quay lại nói với Ô Lạp Nhĩ:
- Ô Lạp Nhĩ thúc thúc, hãy thả đại thần nhà Minh đó ra đi. Con tin hắn sẽ giải thích rõ cho chúng ta.
Ô Lạp Nhĩ hơi ngần ngừ. Trông thấy mọi người đều đã lặng lẽ buông bỏ đao thương, Hoàng đế Chính Đức cũng vung tay ra lệnh cho thị vệ quân Minh lui ra sau, hắn bèn buông đao xuống, đẩy Dương Lăng về phía trước.
Dương Lăng bước tới trước hai bước, đứng ngay cạnh cô nương Ngân Kỳ mới biết viên thị vệ này là con gái. Y kinh ngạc liếc người con gái thanh tú có đôi mày kiếm dài và đen như mực, mắt vừa to lại đẹp này, sau đó giũ giũ chiếc mãng bào dệt vàng, sửa ngay ngắn chiếc khăn chít đầu bằng lụa đen hơi bị lệch, rồi nhoẻn miệng cười nói:
- Cô nương thuộc thành ngữ thật giỏi!
Ngân Kỳ cô nương hừ một tiếng yêu kiều, hếch chiếc mũi thon lên, có phần đắc ý bảo:
- Vẫn mong đại nhân hãy mau chóng nắm rõ tình hình, cho chúng tôi một câu trả lời thoả đáng.
Dương Lăng khẽ gật đầu, thưa với Chính Đức:
- Hoàng thượng, ngài có nên vào trong lều...
Chính Đức lắc đầu bảo:
- Thủ lĩnh các bộ lạc đều ở ngoài này, trẫm cũng sẽ ở ngoài này. Dương khanh, khanh hãy mau chóng tra rõ tình hình!
Dương Lăng cung kính đáp:
- Dạ!
Rồi y dẫn theo vài thị vệ chạy nhanh về phía sơn khẩu. Đội quân từ phía Đại Đồng đã phi tới dưới chân núi, Dương Lăng chưa nghe thấy có tiếng địa lôi kích nổ, nên nghĩ ắt là quân đội Đại Minh, cho nên hơi yên tâm. Khi đến sơn khẩu, y thấy có khoảng trên vạn nhân mã xông tới dưới chân núi đã hội họp cùng mấy nghìn quân Minh trên núi. Trên ngọn cờ cao chót vót thêu rõ chữ "Hứa".
Dương Lăng rất đỗi kinh ngạc, thầm nghĩ: "Ra là Hứa Thái! Vốn đã thương lượng rằng nếu trên núi có biến thì sẽ nổi lửa hiệu truyền tin triệu hắn tới ngay. Nay trên Trường Thành lửa hiệu nhóm lên khắp nơi, rõ ràng là giặc Thát lại tấn công quan ải, hơn nữa thế công ắt rất khốc liệt. Đại quân của hắn sao không cố thủ Đại Đồng đợi lệnh mà chạy đến nơi đây để làm gì?"
*****
Sau khi đại quân của Chính Đức rời khỏi thành, bảy nghìn kỵ binh của Hứa Thái liền tạm dừng ở phụ cận thành đông, người không rời ngựa, ngựa không rời yên, sẵn sàng nhận lệnh bất cứ lúc nào, Đỗ Nhân Quốc thì toạ trấn phủ Tổng binh. Tuy kế hoạch đã được bàn tính kỹ càng, suy đi nghĩ lại trên núi Bạch Đăng khó lòng xảy ra chuyện gì ngoài ý muốn, nhưng thiên tử ở nơi nào thì nơi ấy là trọng tâm của thiên hạ thế nên Đỗ Nhân Quốc không hề dám lơ là chút nào.
Mấy quan ải gần Cự Lỗ khẩu liên tiếp nổi lửa hiệu, tin tức truyền khắp chín ải, tất cả mọi quan ải lập tức bước vào tình trạng chuẩn bị chiến đấu cấp một (giống như DEFCON1 haha- TheJoker), vệ sở lân cận liền tăng binh. Đỗ Nhân Quốc nhận được bẩm báo liền lập tức chạy lên thành lũy phía tây, phái mấy lộ thám mã chạy về hướng Cự Lỗ khẩu tra xét tình hình.
Thám mã vừa rời thành đã phóng băng băng theo quan lộ. Mới vừa vượt qua một cái đồi nhỏ, chợt hai viên thám mã thấy mặt đất rung chuyển, đập vào tầm mắt là vô vàn quân mạnh tướng dữ người Thát Đát đầy khắp núi đồi, người và ngựa nhập lại thành một trông như sói như cọp, đang lao nhanh về phía thành Đại Đồng.
Thám mã hãi hùng khiếp vía. Hai năm trước Thát Đát cũng đã từng công phá quan ải, thành Đại Đồng thiếu điều thất thủ, thiết kỵ Thát Đạt đánh thẳng đến Cư Dung Quan thì mới bị chận mà phải lui về. Không ngờ hôm nay lại tái diễn chuyện xưa, lang sói thảo nguyên đã xâm nhập Trung Nguyên một lần nữa.
Hai tay thám tử lập tức quay đầu ngựa chạy về, người nép sát trên lưng ngựa mà vút roi vù vù, chiến mã tung vó như bay. Sau lưng bọn họ, tên bay phủ kín mít cả bầu trời, trông hệt như đàn châu chấu đang ùa tới. Cả người lẫn ngựa Hai viên thám tử bị bắn thành bốn con nhím. Vó ngựa ào ào như mưa gió, thiết kỵ của Thát Đát quét qua, đạp mặt đất thành một mảng mơ hồ, không còn thấy chút dấu vết gì của người lẫn ngựa.
Tốp thám mã thứ tư vừa chạy tới con đường giữa khe núi trên bình nguyên, mặc dù từ xa có thể thấy được tình thế không ổn nên kịp thời quay ngựa phi về nhưng mông ngựa và lưng người vẫn dính phải một đám tên. Có điều khoảng cách hơi xa, sức tên đã hết nên bọn họ không bị bắn chết.
Hai tay thám tử phi vào trong thành như một cơn lốc, hét lạc cả giọng:
- Thu cầu treo! Khóa cổng thành lại! Giặc Thát xông vào quan ải rồi!
Đỗ Nhân Quốc đứng trên đầu thành nghe vậy thì cả kinh. Ông ta cũng không rảnh để đi truy cứu xem chỗ quan ải nào đã bị đánh chiếm mà lập tức ra lệnh cho người phi ngựa cấp tốc truyền báo Hứa Thái đang ở thành đông chạy đi cứu viện núi Bạch Đăng gấp, đồng thời cho đóng chặt bốn cổng thành, toàn bộ quan quân trèo lên lỗ châu mai, cùng quân Nghĩa Dũng và Khoái Thủ hỗ trợ thủ thành.
Hồ Toản hay tin cũng tức tốc chạy từ nha môn tuần phủ tới cổng thành. Trông thấy giặc Thát đang phóng băng băng, thế như đập trời vỗ đất thì kinh hồn hãi vía, chỉ mong cho giặc Thát không biết Hoàng đế đang ký kết hiệp ước với Đóa Nhan Tam Vệ trên núi Bạch Đăng. Nếu đại quân địch công thành thì Hoàng đế sẽ có thể kịp nhận được tin tức mà mau chóng lui về một quan ải nào đó.
Nào ngờ đại quân giặc Thát chỉ hò hét mà lại không công thành, đại quân vòng qua tường thành rồi không chút chần chừ mà lao nhanh về phía đông. Đội ngũ giặc hung hãn như hồng thủy mang theo khí thế như muốn chôn vùi hết thảy.
Trông thấy thế, Hổ Toản lạnh ngắt trong lòng, đờ đẫn nhìn theo đoàn thiết kỵ Thát Đạt đang tràn qua như hồng thủy. Lão quay sang nhìn Đỗ Nhân Quốc thì thấy vị tướng quân đội được xưng là chiến thần Đỗ phong tử không sợ chết cũng đã xám nghoét mặt mày.
Lá cờ lớn vẽ hình con sói xanh tung bay phất phới trong gió, như thể đang giễu cợt bọn họ. Khi thấy đại quân sắp biến mất, Hồ Toản mới giật mình tỉnh lại, la to:
- Đỗ tổng binh, mau, mau cứu viện núi Bạch Đăng! Giặc Thát phá được quan ải mau như vậy, đại quân của Dương tổng chế vẫn còn đang tập trung ở Trường Thành, phần lớn lại đều là lính bộ, đợi hắn dẫn quân trở về thì đại sự đã xong rồi!
Đỗ Nhân Quốc cũng như vừa tỉnh cơn mê, giật mình đánh thót. Phần lớn kỵ binh đều đã bị Hứa Thái mang đi, trong thành chỉ còn lính bộ. Đối diện với đội quân Thát Đát thanh thế cuồn cuộn như thế, nếu dựa vào thành mà thủ thì có lẽ còn giữ được Đại Đồng. Đại quân mà rời khỏi thành, e rằng không chỉ toàn quân bị diệt sạch, mà nếu như giặc Thát lợi dụng đặc điểm mau lẹ và cơ động của kỵ binh mà cho khoái mã quay lại phản công thì ngay cả Đại Đồng cũng sẽ bị mất. Song chỉ cần có thể kéo dài thời gian thêm một chút, để Hoàng đế bình an lui về quan nội, thì tổn thất có lớn cỡ nào cũng đáng.
Đỗ Nhân Quốc chụp lấy đại đao của mình, đang định tập trung quân thủ thành trong thành xuất phát về phía núi Bạch Đăng, thì từ đằng xa một lá cờ thêu hình chim ưng đỏ rực đã lừng lững tiến tới. Đại quân của Hỏa Sư kéo đến rồi!
***
Nghe Hứa Thái hớt ha hớt hả kể xong, Dương Lăng không khỏi sởn gai ốc. Có nghĩ đến vỡ đầu y cũng không tài nào hiểu nổi làm thế nào mà suốt hai tháng trời giặc Thát đại chiến ngoài thành vẫn không phá được Trường Thành, giờ lại nhanh như vậy, khéo như vậy, mà nhằm đúng ngay lúc bọn chúng thế cùng lực tận như vậy mà vẫn có thể trong nháy mắt phá được một quan ải để xông vào.
Giặc ngoài dễ tránh, trộm nhà khó phòng. Dương Nhất Thanh đến Đại Đồng mới được hai tháng, vừa mới đến liền phải tập trung hoàn toàn tinh thần vào trận đại chiến với giặc Thát, vốn không có thời gian chỉnh đốn quân đội.
