Ngược Về Thời Minh
Chương 205: Miệng lưỡi sắc bén
Mặt trời vừa nhú, sương sớm chưa tan. Đêm qua trời vừa đổ tuyết, tiết xuân se sắt, những tia nắng mỏng tanh vương rắc lên người không hề đem lại cảm giác ấm áp; vẫn là cái lạnh buốt xương.
Ngoài cổng Đắc Thắng, trên một dãy núi non trùng điệp, một trăm kỵ sĩ oai phong lẫm liệt đang trèo đèo vượt núi, chậm rãi đi trên con đường quanh co khúc khuỷu. Liễu Bưu, Kinh Phật Nhi, Ngũ Hán Siêu và Lưu Đại Bổng Chùy, bốn người cải trang làm thị vệ cận thân, Hứa Thái cải trang làm thủ lĩnh thị vệ, cả nhóm đi ngay sau ngựa Dương Lăng.
Đằng trước hiện ra một bãi đất trống,nằm ngay bên dưới gò núi đầy cây cối um tùm, những tia nắng đầu tiên vừa rọi tới nơi này, ba chiếc lều lẻ loi sắp thành hình tam giác được dựng trên mặt tuyết.
Vài gã Mông Cổ đang cưỡi ngựa lững thững quay về, bọn họ nhảy xuống khỏi lưng ngựa trơn nhẵn, dắt ngựa tới trước lều bạt, gã thì trùm yên lên lưng ngựa, gã thì lau binh khí. Cả ba đều có bộ dạng kiêu ngạo, như thể không thèm đặt hơn trăm quan binh Đại Minh hàng ngũ chỉnh tề, khí thế oai nghiêm này vào trong mắt.
Ánh mắt Dương Lăng quét qua khuôn mặt lười nhác của mấy gã Mông Cổ nọ, cánh tay khẽ giơ lên, một trăm viên kỵ sĩ lập tức ghìm cương ngựa. Hơn trăm kỵ sĩ dừng ngoài một tầm tên, không chút tiếng động, tất cả đều im phăng phắc.
Chính Đức, Hồ Toản và Dương Nhất Thanh không yên tâm khi Dương Lăng chỉ mang theo một trăm thị vệ, vốn định phái hai nghìn binh mã hộ giá, nhưng Dương Lăng chỉ đáp một câu: "Hoa Đáng mang theo năm nghìn binh mã nghìn dặm xa xôi mạo hiểm băng qua địa bàn của Thát Đát không phải để tập kích giết chết một khâm sai đại thần tôi đâu", rồi cự tuyệt luôn.
Đàm phán chính yếu là khí thế. Đoá Nhan Tam Vệ chỉ xuất binh tổng cộng năm nghìn, đặc sứ tiên phong chỉ có ba lều trại vào khoảng năm mươi người. Nếu xua đại quân trùng trùng điệp điệp mà đi thì vừa nâng cao khí thế đối phương lại dễ khiến cho bọn họ khinh thường.
Tuy nhiên, Đoá Nhan Tam Vệ là thuộc quốc của Đại Minh, thủ lĩnh tối cao của Tam Vệ được ban cho chức Chỉ huy đồng tri, là quan tòng tam phẩm, tuy nay đã chỉ còn tồn tại trên danh nghĩa, nhưng dẫu sao Đoá Nhan Tam Vệ vẫn chưa công khai tuyên bố phản lại Đại Minh.
Dương Lăng là thủ lĩnh Ngự tiền thân quân, là võ tướng chánh tam phẩm, lại mang thân phận khâm sai, cho dù là đối diện với Hoa Đáng thì vai vế cũng chỉ có cao hơn chứ không thấp hơn, huống hồ chỉ là mấy sứ giả của Hoa Đáng? Lúc Dương Lăng ra khỏi ải đã phái thị vệ đi trước báo tin, như vậy rõ ràng những đặc sứ này đã biết tin cả rồi thế mà lại co chân gác gối không thèm ra đón, mấy tên thân quân cũng ra vẻ ngạo mạn khinh đời, rõ ràng là bọn họ không đặt triều đình nhà Minh vào mắt.
Hứa Thái thấy vậy tức thì sôi máu, thúc ngựa đi đến cạnh Dương Lăng dựng xếch cặp mày kiếm thưa:
- Đại nhân, Đoá Nhan Tam Vệ thực to gan! Rõ là đã biết khâm sai triều đình đến rồi thế mà lại vô lễ như vậy! Chi bằng chúng ta hãy về đi! Không thể để oai phong Đại Minh bị tổn hại được!"
Kinh Phật Nhi liếm cái môi mỏng lét của mình, một vẻ khát máu hiện trên khuôn mặt, nói:
- Đại nhân, bất kính với sứ thần thiên triều là tội lớn không tha. Đại nhân hãy hạ lệnh cho mạt tướng lóc hết ruột gan phèo phổi của đám này đi, để tên tiểu tử Hoa Đáng đó phái mấy đứa biết điều hơn ra nói chuyện.
Dương Lăng cười cười, nhẹ nhàng đáp:
- Chẳng qua là Đoá Nhan Tam Vệ đang thử dò xét quyết tâm liên kết đồng minh của triều đình mà thôi! Dẫu sao thì bọn họ cũng đã từng ăn quá nhiều quả đắng, không cần phải so đo với những kẻ thô lỗ này. Bản quan nói cho các ngươi hay, đàm phán cũng giống như là bán buôn vậy, kẻ cười trước chưa chắc đã là kẻ thắng lợi sau cùng. Hôm nay ta cúi đầu ba lần với hắn, đổi lấy việc hắn phải dập đầu ba mươi cái thì mới quay về. Đi, bảo sứ giả của Đoá Nhan Tam Vệ ra đón!
Kinh Phật Nhi nghi hoặc nhìn Dương Lăng, rồi thúc ngựa vung roi phi đến trước lều hô to thông báo đặc sứ Hoàng đế Đại Minh đã tới, lệnh cho sứ giả Hoa Đáng ra đón. Sau một chốc, ba chiếc lều lớn lần lượt được mở ra, mấy chục sứ giả Mông Cổ mặc áo chéo vai, ống tay rộng bước ra nghênh đón.
Lưu Đại Bổng Chùy ngạc nhiên hỏi:
- Đại nhân, sao ngài biết sứ giả bọn chúng đã sớm chuẩn bị xong rồi?
Dương Lăng lắc đầu đáp:
- Hữu dũng vô mưu! Hãy nhìn phía trước lều kìa!
Mấy viên thị vệ bên cạnh nghe vậy thì nhìn kỹ về phía trước, song nhìn mãi mà vẫn mù mờ không biết nên nhìn cái gì, chỉ có Hứa Thái và Ngũ Hán Siêu đồng loạt "a" lên, liền đó nhìn nhau cả cười.
Đêm qua tuyết tuy không lớn nhưng đã phủ khắp mặt đất. Mặt tuyết trước mặt lại bằng phẳng như gương, lóng lánh trong ánh nắng, chỉ có hai hàng vết vó ngựa, đương nhiên là do sứ giả Đại Minh thông báo chuyên sứ đã tới để lại. Trong khi đó, đằng trước ba chiếc lều trại tuy vẫn là một mảng trắng phau, nhưng ánh sáng phản chiếu lại lờ mờ ảm đạm, mặt tuyết bừa bãi lộn xộn, rõ ràng từ sáng sớm đã từng có mấy chục người tới lui giẫm đạp lên, quyết không thể do bốn năm tên cận vệ ở trước lều gây ra được.
Thấy bọn sứ thần đã túm tụm trước lều, Dương Lăng mới thúc bụng ngựa, dẫn thị vệ chậm rãi đi tới. Khi đã đến trước lều trại Lưu Đại Bổng Chùy liền vặn người nhảy xuống, đi tới bên ngựa Dương Lăng rồi quỳ một gối xuống. Dương Lăng xoay người vịn yên, chân điểm nhẹ trên lưng hắn rồi nhảy xuống đất.
Đám người Mông Cổ chen nhau đi tới, mặt mày tươi cười. Một gã đàn ông cao lớn đi đầu đặt một tay lên ngực, mỉm cười và chào bằng tiếng Hán hết sức lưu loát và đúng mực:
- Hoan nghênh ngài, sứ thần của thiên triều! Ta là sứ giả Nặc Mộc Đồ của bộ lạc Ngột Lương Cáp. Vị này là sứ giả Cách Nhật Lặc Đài của bộ lặc Ông Ngưu Đặc, sứ giả A Khất Mãi của bộ lạc Ô Tề Diệp Đặc, sứ giả Đậu Lý của Nữ Chân Kiến Châu, sứ giả Hồ Xích của Nữ Chân Hải Tây...
Hắn vừa giới thiệu vừa đưa mắt đánh giá Dương Lăng, thấy vị võ tướng nắm giữ thân quân lẫn Nội xưởng của Hoàng đế và là đại thần được Hoàng đế Đại Minh tín nhiệm nhất này mặc áo da cừu, đầu đội nón da chồn, chân mang giày da lợp nhung đen; vóc người như ngọc, khí chất phong lưu, cao quý mà không phô trương. Nếu không phải vì áo chưa thắt đai lụa nên vẫn có thể thấy được mãng bào thêu rồng nằm vàng óng lấp ló bên trong, thì y sẽ giống hệt như một công tử tôn quý.
