Ngôi Nhà Cổ Trên Phố Tradd
Chương 6
Tôi dập mạnh nắp vali và chuẩn bị ngồi lên nó, cố đè xuống để đóng nó lại thì có tiếng chuông cửa. Lẽ ra tôi đã không thể nghe thấy tiếng chuông, nhưng vì khi ấy những bản nhạc trong CD đang chuyển từ bài “Waterloo” sang “SOS”, do đó có một khoảng lặng giữa các bản nhạc.
Tôi ghé nhìn vào lỗ nhìn trên cửa rồi nhanh chóng bước thụt lùi lại, hy vọng Jack đã không nhìn thấy tôi.
“Tôi nghe tiếng bước chân của cô rồi, Mellie. Giờ thì cô phải cho tôi vào thôi.”
“Anh đến quá muộn rồi,” tôi nói. “Và đừng có gọi tôi là Mellie nữa. Tên tôi là Melanie.”
“Tôi đâu có đến muộn nào. Cô bảo tôi đến vào tối nay để giúp cô dọn vài thứ qua nhà mới. Thì bây giờ tôi có mặt đây.”
“Ờ thì, giờ đã quá muộn rồi. Ðã đến giờ tôi phải đi ngủ và tôi đã thay đồ ngủ rồi. Ðối với nhiều người, buổi tối có nghĩa là trước chín giờ. Bây giờ chính thức đã là đêm rồi, không còn là buổi tối nữa.”
“Nhưng bây giờ chỉ mới chín giờ thôi mà.”
“Ðúng đấy. Và cũng gần đến giờ ngủ của tôi.”
Tôi nghe có tiếng uỳnh uỵch nhè nhẹ phía bên kia cánh cửa, và tôi tưởng tượng ra cảnh anh đang dập trán vào khung cửa. “Hôm nay tôi lục lọi được vài thứ hay hay mà tôi nghĩ cô sẽ muốn biết.”
Tôi yên lặng một lúc và suy tính.
“Bọn mình có thể đi đâu đó ăn tráng miệng, và tôi sẽ kể cho cô nghe mọi việc.”
“Tráng miệng à?” Tôi vờ như đang suy tính thiệt hơn trong một lúc. “Ðược thôi.” Tôi nhanh chóng dùng tay áo choàng tắm bằng vải bông xù màu hồng cọ sạch lớp mặt nạ dưỡng ẩm trên mặt rồi mở cửa. “Và trên đường về, ta có thể mang những cái vali của tôi sang nhà mới luôn.”
Jack giả vờ kinh hãi khi nhìn vào áo choàng tắm và đôi dép bằng vải bông xù của tôi. “Ồ, cô chẳng cần phải ăn mặc đẹp vì tôi đâu, cô biết rồi đấy.”
“Bây giờ đã đến giờ ngủ của tôi rồi, nhớ không?”
Anh lại nhướn mày. “À, thì, nếu thế, chúng ta chỉ cần ở lại trong nhà cũng được.”
Tôi chống nạnh. “Anh không thể ăn nói với một phụ nữ mà không phải chêm vào những lời gợi ý bóng gió về tình dục à? Chính vì những lời bình luận như thế khiến anh khó mà tạo được một mối quan hệ nghiêm túc với phụ nữ đấy, anh có biết không?”
Nụ cười vẫn còn đó trên mặt anh nhưng tia sáng trong đôi mắt anh lại mờ đi trong một khoảnh khắc. “Ðã trải qua hết cả rồi, việc gì cũng đã làm, kinh nghiệm đầy mình đây, giờ thì chẳng còn hứng thú nào mà lặp lại những việc ấy nữa. Cám ơn cô đã dạy bảo.”
À, ra là thế, tôi tự nhủ. Hàng bị hư hại đây. Như thể tôi còn cần thêm một lý do khác nữa để tránh xa anh chàng Jack Trenholm này.
Anh nhìn về một trong những chiếc loa hiệu Bose mà tôi chất trong góc phòng khách và chau mắt lại. “Tiếng ồn gì thế này?”
“Ðó là ABBA.”
“ABBA?”
“Họ bán nhiều đĩa còn hơn cả the Beatles đấy. Mà có lẽ anh cũng chưa bao giờ từng nghe đến the Beatles cũng nên.”
Jack gãi cằm. “Tôi có biết cả hai ban nhạc này. Chỉ có điều, tôi đã không nghe lại một bài nào của ABBA kể từ khi tôi còn ngồi ở băng ghế sau trong xe của mẹ tôi trong khi bà ấy nghe nhạc.”
Tôi bước đến giàn máy và tắt nhạc. “Thế thì không cần phải phí nhạc hay cho những cái tai không biết thưởng thức vậy.” Tôi hướng về phòng ngủ. “Ðể tôi đi thay quần áo. Chỉ một phút thôi.”
“Ðừng thay nhiều quá nhé,” anh lại nói với theo. “Tôi chỉ thích bản chất tự nhiên của cô thôi.”
Tôi không quay lại cho đến khi về đến phòng mình để anh không nhìn thấy tôi đang mỉm cười.
Khi tôi quay lại, anh đã ngồi thoải mái trên ghế sofa bằng da màu đen của tôi, hai chân gác lên bàn mặt kính trong khi tay thì lật xem tạp chí Tâm lý học ngày nay số mới nhất. Tôi thả những chiếc vali xuống đất, rồi đập tay vào giày của anh ta. “Bỏ xuống.”
“Dạ,” anh nói rồi trượt chân xuống sàn và đứng lên. Anh giơ cuốn tạp chí lên. “Hơi nặng nề nhỉ.”
Tôi cầm lấy cuốn tạp chí từ tay anh rồi đặt nó lại xuống mặt bàn, sắp cho các mép bìa thẳng hàng với ba cuốn khác trên ấy. “Không hiểu sao Sophie đặt mua báo ấy cho tôi. Tôi chỉ dùng nó để trang trí cho chiếc bàn thôi.”
Anh nhét cả hai tay vào túi trước của quần jean và nhìn lên trần nhà như thể anh đang cố nhớ lại điều gì đó. “À, đúng rồi. Cô ấy đã nói gì về cô vào hôm qua ấy nhỉ? Cái gì giống như ‘sự ức chế tình dục mà cậu mang vào người cứ như là đeo cái vòng đai trinh tiết ấy?’ ” Anh nháy mắt. “Tôi cho rằng đây chẳng phải là loại tạp chí có thể giúp cô cho vụ ấy.”
“Chúng ta đi được rồi chứ?” Tôi hỏi, tự nhắc mình trong đầu sẽ xử con Sophie ấy sau.
“Mời cô,” anh nói, chìa cánh tay ra để tôi bước ra ngoài trước rồi xách hai cái vali cho tôi.
Tôi bước ra cửa chính. “Chờ tí. Tôi phải vào lấy ví và điện thoại BlackBerry.”
Sau khi thả hai cái vali nặng trịch ấy xuống, anh đứng ở lối vào nhà rồi liếc vào bếp, là nơi tôi đã để sẵn tô đựng ngũ cốc và muỗng cho sáng hôm sau, và BlackBerry thì để cạnh cái tô để tôi có thể sẵn sàng trả lời tin nhắn ngay lập tức.
Jack nói trong khi tôi thả điện thoại di động vào túi xách, “Tôi rất thích cách cô bày trí căn hộ này.”
Cả hai chúng tôi cùng nhìn quanh căn hộ, những bức tường trắng trơn, thảm sàn cũng trắng, và các loại bàn ghế cực kỳ hiện đại nằm rải rác khắp nơi. Tôi không rõ liệu anh có ý mỉa mai hay không, vì thật khó mà phán đoán với anh chàng này. Tôi chỉ nói, “Cám ơn,” và khoác dây túi xách lên vai. “Ở đây đúng là ở nhà.”
“Chắc là sẽ rất khó chịu khi phải rời bỏ một nơi như thế này để về sống ở ngôi nhà cổ phải không? Ở đây chẳng có con ma nào.”
Tôi nhìn anh, ngờ vực. “Ý anh là gì?”
“À thì, giác quan thứ sáu của cô ấy. Thường thì những ngôi nhà cổ giống ngôi nhà ở phố Tradd là hay có ma lắm.”
Tôi bật mở cánh cửa. “Nghe này, tôi đã nói với anh rồi. Dù cho anh có nghe ngóng gì về mẹ tôi, thì tôi hoàn toàn chẳng thừa hưởng gì từ bà ta cả - giác quan thứ sáu hay bất cứ cái gì khác. Tôi chẳng hề nhìn thấy người chết, rõ chưa? Và làm ơn đừng bao giờ đề cập đến việc này nữa.”
Anh giữ cửa cho tôi. “Thôi được rồi, tạm ngưng không nói vụ này nữa. Tôi sẽ không đề cập gì đến ma quỷ nữa. Ít nhất là cho đêm nay.”
Anh ta đã chạm nọc tôi khiến tôi không thể nào cắn răng lại kịp. “Tốt lắm. Và miễn là anh giữ lời hứa, tôi cũng sẽ không đề cập gì đến bạn gái cũ của anh nữa.”