Mấy ngày trước, đột nhiên xảy ra chuyện Vương Long, Vương Hổ tư thông Thát Đát, mà thực tế là gian tế do Di Lặc giáo dùng vàng to bạc lớn thu xếp trà trộn vào quân Minh, toàn bộ quan viên có quan hệ mật thiết đến họ Vương đều bị thuyên chuyển khỏi chức vụ cũ. Thế nhưng đại quân Thát Đát đang giương cặp mắt hổ nhìn chằm chằm ngoài quan ải, lúc này không thể gây nên ảnh hưởng quá rộng mà thanh trừng khắp nơi, để tránh làm tổn hại tới căn cơ của biên quân. Cho nên không chỉ Dương Lăng không có manh mối gì, mà ngay cả Dương Nhất Thanh ngay vào lúc này cũng chưa nhận được tin tức Lý Nghĩa phản bội mở cửa thành Cự Lỗ Khẩu dẫn giặc Thát vào quan ải.
Đằng xa người ngựa tung bụi mịt mù, bóng giặc vừa hiện, Dương Lăng liền quyết đoán, lập tức hạ lệnh:
- Hứa Thái, Liễu Bưu, lập tức điều đại quân bảo vệ núi, cố thủ, chờ viện binh.
"Cố thủ", chỉ hai chữ, song lại hàm chứa trong đó biết bao sự chém giết đẫm máu. Ngửi thấy được mùi máu tanh trong đó, Hứa Thái và Liễu Bưu bèn nghiêm nghị nghe lệnh. Nghe xong Liễu Bưu liền hỏi:
- Đại nhân, vậy chúng ta làm gì với năm nghìn thiết kỵ của Đóa Nhan Tam Vệ?
Dương Lăng nhìn xuống dưới núi, nơi đại quân Đóa Nhan Tam Vệ tập kết. Trên và dưới núi có tổng cộng hơn một vạn hai nghìn quân Minh, cộng thêm đội quân Đóa Nhan Tam Vệ tràn trề sinh lực thành gần hai vạn nhân mã, như thế ít nhất có thể thủ ngọn núi này được một ngày. Giặc Thát tuy kiêu dũng, song không có quân số gấp mấy lần thì làm sao có thể đánh tràn lên núi được?
Dương Lăng thầm tính toán: "Toàn bộ binh lực của Bá Nhan Khả Hãn có khoảng hơn bảy vạn. Trải qua gần hai tháng chiến trận tiêu hao cũng bộn, kẻ còn năng lực chiến đấu chưa tới sáu vạn. Bá Nhan có không tiếc hết thảy mà dốc toàn bộ binh lực đánh lên núi không? Cho dù sáu vạn đại quân cùng tấn công lên núi Bạch Đăng, bọn ta cũng có thể thủ được một lúc. Chỉ cần giữ vững không đổ, Dương Nhất Thanh và Đỗ Nhân Quốc sẽ kịp kéo quân đến cứu viện.
Có điều... hiệp ước đồng minh mới vừa được ký kết, Đóa Nhan Tam Vệ vẫn chưa mò vớt được lợi ích gì, cái tên chuyên trờ cờ theo gió Hoa Đáng có sẽ chịu dốc toàn lực đối địch với Bá Nhan không? Có sẽ gặp tình thế không ổn liền lâm trận trở giáo không? Không được! Trước khi thắng bại chưa phân, quyết không thể dùng người của Đoá Nhan Tam Vệ!”
Nghĩ đến đây, Dương Lăng bèn bảo:
- Trước mắt, chỉ cần giữ được ngọn núi này là chúng ta sẽ thắng, không cần cùng Bá Nhan so đo thiệt hơn nhất thời. Hãy cho điều đại quân lên núi, chia đóng ở khắp nơi để ngăn địch, dưới núi chỉ để lại ba nghìn binh mã và mọi súng pháo để kiềm chế nhuệ khí quân giặc, coi thế giặc mạnh yếu mà rút lên núi khi có thể. Còn về phần Đoá Nhan Tam Vệ... bản quan sẽ bảo Hoa Đáng điều bọn họ lên núi. Liễu Bưu, người của ngươi đứng chắn ở giữa, không thể để bọn chúng đến gần lều lớn.
Nhận lệnh xong hai người xuống núi, Dương Lăng trèo lên một tảng đá to, nhìn về nơi xa. Đội kỵ binh đen kịt không ngừng hiện ra ở phía chân trời, ùn ùn kéo tới như thủy triều, khí thế lẫm liệt ngất trời. Dương Lăng chỉ cảm thấy trong miệng đắng nghét...
Đứng trong ngôi đình nhỏ vừa được xây trên đỉnh Bạch Đăng, Chính Đức và đám người Hoa Đáng phóng mắt nhìn ra xa cũng đã phát hiện đại quân bất tận đang dần kéo đến, nhất thời lại không rõ đã xảy ra chuyện gì. Mặc dù không hiện lên trên mặt song ai nấy đều đã nổi trống trong lòng.
Đúng vào lúc này, thấy Dương Lăng dẫn sáu tay thân binh khoan thai trở về từ sơn khẩu, Chính Đức lập tức tranh hỏi trước:
- Dương khanh, đã xảy ra chuyện gì vậy?
Bọn người Hoa Đáng cũng dỏng tai lên nghe câu trả lời của y. Dương Lăng điềm tĩnh mỉm cười đáp:
- Hoàng thượng trù tính thật không sai! Quả nhiên Bá Nhan trúng kế, đã dẫn đại quân đến tấn công núi Bạch Đăng!
Thoạt tiên Chính Đức thấy lạ, nhưng hắn cùng Dương Lăng vốn là đôi bạn học sinh xấu từng cùng nhau lừa gạt Thái phó ngày xưa, có thể nói là ăn ý vô cùng, nên chỉ hơi thoáng kinh ngạc liền vỗ tay cười bảo:
- Hay lắm! Đến thật hay!
Bọn Hoa Đáng nghe nói Bá Nhan dẫn đại quân đến tấn công thì sợ đến nhảy dựng. Khoảng một vạn người ở đây có thể là đối thủ của Bá Nhan sao? Nhưng nghe hai người một vua một tôi này trò chuyện, mặt đầy vẻ mừng rỡ như cố ý dụ hắn đến vậy. Hoa Đáng bèn nén lo lắng trong lòng, nghi hoặc hỏi:
- Thiên Khả Hãn, đằng xa kia... là quân đội của Bá Nhan ư? Bọn chúng... sao bọn chúng đã vào được quan ải rồi?
Chính Đức thoáng ngừng lại, cười khan mấy tiếng, rồi cố làm ra vẻ thần bí bảo:
- Dương khanh, khanh hãy nói cho Thuận Minh vương hay đi.
- Thần tuân chỉ! - Dương Lăng vái một vái rồi đứng thẳng người lại, mỉm cười nói với Hoa Đáng - Khả Hãn Thuận Minh, ngài nghìn dặm xa xôi đến gặp Hoàng thượng, Hoàng thượng liền muốn tặng một lễ vật lớn đến cho ngài. Tuy nhiên vốn chúng ta không biết Bá Nhan có mắc lừa hay không cho nên khi nãy đã không báo trước cho ngài hay.
Rồi y nâng vạt mãng bào bước lên bậc thềm, đứng trong đình đưa mắt nhìn về phía đoàn người ngựa đang cuồn cuộn kéo đến mỗi lúc một gần. Y chỉa tay trỏ vào chúng thản nhiên cười nói tiếp:
- Ngài xem! Bá Nhan xâm phạm biên cương Đại Minh ta, tuy bị hao binh tổn tướng khá nhiều nhưng vẫn chưa bị thương tổn đến gốc rễ. Hắn vẫn còn binh cường mã tráng, thêm sức hiệu triệu từ xuất thân hoàng tộc không ai sánh bằng, một khi hắn trở về được thảo nguyên thì cho dù có nội loạn đi chăng nữa, cũng vẫn sẽ không dễ đối phó. Tuy nhiên, nếu khiến cho mười phần nhân mã của hắn hao tổn hết sáu bảy phần, thì Khả Hãn Thuận Minh vừa được khâm phong sẽ có thể đứng vững. Vì vậy...
Dương Lăng xoay người lại, rất tự nhiên chìa tay mời mọi người vào lều, đoạn dẫn Chính Đức và các vị thủ lĩnh vừa nghe y nói vừa theo y rời khỏi đình bước vào trong lều.
Dương Lăng đi đầu, nhân cơ hội nghiêm mắt ra hiệu cho Ngũ Hán Siêu. Ngũ Hán Siêu hiểu ý, bắt đầu lặng lẽ bố trí đám đại nội thị vệ khống chế cả căn lều.
Đợi mọi người ngồi vào chỗ, Dương Lăng bước ra sau bàn thoải mái nói tiếp:
- Vì vậy, Hoàng thượng cố ý tung tin tức về việc ký kết hiệp ước đồng minh khắp phố thị Đại Đồng, để gian tế Thát Đát truyền ra ngoài quan ải. Quả nhiên Bá Nhan không cưỡng được cám dỗ nên dốc hết binh lực mưu đồ tấn công núi Bạch Đăng, hòng hốt trọn Hoàng thượng và các vị thủ lĩnh một mẻ.
Ha ha, Khả Hãn dâng biếu đức vua trọn con dê nướng tươi ngon, đây hẳn là lễ tiết cao quý nhất của các vị đúng không? Hôm nay đức vua vạn tuế của chúng tôi sẽ thưởng lại cả một con sói nướng, mong Khả hãn Thuận Minh và các vị thủ lĩnh vui lòng nhận cho!
Trong lều liền ồn ào một hồi. Dương Lăng ngồi xuống nghiêm chỉnh, bình tĩnh như không, phất tay áo cả cười:
- Bá Nhan được xưng là kẻ dũng mãnh của thảo nguyên, nay xem ra cũng chỉ là phường thất phu sính dũng, có gì mà đáng nói chứ? Chúng ta chỉ cần cười nói chuyện trò liền khiến hắn tan thành mây khói!
"Ầm... ầm ầm..." mấy quả địa lôi bị giẫm phải phát nổ rất đúng lúc. Tiếng nổ đinh tai, cùng tiếng người la ngựa hí như chứng minh lời nói của Dương Lăng.
Trong mắt Ngân Kỳ lóe lên vẻ kỳ dị. Đây là lần đầu tiên nàng có dịp nhìn thẳng vào anh chàng người Hán hào hoa phong nhã không thèm đặt cả đệ nhất anh hùng thảo nguyên vào mắt này.
Ánh mắt Hoa Đáng lập loè, giọng bán tín bán nghi:
- Nói như vậy, Thiên Khả Hãn đã sớm bày bố trọng binh, đặt bẫy nhằm dụ Bá Nhan vào tròng rồi?
Chính Đức nổi doá trong bụng: "Bá Nhan đã vào quan ải rồi sao? Dương Nhất Thanh đánh trận kiểu gì vậy? Trở về trẫm sẽ tìm hắn tính sổ tiếp! Có điều... may mà Dương thị độc giữ được bình tĩnh, giữ mặt mũi cho trẫm. Nếu mà y hoang mang lúng túng, bối rối chạy vào bẩm báo, chẳng những trẫm sẽ mất sạch mặt mũi oai phong, mà ngay cả lão cáo già Hoa Đáng này nữa; nếu lão không trở giáo ngay lập tức thì cũng sẽ sợ đến mất mật, không bao giờ còn dám thiết lập đồng minh với một láng giềng yếu đuối như trẫm nữa.”