Dương Lăng cũng quan sát vị sứ thần bộ lạc Ngột Lương Cáp có thế lực lớn nhất Đoá Nhan Tam Vệ này: thân thể cao lớn, tướng mạo hiên ngang, bước chân vững vàng, mặc dù trông cao lớn lực lưỡng nhưng cặp mắt lại lộ ra vẻ cơ trí và điềm tĩnh, khác xa vẻ chất phác thật thà của dân du mục Mông Cổ.
Bề ngoài y vẫn ung dung thản nhiên, trong lòng lại thầm nhủ: "Ai cũng nói người Mông Cổ kiêu dũng thiện chiến, thân thể lẫn khí phách tráng kiện mà lại thiếu mưu trí; nhưng trông vị sứ thần Nặc Mộc Đồ này thực không giống vậy. Tuy rằng hôm nay chỉ là cuộc tiếp xúc mang tính thăm dò, hiểu rõ mấu chốt điều kiện kết minh của đối phương, song xem ra cũng cần phải tập trung tinh thần, không thể sơ ý được."
Dương Lăng mỉm cười vòng tay vái chào một vòng, đôi bên khách sáo mấy câu, Nặc Mộc Đồ đưa tay làm động tác mời vào lều, nói:
- Dương đại nhân, mời! Chúng ta cùng vào lều nói chuyện.
Dương Lăng giũ giũ chiếc áo da rồi cũng không ngoái đầu mà ngang nhiên dẫn đầu bước vào, bỏ lại đám thị vệ bên ngoài. Nặc Mộc Đồ cùng đám sứ thần Cách Nhật Lặc Đài thấy vị sứ giả thiên triều này không mang thị vệ theo, đơn thương độc mã đi vào lều thì đều đưa mắt nhìn nhau, nét cười trên khuôn mặt vừa hiện lên lại lập tức giấu đi.
Bộ tộc Kiến Châu của Nữ Chân nằm sát cương thổ Đại Minh nhất, nhận được rất nhiều lợi ích thông qua việc giao dịch cùng Đại Minh - vừa chăn nuôi vừa cày cấy, còn biết một vài công nghệ đơn giản - là khu vực giàu có nhất trong số ba bộ tộc Nữ Chân. Tùy theo sự tiếp giáp xa gần với biên giới Đại Minh mà Nữ Chân Hải Tây ở cách xa một chút thì nghèo hơn một chút, Nữ Chân Dã Nhân ở xa hơn nữa thì hoàn toàn dựa vào săn bắn để mưu sinh, sống một cuộc sống gần như hoang dã.
Thế lực của ba bộ lạc này yếu ớt, cho nên ngoan ngoãn, kính cẩn với Đại Minh nhất. Từ năm Vĩnh Lạc tới nay, ba bộ lạc này chưa từng ngừng triều cống. Tuy triều đình nhà Minh không chính thức định giá để bán buôn công khai nhưng vẫn cho phép bọn họ giao dịch chợ đen những hàng hoá mang theo.
Người Nữ Chân đổi ngựa, lông chồn, ưng bắc và các loại lâm sản như cao dán, nhân sâm, nấm mèo, nấm ăn, hạt thông để lấy những công cụ sản xuất bằng sắt và các vật phẩm như gạo, muối, vải, lụa, nồi niêu, áo quần. Có thể nói bọn họ lệ thuộc vào người Hán rất nhiều.
Hàng hóa bọn họ giao dịch nhiều nhất với Đại Minh là nhân sâm. Nhưng phương pháp gia công của bọn họ lại hết sức đơn giản: nhân sâm đào được từ trong núi ra được ngâm vào trong nước để tránh hư thối làm giảm chất; song nhân sâm ngâm nước cũng khó giữ được lâu, thương nhân nhà Minh chỉ cần hơi lần lữa là người Nữ Chân do sợ nhân sâm bị hỏng nát sẽ đành phải bán với giá rẻ mạt.
Bọn họ lại không nghĩ ra được cách nào tốt hơn để kéo dài thời gian tồn trữ, vì vậy chịu rất nhiều thiệt thòi. Cho nên bọn họ sốt sắng với việc kết minh với Đại Minh nhất, chỉ mong ký kết hiệp ước xong triều đình Đại Minh có thể định ra giá cả công bằng, bọn họ khỏi bị thương nhân bóc lột.
Thông qua mật thám Dương Lăng cũng đã hiểu được những chuyện này. Do đó khi thấy trong các bộ lạc có sứ thần của Nữ Chân Tam bộ, đoán rằng trong lều sẽ không có gì hung hiểm nên y không hề lo sợ gì mà bước vào, khiến đám người Nặc Mộc Đồ có phần bất ngờ.
Bước vào trong lều, Dương Lăng thấy có hai chiếc bàn dài đặt ở hai bên, trên bàn bày vài thứ trông giống như sữa đặc và trà sữa, y bước sang ngồi vào bàn bên phải. Sứ giả các bộ lạc bước vào lều trông thấy Dương Lăng đang mỉm cười ngồi ở đó, đưa tay sang phía bàn đối diện:
- Mời các vị ngồi.
Thấy y phản khách vi chủ, như thể y mới là chủ nhân của căn lều này, đám người Nặc Mộc Đồ không khỏi đưa mắt nhìn nhau cười khổ. Sáu người bọn họ đành phải ngồi vào bàn đối diện, Nặc Mộc Đồ ngồi giữa. Khách và chủ vừa ổn định chỗ ngồi, chủ đề chính cũng chính thức được bắt đầu.
Nặc Mộc Đồ lên tiếng trước:
- Đại thủ lĩnh Hoa Đáng nghe nói Hoàng đế Đại Minh vì tỏ rõ thành tâm đã đích thân đến Đại Đồng, cảm thấy sợ hãi vô cùng, cho nên đã dẫn các vị thủ lĩnh của Đoá Nhan Tam Vệ và Nữ Chân Tam Bộ vượt nghìn dặm xa xăm chạy đến ra mắt.
Thuở Hoàng đế Vĩnh Lạc dẹp yên biến loạn(1) đến nay, Đoá Nhan Tam Vệ vẫn luôn giao hảo cùng Đại Minh, nhưng quan binh Đại Minh lại coi chúng tôi là mọi rợ, chèn ép ức hiếp, giao dịch bất công. Ngày trước tổng binh Đại Minh lại coi dân chúng Tam Vệ tay không tấc sắt chạy đến buôn bán của chúng tôi là quân lính Thát Đát đến xâm phạm biên giới mà bắn giết lĩnh công, bêu đầu hơn ba trăm người ngoài thành, khiến cho các bộ lạc Tam Vệ chúng tôi đau đớn không thôi.
Đại nhân, Đoá Nhan Tam Vệ xưa nay vẫn luôn tự cho mình là phiên thuộc của Đại Minh. Nhưng khi Ngõa Lạt xâm phạm chúng tôi, chúng tôi quay sang cầu viện thì triều đình Đại Minh lại nhắm mắt làm ngơ, trái lại Bá Nhan Khả Hãn lại dẫn quân đến cứu. Tông chủ không thể cậy nhờ, trăm họ Tam Vệ vì vậy mà run rẩy.
Lại nói, tuy Nữ Chân Tam Bộ triều cống mỗi năm, nhưng chính sách an ủi biên dân của vệ Liêu Đông lại không có gì đáng khen ngợi, khiến cho dân chúng ngả lòng thoái chí. Nay đại thủ lĩnh Hoa Đáng và tù trưởng các bộ lạc tuy có lòng kết giao hữu nghị cùng Đại Minh, song chỉ e lòng người khó phục, không biết Dương đại nhân lấy gì để chỉ bảo cho tôi?
Nặc Mộc Đồ nói ngay vào điểm chính, không chút kiêng dè mà hạ thấp uy tín triều đình nhà Minh, rồi thầm quan sát sắc mặt Dương Lăng. Dương Lăng híp mắt cười, vừa lắng nghe vừa cầm bát trà sữa uống một hớp, rồi đặt nó xuống bàn nhón lấy một miếng phó mát, cắn từng miếng một nhấm nháp mùi vị của nó, ra vẻ điềm nhiên như không.
Nặc Mộc Đồ vốn tưởng rằng nói xong mấy câu nghe không lọt lỗ tai thì vị cao quan Đại Minh dáng vẻ kiêu ngạo ngất trời này nhất định sẽ nổi giận, khi ấy hắn sẽ có thể thừa dịp tuôn ra những câu chữ đã chuẩn bị sẵn. Nào ngờ Dương Lăng lại ra vẻ điềm nhiên như vậy khiến Nặc Mộc Đồ thầm thấy lạnh người. Ban đầu hắn kể lể đến độ xúc động không thôi, đau lòng tột độ, đến lúc sau lại khô khan nhạt nhẽo, mất đi khí thế.
Dương Lăng nghe hắn kể xong mấy chuyện cũ rích này, rồi cười lớn nói:
- Thảng như Đoá Nhan Tam Vệ và triều đình nhà Minh trước nay không hề có hiềm khích gì, vậy thì hôm nay chúng ta hẳn sẽ có thể nói chuyện trên trời dưới đất, cùng nhau nâng chén cười đùa rồi, cần chi nhọc công Hoàng đế bệ hạ và thủ lĩnh Hoa Đáng phải gặp mặt?