Jack nhướn mày lên nhưng không nói gì, anh xách những cái túi của tôi lên, rồi đóng cửa lại.
***
Lần này là tôi chọn quán. Mặc dù chúng tôi chỉ có ý định ra ngoài ăn đồ ngọt và uống cà phê nhưng tôi lại cảm thấy có nhu cầu phải ăn gì đó cho thỏa. Chúng tôi lái xe vào khu trung tâm, đến Cru Café trên đường Pinckney, nơi tôi thường đến và chỉ ăn món bánh chocolate mịn nấu chảy đầy danh tiếng nơi ấy. Hầu hết các khách hàng nơi đây đều đã rời khỏi quán nên chúng tôi không gặp vấn đề gì trong việc chọn một chiếc bàn nhỏ và chỉ gọi món tráng miệng cùng cà phê. Tôi nghĩ có lẽ Jack sẽ gọi bia hoặc rượu whisky, và ngạc nhiên khi thấy anh chỉ gọi cà phê không có cafein.
Chắc hẳn đã để ý thấy sự ngạc nhiên trên mặt tôi nên anh nói, “Tôi phải giữ cho mình được nhanh nhẹn tỉnh táo khi ở bên cô. Chẳng muốn cô lợi dụng tôi hay bất cứ thứ gì khác.”
Tôi trợn mắt, rồi gọi cappuccino cùng bánh chocolate. Có lẽ tôi đang vui nên hào hiệp nhờ phục vụ mang ra hai cái nĩa mặc dù hầu hết các bạn của tôi đều biết rằng nếu mạo muội ăn chung đồ tráng miệng với tôi thì thế nào tứ chi của chúng nó cũng sẽ lâm nguy với khả năng bị cái nĩa của tôi đâm vào.
Khi chúng tôi nhấm nháp cà phê - anh uống đắng còn tôi cho thêm hai gói đường nhỏ - và chờ phục vụ mang bánh ra, tôi hỏi, “Vậy thì, hôm nay anh đã tìm ra được gì nào?”
Anh rướn người lên, cốc cà phê nằm giữa những ngón tay dài và rám nắng. “Còn nhớ trước đây tôi có nói về Joseph Longo không? Bằng cách nào mà ông ta đã có vụ ấy về Louisa và rằng mọi người cứ nghĩ rằng họ đã biến mất cùng nhau ấy?
“Phải. Anh có đề cập đến việc ông ta thậm chí còn theo đuổi bà ấy sau khi bà đã lấy chồng.”
“Ðúng. Mặc dù với tất cả những thông tin mà tôi đã khám phá cho đến nay thì dường như tình cảm của ông ta không được đáp lại. Nói chung, theo tất cả mọi người thì bà ấy đã rất yêu chồng yêu con.”
“Tôi đã có nghe vụ ấy rồi.” Tôi nói nhỏ chỉ vừa đủ cho mình nghe trong khi tay tôi nghịch với chiếc khăn ăn trên đùi.
Anh quan sát tôi trong một chốc trước khi tiếp tục. “Thật không thể tin được khối lượng thông tin đã được viết về ông Longo. Ông ta là một người có các mối quan hệ giao tế cực rộng tại Charleston này trong những năm hai mươi và ba mươi. Chủ sở hữu vài doanh nghiệp - chủ yếu là về xây dựng cùng hai nhà hàng và một mỹ viện. Tên tuổi ông ta tràn khắp các mặt báo không vì việc này thì cũng việc kia: khai trương, lễ kỷ niệm, khánh thành, đại loại những thứ như thế.”
Người phục vụ lại đến bàn chúng tôi và rót đầy cà phê vào cốc của Jack. Anh tiếp tục. “Có một điều thú vị, là ông ta hiếm khi xuất hiện trên các trang báo xã hội. Có vẻ như ông ta không được chấp nhận ở khu cổ Charleston vì ông ta là loại nhà giàu mới phất. Hoặc có thể vì người ta có biết gì đó về những phi vụ làm ăn của ông ta và chẳng muốn dính dáng gì với loại người ấy. Không phải là những người giàu từ trong trứng của Charleston chẳng biết gì về các cách thức làm ăn mờ ám đâu - chỉ là vì họ có phong cách cao sang hơn nên họ chẳng muốn phô trương ầm ĩ khắp nơi làm gì.”
Jack bập tay lên miệng để che một cái ngáp thật dài. “Xin lỗi,” anh nói, giọng có vẻ ngượng ngùng. “Tôi đến thư viện từ hồi tờ mờ sáng, và bây giờ thì tôi mệt bã người ra.”
“Tôi không biết là thư viện mở cửa sớm đến thế.”
“Ðúng ra là không.”
“Thế thì tại sao...?”
Anh mỉm cười và tôi ước gì mình đã không hỏi câu ấy. “Tôi có quen một người làm ở đó,” anh nói. “Cô ấy nợ tôi một việc.”
“Một việc?”
“Phải, một việc. Do đó cô ấy cho tôi vào sớm để tôi có thể lục tìm các chứng từ nhạy cảm mà không phải hoàn tất các thủ tục rườm rà.”
Tôi khoanh tay trước ngực và tiếp tục âm thầm đánh giá anh ta. Theo lời Nancy Flaherty thì cứ mỗi lần Jack xuất hiện trên mục báo tin tức xã hội là đi kèm với một người đẹp, lần nào cũng như lần ấy. Rõ ràng, anh ta có rất nhiều bạn bè.
Ðúng vào lúc ấy thì người phục vụ bàn lại xuất hiện cùng với chiếc bánh chocolate rồi đặt chiếc bánh to khủng ấy cùng với hoa trang trí bánh ngay chính giữa bàn.
“Chao ôi,” Jack nói. “Ngần ấy bánh đủ nuôi cả một gia đình sáu người trong một tuần đấy.”
Tôi cầm cái nĩa lên và cười. “Hoặc chỉ đủ cho một người phụ nữ đang rất đói.” Một cách miễn cưỡng, tôi đưa cho anh một chiếc nĩa.
Anh lắc đầu. “Không, cám ơn. Tôi nghĩ mình không nên nạp nhiều năng lượng như thế.”
Tôi nhớ lại những múi bụng phẳng và cái hông mảnh dẻ của anh. “Thật à?”
“Thôi được, cũng không hẳn là thế. Tôi vừa học bằng kinh nghiệm là đừng bao giờ chen vào giữa một người phụ nữ và cái bánh chocolate của cô ta.”
Tôi ăn một ngoạm bánh to và chĩa cái nĩa vào anh. “Thông minh đấy,” tôi nói sau khi đã nuốt miếng bánh thơm ngon tuyệt trần đầu tiên rồi ăn tiếp miếng nữa.
“Cô là người có thể ăn bất cứ thứ gì mình thích mà chẳng lên một cân nào đúng không?”
Tôi gật đầu. “Tôi đã như thế này từ khi vừa chào đời. Chẳng biết làm cách nào được như thế, nhưng tôi cũng chẳng nghi ngờ gì về điều ấy.”
Anh lại nhìn khi tôi tiếp tục xúc một nĩa đầy bánh cho vào miệng. “Cô biết không, nếu tôi là phụ nữ thì có lẽ tôi sẽ rất ghét cô đấy.”
“Ờ thì, đây không phải lỗi của tôi và tôi cứ lợi dụng triệt để nó thôi.”
Anh dựa lại vào ghế của mình, khoanh hai tay trước ngực. Rồi anh lại nhướn một bên mày với một điệu bộ mà tôi bắt đầu nhận biết rằng đấy là vẻ mặt có ngụ ý nói “tôi sắp nói một điều mà cô sẽ không thích nhưng tôi vẫn sẽ cứ nói ra thôi.” Tôi ngừng nhai và chờ đợi.
“Cô có bao giờ nghĩ rằng chính vì việc cô luôn thấp thỏm không yên khiến năng lượng trong người cô được đốt cháy nhanh hơn không?”
Tôi nhấp một ngụm cà phê. “Tôi hay thấp thỏm không yên à?”
“Ờ. Tôi chưa bao giờ gặp một người phụ nữ nào hay cựa quậy đến thế. Lúc nào cô cũng phải nhúc nhích hoặc lúc lắc cái gì đó mới chịu được. Chẳng hạn như cái chân của cô ấy. Cô không thể ngồi yên được à?”
Tôi cố gắng giữ cho chân thôi không đong đưa nữa và ăn thêm một miếng bánh. Sau khi nuốt, tôi chùi miệng. “Chúng ta hãy quay lại nói chuyện công việc, nhé? Tôi nhớ là khi nãy anh đang nói về ông Longo, rồi sau đó đầu óc anh lại đi rong và anh bắt đầu thốt ra những lời vớ vẩn chẳng ăn nhập gì với đề tài đang nói.”
Jack nhấp thật lâu một ngụm cà phê rồi cười lại với tôi. “Những lời vớ vẩn hả? Tôi chưa bao giờ nghe ai dùng từ ấy trong cách đặt câu cả.”
“Việc ấy chẳng làm tôi ngạc nhiên.” Tôi mỉm cười. “Nào, ta lại nói về ông Joseph Longo chứ?”