Tiếng nổ do người ngựa đạp phải địa lôi không ngừng vọng lại, Hoàng đế Chính Đức cũng nhoẻn miệng tươi cười, ra vẻ đắc ý nói:
- Dĩ nhiên rồi!
Ánh mắt hắn chạm ánh mắt Dương Lăng, cả hai đều đọc và hiểu được ý tứ của nhau: "Trận đánh này đã đổ xuống đầu rồi, vậy thì bắt buộc phải đánh thôi, mà còn phải đánh cho thắng trận. Bằng không, chẳng những về sau đừng mong nói đến việc thiết lập đồng minh diệt trừ mối họa Bá Nhan, mà ngay trước mắt cái mạng của mình cũng sẽ khó giữ.”
Vẫn còn do dự lẫn nghi ngờ, Hoa Đáng bèn dò hỏi thử:
- Vậy... Binh mã tiểu vương mang theo tuy không nhiều, nhưng vẫn có thể tham gia chiến đấu. Hoàng thượng có cần tiểu vương dốc chút sức để chống đỡ không?
Dương Lăng đã thu hết vẻ mặt của hắn vào trong mắt, thừa cơ hội này y đứng dậy bảo:
- Chúng ta đã là đồng minh, cùng dùng binh chung sẽ là chuyện sớm hay muộn thôi. Hôm nay kề vai tác chiến đúng là có thể bày tỏ thành tâm liên kết đồng minh của đôi bên. Tuy nhiên đại quân của Khả Hãn còn phải bảo hộ ngài trở về Đoá Nhan Tam Vệ nên không thể để hao tổn quá nhiều, xin Khả Hãn hãy sai người thông tri thuộc hạ tạm thời lên núi. Đợi đến khi quân Đại Minh của ta đã bao vây, chuẩn bị tiêu diệt kẻ địch mới hãy cho thấy oai phong của Đoá Nhan Tam Vệ!
Nói đoạn y bước tới trước bàn rồng của Chính Đức, giở thảm lên, kéo một cái móc sắt mở tấm cửa sắt lớn ra, lộ một cái hang bí mật. Trong hang đuốc tỏ sáng trưng, hiển nhiên là được thông gió từ một mặt khác.
Dương Lăng quay lại bảo:
- Trên chiến trường, tên lạc bay khắp bốn phía. Nhằm phòng ngừa bất trắc, xin mời Hoàng thượng và thủ lĩnh các bộ lạc vào trong lánh tạm.
Y nghĩ rằng khống chế được thủ lĩnh các bộ lạc vào trong tay thì mới có thể đảm bảo bất luận xảy ra nguy cấp như thế nào đi nữa, Đoá Nhan Tam Vệ cũng vẫn không dám trở mặt. Nếu thật sự đã đến lúc lửa xém chân mày thì y cũng sẽ không cần để ý đến thể diện cái con mẹ gì nữa hết, có phải kề đao lên cổ Hoa Đáng đi nữa cũng sẽ bắt Đoá Nhan Tam Vệ mang binh tham chiến.
Khi thấy Dương Lăng nói không cần binh sĩ của mình tham chiến thì Hoa Đáng đã tin được tám phần, lại thấy nơi này còn xây sẵn hang động đề phòng bất trắc thì tin hết mười phần. Lúc này không theo Thiên Khả Hãn đánh chó đang rớt xuống nước(*)... không, nướng cả con sói, thì còn lúc nào tốt hơn để mà biểu lộ lòng thành đây? Xem ra lần này sẽ không đứng nhầm phe rồi. Thật là may quá! Thật là may quá!
(*: ý là hùa vào đánh hôi kẻ đang yếu thế)
Hoa Đáng lập tức đứng dậy, khẳng khái lựa lời chối từ:
- Thiên Khả Hãn! Tiểu vương may được Thiên Khả Hãn ban tước vẫn chưa lập được tấc công lao nào. Đôi bên đã kết làm đồng minh thì phải nên cùng chung kẻ thù, cùng nhau sống chết!
Tuy rằng Thiên Khả Hãn dụng binh như thần, sớm đã chuẩn bị sẵn, không để mắt tới năm nghìn binh mã của Tiểu vương, nhưng Tiểu vương há có thể không tận chức trách của bầy tôi? Xin Thiên Khả Hãn ân chuẩn cho đại tướng Mã Cáp Lư dưới trướng Tiểu vương dẫn quân hiệp lực tác chiến. Tiểu vương và thủ lĩnh các bộ lạc sẽ ở đây bầu bạn cùng Thiên Khả Hãn, chậm rãi chờ đợi thần binh thiên triều diệt sạch kỵ binh cọp sói của Bá Nhan!
Chính Đức che miệng ho khan một tiếng, rồi hơi nhíu mày, ra vẻ "bất đắc dĩ":
- Nếu đã như vậy... Dương khanh, vậy cứ theo ý tốt của Thuận Minh vương! Năm nghìn binh mã này, khanh sẽ chỉ huy luôn vậy!
Nói xong hắn bèn quay sang Hoa Đáng, cười nói:
- Năm xưa Đoá Nhan Tam Vệ phò vua dẹp loạn, lập được công trạng lẫy lừng. Hôm nay vua tôi chúng ta một lần nữa lại tay nắm tay, cũng có thể xem là một giai thoại đó. Ha! Ha! Ha!...
Nhận được sự động viên to lớn, Hoa Đáng bèn đứng dậy quát:
- Mã Cáp Lư!
Từ trong đám tướng lĩnh thị vệ đứng trước lều, một tay tráng niên mắt cọp râu rồng dạ một tiếng rồi bước ra, quỳ một gối thưa:
- Xin đại thủ lĩnh dặn bảo!
Hoa Đáng lớn giọng ra lệnh:
- Lập tức điều động binh mã! Mọi hành động tiến lui, tác chiến giết giặc đều nghe theo lệnh dụ của Dương Lăng Dương đại nhân!
Bá Nhan đứng sừng sững trước lều lớn của Khả Hãn, trợn trừng cặp mắt đỏ lừ màu máu như một con thú dữ. Mấy trăm thớt chiến mã bị giết trải đầy trên cánh đồng tuyết, máu tươi xổ ra ồng ộc, nhuộm đỏ cả mặt đất.
Của cải cướp bọc được trong lần xuất binh này đã hao tổn không còn gì, vốn nên sớm kịp thời rút lui nhưng vì đợi Hoàng đế nhà Minh rời thành để đánh một đòn chí mạng mà mấy vạn đại quân Thát Đát vẫn trù trừ không đi. Nay quân nhu lương thực đã dùng hết sạch, sĩ tốt chỉ có thể dựa vào cây cỏ đào bới trên đồng tuyết cùng chuột, sói, thỏ hoang mà duy trì sự sống.
Mấy vạn đại quân xới tung núi đồi sơn dã lùng bắt hết những chú chuột đồng vừa to vừa béo, lấy dao lóc thịt, lấy nước rửa sạch, triển khai cuộc vận động "toàn dân diệt chuột gây hại" hết sức oanh liệt. Chuột đồng thảo nguyên đào hang sống thành đàn, sau mùa đông một con chuột cỡ lớn phải tích trữ đến mấy chục cân cỏ khô. Những nơi bị nạn chuột phá hoại, đất đai bị chúng cày bới khắp nơi để đào hang nên đất màu bị trôi xói nghiêm trọng. Có nơi thậm chí còn hình thành cái gọi là "đất hoang của chuột": không còn một cành cây, một ngọn cỏ. Xem tình hình hiện nay, nạn chuột gây hại sẽ vì thế mà bị quét sạch, sang xuân mảnh thảo nguyên ngoài thành Đại Đồng này nhất định sẽ xanh mởn cỏ cây...
Nay binh sĩ đều áo quần rách rưới, ăn không đủ no. Nếu như tù trưởng các bộ lạc không biết cách một dãy Trường Thành là Hoàng đế Đại Minh mà nghiêm khắc quản thúc bộ hạ của mình thì chỉ e sớm đã có người nổi loạn.
Tái Lý Mộc Trác Nhĩ, mày đen như núi xa, mắt trong như thu thủy, khẽ khàng đi đến trước mặt Bá Nhan, lo lắng gọi:
- Đại hãn...
Hơi thở nặng nề lập tức ổn định lại, Bá Nhan nhìn cô nàng mỉm cười, cặp mắt khôi phục lại vẻ bình tĩnh và sắc sảo thông minh khi trước. Hắn hiên ngang cả tiếng nói với các thủ lĩnh và bọn sĩ tốt trước mặt:
- Chúng ta ở ngoài thành Đại Đồng khổ chiến gần sáu mươi ngày, quân mệt ngựa mỏi, lương thảo thiếu hụt. Thế thì tại sao không trở về thảo nguyên của chúng ta?
Ánh mắt sắc bén quét khắp một lượt, rồi hắn chỉ tay về phía Đại Đồng, cười to nói tiếp:
- Bởi vì Hoàng đế của Đại Minh đang ở ngay sau ngọn núi này. Trường thành trên núi này là bức tường vững chắc che chở cho người Hán, mà Hoàng đế Đại Minh lại là một bức Trường Thành trong lòng người Hán. Hoàng đế mà chết, thiên hạ tất đại loạn.
Nay cơ hội đã đến! Nội ứng của chúng ta sẽ mở cổng Cự Lỗ khẩu, ta sẽ đích thân dẫn binh mã đại quân không ngừng nghỉ mà tập kích núi Bạch Đăng, còn tướng quân Hỏa Sư anh hùng thì tấn công Đại Đồng. Thành lũy Đại Đồng không gì phá nổi cũng có người của chúng ta, bọn họ sẽ mở cổng thành tây nghênh tiếp đại quân chúng ta tiến vào. Rượu mạnh ngon nhất, đàn bà da thịt mịn màng xinh đẹp nhất, tất cả đều sẽ ở đó đón chờ chúng ta hưởng thụ!
Hỡi các chiến sĩ thảo nguyên! Chiếm được toà thành lớn này rồi, nam đánh Thái Nguyên, bắc dẹp Tuyên Hoá, một nửa giang sơn sẽ nằm trong tầm tay chúng ta. Đại Đô sẽ lại trở về trong vòng tay của chúng ta; Trung Nguyên sẽ lại hoá thành bãi cỏ của chúng ta. Hãy tiến lên! Mỗi một thằng đàn ông người Hán đều sẽ trở thành nô lệ gác bên lều ngủ của các ngươi. Mỗi một con đàn bà người Hán sẽ cung kính hiến dâng cái đêm đầu tiên của mình cho các ngươi. Tất cả tài sản và đàn bà của người Hán đều sẽ mặc cho các người sử dụng!