Thấy Nặc Mộc Đồ vừa mở miệng liền hùng hổ chỉ trích triều đình nhà Minh bao lần thất tín, Dương Lăng liền biết bọn họ làm vậy là để những bước tiếp theo có thể tăng thêm lợi thế trong việc kết minh, cho nên y tin tưởng Hoa Đáng thật sự thành tâm ký kết hiệp ước.
Y buông miếng pho mát xuống, phủi phủi tay, thong dong bình tĩnh nói tiếp:
- Biên quân của triều đình nhà Minh vốn có sẵn thù oán xung đột cùng Đoá Nhan Tam Vệ và Nữ Chân Tam Bộ, nhưng nếu nói là triều đình Đại Minh không tốt với các người, thì thật là bất công rồi.
Y thu lại nụ cười trên khuôn mặt, nghiêm túc:
- Từ thời Hồng Vũ đến nay, Đại Minh đối đãi với người Mông Cổ có ý cậy nhờ triều đình hết sức rộng lượng và nhân ái, việc này có chứng cứ chép lại. Năm Hồng Vũ thứ mười lăm, khi Tốc Ca Thiếp Mộc Nhi, Hoàn Giả Thiếp Mộc Nhi quy thuận, năm Vĩnh Lạc thứ mười sáu, lúc Hỉ Lạc Ôn Hà, Khâm Chân Hà đến chầu, Đại Minh chẳng những an bài nơi ở, mà còn cung cấp cơm áo và dê bò, tiền bạc cùng vải lụa, có thể nói là muốn gì được nấy.
Bất cứ cuộc chiến nào người Hán ta cũng đều phải tham gia, thế nhưng đối với thổ quân (người Mông Cổ, Triều Tiên và Nữ Chân) xuôi nam định cư, một người đi lính thì những huynh đệ con cháu khác đều được miễn quân dịch, giảm nhẹ thuế khoá, điều đó khó mà tin được. Đoá Nhan Tam Vệ ở Liêu Đông càng không phải làm sai dịch, không phải nộp thóc thuế, không phải phục dịch, những chuyện này sứ giả Nặc Mộc Đồ ngài hẳn không thể không biết?
Đại Minh thiết lập buôn bán với các vị, cũng không phải vì triều đình không có ngựa trâu, đại để là vì mọi vật dụng của các bộ lạc ngoài quan ngoại đều từ Đại Minh ta, triều đình cho phép buôn bán cũng là vì nhân ái vỗ về dân chúng nơi biên tái. Năm Vĩnh Lạc thứ mười lăm, Ngột Lương Cáp gặp phải đại hạn, chỉ dùng nghìn thớt ngựa đổi tới ba trăm xe gạo của Đại Minh ta, đã cứu sống được vô số người.
Thế nhưng các người đã làm gì?
Trong sự biến Thổ Mộc Bảo, các ngươi thất tín bội nghĩa quay sang thờ Ngoã Lạt. Mới hơi gặp thiên tai nhân họa liền coi Đại Minh là kho lúa đương nhiên, quấy nhiễu biên quan, giết hại bá tánh, ba lòng hai ý với Đại Minh và Thát Đát, bắt cá hai tay!
Tục ngữ có câu: một thăng (bằng 1/10 đấu) gạo ơn hơn đấu gạo thù. Khi một người sắp chết đói, cho hắn một thăng gạo hắn sẽ coi ngài là ân nhân; nhưng nếu ngài cho hắn một đấu gạo, hắn sẽ nghĩ rằng nếu ngươi đã có thể lấy ra một đấu gạo, vậy sẽ có thể cho ta nhiều hơn, nếu ngươi không cho ta, thì ngươi chính là kẻ thù của ta, ta sẽ tự tay cướp lấy. Chẳng phải Đoá Nhan Tam Vệ cũng đối xử với Đại Minh như vậy à? Lòng tham không đáy, vong ơn phụ nghĩa!
Thử hỏi nếu như không có những việc đã qua, thì sao có thể tạo ra cái cớ cho những quan binh hám lợi đen lòng, tham tiếc công lao nhận xằng ban thưởng? Và triều đình sao sẽ nhắm mắt làm ngơ khi Ngoã Lạt tấn công Đoá Nhan Tam Vệ?
Lời của Dương Lăng khiến Nặc Mộc Đồ nghe mà tím tái mặt mày, đám sứ giả nhấp nhổm như ngồi trên lửa, thân thể xoay đi vặn lại rất không thoải mái.
Dương Lăng dịu giọng nói tiếp:
- Đương nhiên, những việc này phần lớn đều là chuyện cũ. Vệ sở biên quân ta bởi những hiềm khích này mà quả thật cũng từng khiến cho dân chúng bình thường của Đoá Nhan Tam Vệ bị giết hại, đôi bên vì vậy mỗi lúc một tách xa nhau, mất lòng tin cậy. Chính bởi vì vậy, Hoàng đế bệ hạ của Đại Minh ta mới đích thân đến Đại Đồng, muốn cùng đại thủ lĩnh Hoa Đáng đích thân ký kết minh ước, giúp đỡ lẫn nhau, mãi mãi là đồng minh.
Nặc Mộc Đồ hít vào một hơi rồi cười xảo quyệt nói:
- Chắc không chỉ có vậy, đúng không? Đại Minh muốn kết minh cùng chúng tôi, ngoài giao dịch buôn bán, không phải còn yêu cầu chúng tôi trở mặt với Ngoã Lạt, ngăn chận vó ngựa của thiết kỵ Thát Đát, hưởng ứng hỗ trợ lẫn nhau sao?
Dương Lăng nén giận đáp:
- Không sai! Có con cọp dữ Thát Đát này, Đại Minh chịu rất nhiều thiệt hại. Đóa Nhan Tam Vệ cũng bị bọn chúng ức hiếp không ít phải không? Nay bảy vạn đại quân Thát Đát đang hao binh tổn tướng ngoài thành Đại Đồng mà lại chẳng được ích lợi gì. Một khi bầy cọp khổ sói đói cúp đuôi chạy về đại mạc, Đóa Nhan Tam Vệ sẽ là kẻ đứng đầu sóng ngọn gió.
Đoàn kết thì cả hai cùng có lợi, mà chia rẽ thì cả hai đều có hại. Tin rằng đại thủ lĩnh Hoa Đáng nhìn xa trông rộng đã thấy được điểm này, nên mới vui vẻ đồng ý ký kết hiệp ước cùng Đại Minh, giúp nhau công thủ, cùng đối phó với mối họa này chứ nhỉ?
Nặc Mộc Đồ mỉm cười lắc đầu nói:
- Dương đại nhân! Đại thủ lĩnh Hoa Đáng cảm động thành tâm của Hoàng đế bệ hạ Đại Minh cho nên mới chạy đến triều bái. Hẳn ngài cũng biết, nếu một ngày nào đó trở mặt với Thát Đát, Đoá Nhan Tam Vệ của chúng tôi sẽ là kẻ đứng mũi chịu sào, sẽ chịu phải áp lực to lớn vô cùng, mà nếu như triều đình Đại Minh bỏ mặc không để ý, khi ấy Đoá Nhan Tam Vệ một cây xây chẳng nên nhà, thực khó mà là đối thủ của Thát Đát được.
Tương tự, nếu như chúng tôi nhắm mắt làm ngơ trước sự tranh đấu giữa Đại Minh và Thát Đát, thì cho dù thiết kỵ Thát Đát ngoài thành Đại Đồng có tổn thương nặng nề hơn đi nữa, một khi trở về thảo nguyên nghỉ ngơi lấy sức, không tới hai năm, nanh nhọn vuốt bén liền sẽ mọc lại.
Chúng tôi và Thát Đát cùng là hậu duệ của Đại Nguyên, cho dù bọn họ có lúc cướp bóc chúng tôi, song cũng sẽ không đuổi tận giết tuyệt. Rốt cuộc bất luận là vì giang sơn Đại Minh màu mỡ hay là vì báo thù, bọn họ vẫn sẽ tìm đến các vị, biên giới Đại Minh sẽ vì vậy mà mãi mãi không ngày yên bình.
Cho nên e rằng Đại Minh còn phải cấp bách đối phó với Thát Đát hơn Đoá Nhan Tam Vệ chúng tôi nhiều, đúng không? Không biết Hoàng đế bệ hạ sẽ đưa ra điều kiện gì để có được sự tín nhiệm của chúng tôi đây?
Ánh mắt Dương Lăng thoáng loé lên, y mỉm cười nói:
- Không sai! Trước mặt người ngay không nói lời giả dối, chúng ta đích thực có ý muốn làm suy yếu thế lực của Bá Nhan. Giống chim dữ này mà không trừ, vùng cửu biên đích thật không được ngày bình yên, mà khiến cho Thát Đát suy yếu đối với Đoá Nhan Tam Vệ chỉ có trăm lợi mà không hại.