“À, theo như tôi đã đề cập, ông ấy quả là một người biết làm ăn. Nhiều người tin rằng ông ấy đã quản lý rượu lậu ở Charleston trong suốt thời Cấm rượu, mở các hàng bán rượu lậu và giao rượu tận nhà - có lẽ vì thế mà lão chưa bao giờ bị tóm. Kể ra cũng khó mà bắt giữ thằng cha chuyên đến thăm ngài cảnh sát trưởng với vài chai vang để ngài ăn tối.”
“Thế việc này thì có liên quan gì đến sự mất tích của Louisa?”
Anh rướn người lên. “Ðây là mấu chốt này. Theo tất cả mọi người - bao gồm cả báo cáo tận mục sở thị của con trai ông Joseph - thì vào ngày Louisa mất tích, Joseph cũng được nhìn thấy lần cuối cùng trên đường đến nhà ông Vanderhorst ở số Năm mươi lăm phố Tradd.”
Tôi cảm thấy nghèn nghẹn nơi cổ họng vì miếng bánh chocolate to tướng. Rồi tôi nhấp một ngụm cappuccino ấm và tiếp lời Jack. “Ðể đến đón Louisa, để họ có thể cùng nhau bỏ trốn. Ðây không phải là câu trả lời mà tôi đang tìm kiếm.”
“Ðó là điều rất có thể đã xảy ra, đúng không? Và nhất là đối với chồng bà ta thì khả năng ấy càng chắc chắn đã xảy ra hơn. Ông ấy đã rất to mồm trong việc kết tội bà ấy đã bỏ rơi ông và đứa con của họ.”
Tôi đẩy chiếc bánh chỉ vừa vơi một nửa ra xa. “Nhưng ông Nevin Vanderhorst đã rất hy vọng...” Tôi định nói tiếp, nhưng lại không thể khi mường tượng ra cảnh ông Vanderhorst cho tôi xem biểu đồ tăng trưởng thời bé của ông ấy trên tường của phòng khách cùng với những chữ viết tắt MBG. Tôi nói to “Anh chàng mẹ yêu nhất” mà chẳng nhận ra rằng mình đang nói.
“Cái gì thế?”
“Ồ, không có gì. Chỉ là cách Louisa đã từng gọi con trai mình: ‘Anh chàng mẹ yêu nhất’.”
“Làm sao cô biết việc ấy?”
“Nó được viết trên tường trong phòng khách, bên cạnh chiếc đồng hồ quả lắc. Nó là một phần của biểu đồ tăng trưởng của ông ấy.” Tôi lắc đầu. “Thật là vô lý: cái biểu đồ ấy, toàn bộ những tấm hình của Nevin chụp chung với mẹ ông ta. Nhưng việc Joseph Longo được nhìn thấy lần cuối cùng trên đường đến nhà bà ấy và rằng đó cũng là ngày cuối cùng có người nhìn thấy họ rõ ràng chỉ ra rằng họ đã bỏ trốn cùng nhau.”
Jack khoanh hai tay trước ngực và dựa lại vào ghế, vẻ mặt đăm chiêu. “Theo kinh nghiệm của tôi thì câu trả lời nào mà quá rõ ràng thì ít khi nào lại đúng.” Anh ngồi thẳng người lên, đặt hai khuỷu tay lên bàn. “Cô có bao giờ nhìn thấy một nhà ảo thuật cầm một đồng xu trong bàn tay nắm chặt của mình rồi vòng tay kia lên trên nó không? Rồi sau đó cô phải đoán xem đồng xu nằm trong bàn tay nào? Tôi luôn luôn chọn đoán bàn tay nào mà tôi lại ít tin tưởng có đồng xu nằm trong đó nhất. Và tôi luôn đúng chừng chín mươi chín phần trăm số lần đoán như thế. Ðó chỉ là mánh khóe nghề ảo thuật. Thế thôi. Mánh khóe nghề ảo thuật.”
“Nhưng mà Louisa đã mất tích. Chồng con bà ấy vốn là người mà bà đã từng yêu vô cùng lại chẳng bao giờ gặp lại hay thậm chí nghe ngóng gì về bà ấy nữa.”
Anh đưa tay vào túi quần và lôi ra một đồng hai mươi lăm xu, nắm lấy nó trong bàn tay phải rồi ngửa cả hai lòng bàn tay lên. “Ðừng bao giờ tin vào những gì quá hiển nhiên, Mellie ạ.” Anh nắm chặt hai bàn tay lại rồi chuyền từng tay vòng lên nhau vài lần và đưa hai bàn tay vẫn còn nắm chặt ra trước mặt tôi. “Tay nào có đồng xu?”
Nãy giờ tôi vẫn quan sát kỹ anh ta và thấy đồng xu vẫn chưa được chuyền đi từ bàn tay phải. Tôi chỉ vào đó và nói, “Bàn tay này.”
Từ từ, anh mở rộng lòng bàn tay ra cho thấy chẳng có gì trong ấy ngoài làn da mịn và những ngón tay rám nắng thon dài. Quả là những ngón tay nhạy cảm, tôi thầm nghĩ và bất chợt rùng mình. Anh mở lòng bàn tay trái và đồng xu lăn ra, xoay tròn thật nhanh trên bàn cho đến khi mặt hình ngửa lên trên.
Jack mỉm cười. “Thấy không? Mánh khóe nghề ảo thuật. Chắc chắn vẫn còn uẩn khúc nào đấy mà chúng ta chưa thấy được. Tôi bảo đảm đấy.”
Tôi chăm chú nhìn anh chẳng chút giấu giếm, tự hỏi có phải anh có được sự hiên ngang táo bạo ấy là vì anh đã luôn luôn đúng trong một thời gian dài hay vì một lý do hoàn toàn khác nào đó. “Làm sao anh có thể chắc chắn đến thế?” Tôi hỏi và quan sát kỹ gương mặt anh khi anh trả lời.
“Bởi vì một người mẹ đã từng gọi con mình là ‘anh chàng mẹ yêu nhất’ và đã có hàng chục bức hình chụp với con mình thì không thể tự dưng mất tích khỏi mặt đất này mà chẳng bao giờ liên lạc lại với con. Tin tôi đi. Có uẩn khúc đấy. Bản năng tự nhiên cộng với kinh nghiệm nhiều năm của tôi về những việc như thế này mách bảo tôi rằng chắc chắn phải có khúc mắc nào đây. Trong thị trấn này còn có thêm vài nơi mà tôi dự định sẽ đến để lục tìm các văn khố lưu trữ, và chắc chắn là trên gác mái nhà cô cũng sẽ có rất nhiều đầu mối. Tôi cũng muốn đến xem cái biểu đồ tăng trưởng ấy, Mellie à. Mình sẽ không bao giờ có thể ngờ đến những nơi đưa đến manh mối cho mình đâu.”
“Tôi chẳng tin tưởng vào việc này lắm, nhưng rất sẵn lòng để anh lên trên ấy tìm kiếm. Tôi đã lên lịch làm việc cho anh, bắt đầu vào bảy giờ sáng mai, do đó nếu anh đến sớm hơn một chút, anh sẽ có thời gian tìm tòi. Hoặc là anh có thể đợi đến giờ ăn trưa.”
Anh yên lặng nhìn tôi chằm chằm một hồi lâu. “Có phải cô vừa nói đến giờ ăn trưa?”
“Phải. Tôi nghĩ nếu anh bắt đầu ngay vào lúc bảy giờ sáng, thì anh sẽ sẵn sàng nghỉ ăn trưa vào mười hai giờ.” Tôi lục trong ví tìm bản in lịch làm việc mà tôi đã lập trước đó. “Tôi sẽ đến đó vào lúc bảy giờ sáng mai để gặp chủ thầu và thảo luận về báo giá cho việc thay mái nhà, sau đó tôi có thể giúp anh phân loại sắp xếp đồ trên gác mái cho đến mười một giờ là lúc tôi phải đi gặp một khách hàng mới. Rồi tôi lại phải vào văn phòng cho đến sáu giờ chiều, sau đó quay lại ngôi nhà và cùng anh làm tiếp những việc anh đang làm dở từ lúc năm giờ, tôi sẽ ở đấy làm đến chín giờ rưỡi, cũng là giờ đi ngủ của tôi.”
“Cô đã soạn hẳn một bản kế hoạch làm việc.”
Mắt chúng tôi giao nhau, tôi không hiểu lắm về vẻ bối rối ấy của anh. “Phải. Như thế thì sẽ dễ dàng phân công lao động hơn và cũng để chắc chắn rằng mọi người có đủ giờ nghỉ trưa. Sophie bảo nó cũng có thể tham gia giúp mình trong hai tiếng sau giờ lên lớp cuối cùng của nó, do đó tôi đã phân công cho nó cạo sơn những cái cột hình xoắn ốc từ ba đến năm giờ chiều.”
“Giờ nghỉ trưa.”
“Anh có vấn đề về thính giác à? Hay anh chỉ cần người ta nói chậm lại một chút?”