Được Bá Nhan kích động, những tiếng hú gào như sói tru nối nhau hết đợt này đến đợt khác, dục vọng chinh phục và cướp đoạt lại một lần nữa nổi lên trong lòng mỗi một chiến sĩ Thát Đát. Hài lòng nhìn những chiến sĩ đã lấy lại sát khí đằng đằng, ý chí chiến đấu sôi sục, Bá Nhan vung tay quát lớn:
- Uống nước tuyết, ăn thịt ngựa, tất cả các chiến sĩ hãy ăn no một bữa! Lúc mặt trời lên đến đỉnh, chúng ta sẽ đánh vào quan ải!
Đám chiến sĩ khát máu đã phấn chấn hùng tâm, cả cánh đồng tuyết vì một trận chiến cuối cùng này mà đã sôi trào, từng miếng thịt ngựa to đùng vẫn còn hồng hồng đã liền bị bọn binh sĩ vớt ra khỏi nồi mà nhai nuốt như cọp đói. Tù trưởng các bộ lạc khua chiêng gióng trống chuẩn bị chiến tranh. Lều bạt và một ít xe ngựa thì giao cho đám lính già yếu bệnh tật trông coi, chỉ tập trung khinh kỵ và khoái mã chuẩn bị tập kích quan ải.
Ý chí chiến đấu tràn ngập doanh trại. Ngay cả những tên Thát Đát bị thương, bị bệnh, già yếu tàn tật cũng đều đến trước mặt thủ lĩnh của mình cố gắng tranh giành cơ hội xông lên quan ải, chém giết, cướp bóc, chiếm đoạt đàn bà. Không cần phải động viên gì thêm, mỗi một tên đều biết giang sơn người Hán giàu có và sung túc như thế nào, đàn bà con gái người Hán xinh đẹp ra làm sao. Sự tham lam đã khiến cho những binh sĩ yếu đuối nhất cũng hoá thành những con mãnh hổ.
Một người ăn mặc theo lối người Mông Cổ được dẫn nhanh vào lều Khả Hãn của Bá Nhan. Nghe gã nọ báo tin tức từ quan ải do Di Lặc giáo đưa tới xong thì Bá Nhan không khỏi biến sắc. Hắn trầm ngâm một lúc lâu rồi mới nhoẻn miệng cười, bảo với kẻ đưa tin:
- Tốt lắm, ta biết rồi. Ngươi hãy trở về sơn khẩu tiếp tục chờ tin tức kế tiếp.
Kẻ nọ đưa tay lên ngực làm lễ:
- Tuân lệnh! Bây giờ tôi sẽ trở về Cự Lỗ khẩu ngay.
Song gã ta vừa mới quay lưng, Bá Nhan liền rút nhanh thanh loan đao bóng loáng như tuyết đâm vào giữa sống lưng hắn. Kẻ nọ kinh ngạc quay đầu, sợ hãi nhìn chằm chằm vào Bá Nhan.
Bá Nhan mỉm cười ác độc. Đao rời thân, máu phun ra, kẻ nọ ngã sấp xuống mặt đất. Trác Nhĩ kinh hãi bụm miệng, đến khi kẻ nọ tắt thở, cô nàng mới hoảng sợ hỏi:
- Đại Hãn, sao ngài lại giết hắn?
Sắc mặt Bá Nhan xám xịt. Thấy trong lều không có người ngoài, hắn mới trầm giọng đáp:
- Mới vừa nhận được tin nội ứng tại thành tây Đại Đồng của Di Lặc giáo đã bị khâm sai nhà Minh chém chết rồi. Vốn định tiến thẳng đoạt lấy Đại Đồng, bắc ngăn quân Minh về ải tiếp viện, nam chặn đường lui của Chính Đức, sau đó...
Trác Nhĩ lo lắng hỏi:
- Vậy giờ phải làm sao?
Bá Nhan lắc đầu bảo:
- Không còn đường lui nữa rồi. Không thể để lộ tin này được. Tên thám tử này là người của Thổ Mặc Đặc thuộc bộ lạc Quách Lặc Tân, là người trong tộc của Hỏa Sư. Không thể để bộ lạc của Hỏa Sư biết ta đã nhận được tin tức này. - Đoạn hắn liếc cái xác nằm trên mặt đất rồi thờ ơ nói tiếp, - Để Hỏa Sư tiếp tục đi gặp cục xương cứng đó đi, chúng ta giết Hoàng đế trước, sau đó lại quay về cùng chiếm lấy Đại Đồng!
*****
Cự Lỗ khẩu chỉ là một thành lũy bằng đất. Do nó bị kẹp giữa hai quả núi, địa thế hiểm trở, trước mặt là một lòng chảo chật hẹp, Thát Đạt lại không có vũ khí công thành quá lợi hại nên không thể đánh chiếm thành nhanh chóng. Vì vậy, một khi phát hiện bị địch tiến công thì nơi đây bèn nổi lửa khói phong hỏa đài, các quan ải chung quanh liền có thể mau chóng thông qua Trường Thành mà điều quân đến tiếp viện, cho nên bình thường nơi đây chỉ có binh lực của hai bách hộ trú đóng, do một vị Phó thiên tổng cai quản, kiêm quản một Bách hộ sở (gồm 112 người - xem chú thích chương 43).
Sau khi đại quân của Bá Nhan Khả Hãn tiến vào trong ranh giới Sơn Tây, nơi này được điều động thêm một trăm tăng binh (quân đội hoà thượng - ND) từ Ngũ Đài Sơn. Thời đó nghĩa dũng và tăng binh thường được điều động tham gia chiến đấu mỗi khi có chiến sự, sau chiến tranh lại trở về địa phương cũ.
Vị Phó thiên tổng này tuổi hơn hai mươi, họ Lý tên Nghĩa, mới vừa nhậm chức được hơn một năm. Người này anh tuấn bất phàm nhưng võ nghệ rất cao siêu, tính tình lại điềm đạm. Hắn không hề truy cứu chuyện sĩ tốt thỉnh thoảng lén mua bán nồi sắt, lọ sành với dân du mục Thát Đát, cho nên rất được bọn tướng sĩ ủng hộ và yêu mến.
Hôm nay, bình minh vừa ló dạng hắn đã bồn chồn leo lên trạm quan sát liên tục ngóng nhìn về phía khe núi ngoài quan ải. Sĩ tốt gác trạm trông thấy Phó thiên tổng đại nhân mặt mày căng thẳng liền cười nói:
- Đại nhân, tuy Dương tổng chế đã hạ lệnh trong những ngày này toàn bộ quan ải, vệ sở, phong hỏa đài phải cảnh giới toàn diện, nhưng nghe nói rằng đại quân Bá Nhan thiếu thốn lương thảo, không phải đã chuẩn bị trở về đại mạc rồi sao? Đại nhân hà tất phải lo lắng như vậy! Hơn nữa từ lúc nổ ra chiến sự đến nay, quan ải này của chúng ta vẫn chỉ bị vài tốp giặc Thát tới quấy phá, lúc này càng sẽ không có đại quân đến tập kích đâu.
Lý Nghĩa cười lớn bảo:
- Nói đúng lắm! Có điều quân lệnh của Tổng chế đại nhân nghiêm minh, cái gì nên kiểm tra thì vẫn phải kiểm tra thôi.
Đoạn hắn đảo tròng mắt, nhìn ngó chung quanh, sau đó thân thiết vỗ vai sĩ tốt nọ, nhỏ giọng nói tiếp:
- Biết cuộc sống nhà ngươi hơi vất vả, bản quan sẽ không để ý đến việc ngươi mua bán vài cái nồi niêu chậu chảo đâu. Có điều mấy ngày nay bên trên tra xét ngặt nghèo, đừng để xảy ra chuyện gì đó nhé.
Tiểu binh nọ cảm kích thưa:
- Đa tạ đại nhân! Tiểu nhân biết chừng ạ! Sẽ không mang phiền phức đến cho ngài đâu. Hề hề, đợi mấy ngày nữa đại quân Bá Nhan rút đi rồi hẵng tiếp vậy.
Lý Nghĩa gật gù, cười nói:
- Đứng suốt buổi sáng, các ngươi cũng đã mệt rồi, lui xuống nghỉ ngơi cả đi. Ta sẽ điều đám tăng binh nọ lên thủ thành. Chúng ta lăn lộn mưa gió quanh năm suốt tháng, bọn chúng tên nào tên nấy được nuôi dưỡng kỹ trong chùa thành ra tai to mặt lớn, phương phi tốt tướng; đến lúc bọn chúng phải bỏ ra chút sức rồi.
Binh lính thủ thành cả mừng, mấy người bọn họ liền khúm núm lấy lòng:
- Đa tạ đại nhân quan tâm! Để tiểu nhân đi gọi bọn chúng lên đây.
Chỉ một chốc sau, bốn mươi gã tăng binh đã trèo lên lầu thành, mấy chục quan binh thủ thành cùng chen nhau đi xuống. Lý Nghĩa trông thấy vị tăng quan (chỉ huy tăng binh - ND) tuổi gần ngũ tuần bước đi có phần chậm chạp, ánh mắt không khỏi ngưng tụ. Đợi lão đến gần, hắn mới nhỏ giọng hỏi:
- Sao vậy, vết thương vẫn chưa lành à?
Tăng quan nọ múa cây thuyền trượng "lẻng xẻng" vài đường, rồi cười đáp:
- Nhị thiếu chủ, thủ hạ đã khỏi nhiều rồi. Lần này không dám động tay động chân nhiều cho nên thân thể được tịnh dưỡng đến mức béo núc. Khà! Phải nói cái con lừa trọc trên Ngũ Đài Sơn đó thật là lợi hại, cái xẻng nọ suýt nữa đã xén đùi thủ hạ làm đôi rồi. Khôi phục được đến như thế này đã là may mắn lắm rồi.
Đoạn hắn nhìn ra ngoài quan ải nói tiếp:
- Vừa nãy thiếu chủ sai người của Phương bách hộ đi chuyển cây lăn và dầu tung. Cớ này có phần khiên cưỡng, tại hạ trông thấy Phương bách hộ có vẻ ấm ức lắm, chốc nữa không chừng hắn sẽ bẩm báo với cấp trên là Tề tham tướng đây. Thiếu chủ nên cẩn thận một chút.
Lý Nghĩa cười nhạt, vỗ vỗ lên lỗ châu mai đáp:
- Cha đã bí mật đưa ta vào trong quân đội, vốn là muốn nắm vững binh quyền trước rồi mới từ từ mà tính kế. Nay Hoàng đế đến Đại Đồng là cơ hội nghìn năm khó gặp, chức quan này ta cũng không thể tiếp tục làm nữa rồi. Chốc nửa cửa ải mở ra, Lý tham tướng này cũng sẽ biến mất khỏi thế gian, mặc hắn có thích thì cứ đi mà hặc tội. Không giữ hắn lại đây chờ chết là đã tận tình tận nghĩa với hắn lắm rồi. Ha ha ha!!!