Nói rồi y cầm bát trà sữa lên, mặc kệ mùi vị khó chịu hớp một ngụm nhỏ, rồi cúi đầu ngẫm nghĩ: "Tay Nặc Mộc Đồ này tuyệt không phải là sứ giả tầm thường. Sứ giả các bộ lạc khác chỉ biết làm theo hắn, nhất định hắn là người được Hoa Đáng tin tưởng nhất. Xem ra hôm nay nếu muốn nắm rõ được điểm mấu chốt để hợp tác với Đoá Nhan Tam Vệ, chuẩn bị để Hoàng đế ra mặt đàm phán, thì sẽ phải trông cậy vào hắn đây."
Nghĩ đến đây, Dương Lăng đặt bát trà sữa xuống, khẽ mỉm cười nói:
- Giang sơn chúng ta rộng lớn vô cùng, đồng thời cũng không giỏi việc du mục và cưỡi ngựa săn bắn. Đại Minh không hề có dã tâm gì với tái ngoại, chỉ hy vọng làm sao biên cảnh nước ta có thể được yên ổn, dân chúng có thể an cư lạc nghiệp mà thôi. Như nay Ngõa Lạt đã yếu thế, nếu như Thát Đát dưới sự hợp lực tấn công của Đại Minh và Đoá Nhan Tam Vệ mà biến thành cát vụn thì vị trí ông vua của sa mạc thảo nguyên này sẽ do ai đảm nhiệm?
Thần sắc Nặc Mộc Đồ thoáng biến đổi, liền đó bình tĩnh lại, hắn điềm nhiên cười nói:
- Bá Nhan là con cháu của Thành Cát Tư Hãn! Trên thảo nguyên hắn có một sức hiệu triệu không gì sánh bằng, nếu hắn không thể làm vua của sa mạc, tin rằng cũng sẽ không có ai có thể thay thế hắn.
Dương Lăng đẩy bàn cười lớn, đoạn đứng dậy nói:
- Thành Cát Tư Hãn? Thử hỏi trước thời Thành Cát Tư Hãn, ai là vua của sa mạc? Sau thời Thành Cát Tư Hãn thì sẽ không còn anh hùng nào có thể thống trị mảnh đất này nữa hay sao? Uy thế còn lại của hắn kéo dài xuống cho con cháu đến mấy trăm năm cũng là hết mức rồi. Trung nguyên chúng ta có câu ngạn ngữ: "vương hầu quan tướng, chẳng lẽ sinh ra đã vậy"? Sao biết đại thủ lĩnh Hoa Đáng sẽ chẳng có một ngày trở thành Hoa Đáng Khả Hãn?
Trong mắt Nặc Mộc Đồ lờ mờ hiện lên hai ngọn lửa, cặp mắt nóng rực nhìn Dương Lăng chằm chằm rồi hỏi:
- Dương đại nhân nói vậy... là có ý gì? Đoá Nhan Tam Vệ là ba vệ phiên thuộc Hoàng đế bệ hạ. Phải chăng Hoàng đế bệ hạ có ý... có ý cho phép chúng tôi tự lập, không còn mang thân phận là vệ phụ thuộc nữa?
Dương Lăng cười ha hả đáp:
- Đương kim thiên tử Đại Minh sáng suốt anh minh, nhìn xa trông rộng. Đoá Nhan Tam Vệ ngoại trừ một cái hư danh thì đã sớm đã có hình thể một nước, đã bao giờ làm hết bổn phận chư hầu với Đại Minh? Thay vì vậy, thà rằng giao hảo bình đẳng còn hơn. Hoàng thượng nguyện phò trợ đại thủ lĩnh Hoa Đáng ngồi trên ngôi báu của quan ngoại, đời đời kiếp kiếp, mãi là láng giềng hoà thuận của Đại Minh.
Nặc Mộc Đồ chợt đứng bật dậy, nhìn Dương Lăng chằm chằm với vẻ khó tin, giọng run rẩy:
- Lời này thật chứ?
Dương Lăng đáp:
- Đương nhiên! Bằng không, chỉ với cương vị Chỉ huy đồng tri một vệ phụ thuộc Đại Minh của đại thủ lĩnh Hoa Đáng mà Hoàng thượng đích thân đến gặp, há chẳng phải là trò cười lớn ư?
Vừa nói y vừa nghĩ thầm trong bụng: "Thực ra mang cái hư danh này, trên thực tế thế lực triều đình Đại Minh lại không thể nào động chạm, khống chế được các ngươi; các người thì có được cái ô lớn như vậy, mà triều đình thì lại không thể dụng binh với các người. Có vùng đất khó nhằn như Liêu Ninh, Cát Lâm và Hắc Long Giang rồi, chẳng lẽ còn phải giữ nuôi người Nữ Chân thành một con cọp lớn hay sao?
Thà rằng cứ cho ngươi một cái hư danh, vỗ về một phần dã tâm của các ngươi. Bất luận thế nào các người cũng sẽ không thể đối phó được với Thát Đát, quân chúng ta chỉ cần xuất quan, lập tức các ngươi sẽ giúp đỡ hỗ trợ dẫn đường. Dần dần chúng ta sẽ quen với tình hình quan ngoại. Đến khi Thát Đát sụp đổ rồi, quân của chúng ta cũng đã hoá thành mãnh hổ. Sau đó lại tìm cớ khởi binh với đám dân một nghìn tự hao tám trăm các ngươi, hơn nữa không chỉ đơn thuần là chinh phạt phiên thuộc ngỗ ngược như trước đây, mà là cướp đoạt lấy hoàn toàn. Các ngươi không muốn làm phiên thuộc, vậy ta sẽ nấu các ngươi thành khoai luộc*!" (*: phiên thuộc (fānshǔ) đọc na ná như khoai lang (fānshǔ))
Sứ giả của các vệ ngồi bên cạnh ngơ ngác nhìn nhau. Hiển nhiên điều kiện mà Đại Minh đề ra thật sự nằm ngoài dự liệu của bọn họ, nói trắng ra thì đây chỉ là một tấm séc khống không có bất kỳ lợi ích thực tế nào.
Nhưng Đại Minh xưa nay vốn chỉ coi trọng hư danh, không xem trọng lợi ích, chỉ cần một câu phiên thuộc về mặt danh nghĩa, thì cho dù không thể thu về một đồng bạc thuế hay thi hành chút quyền lực hành chính nào với bọn họ, Đại Minh cũng vẫn nguyện ý mang vàng kim bạc trắng ra đổi. Trong mắt những đứa con thảo nguyên luôn chống chọi với đất trời, giãy giụa trong những điều kiện khắc nghiệt để tìm cách sinh tồn này, bọn họ không thể nào hiểu được thứ tư duy trái khoáy này của Đại Minh.
Nay đột nhiên nghe được sự cho phép động trời này, nhất thời khiến bọn họ giật nẩy mình. Sự cho phép này quả thật là quá hấp dẫn, giống như một tên ăn mày vốn định gõ cửa nhà anh xin một chiếc bánh bao chay lót dạ, nhưng anh lại đưa chìa khoá nguyên căn nhà cho hắn, nói rằng từ hôm nay căn nhà này sẽ thuộc về hắn. Bọn họ rúng động xong thì cảm thấy như đang mơ vậy, nhất thời không dám tin đó là thật.
Khuôn mặt đỏ bừng của Nặc Mộc Đồ càng trở nên đỏ rực, hắn chợt xoay người bước chậm rãi trong lều, ánh mắt lập loè, dường như trong lòng tranh đấu không thôi. Có đáng tin không? Đại Minh thật sự chịu đưa ra điều kiện hậu hĩ đến như vậy ư? Từ thủ lĩnh, vọt một cái liền trở thành Khả Hãn!
Đoá Nhan Tam Vệ không có thực lực này, nhưng nếu có binh lực và tài lực của Đại Minh chống đỡ thì sao? Khi ấy sẽ có thể hay không? Khả Hãn! Vua của thảo nguyên! Nhưng mà... rốt cuộc thì Đại Minh thành tâm cỡ nào đây?
Nghĩ đến đây, chợt nảy ra một kế, tức thì Nặc Mộc Đồ xoay người lại nói:
- Chuyện này thật sự quá trọng đại, tôi cần phải bẩm báo lại với Đại thủ lĩnh rồi mới có thể trả lời với đại nhân được.
Đoạn hắn ranh mãnh nói tiếp:
- Nếu cứ vậy mà quay về bẩm báo, chỉ sợ đại thủ lĩnh Hoa Đáng của tệ bộ cũng khó mà tin được. Bởi trước nay quốc sách của Đại Minh đối với Đoá Nhan Tam Vệ luôn luôn thay đổi, nói một đằng làm một nẻo, thậm chí là đối với chuyện liên minh với Đại Minh lần này, cũng có rất nhiều quý tộc trong bộ lạc mang lòng nghi hoặc.
Vì vậy lúc bản sứ giả phụng mệnh đến gặp đại nhân, các vị thủ lĩnh có đề ra hai điều kiện. Nếu có thể tin rằng các vị cho phép Đoá Nhan Tam Vệ tự lập, đồng thời phò trợ chúng tôi đối phó với Thát Đát thì sẽ đề xuất hai điều kiện này. Bản sứ giả không ngại đề xuất điều kiện hợp tác ra trước, sau đó quay về bẩm báo với Đại thủ lĩnh; cũng xin đại nhân đem báo cáo lại điều kiện của chúng tôi cho Hoàng đế bệ hạ Đại Minh.