Jack ho vào bàn tay đang nắm chặt và tiếng ho ấy nghe gần giống như một tiếng cười to. “Ồ không. Thính giác vẫn ổn. Chỉ là, một bản phân công lao động à?”
Tôi đặt tờ giấy lên bàn và ngồi lại vào ghế. “Nhìn này, tôi nhớ là anh bảo anh sẵn lòng giúp tôi trong việc phục chế ngôi nhà và đổi lại, anh được toàn quyền thoải mái ra vào ngôi nhà. Thậm chí tôi còn ký hợp đồng lắp đặt hệ thống báo trộm theo lời thúc giục của anh. Thế thì, nếu anh đổi ý thì nên cho tôi biết để tôi còn liệu cách khác.”
Anh đưa tay lên cao trước mặt mình, và lần này tôi biết chắc là anh đang cười. “Không, không đâu. Dĩ nhiên là tôi đã sẵn sàng, rất sẵn lòng, và có thể giúp cô. Chỉ là vì cô quá...” Anh nhìn lên trần như thể đang cố tìm một từ để không làm tôi phật ý. “À, chỉ là cô quá chỉn chu về việc này.”
Bắt đầu bực mình, tôi đặt úp hai bàn tay lên tờ giấy trên bàn, vốn đã khiến tôi mất gần cả buổi trưa để soạn thảo. Ban đầu thậm chí tôi còn ghi cả giờ giấc đi tiểu tiện nữa nhưng sau đó thì tôi đổi ý, thật là may, vì tôi đã nghĩ đến việc Jack sẽ phản ứng như thế nào về toàn bộ sự việc. “Nhìn này, tôi không biết trong thế giới của những người cầm bút thì mọi việc vận hành ra sao, nhưng trong thế giới thực, một người chuyên nghiệp cần phải biết sắp xếp công việc cho có trật tự và hữu hiệu thì mới thành công. Mỗi khi có khách hàng mới, tôi phải nói chuyện trên điện thoại hàng giờ với họ hoặc gặp họ trực tiếp để tìm hiểu chính xác những gì họ muốn và những gì họ cần. Sau đó thì tôi phải bỏ ra vài ngày lập nên một danh sách trong mơ về những ngôi nhà hoàn hảo có thể đáp ứng từng nhu cầu cụ thể. Tôi cũng phải lên kế hoạch hẹn gặp với giờ giấc cụ thể sao cho thuận tiện cho cả khách hàng lẫn người bán nhà để khách hàng có thể xem tất cả những ngôi nhà trong danh sách ấy.” Tôi vỗ lòng bàn tay lên bàn. “Và đó là lý do tại sao tôi trở thành người môi giới bất động sản triệu đô chứ không chỉ là một kẻ cò mồi mới vào nghề và hay cố làm ra vẻ ta đây nào khác.”
Anh rướn người lên, và tôi để ý rằng màu mắt anh tiệp với màu áo anh đang mặc. Anh nói nhẹ nhàng, “Và chuyên môn của cô là nhà cổ, nhưng từ những gì tôi nhìn thấy, thì cô lại thích sống trong một căn hộ mới tinh với các bức tường sơn trắng và đồ nội thất theo tiêu chuẩn khách sạn. Việc ấy có liên quan gì đến ngôi nhà của mẹ cô không?”
Tôi đẩy ghế lại về phía sau và ra dấu với người phục vụ bàn. “Tôi nghĩ chúng ta đã xong việc tại đây.” Tôi chuẩn bị đứng lên, nhưng anh đã giữ tôi lại với một bàn tay đặt lên cánh tay tôi.
“Cho tôi xin lỗi. Chỉ là vì việc ấy cứ khiến tôi thắc mắc, và tôi có cảm giác việc này có liên quan gì đến mẹ cô theo cách cô phản ứng vào hôm qua khi ba cô bảo mẹ cô đã gọi. Và tôi đoán là cô vẫn chưa gọi lại cho bà ấy.”
Tôi vừa định bảo anh ta, bằng cách này hay cách khác, rằng đó chẳng phải là việc của anh thì tôi lại có cảm giác bị châm chích quen thuộc sau gáy mình. Tôi lái tầm nhìn của mình sang một điểm phía sau vai của Jack và nhìn thấy hình hài thật rõ của một phụ nữ trẻ. Cô ta đang nhìn Jack, đôi mắt buồn bã và van nài, rồi cô quay ngoắt nhìn sang tôi. Dưới mắt cô có những quầng thâm và má hóp sâu như thể cô đang bệnh nặng. Nhưng đôi mắt cô ta dường như lại bừng sáng từ bên trong, và tôi dễ dàng có ấn tượng rằng tia sáng ấm áp ấy có liên quan gì đó đến Jack.
“Có việc gì thế?” anh hỏi.
Hình ảnh người phụ nữ trẻ bỗng mờ tan đi như làn khói còn lại của một cây nến vừa bị thổi tắt, và tôi nhìn lại Jack. “Có phải anh có người thân nào đó đang... đau ốm không?”
Anh nhìn tôi một cách ngờ ngợ. “Không. Ðúng hơn là tôi không biết có người thân nào của mình đang mắc bệnh nặng. Sao cô lại hỏi thế?”
“Một phụ nữ trẻ. Mảnh dẻ. Tóc vàng. Nghe có quen không?”
“Mô tả ấy nghe rất rất quen, nhưng trong số những người tôi biết mà có mô tả nhận dạng như thế thì chẳng ai đang bệnh nặng.” Giọng anh nhẹ nhàng, nhưng nghe có vẻ hơi gượng.
Có một tiếng thở dài thoảng ngang qua tai tôi rồi cô ấy biến mất. “Chẳng có gì đâu. Cứ xem như tôi chưa nói gì cả.” Tôi đứng dậy. “Nào, ta đi thôi. Ðã quá giờ ngủ của tôi rồi.”
Anh rút từ ví ra vài tờ giấy bạc và đặt lên bàn rồi theo tôi đi ra khỏi quán.
Chúng tôi lái xe về lại phố Tradd trong yên lặng, nghe nhạc về biển Caroline, vốn luôn làm tôi nghĩ đến mùa hè. Jack đậu xe trước cửa nhà, rồi đi vòng ra sau để lấy hành lý của tôi ra. Tôi giữ cổng cho anh rồi mở cánh cửa dẫn vào sân trước và dừng lại. Cửa chính vẫn còn mở ngỏ, và khi tôi tiến thêm một bước, tôi cảm giác có cái gì đó như thủy tinh vỡ rôm rốp dưới đế giày xăng đan của mình.
Ý nghĩ đầu tiên của tôi về mớ thủy tinh này là cái cửa sổ Tiffany đắt lòi mắc dịch ấy sẽ làm cho tôi phải tốn không biết bao nhiêu tiền để thay cái mới. Và rồi tôi chợt nhớ ra rằng tôi đã không chắc có đóng cửa hay không nhưng tôi nhớ đã có khóa cửa lại từ bên ngoài bằng chìa khóa.
Tôi nghe tiếng Jack đặt những cái va li xuống cạnh tôi. Anh thầm thì hỏi tôi, “Cô có mang theo điện thoại trong ví không?”
Tôi gật đầu.
“Bây giờ cô hãy đi qua bên hông hành lang sân trước này, đề phòng nếu có ai chạy ra từ bên trong nhà thì sẽ không nhìn thấy cô, và sau đó thì cô gọi cho cảnh sát. Tôi sẽ đến để xem cái thằng khốn ấy có còn ở trong nhà hay không.”
“Không!” Tôi túm lấy cánh tay anh. “Nguy hiểm lắm.”
Anh khoe với tôi một nụ cười mà thậm chí khi đang ở trong bóng tối và đứng trên thủy tinh vỡ, tôi phải thú nhận nó vô cùng lợi hại. “Sự quan ngại của cô khiến tôi hãnh diện lắm, Mellie à. Nhưng tôi đoán điều này có nghĩa là cô vẫn chưa tìm kiếm thông tin đầy đủ về tôi trên Google bởi vì nếu không thì cô sẽ biết rằng cô không cần phải lo lắng cho tôi. Tôi có thể xử lý được chuyện này mà.”
Anh đã lẻn vào nhà trước khi tôi kịp bảo anh không được gọi tôi là Mellie nữa, và rằng việc tìm kiếm thông tin về anh trên Google thậm chí còn chưa thoáng qua trong suy nghĩ của tôi nữa là. Nhưng nói thế là nói dối bởi vì tôi đã cố thử, nhưng rồi máy tính của tôi bị treo, và rồi tôi vẫn chưa có dịp thử lại một lần nữa bởi vì tôi phải chạy đi gặp khách hàng. Nhưng như thế cũng xem như là tôi chưa hề google anh ta!
Tôi bước về nơi có bóng tối ở cuối hành lang rồi mở điện thoại ra. Tôi dựa lưng vào ngôi nhà, hít lấy hương đêm của Charleston thơm lừng mùi hoa nhài và hoa dạ lý hương, và từ từ tôi bắt đầu nhận ra âm thanh nhịp nhàng đều đặn của sợi dây thừng treo xích đu đang cạ vào thân cây sồi già. Tôi nhắm mắt lại, cố bỏ ngoài tai những âm thanh và hình ảnh không mong muốn ấy, rồi bình tĩnh nói vào điện thoại.