Vừa dứt tiếng cười, hắn lại hỏi:
- Dưới thành đã chuẩn bị xong hết chưa?
Gã tăng quan đầu tròn tai béo, mặt mũi hồng hào gật đầu đáp:
- Thiếu chủ yên tâm, chúng tôi là tăng nhân, không ngồi chung mâm cùng quan binh. Vừa nãy đã sai người bỏ thuốc vào trong đồ ăn của chúng rồi, chốc nữa sẽ có thể giết chúng như giết heo thôi...
Hắn vừa nói đến đây, dưới lầu thành đã vọng lại tiếng rú thảm thiết. Hai người không khỏi đưa mắt nhìn nhau cả cười.
Từ xa, tên rít xuyên mây, âm thanh chói tai từ trong hẻm núi rì rầm vọng lại; tên bay xé gió, vó ngựa như sấm. Một đội kỵ mã đông nghìn nghịt như kiến ùn ùn kéo tới, trông như một tấm thảm đen kịt được trải dài, trong chớp mắt đã bao phủ khắp mặt đất.
Chỉ trong khoảng một nén nhang, ngoài quan ải đã đầy đặc người la ngựa hí, phủ kín cả mặt đất...
*****
Đến dưới chân núi, Dương Lăng mới biết rằng vị sứ giả Nặc Mộc Đồ nọ chính là Hoa Đáng. Người Hán có thói quen hai quân giao chiến không chém sứ giả. Ngoại tộc biết rõ điểm này nên từ xưa thường có Khả Hãn đích thân cải trang làm sứ thần đến viếng đất Hán, tận mắt ngắm nhìn giang sơn người Hán. Sự tình trọng đại như vậy khó trách Hoa Đáng muốn tự thân xuất mã đàm phán cùng triều đình nhà Minh.
Lúc này, trong căn lều lớn trên đỉnh núi Bạch Đăng, khách và chủ đều đang vui vẻ. Chính Đức tự tay viết quốc thư, đóng thêm ngự ấn, chấp thuận việc hợp tác và buôn bán song phương, đồng thời phong Hoa Đáng làm Thuận Minh vương, nhảy một bước từ một viên quan chỉ huy quân sự của Đại Minh có chức Đồng tri thành Khả Hãn Thuận Minh. Cương vị phiên quốc và thuộc quốc đương nhiên khác biệt, Hoa Đáng cảm thấy lưng mình đã thẳng lên không ít.
Dương Lăng mỉm cười bước ra cửa lều, hô to:
- Người đâu, dâng bữa!
Hai nhóm tiểu thái giám đến từ phủ Đại vương nối đuôi nhau tiến vào, những mâm đĩa tinh mỹ óng ánh như ngọc chứa đầy những món ăn tinh xảo lần lượt được mang đặt trên bàn Chính Đức và thủ lĩnh các bộ lạc.
Mặc dù trên núi điều kiện sơ sài, nhưng màu sắc và hương vị các loại món ăn được các vị ngự trù và đầu bếp vương phủ do Dương Lăng đưa tới chuyên tâm chế biến đều rất tuyệt vời, thể hiện rõ khí phách quốc gia, khiến cho thủ lĩnh các bộ lạc nọ khen ngợi không thôi. Bọn họ tròn mắt cầm dao mà thấy lúng túng, dùng tay bốc lấy thì lại ngượng ngùng, chỉ biết thở dài tán thưởng mà thôi.
Cha được phong làm Khả Hãn, thân phận của Ngân Kỳ cô nương đã là công chúa, tuy nhiên lúc này cô nàng vẫn vận nam trang. Trong lều phần lớn đều là những nhân vật hét ra lửa hùng cứ một phương, không ai để ý đến một tiểu thị vệ đứng sau lưng Hoa Đáng như cô nàng.
Thấy Dương Lăng gọi người dâng món, Ngân Kỳ bèn liếc xéo y rồi cũng bước ra ngoài lều, vỗ tay ba cái. Bốn gã Mông Cổ cao to khiêng vào trong lều một chiếc bàn sơn son, trên đặt một con dê béo nướng sẵn quấn bằng lụa đỏ. Bọn chúng quay về phía Chính Đức quỳ một gối xuống đất, đặt nắm tay lên ngực làm lễ rồi mới lặng lẽ lui ra.
Con dê thiến hai tuổi béo ục, da vàng óng ánh, da giòn thịt thơm, được quay nguyên khối nên thịt rất thơm ngon, trong lều tức thì tỏa ra mùi thịt dê nướng thơm lừng. Hoa Đáng đứng dậy đi đến trước chiếc bàn sơn son, rút từ trong thắt lưng ra thanh loan đao nhỏ bằng bạc, thoăn thoắt xẻ phần xương vai, cắm trên đầu mũi dao.
Nữ Chân Tam Bộ thì đề cử thủ lĩnh Chúc Khổng Cách của Hải Tây Nữ Chân tiến lên. Trên chiếc bàn son bày sẵn một cái chén bằng bạc, một cái bình bằng bạc. Chúc Khổng Cách lấy đao cẩn thận rọc bụng dê, đổ nước canh dê thơm phức từ trong bụng ra nửa chén, rồi lại rót thứ nước trong vắt từ trong chiếc bình bạc ra nửa chén, khuấy đều. Sau đó hai người cùng bước đến trước mặt Chính Đức.
Tức thì thị vệ đứng sau lưng Chính Đức đứng bật dậy, tay dằn bội đao. Ngũ Hán Siêu đứng bên cạnh sải tới một bước, ngón tay kẹp chặt hai chiếc phi tiêu kim tiền. Dù biết hai vị thủ lĩnh này không thể hành thích Hoàng đế vào lúc này nhưng bọn họ vẫn không dám lơ là chút nào.
Cũng may Hoa Đáng và Chúc Khổng Cách cũng biết rõ lễ nghi. Hai người bước tới trước mặt Chính Đức cách ba bước thì dừng lại, khuỵu một gối xuống đất. Hoa Đáng mở miệng hát:
- Thiên Khả Hãn tôn quý trên cao, xin hãy cho phép thần dâng trọn con dê béo mềm này. Sống lưng của nó to lớn như vòm trời rộng khoát, bốn chân của nó to béo như đất đai phì nhiêu, cái đầu của nó ngẩng cao như núi cao hùng vĩ, ống xương của nó chắc khoẻ như cây đàn hương trên núi. Thiên Khả Hãn được ban nhiều lộc phước, xin ngài hãy hưởng dụng nó...
Một đại hán to cao vạm vỡ như vậy lại quỳ ở đó hát một cách hết sức nghiêm túc khiến Chính Đức vừa thấy lạ vừa thấy buồn cười. Trương Vĩnh và Miêu Quỳ đứng ở hai bên bước lên định nhận lấy lễ vật do hai vị thủ lĩnh cung phụng. Dựa theo nghi thức thì phải do Chính Đức tự tay nhận lấy nên Hoa Đáng chỉ liếc xéo bọn họ mà không chịu buông tay. Không khí trong lều ngay lập tức hơi căng thẳng.
Chính Đức cười ha hả bảo:
- Các ngươi lui xuống đi! Mời Thuận Minh vương và thủ lĩnh Chúc Khổng Cách tiến lên!
Hai người Trương Vĩnh đành phải lui về. Hai người Hoa Đáng bước đến trước bàn của Chính Đức, khom lưng dâng đặt lễ vật lên bàn. Tuy Hoa Đáng cố tình chĩa mũi cây đao bạc nọ về phía mình, nhưng nếu thuận tay đâm tới, góc độ này có thể vừa vặn đâm ngay vào cổ họng Chính Đức. Thế nhưng Chính Đức mặt không đổi sắc thản nhiên cầm lấy cây đao bạc cắm miếng thịt dê béo nọ từ tay Hoa Đáng rồi đặt xuống bàn, gật đầu mỉm cười với hắn, rồi lại đón lấy chiếc bát bạc từ trong tay Chúc Khổng Cách, đặt sang một bên.
Trong mắt Hoa Đáng thoáng hiện lên vẻ khâm phục, hắn lại quỳ xuống trước bàn Chính Đức, cầm lấy bình ngọc trên bàn, rót đầy một chén, dâng hai tay lên cho Chính Đức. Chính Đức đón lấy rồi uống cạn một hơi. Thân là Thiên Khả Hãn, Chính Đức chịu uống cạn rượu mời của bọn họ không chừa một giọt là biểu hiện rất tôn trọng bọn họ. Hoa Đáng và Chúc Khổng Cách và thậm chí là tất cả thủ lĩnh các bộ lạc thấy vậy đều lộ vẻ mừng rỡ.
Chính Đức cũng tự tay cầm lấy bình rượu, rót một chén cho Hoa Đáng và Chúc Khổng Cách, sau đó lại rót cho mình một chén, đứng dậy cười nói:
- Nào, chúng ta hãy uống cạn chén này!
Hoa Đáng và Chúc Khổng Cách hai tay nâng lấy chén, lui về sau mấy bước, đứng phía trước thủ lĩnh các bộ lạc, dẫn đầu các thủ lĩnh đồng thanh hưởng ứng:
- Tạ ơn Thiên Khả Hãn, mọi người cùng uống nào!
Tất cả mọi người trong lều lớn lần lượt nâng chén uống cạn.
Tiệc rượu mừng lễ kết minh chính thức được bắt đầu. Thủ lĩnh các bộ lạc thay phiên nhau kính rượu Thiên tử và sứ thần Đại Minh. Dương Lăng biết được khi những người Mông Cổ này kính rượu mà mình không uống hết thì rất phi lễ, cho nên trước đó y sớm đã kiếm mấy chén rượu bằng bạc nhìn thì khá bề thế nhưng đáy thì nông tẹt, vậy mà y vẫn bị ép uống đến ngà ngà say.
Dương Lăng đứng dậy mời lại thủ lĩnh các bộ lạc. Đang lúc không khí trong lều hết sức chan hòa, chợt mọi người nghe thấy có tiếng pháo hiệu. Tiếng cười nói trong lều tức thì ngưng bặt. Dương Lăng kinh ngạc, lập tức chạy ào ra ngoài, mấy viên thị vệ vội nhanh chóng che chắn trước mặt Chính Đức.
Dương Lăng vừa chạy vội ra ngoài, thủ lĩnh các bộ lạc cũng căng thẳng lục tục kéo nhau ra xem. Cả bọn thấy từ trên đỉnh ngọn núi đằng xa, khói lửa đang bốc lên dày đặc, binh sĩ dưới núi náo loạn. Phía Đại Đồng có một đội nhân mã đang phóng nhanh tới.
Dương Lăng kinh hãi:
- Đã xảy ra chuyện gì vậy?