Chú thích:
(1) nhắc đến Minh Thành Tổ phát động chiến dịch lớn tiêu diệt các đạo quân Mông Cổ quấy phá ở sa mạc Gobi.
Ngoài cổng Đắc Thắng, trên một dãy núi non trùng điệp, một trăm kỵ sĩ oai phong lẫm liệt đang trèo đèo vượt núi, chậm rãi đi trên con đường quanh co khúc khuỷu. Liễu Bưu, Kinh Phật Nhi, Ngũ Hán Siêu và Lưu Đại Bổng Chùy, bốn người cải trang làm thị vệ cận thân, Hứa Thái cải trang làm thủ lĩnh thị vệ, cả nhóm đi ngay sau ngựa Dương Lăng.
Đằng trước hiện ra một bãi đất trống,nằm ngay bên dưới gò núi đầy cây cối um tùm, những tia nắng đầu tiên vừa rọi tới nơi này, ba chiếc lều lẻ loi sắp thành hình tam giác được dựng trên mặt tuyết.
Vài gã Mông Cổ đang cưỡi ngựa lững thững quay về, bọn họ nhảy xuống khỏi lưng ngựa trơn nhẵn, dắt ngựa tới trước lều bạt, gã thì trùm yên lên lưng ngựa, gã thì lau binh khí. Cả ba đều có bộ dạng kiêu ngạo, như thể không thèm đặt hơn trăm quan binh Đại Minh hàng ngũ chỉnh tề, khí thế oai nghiêm này vào trong mắt.
Ánh mắt Dương Lăng quét qua khuôn mặt lười nhác của mấy gã Mông Cổ nọ, cánh tay khẽ giơ lên, một trăm viên kỵ sĩ lập tức ghìm cương ngựa. Hơn trăm kỵ sĩ dừng ngoài một tầm tên, không chút tiếng động, tất cả đều im phăng phắc.
Chính Đức, Hồ Toản và Dương Nhất Thanh không yên tâm khi Dương Lăng chỉ mang theo một trăm thị vệ, vốn định phái hai nghìn binh mã hộ giá, nhưng Dương Lăng chỉ đáp một câu: "Hoa Đáng mang theo năm nghìn binh mã nghìn dặm xa xôi mạo hiểm băng qua địa bàn của Thát Đát không phải để tập kích giết chết một khâm sai đại thần tôi đâu", rồi cự tuyệt luôn.
Đàm phán chính yếu là khí thế. Đoá Nhan Tam Vệ chỉ xuất binh tổng cộng năm nghìn, đặc sứ tiên phong chỉ có ba lều trại vào khoảng năm mươi người. Nếu xua đại quân trùng trùng điệp điệp mà đi thì vừa nâng cao khí thế đối phương lại dễ khiến cho bọn họ khinh thường.
Tuy nhiên, Đoá Nhan Tam Vệ là thuộc quốc của Đại Minh, thủ lĩnh tối cao của Tam Vệ được ban cho chức Chỉ huy đồng tri, là quan tòng tam phẩm, tuy nay đã chỉ còn tồn tại trên danh nghĩa, nhưng dẫu sao Đoá Nhan Tam Vệ vẫn chưa công khai tuyên bố phản lại Đại Minh.
Dương Lăng là thủ lĩnh Ngự tiền thân quân, là võ tướng chánh tam phẩm, lại mang thân phận khâm sai, cho dù là đối diện với Hoa Đáng thì vai vế cũng chỉ có cao hơn chứ không thấp hơn, huống hồ chỉ là mấy sứ giả của Hoa Đáng? Lúc Dương Lăng ra khỏi ải đã phái thị vệ đi trước báo tin, như vậy rõ ràng những đặc sứ này đã biết tin cả rồi thế mà lại co chân gác gối không thèm ra đón, mấy tên thân quân cũng ra vẻ ngạo mạn khinh đời, rõ ràng là bọn họ không đặt triều đình nhà Minh vào mắt.
Hứa Thái thấy vậy tức thì sôi máu, thúc ngựa đi đến cạnh Dương Lăng dựng xếch cặp mày kiếm thưa:
- Đại nhân, Đoá Nhan Tam Vệ thực to gan! Rõ là đã biết khâm sai triều đình đến rồi thế mà lại vô lễ như vậy! Chi bằng chúng ta hãy về đi! Không thể để oai phong Đại Minh bị tổn hại được!"
Kinh Phật Nhi liếm cái môi mỏng lét của mình, một vẻ khát máu hiện trên khuôn mặt, nói:
- Đại nhân, bất kính với sứ thần thiên triều là tội lớn không tha. Đại nhân hãy hạ lệnh cho mạt tướng lóc hết ruột gan phèo phổi của đám này đi, để tên tiểu tử Hoa Đáng đó phái mấy đứa biết điều hơn ra nói chuyện.
Dương Lăng cười cười, nhẹ nhàng đáp:
- Chẳng qua là Đoá Nhan Tam Vệ đang thử dò xét quyết tâm liên kết đồng minh của triều đình mà thôi! Dẫu sao thì bọn họ cũng đã từng ăn quá nhiều quả đắng, không cần phải so đo với những kẻ thô lỗ này. Bản quan nói cho các ngươi hay, đàm phán cũng giống như là bán buôn vậy, kẻ cười trước chưa chắc đã là kẻ thắng lợi sau cùng. Hôm nay ta cúi đầu ba lần với hắn, đổi lấy việc hắn phải dập đầu ba mươi cái thì mới quay về. Đi, bảo sứ giả của Đoá Nhan Tam Vệ ra đón!
Kinh Phật Nhi nghi hoặc nhìn Dương Lăng, rồi thúc ngựa vung roi phi đến trước lều hô to thông báo đặc sứ Hoàng đế Đại Minh đã tới, lệnh cho sứ giả Hoa Đáng ra đón. Sau một chốc, ba chiếc lều lớn lần lượt được mở ra, mấy chục sứ giả Mông Cổ mặc áo chéo vai, ống tay rộng bước ra nghênh đón.
Lưu Đại Bổng Chùy ngạc nhiên hỏi:
- Đại nhân, sao ngài biết sứ giả bọn chúng đã sớm chuẩn bị xong rồi?
Dương Lăng lắc đầu đáp:
- Hữu dũng vô mưu! Hãy nhìn phía trước lều kìa!
Mấy viên thị vệ bên cạnh nghe vậy thì nhìn kỹ về phía trước, song nhìn mãi mà vẫn mù mờ không biết nên nhìn cái gì, chỉ có Hứa Thái và Ngũ Hán Siêu đồng loạt "a" lên, liền đó nhìn nhau cả cười.
Đêm qua tuyết tuy không lớn nhưng đã phủ khắp mặt đất. Mặt tuyết trước mặt lại bằng phẳng như gương, lóng lánh trong ánh nắng, chỉ có hai hàng vết vó ngựa, đương nhiên là do sứ giả Đại Minh thông báo chuyên sứ đã tới để lại. Trong khi đó, đằng trước ba chiếc lều trại tuy vẫn là một mảng trắng phau, nhưng ánh sáng phản chiếu lại lờ mờ ảm đạm, mặt tuyết bừa bãi lộn xộn, rõ ràng từ sáng sớm đã từng có mấy chục người tới lui giẫm đạp lên, quyết không thể do bốn năm tên cận vệ ở trước lều gây ra được.
Thấy bọn sứ thần đã túm tụm trước lều, Dương Lăng mới thúc bụng ngựa, dẫn thị vệ chậm rãi đi tới. Khi đã đến trước lều trại Lưu Đại Bổng Chùy liền vặn người nhảy xuống, đi tới bên ngựa Dương Lăng rồi quỳ một gối xuống. Dương Lăng xoay người vịn yên, chân điểm nhẹ trên lưng hắn rồi nhảy xuống đất.
Đám người Mông Cổ chen nhau đi tới, mặt mày tươi cười. Một gã đàn ông cao lớn đi đầu đặt một tay lên ngực, mỉm cười và chào bằng tiếng Hán hết sức lưu loát và đúng mực:
- Hoan nghênh ngài, sứ thần của thiên triều! Ta là sứ giả Nặc Mộc Đồ của bộ lạc Ngột Lương Cáp. Vị này là sứ giả Cách Nhật Lặc Đài của bộ lặc Ông Ngưu Đặc, sứ giả A Khất Mãi của bộ lạc Ô Tề Diệp Đặc, sứ giả Đậu Lý của Nữ Chân Kiến Châu, sứ giả Hồ Xích của Nữ Chân Hải Tây...
Hắn vừa giới thiệu vừa đưa mắt đánh giá Dương Lăng, thấy vị võ tướng nắm giữ thân quân lẫn Nội xưởng của Hoàng đế và là đại thần được Hoàng đế Đại Minh tín nhiệm nhất này mặc áo da cừu, đầu đội nón da chồn, chân mang giày da lợp nhung đen; vóc người như ngọc, khí chất phong lưu, cao quý mà không phô trương. Nếu không phải vì áo chưa thắt đai lụa nên vẫn có thể thấy được mãng bào thêu rồng nằm vàng óng lấp ló bên trong, thì y sẽ giống hệt như một công tử tôn quý.