Tôi ghé nhìn vào lỗ nhìn trên cửa rồi nhanh chóng bước thụt lùi lại, hy vọng Jack đã không nhìn thấy tôi.
“Tôi nghe tiếng bước chân của cô rồi, Mellie. Giờ thì cô phải cho tôi vào thôi.”
“Anh đến quá muộn rồi,” tôi nói. “Và đừng có gọi tôi là Mellie nữa. Tên tôi là Melanie.”
“Tôi đâu có đến muộn nào. Cô bảo tôi đến vào tối nay để giúp cô dọn vài thứ qua nhà mới. Thì bây giờ tôi có mặt đây.”
“Ờ thì, giờ đã quá muộn rồi. Ðã đến giờ tôi phải đi ngủ và tôi đã thay đồ ngủ rồi. Ðối với nhiều người, buổi tối có nghĩa là trước chín giờ. Bây giờ chính thức đã là đêm rồi, không còn là buổi tối nữa.”
“Nhưng bây giờ chỉ mới chín giờ thôi mà.”
“Ðúng đấy. Và cũng gần đến giờ ngủ của tôi.”
Tôi nghe có tiếng uỳnh uỵch nhè nhẹ phía bên kia cánh cửa, và tôi tưởng tượng ra cảnh anh đang dập trán vào khung cửa. “Hôm nay tôi lục lọi được vài thứ hay hay mà tôi nghĩ cô sẽ muốn biết.”
Tôi yên lặng một lúc và suy tính.
“Bọn mình có thể đi đâu đó ăn tráng miệng, và tôi sẽ kể cho cô nghe mọi việc.”
“Tráng miệng à?” Tôi vờ như đang suy tính thiệt hơn trong một lúc. “Ðược thôi.” Tôi nhanh chóng dùng tay áo choàng tắm bằng vải bông xù màu hồng cọ sạch lớp mặt nạ dưỡng ẩm trên mặt rồi mở cửa. “Và trên đường về, ta có thể mang những cái vali của tôi sang nhà mới luôn.”
Jack giả vờ kinh hãi khi nhìn vào áo choàng tắm và đôi dép bằng vải bông xù của tôi. “Ồ, cô chẳng cần phải ăn mặc đẹp vì tôi đâu, cô biết rồi đấy.”
“Bây giờ đã đến giờ ngủ của tôi rồi, nhớ không?”
Anh lại nhướn mày. “À, thì, nếu thế, chúng ta chỉ cần ở lại trong nhà cũng được.”
Tôi chống nạnh. “Anh không thể ăn nói với một phụ nữ mà không phải chêm vào những lời gợi ý bóng gió về tình dục à? Chính vì những lời bình luận như thế khiến anh khó mà tạo được một mối quan hệ nghiêm túc với phụ nữ đấy, anh có biết không?”
Nụ cười vẫn còn đó trên mặt anh nhưng tia sáng trong đôi mắt anh lại mờ đi trong một khoảnh khắc. “Ðã trải qua hết cả rồi, việc gì cũng đã làm, kinh nghiệm đầy mình đây, giờ thì chẳng còn hứng thú nào mà lặp lại những việc ấy nữa. Cám ơn cô đã dạy bảo.”
À, ra là thế, tôi tự nhủ. Hàng bị hư hại đây. Như thể tôi còn cần thêm một lý do khác nữa để tránh xa anh chàng Jack Trenholm này.
Anh nhìn về một trong những chiếc loa hiệu Bose mà tôi chất trong góc phòng khách và chau mắt lại. “Tiếng ồn gì thế này?”
“Ðó là ABBA.”
“ABBA?”
“Họ bán nhiều đĩa còn hơn cả the Beatles đấy. Mà có lẽ anh cũng chưa bao giờ từng nghe đến the Beatles cũng nên.”
Jack gãi cằm. “Tôi có biết cả hai ban nhạc này. Chỉ có điều, tôi đã không nghe lại một bài nào của ABBA kể từ khi tôi còn ngồi ở băng ghế sau trong xe của mẹ tôi trong khi bà ấy nghe nhạc.”
Tôi bước đến giàn máy và tắt nhạc. “Thế thì không cần phải phí nhạc hay cho những cái tai không biết thưởng thức vậy.” Tôi hướng về phòng ngủ. “Ðể tôi đi thay quần áo. Chỉ một phút thôi.”
“Ðừng thay nhiều quá nhé,” anh lại nói với theo. “Tôi chỉ thích bản chất tự nhiên của cô thôi.”
Tôi không quay lại cho đến khi về đến phòng mình để anh không nhìn thấy tôi đang mỉm cười.
Khi tôi quay lại, anh đã ngồi thoải mái trên ghế sofa bằng da màu đen của tôi, hai chân gác lên bàn mặt kính trong khi tay thì lật xem tạp chí Tâm lý học ngày nay số mới nhất. Tôi thả những chiếc vali xuống đất, rồi đập tay vào giày của anh ta. “Bỏ xuống.”
“Dạ,” anh nói rồi trượt chân xuống sàn và đứng lên. Anh giơ cuốn tạp chí lên. “Hơi nặng nề nhỉ.”
Tôi cầm lấy cuốn tạp chí từ tay anh rồi đặt nó lại xuống mặt bàn, sắp cho các mép bìa thẳng hàng với ba cuốn khác trên ấy. “Không hiểu sao Sophie đặt mua báo ấy cho tôi. Tôi chỉ dùng nó để trang trí cho chiếc bàn thôi.”
Anh nhét cả hai tay vào túi trước của quần jean và nhìn lên trần nhà như thể anh đang cố nhớ lại điều gì đó. “À, đúng rồi. Cô ấy đã nói gì về cô vào hôm qua ấy nhỉ? Cái gì giống như ‘sự ức chế tình dục mà cậu mang vào người cứ như là đeo cái vòng đai trinh tiết ấy?’ ” Anh nháy mắt. “Tôi cho rằng đây chẳng phải là loại tạp chí có thể giúp cô cho vụ ấy.”
“Chúng ta đi được rồi chứ?” Tôi hỏi, tự nhắc mình trong đầu sẽ xử con Sophie ấy sau.
“Mời cô,” anh nói, chìa cánh tay ra để tôi bước ra ngoài trước rồi xách hai cái vali cho tôi.
Tôi bước ra cửa chính. “Chờ tí. Tôi phải vào lấy ví và điện thoại BlackBerry.”
Sau khi thả hai cái vali nặng trịch ấy xuống, anh đứng ở lối vào nhà rồi liếc vào bếp, là nơi tôi đã để sẵn tô đựng ngũ cốc và muỗng cho sáng hôm sau, và BlackBerry thì để cạnh cái tô để tôi có thể sẵn sàng trả lời tin nhắn ngay lập tức.
Jack nói trong khi tôi thả điện thoại di động vào túi xách, “Tôi rất thích cách cô bày trí căn hộ này.”
Cả hai chúng tôi cùng nhìn quanh căn hộ, những bức tường trắng trơn, thảm sàn cũng trắng, và các loại bàn ghế cực kỳ hiện đại nằm rải rác khắp nơi. Tôi không rõ liệu anh có ý mỉa mai hay không, vì thật khó mà phán đoán với anh chàng này. Tôi chỉ nói, “Cám ơn,” và khoác dây túi xách lên vai. “Ở đây đúng là ở nhà.”
“Chắc là sẽ rất khó chịu khi phải rời bỏ một nơi như thế này để về sống ở ngôi nhà cổ phải không? Ở đây chẳng có con ma nào.”
Tôi nhìn anh, ngờ vực. “Ý anh là gì?”
“À thì, giác quan thứ sáu của cô ấy. Thường thì những ngôi nhà cổ giống ngôi nhà ở phố Tradd là hay có ma lắm.”
Tôi bật mở cánh cửa. “Nghe này, tôi đã nói với anh rồi. Dù cho anh có nghe ngóng gì về mẹ tôi, thì tôi hoàn toàn chẳng thừa hưởng gì từ bà ta cả - giác quan thứ sáu hay bất cứ cái gì khác. Tôi chẳng hề nhìn thấy người chết, rõ chưa? Và làm ơn đừng bao giờ đề cập đến việc này nữa.”
Anh giữ cửa cho tôi. “Thôi được rồi, tạm ngưng không nói vụ này nữa. Tôi sẽ không đề cập gì đến ma quỷ nữa. Ít nhất là cho đêm nay.”
Anh ta đã chạm nọc tôi khiến tôi không thể nào cắn răng lại kịp. “Tốt lắm. Và miễn là anh giữ lời hứa, tôi cũng sẽ không đề cập gì đến bạn gái cũ của anh nữa.”
Jack nhướn mày lên nhưng không nói gì, anh xách những cái túi của tôi lên, rồi đóng cửa lại.