Tiếc rằng thời này chưa có điện thoại điện báo, tuy thấy khói hiệu truyền tin nên y biết đã xảy ra biến cố quân sự trọng đại, song bên cạnh lại không ai biết rõ rốt cuộc là đã xảy ra chuyện gì.
Thủ lĩnh bộ lạc Ông Ngưu Đặc là Ô Lạp Nhĩ vừa giận dữ vừa khiếp sợ, trông thấy đằng xa có đại đội nhân mã đang chạy lại, trực giác mách gã rằng Dương Lăng muốn mượn việc kết minh mà bắt sạch bọn họ.
Không chút nghĩ ngợi, Ô Lạp Nhĩ rút nhanh loan đao, phóng người qua gác đao lên cổ Dương Lăng, giận dữ quát:
- Bọn Hán chúng mày gạt tao! Đại thủ lĩnh, hãy mau dẫn người xông xuống núi. Cướp ngựa rời khỏi quan ải!
Ngũ Hán Siêu được Dương Lăng năm lần bảy lượt dặn dò, bảo hắn nhất định phải bảo hộ Hoàng đế được chu toàn, cho nên vừa nãy khi Dương Lăng chạy ra khỏi lều chàng ta hơi do dự một chút, nay chỉ trong nháy mắt Dương Lăng đã bị Ô Lạp Nhĩ chế ngự. Thấy đã có bọn thị vệ bảo vệ Chính Đức, Ngũ Hán Siêu bèn phóng người lại, tay phải cầm kiếm, tay trái kẹp ám khí, định giết chết Ô Lạp Nhĩ cứu đại nhân ra.
Dương Lăng trông thấy thủ lĩnh các bộ lạc Đoá Nhan đều cầm chắc đao trên tay, đang căng thẳng đến cực độ, ngay cả thủ lĩnh của Nữ Chân Tam Bộ và thị vệ của bọn họ cũng đã cầm lấy binh khí, căng thẳng đề phòng động tĩnh từ phía thị vệ quân Minh. Y biết rõ nếu như Ngũ Hán Siêu giết chết Ô Lạp Nhĩ cứu mình về, cuộc chiến toàn diện giữa Đại Minh và Đoá Nhan Tam Vệ nhất định sẽ nổ ra khắp cả trên lẫn dưới núi, khi đó sẽ chẳng còn bất kỳ cơ hội nào để mà giải thích nữa. Thế là không chút nghĩ ngợi gì, y lập tức trừng mắt quát:
- Ngũ Hán Siêu, dừng tay!
Ngũ Hán Siêu thoáng sững lại, thân hình đang chực phóng vọt đột nhiên dừng lại tại chỗ. Lúc này Chính Đức cũng đã bước ra khỏi lều dưới sự bảo vệ của các thị vệ, hắn đẩy thị vệ che chắn trước mặt ra, bước mấy bước về phía trước quát lớn:
- To gan! Trẫm đường đường là thiên tử, là Thiên Khả Hãn của Đại Minh, há sẽ làm chuyện bẩn thỉu lấy kết minh làm mồi, dụ thủ lĩnh các bộ lạc ra để giết hay sao? Thả người của trẫm ra!
Tuy Chính Đức còn nhỏ tuổi, mặc long bào vào người vẫn trông như thằng bé mới lớn, nhưng lúc này lời quát lẫm liệt lại không cần giận dữ mà vẫn oai nghiêm, khiến tên Ô Lạp Nhi thân thể như gấu nọ cảm thấy khiếp sợ, không khỏi đưa mắt nhìn về phía Hoa Đáng dò hỏi.
Đương lúc Hoa Đáng còn do dự không biết có nên tin lời của Chính Đức hay không, Ngân Kỳ đã bước ra phía trước, nói lớn:
- Đừng có hoảng sợ, người Minh không có ác ý với chúng ta đâu.
Nói đoạn xoay người về phía thủ lĩnh các bộ lạc và thị vệ đang cầm đao cầm kiếm, cô nàng giơ cao hai tay, trấn an:
- Người Minh nổi lửa khói báo động tức là thông báo có ngoại địch xâm nhập. Giả như Hoàng đế Đại Minh muốn giết chúng ta, hắn sẽ ‘giương cờ gióng trống’, lặng lẽ điều binh, thừa lúc chúng ta xuống núi mà động thủ, chứ làm gì mà ‘ngưng trống dẹp cờ’, làm chuyện ai ai cũng có thể thấy, ai ai cũng có thể nghe như thế này?
(Cô nương Ngân Kỳ sử dụng nhầm thành ngữ, lẫn lộn “giương cờ giống trống” với “ngưng trống dẹp cờ” - Ba_Van)
Rồi nàng quay lại nói với Ô Lạp Nhĩ:
- Ô Lạp Nhĩ thúc thúc, hãy thả đại thần nhà Minh đó ra đi. Con tin hắn sẽ giải thích rõ cho chúng ta.
Ô Lạp Nhĩ hơi ngần ngừ. Trông thấy mọi người đều đã lặng lẽ buông bỏ đao thương, Hoàng đế Chính Đức cũng vung tay ra lệnh cho thị vệ quân Minh lui ra sau, hắn bèn buông đao xuống, đẩy Dương Lăng về phía trước.
Dương Lăng bước tới trước hai bước, đứng ngay cạnh cô nương Ngân Kỳ mới biết viên thị vệ này là con gái. Y kinh ngạc liếc người con gái thanh tú có đôi mày kiếm dài và đen như mực, mắt vừa to lại đẹp này, sau đó giũ giũ chiếc mãng bào dệt vàng, sửa ngay ngắn chiếc khăn chít đầu bằng lụa đen hơi bị lệch, rồi nhoẻn miệng cười nói:
- Cô nương thuộc thành ngữ thật giỏi!
Ngân Kỳ cô nương hừ một tiếng yêu kiều, hếch chiếc mũi thon lên, có phần đắc ý bảo:
- Vẫn mong đại nhân hãy mau chóng nắm rõ tình hình, cho chúng tôi một câu trả lời thoả đáng.
Dương Lăng khẽ gật đầu, thưa với Chính Đức:
- Hoàng thượng, ngài có nên vào trong lều...
Chính Đức lắc đầu bảo:
- Thủ lĩnh các bộ lạc đều ở ngoài này, trẫm cũng sẽ ở ngoài này. Dương khanh, khanh hãy mau chóng tra rõ tình hình!
Dương Lăng cung kính đáp:
- Dạ!
Rồi y dẫn theo vài thị vệ chạy nhanh về phía sơn khẩu. Đội quân từ phía Đại Đồng đã phi tới dưới chân núi, Dương Lăng chưa nghe thấy có tiếng địa lôi kích nổ, nên nghĩ ắt là quân đội Đại Minh, cho nên hơi yên tâm. Khi đến sơn khẩu, y thấy có khoảng trên vạn nhân mã xông tới dưới chân núi đã hội họp cùng mấy nghìn quân Minh trên núi. Trên ngọn cờ cao chót vót thêu rõ chữ "Hứa".
Dương Lăng rất đỗi kinh ngạc, thầm nghĩ: "Ra là Hứa Thái! Vốn đã thương lượng rằng nếu trên núi có biến thì sẽ nổi lửa hiệu truyền tin triệu hắn tới ngay. Nay trên Trường Thành lửa hiệu nhóm lên khắp nơi, rõ ràng là giặc Thát lại tấn công quan ải, hơn nữa thế công ắt rất khốc liệt. Đại quân của hắn sao không cố thủ Đại Đồng đợi lệnh mà chạy đến nơi đây để làm gì?"
*****
Sau khi đại quân của Chính Đức rời khỏi thành, bảy nghìn kỵ binh của Hứa Thái liền tạm dừng ở phụ cận thành đông, người không rời ngựa, ngựa không rời yên, sẵn sàng nhận lệnh bất cứ lúc nào, Đỗ Nhân Quốc thì toạ trấn phủ Tổng binh. Tuy kế hoạch đã được bàn tính kỹ càng, suy đi nghĩ lại trên núi Bạch Đăng khó lòng xảy ra chuyện gì ngoài ý muốn, nhưng thiên tử ở nơi nào thì nơi ấy là trọng tâm của thiên hạ thế nên Đỗ Nhân Quốc không hề dám lơ là chút nào.
Mấy quan ải gần Cự Lỗ khẩu liên tiếp nổi lửa hiệu, tin tức truyền khắp chín ải, tất cả mọi quan ải lập tức bước vào tình trạng chuẩn bị chiến đấu cấp một (giống như DEFCON1 haha- TheJoker), vệ sở lân cận liền tăng binh. Đỗ Nhân Quốc nhận được bẩm báo liền lập tức chạy lên thành lũy phía tây, phái mấy lộ thám mã chạy về hướng Cự Lỗ khẩu tra xét tình hình.
Thám mã vừa rời thành đã phóng băng băng theo quan lộ. Mới vừa vượt qua một cái đồi nhỏ, chợt hai viên thám mã thấy mặt đất rung chuyển, đập vào tầm mắt là vô vàn quân mạnh tướng dữ người Thát Đát đầy khắp núi đồi, người và ngựa nhập lại thành một trông như sói như cọp, đang lao nhanh về phía thành Đại Đồng.
Thám mã hãi hùng khiếp vía. Hai năm trước Thát Đát cũng đã từng công phá quan ải, thành Đại Đồng thiếu điều thất thủ, thiết kỵ Thát Đạt đánh thẳng đến Cư Dung Quan thì mới bị chận mà phải lui về. Không ngờ hôm nay lại tái diễn chuyện xưa, lang sói thảo nguyên đã xâm nhập Trung Nguyên một lần nữa.
Hai tay thám tử lập tức quay đầu ngựa chạy về, người nép sát trên lưng ngựa mà vút roi vù vù, chiến mã tung vó như bay. Sau lưng bọn họ, tên bay phủ kín mít cả bầu trời, trông hệt như đàn châu chấu đang ùa tới. Cả người lẫn ngựa Hai viên thám tử bị bắn thành bốn con nhím. Vó ngựa ào ào như mưa gió, thiết kỵ của Thát Đát quét qua, đạp mặt đất thành một mảng mơ hồ, không còn thấy chút dấu vết gì của người lẫn ngựa.
Tốp thám mã thứ tư vừa chạy tới con đường giữa khe núi trên bình nguyên, mặc dù từ xa có thể thấy được tình thế không ổn nên kịp thời quay ngựa phi về nhưng mông ngựa và lưng người vẫn dính phải một đám tên. Có điều khoảng cách hơi xa, sức tên đã hết nên bọn họ không bị bắn chết.
Hai tay thám tử phi vào trong thành như một cơn lốc, hét lạc cả giọng:
- Thu cầu treo! Khóa cổng thành lại! Giặc Thát xông vào quan ải rồi!