Dương Lăng cũng quan sát vị sứ thần bộ lạc Ngột Lương Cáp có thế lực lớn nhất Đoá Nhan Tam Vệ này: thân thể cao lớn, tướng mạo hiên ngang, bước chân vững vàng, mặc dù trông cao lớn lực lưỡng nhưng cặp mắt lại lộ ra vẻ cơ trí và điềm tĩnh, khác xa vẻ chất phác thật thà của dân du mục Mông Cổ.
Bề ngoài y vẫn ung dung thản nhiên, trong lòng lại thầm nhủ: "Ai cũng nói người Mông Cổ kiêu dũng thiện chiến, thân thể lẫn khí phách tráng kiện mà lại thiếu mưu trí; nhưng trông vị sứ thần Nặc Mộc Đồ này thực không giống vậy. Tuy rằng hôm nay chỉ là cuộc tiếp xúc mang tính thăm dò, hiểu rõ mấu chốt điều kiện kết minh của đối phương, song xem ra cũng cần phải tập trung tinh thần, không thể sơ ý được."
Dương Lăng mỉm cười vòng tay vái chào một vòng, đôi bên khách sáo mấy câu, Nặc Mộc Đồ đưa tay làm động tác mời vào lều, nói:
- Dương đại nhân, mời! Chúng ta cùng vào lều nói chuyện.
Dương Lăng giũ giũ chiếc áo da rồi cũng không ngoái đầu mà ngang nhiên dẫn đầu bước vào, bỏ lại đám thị vệ bên ngoài. Nặc Mộc Đồ cùng đám sứ thần Cách Nhật Lặc Đài thấy vị sứ giả thiên triều này không mang thị vệ theo, đơn thương độc mã đi vào lều thì đều đưa mắt nhìn nhau, nét cười trên khuôn mặt vừa hiện lên lại lập tức giấu đi.
Bộ tộc Kiến Châu của Nữ Chân nằm sát cương thổ Đại Minh nhất, nhận được rất nhiều lợi ích thông qua việc giao dịch cùng Đại Minh - vừa chăn nuôi vừa cày cấy, còn biết một vài công nghệ đơn giản - là khu vực giàu có nhất trong số ba bộ tộc Nữ Chân. Tùy theo sự tiếp giáp xa gần với biên giới Đại Minh mà Nữ Chân Hải Tây ở cách xa một chút thì nghèo hơn một chút, Nữ Chân Dã Nhân ở xa hơn nữa thì hoàn toàn dựa vào săn bắn để mưu sinh, sống một cuộc sống gần như hoang dã.
Thế lực của ba bộ lạc này yếu ớt, cho nên ngoan ngoãn, kính cẩn với Đại Minh nhất. Từ năm Vĩnh Lạc tới nay, ba bộ lạc này chưa từng ngừng triều cống. Tuy triều đình nhà Minh không chính thức định giá để bán buôn công khai nhưng vẫn cho phép bọn họ giao dịch chợ đen những hàng hoá mang theo.
Người Nữ Chân đổi ngựa, lông chồn, ưng bắc và các loại lâm sản như cao dán, nhân sâm, nấm mèo, nấm ăn, hạt thông để lấy những công cụ sản xuất bằng sắt và các vật phẩm như gạo, muối, vải, lụa, nồi niêu, áo quần. Có thể nói bọn họ lệ thuộc vào người Hán rất nhiều.
Hàng hóa bọn họ giao dịch nhiều nhất với Đại Minh là nhân sâm. Nhưng phương pháp gia công của bọn họ lại hết sức đơn giản: nhân sâm đào được từ trong núi ra được ngâm vào trong nước để tránh hư thối làm giảm chất; song nhân sâm ngâm nước cũng khó giữ được lâu, thương nhân nhà Minh chỉ cần hơi lần lữa là người Nữ Chân do sợ nhân sâm bị hỏng nát sẽ đành phải bán với giá rẻ mạt.
Bọn họ lại không nghĩ ra được cách nào tốt hơn để kéo dài thời gian tồn trữ, vì vậy chịu rất nhiều thiệt thòi. Cho nên bọn họ sốt sắng với việc kết minh với Đại Minh nhất, chỉ mong ký kết hiệp ước xong triều đình Đại Minh có thể định ra giá cả công bằng, bọn họ khỏi bị thương nhân bóc lột.
Thông qua mật thám Dương Lăng cũng đã hiểu được những chuyện này. Do đó khi thấy trong các bộ lạc có sứ thần của Nữ Chân Tam bộ, đoán rằng trong lều sẽ không có gì hung hiểm nên y không hề lo sợ gì mà bước vào, khiến đám người Nặc Mộc Đồ có phần bất ngờ.
Bước vào trong lều, Dương Lăng thấy có hai chiếc bàn dài đặt ở hai bên, trên bàn bày vài thứ trông giống như sữa đặc và trà sữa, y bước sang ngồi vào bàn bên phải. Sứ giả các bộ lạc bước vào lều trông thấy Dương Lăng đang mỉm cười ngồi ở đó, đưa tay sang phía bàn đối diện:
- Mời các vị ngồi.
Thấy y phản khách vi chủ, như thể y mới là chủ nhân của căn lều này, đám người Nặc Mộc Đồ không khỏi đưa mắt nhìn nhau cười khổ. Sáu người bọn họ đành phải ngồi vào bàn đối diện, Nặc Mộc Đồ ngồi giữa. Khách và chủ vừa ổn định chỗ ngồi, chủ đề chính cũng chính thức được bắt đầu.
Nặc Mộc Đồ lên tiếng trước:
- Đại thủ lĩnh Hoa Đáng nghe nói Hoàng đế Đại Minh vì tỏ rõ thành tâm đã đích thân đến Đại Đồng, cảm thấy sợ hãi vô cùng, cho nên đã dẫn các vị thủ lĩnh của Đoá Nhan Tam Vệ và Nữ Chân Tam Bộ vượt nghìn dặm xa xăm chạy đến ra mắt.
Thuở Hoàng đế Vĩnh Lạc dẹp yên biến loạn(1) đến nay, Đoá Nhan Tam Vệ vẫn luôn giao hảo cùng Đại Minh, nhưng quan binh Đại Minh lại coi chúng tôi là mọi rợ, chèn ép ức hiếp, giao dịch bất công. Ngày trước tổng binh Đại Minh lại coi dân chúng Tam Vệ tay không tấc sắt chạy đến buôn bán của chúng tôi là quân lính Thát Đát đến xâm phạm biên giới mà bắn giết lĩnh công, bêu đầu hơn ba trăm người ngoài thành, khiến cho các bộ lạc Tam Vệ chúng tôi đau đớn không thôi.
Đại nhân, Đoá Nhan Tam Vệ xưa nay vẫn luôn tự cho mình là phiên thuộc của Đại Minh. Nhưng khi Ngõa Lạt xâm phạm chúng tôi, chúng tôi quay sang cầu viện thì triều đình Đại Minh lại nhắm mắt làm ngơ, trái lại Bá Nhan Khả Hãn lại dẫn quân đến cứu. Tông chủ không thể cậy nhờ, trăm họ Tam Vệ vì vậy mà run rẩy.
Lại nói, tuy Nữ Chân Tam Bộ triều cống mỗi năm, nhưng chính sách an ủi biên dân của vệ Liêu Đông lại không có gì đáng khen ngợi, khiến cho dân chúng ngả lòng thoái chí. Nay đại thủ lĩnh Hoa Đáng và tù trưởng các bộ lạc tuy có lòng kết giao hữu nghị cùng Đại Minh, song chỉ e lòng người khó phục, không biết Dương đại nhân lấy gì để chỉ bảo cho tôi?
Nặc Mộc Đồ nói ngay vào điểm chính, không chút kiêng dè mà hạ thấp uy tín triều đình nhà Minh, rồi thầm quan sát sắc mặt Dương Lăng. Dương Lăng híp mắt cười, vừa lắng nghe vừa cầm bát trà sữa uống một hớp, rồi đặt nó xuống bàn nhón lấy một miếng phó mát, cắn từng miếng một nhấm nháp mùi vị của nó, ra vẻ điềm nhiên như không.
Nặc Mộc Đồ vốn tưởng rằng nói xong mấy câu nghe không lọt lỗ tai thì vị cao quan Đại Minh dáng vẻ kiêu ngạo ngất trời này nhất định sẽ nổi giận, khi ấy hắn sẽ có thể thừa dịp tuôn ra những câu chữ đã chuẩn bị sẵn. Nào ngờ Dương Lăng lại ra vẻ điềm nhiên như vậy khiến Nặc Mộc Đồ thầm thấy lạnh người. Ban đầu hắn kể lể đến độ xúc động không thôi, đau lòng tột độ, đến lúc sau lại khô khan nhạt nhẽo, mất đi khí thế.
Dương Lăng nghe hắn kể xong mấy chuyện cũ rích này, rồi cười lớn nói:
- Thảng như Đoá Nhan Tam Vệ và triều đình nhà Minh trước nay không hề có hiềm khích gì, vậy thì hôm nay chúng ta hẳn sẽ có thể nói chuyện trên trời dưới đất, cùng nhau nâng chén cười đùa rồi, cần chi nhọc công Hoàng đế bệ hạ và thủ lĩnh Hoa Đáng phải gặp mặt?