***
Lần này là tôi chọn quán. Mặc dù chúng tôi chỉ có ý định ra ngoài ăn đồ ngọt và uống cà phê nhưng tôi lại cảm thấy có nhu cầu phải ăn gì đó cho thỏa. Chúng tôi lái xe vào khu trung tâm, đến Cru Café trên đường Pinckney, nơi tôi thường đến và chỉ ăn món bánh chocolate mịn nấu chảy đầy danh tiếng nơi ấy. Hầu hết các khách hàng nơi đây đều đã rời khỏi quán nên chúng tôi không gặp vấn đề gì trong việc chọn một chiếc bàn nhỏ và chỉ gọi món tráng miệng cùng cà phê. Tôi nghĩ có lẽ Jack sẽ gọi bia hoặc rượu whisky, và ngạc nhiên khi thấy anh chỉ gọi cà phê không có cafein.
Chắc hẳn đã để ý thấy sự ngạc nhiên trên mặt tôi nên anh nói, “Tôi phải giữ cho mình được nhanh nhẹn tỉnh táo khi ở bên cô. Chẳng muốn cô lợi dụng tôi hay bất cứ thứ gì khác.”
Tôi trợn mắt, rồi gọi cappuccino cùng bánh chocolate. Có lẽ tôi đang vui nên hào hiệp nhờ phục vụ mang ra hai cái nĩa mặc dù hầu hết các bạn của tôi đều biết rằng nếu mạo muội ăn chung đồ tráng miệng với tôi thì thế nào tứ chi của chúng nó cũng sẽ lâm nguy với khả năng bị cái nĩa của tôi đâm vào.
Khi chúng tôi nhấm nháp cà phê - anh uống đắng còn tôi cho thêm hai gói đường nhỏ - và chờ phục vụ mang bánh ra, tôi hỏi, “Vậy thì, hôm nay anh đã tìm ra được gì nào?”
Anh rướn người lên, cốc cà phê nằm giữa những ngón tay dài và rám nắng. “Còn nhớ trước đây tôi có nói về Joseph Longo không? Bằng cách nào mà ông ta đã có vụ ấy về Louisa và rằng mọi người cứ nghĩ rằng họ đã biến mất cùng nhau ấy?
“Phải. Anh có đề cập đến việc ông ta thậm chí còn theo đuổi bà ấy sau khi bà đã lấy chồng.”
“Ðúng. Mặc dù với tất cả những thông tin mà tôi đã khám phá cho đến nay thì dường như tình cảm của ông ta không được đáp lại. Nói chung, theo tất cả mọi người thì bà ấy đã rất yêu chồng yêu con.”
“Tôi đã có nghe vụ ấy rồi.” Tôi nói nhỏ chỉ vừa đủ cho mình nghe trong khi tay tôi nghịch với chiếc khăn ăn trên đùi.
Anh quan sát tôi trong một chốc trước khi tiếp tục. “Thật không thể tin được khối lượng thông tin đã được viết về ông Longo. Ông ta là một người có các mối quan hệ giao tế cực rộng tại Charleston này trong những năm hai mươi và ba mươi. Chủ sở hữu vài doanh nghiệp - chủ yếu là về xây dựng cùng hai nhà hàng và một mỹ viện. Tên tuổi ông ta tràn khắp các mặt báo không vì việc này thì cũng việc kia: khai trương, lễ kỷ niệm, khánh thành, đại loại những thứ như thế.”
Người phục vụ lại đến bàn chúng tôi và rót đầy cà phê vào cốc của Jack. Anh tiếp tục. “Có một điều thú vị, là ông ta hiếm khi xuất hiện trên các trang báo xã hội. Có vẻ như ông ta không được chấp nhận ở khu cổ Charleston vì ông ta là loại nhà giàu mới phất. Hoặc có thể vì người ta có biết gì đó về những phi vụ làm ăn của ông ta và chẳng muốn dính dáng gì với loại người ấy. Không phải là những người giàu từ trong trứng của Charleston chẳng biết gì về các cách thức làm ăn mờ ám đâu - chỉ là vì họ có phong cách cao sang hơn nên họ chẳng muốn phô trương ầm ĩ khắp nơi làm gì.”
Jack bập tay lên miệng để che một cái ngáp thật dài. “Xin lỗi,” anh nói, giọng có vẻ ngượng ngùng. “Tôi đến thư viện từ hồi tờ mờ sáng, và bây giờ thì tôi mệt bã người ra.”
“Tôi không biết là thư viện mở cửa sớm đến thế.”
“Ðúng ra là không.”
“Thế thì tại sao...?”
Anh mỉm cười và tôi ước gì mình đã không hỏi câu ấy. “Tôi có quen một người làm ở đó,” anh nói. “Cô ấy nợ tôi một việc.”
“Một việc?”
“Phải, một việc. Do đó cô ấy cho tôi vào sớm để tôi có thể lục tìm các chứng từ nhạy cảm mà không phải hoàn tất các thủ tục rườm rà.”
Tôi khoanh tay trước ngực và tiếp tục âm thầm đánh giá anh ta. Theo lời Nancy Flaherty thì cứ mỗi lần Jack xuất hiện trên mục báo tin tức xã hội là đi kèm với một người đẹp, lần nào cũng như lần ấy. Rõ ràng, anh ta có rất nhiều bạn bè.
Ðúng vào lúc ấy thì người phục vụ bàn lại xuất hiện cùng với chiếc bánh chocolate rồi đặt chiếc bánh to khủng ấy cùng với hoa trang trí bánh ngay chính giữa bàn.
“Chao ôi,” Jack nói. “Ngần ấy bánh đủ nuôi cả một gia đình sáu người trong một tuần đấy.”
Tôi cầm cái nĩa lên và cười. “Hoặc chỉ đủ cho một người phụ nữ đang rất đói.” Một cách miễn cưỡng, tôi đưa cho anh một chiếc nĩa.
Anh lắc đầu. “Không, cám ơn. Tôi nghĩ mình không nên nạp nhiều năng lượng như thế.”
Tôi nhớ lại những múi bụng phẳng và cái hông mảnh dẻ của anh. “Thật à?”
“Thôi được, cũng không hẳn là thế. Tôi vừa học bằng kinh nghiệm là đừng bao giờ chen vào giữa một người phụ nữ và cái bánh chocolate của cô ta.”
Tôi ăn một ngoạm bánh to và chĩa cái nĩa vào anh. “Thông minh đấy,” tôi nói sau khi đã nuốt miếng bánh thơm ngon tuyệt trần đầu tiên rồi ăn tiếp miếng nữa.
“Cô là người có thể ăn bất cứ thứ gì mình thích mà chẳng lên một cân nào đúng không?”
Tôi gật đầu. “Tôi đã như thế này từ khi vừa chào đời. Chẳng biết làm cách nào được như thế, nhưng tôi cũng chẳng nghi ngờ gì về điều ấy.”
Anh lại nhìn khi tôi tiếp tục xúc một nĩa đầy bánh cho vào miệng. “Cô biết không, nếu tôi là phụ nữ thì có lẽ tôi sẽ rất ghét cô đấy.”
“Ờ thì, đây không phải lỗi của tôi và tôi cứ lợi dụng triệt để nó thôi.”
Anh dựa lại vào ghế của mình, khoanh hai tay trước ngực. Rồi anh lại nhướn một bên mày với một điệu bộ mà tôi bắt đầu nhận biết rằng đấy là vẻ mặt có ngụ ý nói “tôi sắp nói một điều mà cô sẽ không thích nhưng tôi vẫn sẽ cứ nói ra thôi.” Tôi ngừng nhai và chờ đợi.
“Cô có bao giờ nghĩ rằng chính vì việc cô luôn thấp thỏm không yên khiến năng lượng trong người cô được đốt cháy nhanh hơn không?”
Tôi nhấp một ngụm cà phê. “Tôi hay thấp thỏm không yên à?”
“Ờ. Tôi chưa bao giờ gặp một người phụ nữ nào hay cựa quậy đến thế. Lúc nào cô cũng phải nhúc nhích hoặc lúc lắc cái gì đó mới chịu được. Chẳng hạn như cái chân của cô ấy. Cô không thể ngồi yên được à?”
Tôi cố gắng giữ cho chân thôi không đong đưa nữa và ăn thêm một miếng bánh. Sau khi nuốt, tôi chùi miệng. “Chúng ta hãy quay lại nói chuyện công việc, nhé? Tôi nhớ là khi nãy anh đang nói về ông Longo, rồi sau đó đầu óc anh lại đi rong và anh bắt đầu thốt ra những lời vớ vẩn chẳng ăn nhập gì với đề tài đang nói.”
Jack nhấp thật lâu một ngụm cà phê rồi cười lại với tôi. “Những lời vớ vẩn hả? Tôi chưa bao giờ nghe ai dùng từ ấy trong cách đặt câu cả.”
“Việc ấy chẳng làm tôi ngạc nhiên.” Tôi mỉm cười. “Nào, ta lại nói về ông Joseph Longo chứ?”