Đỗ Nhân Quốc đứng trên đầu thành nghe vậy thì cả kinh. Ông ta cũng không rảnh để đi truy cứu xem chỗ quan ải nào đã bị đánh chiếm mà lập tức ra lệnh cho người phi ngựa cấp tốc truyền báo Hứa Thái đang ở thành đông chạy đi cứu viện núi Bạch Đăng gấp, đồng thời cho đóng chặt bốn cổng thành, toàn bộ quan quân trèo lên lỗ châu mai, cùng quân Nghĩa Dũng và Khoái Thủ hỗ trợ thủ thành.
Hồ Toản hay tin cũng tức tốc chạy từ nha môn tuần phủ tới cổng thành. Trông thấy giặc Thát đang phóng băng băng, thế như đập trời vỗ đất thì kinh hồn hãi vía, chỉ mong cho giặc Thát không biết Hoàng đế đang ký kết hiệp ước với Đóa Nhan Tam Vệ trên núi Bạch Đăng. Nếu đại quân địch công thành thì Hoàng đế sẽ có thể kịp nhận được tin tức mà mau chóng lui về một quan ải nào đó.
Nào ngờ đại quân giặc Thát chỉ hò hét mà lại không công thành, đại quân vòng qua tường thành rồi không chút chần chừ mà lao nhanh về phía đông. Đội ngũ giặc hung hãn như hồng thủy mang theo khí thế như muốn chôn vùi hết thảy.
Trông thấy thế, Hổ Toản lạnh ngắt trong lòng, đờ đẫn nhìn theo đoàn thiết kỵ Thát Đạt đang tràn qua như hồng thủy. Lão quay sang nhìn Đỗ Nhân Quốc thì thấy vị tướng quân đội được xưng là chiến thần Đỗ phong tử không sợ chết cũng đã xám nghoét mặt mày.
Lá cờ lớn vẽ hình con sói xanh tung bay phất phới trong gió, như thể đang giễu cợt bọn họ. Khi thấy đại quân sắp biến mất, Hồ Toản mới giật mình tỉnh lại, la to:
- Đỗ tổng binh, mau, mau cứu viện núi Bạch Đăng! Giặc Thát phá được quan ải mau như vậy, đại quân của Dương tổng chế vẫn còn đang tập trung ở Trường Thành, phần lớn lại đều là lính bộ, đợi hắn dẫn quân trở về thì đại sự đã xong rồi!
Đỗ Nhân Quốc cũng như vừa tỉnh cơn mê, giật mình đánh thót. Phần lớn kỵ binh đều đã bị Hứa Thái mang đi, trong thành chỉ còn lính bộ. Đối diện với đội quân Thát Đát thanh thế cuồn cuộn như thế, nếu dựa vào thành mà thủ thì có lẽ còn giữ được Đại Đồng. Đại quân mà rời khỏi thành, e rằng không chỉ toàn quân bị diệt sạch, mà nếu như giặc Thát lợi dụng đặc điểm mau lẹ và cơ động của kỵ binh mà cho khoái mã quay lại phản công thì ngay cả Đại Đồng cũng sẽ bị mất. Song chỉ cần có thể kéo dài thời gian thêm một chút, để Hoàng đế bình an lui về quan nội, thì tổn thất có lớn cỡ nào cũng đáng.
Đỗ Nhân Quốc chụp lấy đại đao của mình, đang định tập trung quân thủ thành trong thành xuất phát về phía núi Bạch Đăng, thì từ đằng xa một lá cờ thêu hình chim ưng đỏ rực đã lừng lững tiến tới. Đại quân của Hỏa Sư kéo đến rồi!
***
Nghe Hứa Thái hớt ha hớt hả kể xong, Dương Lăng không khỏi sởn gai ốc. Có nghĩ đến vỡ đầu y cũng không tài nào hiểu nổi làm thế nào mà suốt hai tháng trời giặc Thát đại chiến ngoài thành vẫn không phá được Trường Thành, giờ lại nhanh như vậy, khéo như vậy, mà nhằm đúng ngay lúc bọn chúng thế cùng lực tận như vậy mà vẫn có thể trong nháy mắt phá được một quan ải để xông vào.
Giặc ngoài dễ tránh, trộm nhà khó phòng. Dương Nhất Thanh đến Đại Đồng mới được hai tháng, vừa mới đến liền phải tập trung hoàn toàn tinh thần vào trận đại chiến với giặc Thát, vốn không có thời gian chỉnh đốn quân đội.
Mấy ngày trước, đột nhiên xảy ra chuyện Vương Long, Vương Hổ tư thông Thát Đát, mà thực tế là gian tế do Di Lặc giáo dùng vàng to bạc lớn thu xếp trà trộn vào quân Minh, toàn bộ quan viên có quan hệ mật thiết đến họ Vương đều bị thuyên chuyển khỏi chức vụ cũ. Thế nhưng đại quân Thát Đát đang giương cặp mắt hổ nhìn chằm chằm ngoài quan ải, lúc này không thể gây nên ảnh hưởng quá rộng mà thanh trừng khắp nơi, để tránh làm tổn hại tới căn cơ của biên quân. Cho nên không chỉ Dương Lăng không có manh mối gì, mà ngay cả Dương Nhất Thanh ngay vào lúc này cũng chưa nhận được tin tức Lý Nghĩa phản bội mở cửa thành Cự Lỗ Khẩu dẫn giặc Thát vào quan ải.
Đằng xa người ngựa tung bụi mịt mù, bóng giặc vừa hiện, Dương Lăng liền quyết đoán, lập tức hạ lệnh:
- Hứa Thái, Liễu Bưu, lập tức điều đại quân bảo vệ núi, cố thủ, chờ viện binh.
"Cố thủ", chỉ hai chữ, song lại hàm chứa trong đó biết bao sự chém giết đẫm máu. Ngửi thấy được mùi máu tanh trong đó, Hứa Thái và Liễu Bưu bèn nghiêm nghị nghe lệnh. Nghe xong Liễu Bưu liền hỏi:
- Đại nhân, vậy chúng ta làm gì với năm nghìn thiết kỵ của Đóa Nhan Tam Vệ?
Dương Lăng nhìn xuống dưới núi, nơi đại quân Đóa Nhan Tam Vệ tập kết. Trên và dưới núi có tổng cộng hơn một vạn hai nghìn quân Minh, cộng thêm đội quân Đóa Nhan Tam Vệ tràn trề sinh lực thành gần hai vạn nhân mã, như thế ít nhất có thể thủ ngọn núi này được một ngày. Giặc Thát tuy kiêu dũng, song không có quân số gấp mấy lần thì làm sao có thể đánh tràn lên núi được?
Dương Lăng thầm tính toán: "Toàn bộ binh lực của Bá Nhan Khả Hãn có khoảng hơn bảy vạn. Trải qua gần hai tháng chiến trận tiêu hao cũng bộn, kẻ còn năng lực chiến đấu chưa tới sáu vạn. Bá Nhan có không tiếc hết thảy mà dốc toàn bộ binh lực đánh lên núi không? Cho dù sáu vạn đại quân cùng tấn công lên núi Bạch Đăng, bọn ta cũng có thể thủ được một lúc. Chỉ cần giữ vững không đổ, Dương Nhất Thanh và Đỗ Nhân Quốc sẽ kịp kéo quân đến cứu viện.
Có điều... hiệp ước đồng minh mới vừa được ký kết, Đóa Nhan Tam Vệ vẫn chưa mò vớt được lợi ích gì, cái tên chuyên trờ cờ theo gió Hoa Đáng có sẽ chịu dốc toàn lực đối địch với Bá Nhan không? Có sẽ gặp tình thế không ổn liền lâm trận trở giáo không? Không được! Trước khi thắng bại chưa phân, quyết không thể dùng người của Đoá Nhan Tam Vệ!”
Nghĩ đến đây, Dương Lăng bèn bảo:
- Trước mắt, chỉ cần giữ được ngọn núi này là chúng ta sẽ thắng, không cần cùng Bá Nhan so đo thiệt hơn nhất thời. Hãy cho điều đại quân lên núi, chia đóng ở khắp nơi để ngăn địch, dưới núi chỉ để lại ba nghìn binh mã và mọi súng pháo để kiềm chế nhuệ khí quân giặc, coi thế giặc mạnh yếu mà rút lên núi khi có thể. Còn về phần Đoá Nhan Tam Vệ... bản quan sẽ bảo Hoa Đáng điều bọn họ lên núi. Liễu Bưu, người của ngươi đứng chắn ở giữa, không thể để bọn chúng đến gần lều lớn.
Nhận lệnh xong hai người xuống núi, Dương Lăng trèo lên một tảng đá to, nhìn về nơi xa. Đội kỵ binh đen kịt không ngừng hiện ra ở phía chân trời, ùn ùn kéo tới như thủy triều, khí thế lẫm liệt ngất trời. Dương Lăng chỉ cảm thấy trong miệng đắng nghét...
Đứng trong ngôi đình nhỏ vừa được xây trên đỉnh Bạch Đăng, Chính Đức và đám người Hoa Đáng phóng mắt nhìn ra xa cũng đã phát hiện đại quân bất tận đang dần kéo đến, nhất thời lại không rõ đã xảy ra chuyện gì. Mặc dù không hiện lên trên mặt song ai nấy đều đã nổi trống trong lòng.
Đúng vào lúc này, thấy Dương Lăng dẫn sáu tay thân binh khoan thai trở về từ sơn khẩu, Chính Đức lập tức tranh hỏi trước:
- Dương khanh, đã xảy ra chuyện gì vậy?
Bọn người Hoa Đáng cũng dỏng tai lên nghe câu trả lời của y. Dương Lăng điềm tĩnh mỉm cười đáp:
- Hoàng thượng trù tính thật không sai! Quả nhiên Bá Nhan trúng kế, đã dẫn đại quân đến tấn công núi Bạch Đăng!
Thoạt tiên Chính Đức thấy lạ, nhưng hắn cùng Dương Lăng vốn là đôi bạn học sinh xấu từng cùng nhau lừa gạt Thái phó ngày xưa, có thể nói là ăn ý vô cùng, nên chỉ hơi thoáng kinh ngạc liền vỗ tay cười bảo:
- Hay lắm! Đến thật hay!
Bọn Hoa Đáng nghe nói Bá Nhan dẫn đại quân đến tấn công thì sợ đến nhảy dựng. Khoảng một vạn người ở đây có thể là đối thủ của Bá Nhan sao? Nhưng nghe hai người một vua một tôi này trò chuyện, mặt đầy vẻ mừng rỡ như cố ý dụ hắn đến vậy. Hoa Đáng bèn nén lo lắng trong lòng, nghi hoặc hỏi:
- Thiên Khả Hãn, đằng xa kia... là quân đội của Bá Nhan ư? Bọn chúng... sao bọn chúng đã vào được quan ải rồi?