Thấy Nặc Mộc Đồ vừa mở miệng liền hùng hổ chỉ trích triều đình nhà Minh bao lần thất tín, Dương Lăng liền biết bọn họ làm vậy là để những bước tiếp theo có thể tăng thêm lợi thế trong việc kết minh, cho nên y tin tưởng Hoa Đáng thật sự thành tâm ký kết hiệp ước.
Y buông miếng pho mát xuống, phủi phủi tay, thong dong bình tĩnh nói tiếp:
- Biên quân của triều đình nhà Minh vốn có sẵn thù oán xung đột cùng Đoá Nhan Tam Vệ và Nữ Chân Tam Bộ, nhưng nếu nói là triều đình Đại Minh không tốt với các người, thì thật là bất công rồi.
Y thu lại nụ cười trên khuôn mặt, nghiêm túc:
- Từ thời Hồng Vũ đến nay, Đại Minh đối đãi với người Mông Cổ có ý cậy nhờ triều đình hết sức rộng lượng và nhân ái, việc này có chứng cứ chép lại. Năm Hồng Vũ thứ mười lăm, khi Tốc Ca Thiếp Mộc Nhi, Hoàn Giả Thiếp Mộc Nhi quy thuận, năm Vĩnh Lạc thứ mười sáu, lúc Hỉ Lạc Ôn Hà, Khâm Chân Hà đến chầu, Đại Minh chẳng những an bài nơi ở, mà còn cung cấp cơm áo và dê bò, tiền bạc cùng vải lụa, có thể nói là muốn gì được nấy.
Bất cứ cuộc chiến nào người Hán ta cũng đều phải tham gia, thế nhưng đối với thổ quân (người Mông Cổ, Triều Tiên và Nữ Chân) xuôi nam định cư, một người đi lính thì những huynh đệ con cháu khác đều được miễn quân dịch, giảm nhẹ thuế khoá, điều đó khó mà tin được. Đoá Nhan Tam Vệ ở Liêu Đông càng không phải làm sai dịch, không phải nộp thóc thuế, không phải phục dịch, những chuyện này sứ giả Nặc Mộc Đồ ngài hẳn không thể không biết?
Đại Minh thiết lập buôn bán với các vị, cũng không phải vì triều đình không có ngựa trâu, đại để là vì mọi vật dụng của các bộ lạc ngoài quan ngoại đều từ Đại Minh ta, triều đình cho phép buôn bán cũng là vì nhân ái vỗ về dân chúng nơi biên tái. Năm Vĩnh Lạc thứ mười lăm, Ngột Lương Cáp gặp phải đại hạn, chỉ dùng nghìn thớt ngựa đổi tới ba trăm xe gạo của Đại Minh ta, đã cứu sống được vô số người.
Thế nhưng các người đã làm gì?
Trong sự biến Thổ Mộc Bảo, các ngươi thất tín bội nghĩa quay sang thờ Ngoã Lạt. Mới hơi gặp thiên tai nhân họa liền coi Đại Minh là kho lúa đương nhiên, quấy nhiễu biên quan, giết hại bá tánh, ba lòng hai ý với Đại Minh và Thát Đát, bắt cá hai tay!
Tục ngữ có câu: một thăng (bằng 1/10 đấu) gạo ơn hơn đấu gạo thù. Khi một người sắp chết đói, cho hắn một thăng gạo hắn sẽ coi ngài là ân nhân; nhưng nếu ngài cho hắn một đấu gạo, hắn sẽ nghĩ rằng nếu ngươi đã có thể lấy ra một đấu gạo, vậy sẽ có thể cho ta nhiều hơn, nếu ngươi không cho ta, thì ngươi chính là kẻ thù của ta, ta sẽ tự tay cướp lấy. Chẳng phải Đoá Nhan Tam Vệ cũng đối xử với Đại Minh như vậy à? Lòng tham không đáy, vong ơn phụ nghĩa!
Thử hỏi nếu như không có những việc đã qua, thì sao có thể tạo ra cái cớ cho những quan binh hám lợi đen lòng, tham tiếc công lao nhận xằng ban thưởng? Và triều đình sao sẽ nhắm mắt làm ngơ khi Ngoã Lạt tấn công Đoá Nhan Tam Vệ?
Lời của Dương Lăng khiến Nặc Mộc Đồ nghe mà tím tái mặt mày, đám sứ giả nhấp nhổm như ngồi trên lửa, thân thể xoay đi vặn lại rất không thoải mái.
Dương Lăng dịu giọng nói tiếp:
- Đương nhiên, những việc này phần lớn đều là chuyện cũ. Vệ sở biên quân ta bởi những hiềm khích này mà quả thật cũng từng khiến cho dân chúng bình thường của Đoá Nhan Tam Vệ bị giết hại, đôi bên vì vậy mỗi lúc một tách xa nhau, mất lòng tin cậy. Chính bởi vì vậy, Hoàng đế bệ hạ của Đại Minh ta mới đích thân đến Đại Đồng, muốn cùng đại thủ lĩnh Hoa Đáng đích thân ký kết minh ước, giúp đỡ lẫn nhau, mãi mãi là đồng minh.
Nặc Mộc Đồ hít vào một hơi rồi cười xảo quyệt nói:
- Chắc không chỉ có vậy, đúng không? Đại Minh muốn kết minh cùng chúng tôi, ngoài giao dịch buôn bán, không phải còn yêu cầu chúng tôi trở mặt với Ngoã Lạt, ngăn chận vó ngựa của thiết kỵ Thát Đát, hưởng ứng hỗ trợ lẫn nhau sao?
Dương Lăng nén giận đáp:
- Không sai! Có con cọp dữ Thát Đát này, Đại Minh chịu rất nhiều thiệt hại. Đóa Nhan Tam Vệ cũng bị bọn chúng ức hiếp không ít phải không? Nay bảy vạn đại quân Thát Đát đang hao binh tổn tướng ngoài thành Đại Đồng mà lại chẳng được ích lợi gì. Một khi bầy cọp khổ sói đói cúp đuôi chạy về đại mạc, Đóa Nhan Tam Vệ sẽ là kẻ đứng đầu sóng ngọn gió.
Đoàn kết thì cả hai cùng có lợi, mà chia rẽ thì cả hai đều có hại. Tin rằng đại thủ lĩnh Hoa Đáng nhìn xa trông rộng đã thấy được điểm này, nên mới vui vẻ đồng ý ký kết hiệp ước cùng Đại Minh, giúp nhau công thủ, cùng đối phó với mối họa này chứ nhỉ?
Nặc Mộc Đồ mỉm cười lắc đầu nói:
- Dương đại nhân! Đại thủ lĩnh Hoa Đáng cảm động thành tâm của Hoàng đế bệ hạ Đại Minh cho nên mới chạy đến triều bái. Hẳn ngài cũng biết, nếu một ngày nào đó trở mặt với Thát Đát, Đoá Nhan Tam Vệ của chúng tôi sẽ là kẻ đứng mũi chịu sào, sẽ chịu phải áp lực to lớn vô cùng, mà nếu như triều đình Đại Minh bỏ mặc không để ý, khi ấy Đoá Nhan Tam Vệ một cây xây chẳng nên nhà, thực khó mà là đối thủ của Thát Đát được.
Tương tự, nếu như chúng tôi nhắm mắt làm ngơ trước sự tranh đấu giữa Đại Minh và Thát Đát, thì cho dù thiết kỵ Thát Đát ngoài thành Đại Đồng có tổn thương nặng nề hơn đi nữa, một khi trở về thảo nguyên nghỉ ngơi lấy sức, không tới hai năm, nanh nhọn vuốt bén liền sẽ mọc lại.
Chúng tôi và Thát Đát cùng là hậu duệ của Đại Nguyên, cho dù bọn họ có lúc cướp bóc chúng tôi, song cũng sẽ không đuổi tận giết tuyệt. Rốt cuộc bất luận là vì giang sơn Đại Minh màu mỡ hay là vì báo thù, bọn họ vẫn sẽ tìm đến các vị, biên giới Đại Minh sẽ vì vậy mà mãi mãi không ngày yên bình.
Cho nên e rằng Đại Minh còn phải cấp bách đối phó với Thát Đát hơn Đoá Nhan Tam Vệ chúng tôi nhiều, đúng không? Không biết Hoàng đế bệ hạ sẽ đưa ra điều kiện gì để có được sự tín nhiệm của chúng tôi đây?
Ánh mắt Dương Lăng thoáng loé lên, y mỉm cười nói:
- Không sai! Trước mặt người ngay không nói lời giả dối, chúng ta đích thực có ý muốn làm suy yếu thế lực của Bá Nhan. Giống chim dữ này mà không trừ, vùng cửu biên đích thật không được ngày bình yên, mà khiến cho Thát Đát suy yếu đối với Đoá Nhan Tam Vệ chỉ có trăm lợi mà không hại.
Nói rồi y cầm bát trà sữa lên, mặc kệ mùi vị khó chịu hớp một ngụm nhỏ, rồi cúi đầu ngẫm nghĩ: "Tay Nặc Mộc Đồ này tuyệt không phải là sứ giả tầm thường. Sứ giả các bộ lạc khác chỉ biết làm theo hắn, nhất định hắn là người được Hoa Đáng tin tưởng nhất. Xem ra hôm nay nếu muốn nắm rõ được điểm mấu chốt để hợp tác với Đoá Nhan Tam Vệ, chuẩn bị để Hoàng đế ra mặt đàm phán, thì sẽ phải trông cậy vào hắn đây."