“À, theo như tôi đã đề cập, ông ấy quả là một người biết làm ăn. Nhiều người tin rằng ông ấy đã quản lý rượu lậu ở Charleston trong suốt thời Cấm rượu, mở các hàng bán rượu lậu và giao rượu tận nhà - có lẽ vì thế mà lão chưa bao giờ bị tóm. Kể ra cũng khó mà bắt giữ thằng cha chuyên đến thăm ngài cảnh sát trưởng với vài chai vang để ngài ăn tối.”
“Thế việc này thì có liên quan gì đến sự mất tích của Louisa?”
Anh rướn người lên. “Ðây là mấu chốt này. Theo tất cả mọi người - bao gồm cả báo cáo tận mục sở thị của con trai ông Joseph - thì vào ngày Louisa mất tích, Joseph cũng được nhìn thấy lần cuối cùng trên đường đến nhà ông Vanderhorst ở số Năm mươi lăm phố Tradd.”
Tôi cảm thấy nghèn nghẹn nơi cổ họng vì miếng bánh chocolate to tướng. Rồi tôi nhấp một ngụm cappuccino ấm và tiếp lời Jack. “Ðể đến đón Louisa, để họ có thể cùng nhau bỏ trốn. Ðây không phải là câu trả lời mà tôi đang tìm kiếm.”
“Ðó là điều rất có thể đã xảy ra, đúng không? Và nhất là đối với chồng bà ta thì khả năng ấy càng chắc chắn đã xảy ra hơn. Ông ấy đã rất to mồm trong việc kết tội bà ấy đã bỏ rơi ông và đứa con của họ.”
Tôi đẩy chiếc bánh chỉ vừa vơi một nửa ra xa. “Nhưng ông Nevin Vanderhorst đã rất hy vọng...” Tôi định nói tiếp, nhưng lại không thể khi mường tượng ra cảnh ông Vanderhorst cho tôi xem biểu đồ tăng trưởng thời bé của ông ấy trên tường của phòng khách cùng với những chữ viết tắt MBG. Tôi nói to “Anh chàng mẹ yêu nhất” mà chẳng nhận ra rằng mình đang nói.
“Cái gì thế?”
“Ồ, không có gì. Chỉ là cách Louisa đã từng gọi con trai mình: ‘Anh chàng mẹ yêu nhất’.”
“Làm sao cô biết việc ấy?”
“Nó được viết trên tường trong phòng khách, bên cạnh chiếc đồng hồ quả lắc. Nó là một phần của biểu đồ tăng trưởng của ông ấy.” Tôi lắc đầu. “Thật là vô lý: cái biểu đồ ấy, toàn bộ những tấm hình của Nevin chụp chung với mẹ ông ta. Nhưng việc Joseph Longo được nhìn thấy lần cuối cùng trên đường đến nhà bà ấy và rằng đó cũng là ngày cuối cùng có người nhìn thấy họ rõ ràng chỉ ra rằng họ đã bỏ trốn cùng nhau.”
Jack khoanh hai tay trước ngực và dựa lại vào ghế, vẻ mặt đăm chiêu. “Theo kinh nghiệm của tôi thì câu trả lời nào mà quá rõ ràng thì ít khi nào lại đúng.” Anh ngồi thẳng người lên, đặt hai khuỷu tay lên bàn. “Cô có bao giờ nhìn thấy một nhà ảo thuật cầm một đồng xu trong bàn tay nắm chặt của mình rồi vòng tay kia lên trên nó không? Rồi sau đó cô phải đoán xem đồng xu nằm trong bàn tay nào? Tôi luôn luôn chọn đoán bàn tay nào mà tôi lại ít tin tưởng có đồng xu nằm trong đó nhất. Và tôi luôn đúng chừng chín mươi chín phần trăm số lần đoán như thế. Ðó chỉ là mánh khóe nghề ảo thuật. Thế thôi. Mánh khóe nghề ảo thuật.”
“Nhưng mà Louisa đã mất tích. Chồng con bà ấy vốn là người mà bà đã từng yêu vô cùng lại chẳng bao giờ gặp lại hay thậm chí nghe ngóng gì về bà ấy nữa.”
Anh đưa tay vào túi quần và lôi ra một đồng hai mươi lăm xu, nắm lấy nó trong bàn tay phải rồi ngửa cả hai lòng bàn tay lên. “Ðừng bao giờ tin vào những gì quá hiển nhiên, Mellie ạ.” Anh nắm chặt hai bàn tay lại rồi chuyền từng tay vòng lên nhau vài lần và đưa hai bàn tay vẫn còn nắm chặt ra trước mặt tôi. “Tay nào có đồng xu?”
Nãy giờ tôi vẫn quan sát kỹ anh ta và thấy đồng xu vẫn chưa được chuyền đi từ bàn tay phải. Tôi chỉ vào đó và nói, “Bàn tay này.”
Từ từ, anh mở rộng lòng bàn tay ra cho thấy chẳng có gì trong ấy ngoài làn da mịn và những ngón tay rám nắng thon dài. Quả là những ngón tay nhạy cảm, tôi thầm nghĩ và bất chợt rùng mình. Anh mở lòng bàn tay trái và đồng xu lăn ra, xoay tròn thật nhanh trên bàn cho đến khi mặt hình ngửa lên trên.
Jack mỉm cười. “Thấy không? Mánh khóe nghề ảo thuật. Chắc chắn vẫn còn uẩn khúc nào đấy mà chúng ta chưa thấy được. Tôi bảo đảm đấy.”
Tôi chăm chú nhìn anh chẳng chút giấu giếm, tự hỏi có phải anh có được sự hiên ngang táo bạo ấy là vì anh đã luôn luôn đúng trong một thời gian dài hay vì một lý do hoàn toàn khác nào đó. “Làm sao anh có thể chắc chắn đến thế?” Tôi hỏi và quan sát kỹ gương mặt anh khi anh trả lời.
“Bởi vì một người mẹ đã từng gọi con mình là ‘anh chàng mẹ yêu nhất’ và đã có hàng chục bức hình chụp với con mình thì không thể tự dưng mất tích khỏi mặt đất này mà chẳng bao giờ liên lạc lại với con. Tin tôi đi. Có uẩn khúc đấy. Bản năng tự nhiên cộng với kinh nghiệm nhiều năm của tôi về những việc như thế này mách bảo tôi rằng chắc chắn phải có khúc mắc nào đây. Trong thị trấn này còn có thêm vài nơi mà tôi dự định sẽ đến để lục tìm các văn khố lưu trữ, và chắc chắn là trên gác mái nhà cô cũng sẽ có rất nhiều đầu mối. Tôi cũng muốn đến xem cái biểu đồ tăng trưởng ấy, Mellie à. Mình sẽ không bao giờ có thể ngờ đến những nơi đưa đến manh mối cho mình đâu.”
“Tôi chẳng tin tưởng vào việc này lắm, nhưng rất sẵn lòng để anh lên trên ấy tìm kiếm. Tôi đã lên lịch làm việc cho anh, bắt đầu vào bảy giờ sáng mai, do đó nếu anh đến sớm hơn một chút, anh sẽ có thời gian tìm tòi. Hoặc là anh có thể đợi đến giờ ăn trưa.”
Anh yên lặng nhìn tôi chằm chằm một hồi lâu. “Có phải cô vừa nói đến giờ ăn trưa?”
“Phải. Tôi nghĩ nếu anh bắt đầu ngay vào lúc bảy giờ sáng, thì anh sẽ sẵn sàng nghỉ ăn trưa vào mười hai giờ.” Tôi lục trong ví tìm bản in lịch làm việc mà tôi đã lập trước đó. “Tôi sẽ đến đó vào lúc bảy giờ sáng mai để gặp chủ thầu và thảo luận về báo giá cho việc thay mái nhà, sau đó tôi có thể giúp anh phân loại sắp xếp đồ trên gác mái cho đến mười một giờ là lúc tôi phải đi gặp một khách hàng mới. Rồi tôi lại phải vào văn phòng cho đến sáu giờ chiều, sau đó quay lại ngôi nhà và cùng anh làm tiếp những việc anh đang làm dở từ lúc năm giờ, tôi sẽ ở đấy làm đến chín giờ rưỡi, cũng là giờ đi ngủ của tôi.”
“Cô đã soạn hẳn một bản kế hoạch làm việc.”
Mắt chúng tôi giao nhau, tôi không hiểu lắm về vẻ bối rối ấy của anh. “Phải. Như thế thì sẽ dễ dàng phân công lao động hơn và cũng để chắc chắn rằng mọi người có đủ giờ nghỉ trưa. Sophie bảo nó cũng có thể tham gia giúp mình trong hai tiếng sau giờ lên lớp cuối cùng của nó, do đó tôi đã phân công cho nó cạo sơn những cái cột hình xoắn ốc từ ba đến năm giờ chiều.”
“Giờ nghỉ trưa.”
“Anh có vấn đề về thính giác à? Hay anh chỉ cần người ta nói chậm lại một chút?”
Jack ho vào bàn tay đang nắm chặt và tiếng ho ấy nghe gần giống như một tiếng cười to. “Ồ không. Thính giác vẫn ổn. Chỉ là, một bản phân công lao động à?”