Chính Đức thoáng ngừng lại, cười khan mấy tiếng, rồi cố làm ra vẻ thần bí bảo:
- Dương khanh, khanh hãy nói cho Thuận Minh vương hay đi.
- Thần tuân chỉ! - Dương Lăng vái một vái rồi đứng thẳng người lại, mỉm cười nói với Hoa Đáng - Khả Hãn Thuận Minh, ngài nghìn dặm xa xôi đến gặp Hoàng thượng, Hoàng thượng liền muốn tặng một lễ vật lớn đến cho ngài. Tuy nhiên vốn chúng ta không biết Bá Nhan có mắc lừa hay không cho nên khi nãy đã không báo trước cho ngài hay.
Rồi y nâng vạt mãng bào bước lên bậc thềm, đứng trong đình đưa mắt nhìn về phía đoàn người ngựa đang cuồn cuộn kéo đến mỗi lúc một gần. Y chỉa tay trỏ vào chúng thản nhiên cười nói tiếp:
- Ngài xem! Bá Nhan xâm phạm biên cương Đại Minh ta, tuy bị hao binh tổn tướng khá nhiều nhưng vẫn chưa bị thương tổn đến gốc rễ. Hắn vẫn còn binh cường mã tráng, thêm sức hiệu triệu từ xuất thân hoàng tộc không ai sánh bằng, một khi hắn trở về được thảo nguyên thì cho dù có nội loạn đi chăng nữa, cũng vẫn sẽ không dễ đối phó. Tuy nhiên, nếu khiến cho mười phần nhân mã của hắn hao tổn hết sáu bảy phần, thì Khả Hãn Thuận Minh vừa được khâm phong sẽ có thể đứng vững. Vì vậy...
Dương Lăng xoay người lại, rất tự nhiên chìa tay mời mọi người vào lều, đoạn dẫn Chính Đức và các vị thủ lĩnh vừa nghe y nói vừa theo y rời khỏi đình bước vào trong lều.
Dương Lăng đi đầu, nhân cơ hội nghiêm mắt ra hiệu cho Ngũ Hán Siêu. Ngũ Hán Siêu hiểu ý, bắt đầu lặng lẽ bố trí đám đại nội thị vệ khống chế cả căn lều.
Đợi mọi người ngồi vào chỗ, Dương Lăng bước ra sau bàn thoải mái nói tiếp:
- Vì vậy, Hoàng thượng cố ý tung tin tức về việc ký kết hiệp ước đồng minh khắp phố thị Đại Đồng, để gian tế Thát Đát truyền ra ngoài quan ải. Quả nhiên Bá Nhan không cưỡng được cám dỗ nên dốc hết binh lực mưu đồ tấn công núi Bạch Đăng, hòng hốt trọn Hoàng thượng và các vị thủ lĩnh một mẻ.
Ha ha, Khả Hãn dâng biếu đức vua trọn con dê nướng tươi ngon, đây hẳn là lễ tiết cao quý nhất của các vị đúng không? Hôm nay đức vua vạn tuế của chúng tôi sẽ thưởng lại cả một con sói nướng, mong Khả hãn Thuận Minh và các vị thủ lĩnh vui lòng nhận cho!
Trong lều liền ồn ào một hồi. Dương Lăng ngồi xuống nghiêm chỉnh, bình tĩnh như không, phất tay áo cả cười:
- Bá Nhan được xưng là kẻ dũng mãnh của thảo nguyên, nay xem ra cũng chỉ là phường thất phu sính dũng, có gì mà đáng nói chứ? Chúng ta chỉ cần cười nói chuyện trò liền khiến hắn tan thành mây khói!
"Ầm... ầm ầm..." mấy quả địa lôi bị giẫm phải phát nổ rất đúng lúc. Tiếng nổ đinh tai, cùng tiếng người la ngựa hí như chứng minh lời nói của Dương Lăng.
Trong mắt Ngân Kỳ lóe lên vẻ kỳ dị. Đây là lần đầu tiên nàng có dịp nhìn thẳng vào anh chàng người Hán hào hoa phong nhã không thèm đặt cả đệ nhất anh hùng thảo nguyên vào mắt này.
Ánh mắt Hoa Đáng lập loè, giọng bán tín bán nghi:
- Nói như vậy, Thiên Khả Hãn đã sớm bày bố trọng binh, đặt bẫy nhằm dụ Bá Nhan vào tròng rồi?
Chính Đức nổi doá trong bụng: "Bá Nhan đã vào quan ải rồi sao? Dương Nhất Thanh đánh trận kiểu gì vậy? Trở về trẫm sẽ tìm hắn tính sổ tiếp! Có điều... may mà Dương thị độc giữ được bình tĩnh, giữ mặt mũi cho trẫm. Nếu mà y hoang mang lúng túng, bối rối chạy vào bẩm báo, chẳng những trẫm sẽ mất sạch mặt mũi oai phong, mà ngay cả lão cáo già Hoa Đáng này nữa; nếu lão không trở giáo ngay lập tức thì cũng sẽ sợ đến mất mật, không bao giờ còn dám thiết lập đồng minh với một láng giềng yếu đuối như trẫm nữa.”
Tiếng nổ do người ngựa đạp phải địa lôi không ngừng vọng lại, Hoàng đế Chính Đức cũng nhoẻn miệng tươi cười, ra vẻ đắc ý nói:
- Dĩ nhiên rồi!
Ánh mắt hắn chạm ánh mắt Dương Lăng, cả hai đều đọc và hiểu được ý tứ của nhau: "Trận đánh này đã đổ xuống đầu rồi, vậy thì bắt buộc phải đánh thôi, mà còn phải đánh cho thắng trận. Bằng không, chẳng những về sau đừng mong nói đến việc thiết lập đồng minh diệt trừ mối họa Bá Nhan, mà ngay trước mắt cái mạng của mình cũng sẽ khó giữ.”
Vẫn còn do dự lẫn nghi ngờ, Hoa Đáng bèn dò hỏi thử:
- Vậy... Binh mã tiểu vương mang theo tuy không nhiều, nhưng vẫn có thể tham gia chiến đấu. Hoàng thượng có cần tiểu vương dốc chút sức để chống đỡ không?
Dương Lăng đã thu hết vẻ mặt của hắn vào trong mắt, thừa cơ hội này y đứng dậy bảo:
- Chúng ta đã là đồng minh, cùng dùng binh chung sẽ là chuyện sớm hay muộn thôi. Hôm nay kề vai tác chiến đúng là có thể bày tỏ thành tâm liên kết đồng minh của đôi bên. Tuy nhiên đại quân của Khả Hãn còn phải bảo hộ ngài trở về Đoá Nhan Tam Vệ nên không thể để hao tổn quá nhiều, xin Khả Hãn hãy sai người thông tri thuộc hạ tạm thời lên núi. Đợi đến khi quân Đại Minh của ta đã bao vây, chuẩn bị tiêu diệt kẻ địch mới hãy cho thấy oai phong của Đoá Nhan Tam Vệ!
Nói đoạn y bước tới trước bàn rồng của Chính Đức, giở thảm lên, kéo một cái móc sắt mở tấm cửa sắt lớn ra, lộ một cái hang bí mật. Trong hang đuốc tỏ sáng trưng, hiển nhiên là được thông gió từ một mặt khác.
Dương Lăng quay lại bảo:
- Trên chiến trường, tên lạc bay khắp bốn phía. Nhằm phòng ngừa bất trắc, xin mời Hoàng thượng và thủ lĩnh các bộ lạc vào trong lánh tạm.
Y nghĩ rằng khống chế được thủ lĩnh các bộ lạc vào trong tay thì mới có thể đảm bảo bất luận xảy ra nguy cấp như thế nào đi nữa, Đoá Nhan Tam Vệ cũng vẫn không dám trở mặt. Nếu thật sự đã đến lúc lửa xém chân mày thì y cũng sẽ không cần để ý đến thể diện cái con mẹ gì nữa hết, có phải kề đao lên cổ Hoa Đáng đi nữa cũng sẽ bắt Đoá Nhan Tam Vệ mang binh tham chiến.
Khi thấy Dương Lăng nói không cần binh sĩ của mình tham chiến thì Hoa Đáng đã tin được tám phần, lại thấy nơi này còn xây sẵn hang động đề phòng bất trắc thì tin hết mười phần. Lúc này không theo Thiên Khả Hãn đánh chó đang rớt xuống nước(*)... không, nướng cả con sói, thì còn lúc nào tốt hơn để mà biểu lộ lòng thành đây? Xem ra lần này sẽ không đứng nhầm phe rồi. Thật là may quá! Thật là may quá!
(*: ý là hùa vào đánh hôi kẻ đang yếu thế)
Hoa Đáng lập tức đứng dậy, khẳng khái lựa lời chối từ:
- Thiên Khả Hãn! Tiểu vương may được Thiên Khả Hãn ban tước vẫn chưa lập được tấc công lao nào. Đôi bên đã kết làm đồng minh thì phải nên cùng chung kẻ thù, cùng nhau sống chết!
Tuy rằng Thiên Khả Hãn dụng binh như thần, sớm đã chuẩn bị sẵn, không để mắt tới năm nghìn binh mã của Tiểu vương, nhưng Tiểu vương há có thể không tận chức trách của bầy tôi? Xin Thiên Khả Hãn ân chuẩn cho đại tướng Mã Cáp Lư dưới trướng Tiểu vương dẫn quân hiệp lực tác chiến. Tiểu vương và thủ lĩnh các bộ lạc sẽ ở đây bầu bạn cùng Thiên Khả Hãn, chậm rãi chờ đợi thần binh thiên triều diệt sạch kỵ binh cọp sói của Bá Nhan!
Chính Đức che miệng ho khan một tiếng, rồi hơi nhíu mày, ra vẻ "bất đắc dĩ":
- Nếu đã như vậy... Dương khanh, vậy cứ theo ý tốt của Thuận Minh vương! Năm nghìn binh mã này, khanh sẽ chỉ huy luôn vậy!
Nói xong hắn bèn quay sang Hoa Đáng, cười nói:
- Năm xưa Đoá Nhan Tam Vệ phò vua dẹp loạn, lập được công trạng lẫy lừng. Hôm nay vua tôi chúng ta một lần nữa lại tay nắm tay, cũng có thể xem là một giai thoại đó. Ha! Ha! Ha!...
Nhận được sự động viên to lớn, Hoa Đáng bèn đứng dậy quát:
- Mã Cáp Lư!
Từ trong đám tướng lĩnh thị vệ đứng trước lều, một tay tráng niên mắt cọp râu rồng dạ một tiếng rồi bước ra, quỳ một gối thưa:
- Xin đại thủ lĩnh dặn bảo!
Hoa Đáng lớn giọng ra lệnh:
- Lập tức điều động binh mã! Mọi hành động tiến lui, tác chiến giết giặc đều nghe theo lệnh dụ của Dương Lăng Dương đại nhân!
Tác giả :
Nguyệt Quan