Nghĩ đến đây, Dương Lăng đặt bát trà sữa xuống, khẽ mỉm cười nói:
- Giang sơn chúng ta rộng lớn vô cùng, đồng thời cũng không giỏi việc du mục và cưỡi ngựa săn bắn. Đại Minh không hề có dã tâm gì với tái ngoại, chỉ hy vọng làm sao biên cảnh nước ta có thể được yên ổn, dân chúng có thể an cư lạc nghiệp mà thôi. Như nay Ngõa Lạt đã yếu thế, nếu như Thát Đát dưới sự hợp lực tấn công của Đại Minh và Đoá Nhan Tam Vệ mà biến thành cát vụn thì vị trí ông vua của sa mạc thảo nguyên này sẽ do ai đảm nhiệm?
Thần sắc Nặc Mộc Đồ thoáng biến đổi, liền đó bình tĩnh lại, hắn điềm nhiên cười nói:
- Bá Nhan là con cháu của Thành Cát Tư Hãn! Trên thảo nguyên hắn có một sức hiệu triệu không gì sánh bằng, nếu hắn không thể làm vua của sa mạc, tin rằng cũng sẽ không có ai có thể thay thế hắn.
Dương Lăng đẩy bàn cười lớn, đoạn đứng dậy nói:
- Thành Cát Tư Hãn? Thử hỏi trước thời Thành Cát Tư Hãn, ai là vua của sa mạc? Sau thời Thành Cát Tư Hãn thì sẽ không còn anh hùng nào có thể thống trị mảnh đất này nữa hay sao? Uy thế còn lại của hắn kéo dài xuống cho con cháu đến mấy trăm năm cũng là hết mức rồi. Trung nguyên chúng ta có câu ngạn ngữ: "vương hầu quan tướng, chẳng lẽ sinh ra đã vậy"? Sao biết đại thủ lĩnh Hoa Đáng sẽ chẳng có một ngày trở thành Hoa Đáng Khả Hãn?
Trong mắt Nặc Mộc Đồ lờ mờ hiện lên hai ngọn lửa, cặp mắt nóng rực nhìn Dương Lăng chằm chằm rồi hỏi:
- Dương đại nhân nói vậy... là có ý gì? Đoá Nhan Tam Vệ là ba vệ phiên thuộc Hoàng đế bệ hạ. Phải chăng Hoàng đế bệ hạ có ý... có ý cho phép chúng tôi tự lập, không còn mang thân phận là vệ phụ thuộc nữa?
Dương Lăng cười ha hả đáp:
- Đương kim thiên tử Đại Minh sáng suốt anh minh, nhìn xa trông rộng. Đoá Nhan Tam Vệ ngoại trừ một cái hư danh thì đã sớm đã có hình thể một nước, đã bao giờ làm hết bổn phận chư hầu với Đại Minh? Thay vì vậy, thà rằng giao hảo bình đẳng còn hơn. Hoàng thượng nguyện phò trợ đại thủ lĩnh Hoa Đáng ngồi trên ngôi báu của quan ngoại, đời đời kiếp kiếp, mãi là láng giềng hoà thuận của Đại Minh.
Nặc Mộc Đồ chợt đứng bật dậy, nhìn Dương Lăng chằm chằm với vẻ khó tin, giọng run rẩy:
- Lời này thật chứ?
Dương Lăng đáp:
- Đương nhiên! Bằng không, chỉ với cương vị Chỉ huy đồng tri một vệ phụ thuộc Đại Minh của đại thủ lĩnh Hoa Đáng mà Hoàng thượng đích thân đến gặp, há chẳng phải là trò cười lớn ư?
Vừa nói y vừa nghĩ thầm trong bụng: "Thực ra mang cái hư danh này, trên thực tế thế lực triều đình Đại Minh lại không thể nào động chạm, khống chế được các ngươi; các người thì có được cái ô lớn như vậy, mà triều đình thì lại không thể dụng binh với các người. Có vùng đất khó nhằn như Liêu Ninh, Cát Lâm và Hắc Long Giang rồi, chẳng lẽ còn phải giữ nuôi người Nữ Chân thành một con cọp lớn hay sao?
Thà rằng cứ cho ngươi một cái hư danh, vỗ về một phần dã tâm của các ngươi. Bất luận thế nào các người cũng sẽ không thể đối phó được với Thát Đát, quân chúng ta chỉ cần xuất quan, lập tức các ngươi sẽ giúp đỡ hỗ trợ dẫn đường. Dần dần chúng ta sẽ quen với tình hình quan ngoại. Đến khi Thát Đát sụp đổ rồi, quân của chúng ta cũng đã hoá thành mãnh hổ. Sau đó lại tìm cớ khởi binh với đám dân một nghìn tự hao tám trăm các ngươi, hơn nữa không chỉ đơn thuần là chinh phạt phiên thuộc ngỗ ngược như trước đây, mà là cướp đoạt lấy hoàn toàn. Các ngươi không muốn làm phiên thuộc, vậy ta sẽ nấu các ngươi thành khoai luộc*!" (*: phiên thuộc (fānshǔ) đọc na ná như khoai lang (fānshǔ))
Sứ giả của các vệ ngồi bên cạnh ngơ ngác nhìn nhau. Hiển nhiên điều kiện mà Đại Minh đề ra thật sự nằm ngoài dự liệu của bọn họ, nói trắng ra thì đây chỉ là một tấm séc khống không có bất kỳ lợi ích thực tế nào.
Nhưng Đại Minh xưa nay vốn chỉ coi trọng hư danh, không xem trọng lợi ích, chỉ cần một câu phiên thuộc về mặt danh nghĩa, thì cho dù không thể thu về một đồng bạc thuế hay thi hành chút quyền lực hành chính nào với bọn họ, Đại Minh cũng vẫn nguyện ý mang vàng kim bạc trắng ra đổi. Trong mắt những đứa con thảo nguyên luôn chống chọi với đất trời, giãy giụa trong những điều kiện khắc nghiệt để tìm cách sinh tồn này, bọn họ không thể nào hiểu được thứ tư duy trái khoáy này của Đại Minh.
Nay đột nhiên nghe được sự cho phép động trời này, nhất thời khiến bọn họ giật nẩy mình. Sự cho phép này quả thật là quá hấp dẫn, giống như một tên ăn mày vốn định gõ cửa nhà anh xin một chiếc bánh bao chay lót dạ, nhưng anh lại đưa chìa khoá nguyên căn nhà cho hắn, nói rằng từ hôm nay căn nhà này sẽ thuộc về hắn. Bọn họ rúng động xong thì cảm thấy như đang mơ vậy, nhất thời không dám tin đó là thật.
Khuôn mặt đỏ bừng của Nặc Mộc Đồ càng trở nên đỏ rực, hắn chợt xoay người bước chậm rãi trong lều, ánh mắt lập loè, dường như trong lòng tranh đấu không thôi. Có đáng tin không? Đại Minh thật sự chịu đưa ra điều kiện hậu hĩ đến như vậy ư? Từ thủ lĩnh, vọt một cái liền trở thành Khả Hãn!
Đoá Nhan Tam Vệ không có thực lực này, nhưng nếu có binh lực và tài lực của Đại Minh chống đỡ thì sao? Khi ấy sẽ có thể hay không? Khả Hãn! Vua của thảo nguyên! Nhưng mà... rốt cuộc thì Đại Minh thành tâm cỡ nào đây?
Nghĩ đến đây, chợt nảy ra một kế, tức thì Nặc Mộc Đồ xoay người lại nói:
- Chuyện này thật sự quá trọng đại, tôi cần phải bẩm báo lại với Đại thủ lĩnh rồi mới có thể trả lời với đại nhân được.
Đoạn hắn ranh mãnh nói tiếp:
- Nếu cứ vậy mà quay về bẩm báo, chỉ sợ đại thủ lĩnh Hoa Đáng của tệ bộ cũng khó mà tin được. Bởi trước nay quốc sách của Đại Minh đối với Đoá Nhan Tam Vệ luôn luôn thay đổi, nói một đằng làm một nẻo, thậm chí là đối với chuyện liên minh với Đại Minh lần này, cũng có rất nhiều quý tộc trong bộ lạc mang lòng nghi hoặc.
Vì vậy lúc bản sứ giả phụng mệnh đến gặp đại nhân, các vị thủ lĩnh có đề ra hai điều kiện. Nếu có thể tin rằng các vị cho phép Đoá Nhan Tam Vệ tự lập, đồng thời phò trợ chúng tôi đối phó với Thát Đát thì sẽ đề xuất hai điều kiện này. Bản sứ giả không ngại đề xuất điều kiện hợp tác ra trước, sau đó quay về bẩm báo với Đại thủ lĩnh; cũng xin đại nhân đem báo cáo lại điều kiện của chúng tôi cho Hoàng đế bệ hạ Đại Minh.
Chú thích:
(1) nhắc đến Minh Thành Tổ phát động chiến dịch lớn tiêu diệt các đạo quân Mông Cổ quấy phá ở sa mạc Gobi.
Tác giả :
Nguyệt Quan