Tôi đặt tờ giấy lên bàn và ngồi lại vào ghế. “Nhìn này, tôi nhớ là anh bảo anh sẵn lòng giúp tôi trong việc phục chế ngôi nhà và đổi lại, anh được toàn quyền thoải mái ra vào ngôi nhà. Thậm chí tôi còn ký hợp đồng lắp đặt hệ thống báo trộm theo lời thúc giục của anh. Thế thì, nếu anh đổi ý thì nên cho tôi biết để tôi còn liệu cách khác.”
Anh đưa tay lên cao trước mặt mình, và lần này tôi biết chắc là anh đang cười. “Không, không đâu. Dĩ nhiên là tôi đã sẵn sàng, rất sẵn lòng, và có thể giúp cô. Chỉ là vì cô quá...” Anh nhìn lên trần như thể đang cố tìm một từ để không làm tôi phật ý. “À, chỉ là cô quá chỉn chu về việc này.”
Bắt đầu bực mình, tôi đặt úp hai bàn tay lên tờ giấy trên bàn, vốn đã khiến tôi mất gần cả buổi trưa để soạn thảo. Ban đầu thậm chí tôi còn ghi cả giờ giấc đi tiểu tiện nữa nhưng sau đó thì tôi đổi ý, thật là may, vì tôi đã nghĩ đến việc Jack sẽ phản ứng như thế nào về toàn bộ sự việc. “Nhìn này, tôi không biết trong thế giới của những người cầm bút thì mọi việc vận hành ra sao, nhưng trong thế giới thực, một người chuyên nghiệp cần phải biết sắp xếp công việc cho có trật tự và hữu hiệu thì mới thành công. Mỗi khi có khách hàng mới, tôi phải nói chuyện trên điện thoại hàng giờ với họ hoặc gặp họ trực tiếp để tìm hiểu chính xác những gì họ muốn và những gì họ cần. Sau đó thì tôi phải bỏ ra vài ngày lập nên một danh sách trong mơ về những ngôi nhà hoàn hảo có thể đáp ứng từng nhu cầu cụ thể. Tôi cũng phải lên kế hoạch hẹn gặp với giờ giấc cụ thể sao cho thuận tiện cho cả khách hàng lẫn người bán nhà để khách hàng có thể xem tất cả những ngôi nhà trong danh sách ấy.” Tôi vỗ lòng bàn tay lên bàn. “Và đó là lý do tại sao tôi trở thành người môi giới bất động sản triệu đô chứ không chỉ là một kẻ cò mồi mới vào nghề và hay cố làm ra vẻ ta đây nào khác.”
Anh rướn người lên, và tôi để ý rằng màu mắt anh tiệp với màu áo anh đang mặc. Anh nói nhẹ nhàng, “Và chuyên môn của cô là nhà cổ, nhưng từ những gì tôi nhìn thấy, thì cô lại thích sống trong một căn hộ mới tinh với các bức tường sơn trắng và đồ nội thất theo tiêu chuẩn khách sạn. Việc ấy có liên quan gì đến ngôi nhà của mẹ cô không?”
Tôi đẩy ghế lại về phía sau và ra dấu với người phục vụ bàn. “Tôi nghĩ chúng ta đã xong việc tại đây.” Tôi chuẩn bị đứng lên, nhưng anh đã giữ tôi lại với một bàn tay đặt lên cánh tay tôi.
“Cho tôi xin lỗi. Chỉ là vì việc ấy cứ khiến tôi thắc mắc, và tôi có cảm giác việc này có liên quan gì đến mẹ cô theo cách cô phản ứng vào hôm qua khi ba cô bảo mẹ cô đã gọi. Và tôi đoán là cô vẫn chưa gọi lại cho bà ấy.”
Tôi vừa định bảo anh ta, bằng cách này hay cách khác, rằng đó chẳng phải là việc của anh thì tôi lại có cảm giác bị châm chích quen thuộc sau gáy mình. Tôi lái tầm nhìn của mình sang một điểm phía sau vai của Jack và nhìn thấy hình hài thật rõ của một phụ nữ trẻ. Cô ta đang nhìn Jack, đôi mắt buồn bã và van nài, rồi cô quay ngoắt nhìn sang tôi. Dưới mắt cô có những quầng thâm và má hóp sâu như thể cô đang bệnh nặng. Nhưng đôi mắt cô ta dường như lại bừng sáng từ bên trong, và tôi dễ dàng có ấn tượng rằng tia sáng ấm áp ấy có liên quan gì đó đến Jack.
“Có việc gì thế?” anh hỏi.
Hình ảnh người phụ nữ trẻ bỗng mờ tan đi như làn khói còn lại của một cây nến vừa bị thổi tắt, và tôi nhìn lại Jack. “Có phải anh có người thân nào đó đang... đau ốm không?”
Anh nhìn tôi một cách ngờ ngợ. “Không. Ðúng hơn là tôi không biết có người thân nào của mình đang mắc bệnh nặng. Sao cô lại hỏi thế?”
“Một phụ nữ trẻ. Mảnh dẻ. Tóc vàng. Nghe có quen không?”
“Mô tả ấy nghe rất rất quen, nhưng trong số những người tôi biết mà có mô tả nhận dạng như thế thì chẳng ai đang bệnh nặng.” Giọng anh nhẹ nhàng, nhưng nghe có vẻ hơi gượng.
Có một tiếng thở dài thoảng ngang qua tai tôi rồi cô ấy biến mất. “Chẳng có gì đâu. Cứ xem như tôi chưa nói gì cả.” Tôi đứng dậy. “Nào, ta đi thôi. Ðã quá giờ ngủ của tôi rồi.”
Anh rút từ ví ra vài tờ giấy bạc và đặt lên bàn rồi theo tôi đi ra khỏi quán.
Chúng tôi lái xe về lại phố Tradd trong yên lặng, nghe nhạc về biển Caroline, vốn luôn làm tôi nghĩ đến mùa hè. Jack đậu xe trước cửa nhà, rồi đi vòng ra sau để lấy hành lý của tôi ra. Tôi giữ cổng cho anh rồi mở cánh cửa dẫn vào sân trước và dừng lại. Cửa chính vẫn còn mở ngỏ, và khi tôi tiến thêm một bước, tôi cảm giác có cái gì đó như thủy tinh vỡ rôm rốp dưới đế giày xăng đan của mình.
Ý nghĩ đầu tiên của tôi về mớ thủy tinh này là cái cửa sổ Tiffany đắt lòi mắc dịch ấy sẽ làm cho tôi phải tốn không biết bao nhiêu tiền để thay cái mới. Và rồi tôi chợt nhớ ra rằng tôi đã không chắc có đóng cửa hay không nhưng tôi nhớ đã có khóa cửa lại từ bên ngoài bằng chìa khóa.
Tôi nghe tiếng Jack đặt những cái va li xuống cạnh tôi. Anh thầm thì hỏi tôi, “Cô có mang theo điện thoại trong ví không?”
Tôi gật đầu.
“Bây giờ cô hãy đi qua bên hông hành lang sân trước này, đề phòng nếu có ai chạy ra từ bên trong nhà thì sẽ không nhìn thấy cô, và sau đó thì cô gọi cho cảnh sát. Tôi sẽ đến để xem cái thằng khốn ấy có còn ở trong nhà hay không.”
“Không!” Tôi túm lấy cánh tay anh. “Nguy hiểm lắm.”
Anh khoe với tôi một nụ cười mà thậm chí khi đang ở trong bóng tối và đứng trên thủy tinh vỡ, tôi phải thú nhận nó vô cùng lợi hại. “Sự quan ngại của cô khiến tôi hãnh diện lắm, Mellie à. Nhưng tôi đoán điều này có nghĩa là cô vẫn chưa tìm kiếm thông tin đầy đủ về tôi trên Google bởi vì nếu không thì cô sẽ biết rằng cô không cần phải lo lắng cho tôi. Tôi có thể xử lý được chuyện này mà.”
Anh đã lẻn vào nhà trước khi tôi kịp bảo anh không được gọi tôi là Mellie nữa, và rằng việc tìm kiếm thông tin về anh trên Google thậm chí còn chưa thoáng qua trong suy nghĩ của tôi nữa là. Nhưng nói thế là nói dối bởi vì tôi đã cố thử, nhưng rồi máy tính của tôi bị treo, và rồi tôi vẫn chưa có dịp thử lại một lần nữa bởi vì tôi phải chạy đi gặp khách hàng. Nhưng như thế cũng xem như là tôi chưa hề google anh ta!
Tôi bước về nơi có bóng tối ở cuối hành lang rồi mở điện thoại ra. Tôi dựa lưng vào ngôi nhà, hít lấy hương đêm của Charleston thơm lừng mùi hoa nhài và hoa dạ lý hương, và từ từ tôi bắt đầu nhận ra âm thanh nhịp nhàng đều đặn của sợi dây thừng treo xích đu đang cạ vào thân cây sồi già. Tôi nhắm mắt lại, cố bỏ ngoài tai những âm thanh và hình ảnh không mong muốn ấy, rồi bình tĩnh nói vào điện thoại.
Tác giả :
Karen White