Ngôi Nhà Cổ Trên Phố Tradd
Chương 23
Anh có thử “Thành phố Thánh” chưa? Tôi hỏi Jack khi chúng tôi đang ngồi trong máy bay của hãng Delta trên đường băng của Phi trường Quốc tế Charleston. Trước và sau bữa-ăn-làm-tắc-nghẽn-động-mạch-vành ở nhà hàng Jestine vào đêm trước ấy - bao gồm một rổ gà rán và bánh bông lan bắp phết bơ mật ong - thì chúng tôi vẫn tiếp tục tìm cách giải mã về chiếc đồng hồ ấy, một lần nữa lại đưa ra tất cả những từ hoặc cụm từ mà chúng tôi có thể nghĩ ra. Ðể tạm nghỉ, chúng tôi đã lần lượt xoay chuyển các chữ số La Mã tìm được ở đài phun nước nhưng cuối cùng thì cũng chỉ đạt được kết quả như nhau: hoàn toàn không có gì.
“Ừ. Và cả Thánh Michael, Thánh Philip, và cả Khu di tích Battery. Sắp tới tôi sẽ thử với các từ Jihad, Hussein, và Iraq.”
Tôi nhìn anh, hoàn toàn bối rối. “Tại sao lại phải làm thế?”
“Bởi vì tôi nghĩ rằng đó là những từ duy nhất trong từ điển mà chúng ta chưa sử dụng đến.” Rồi anh liếc dài sang tôi. “Nói đùa thôi mà.”
“Tôi biết,” tôi nói rồi lại tập trung vào tập giấy viết trước mặt và viết những chữ “Vườn White Point” vào bộ mã.
Tiếp sau đó chúng tôi trải qua năm tiếng rưỡi đồng hồ của chuyến đi - ngoại trừ thời gian quá cảnh ở Atlanta - hết giải mã rồi lại ngủ. Chúng tôi đáp xuống thành phố Burlington, tiểu bang Vermont, khoảng chín giờ tối, thuê một chiếc xe, và thuê hai phòng trọ gần đấy để tiết kiệm thời gian lái xe đến Colchester vào buổi sáng và kịp đáp chuyến bay quay về lại Charleston sau đó.
Tôi ngủ chập chờn, cứ choàng tỉnh giấc vì những bộ mã quay cuồng trong đầu và tự hỏi không biết có phải Jack cũng đang nghĩ đến cuộc gặp ngày mai với Susannah Barnsley hay không. Jack đã nói chuyện ngắn gọn với bà ấy trên điện thoại, giải thích cho bà chúng tôi là ai và xin phép cho chúng tôi được gặp mặt. Ban đầu bà ấy có vẻ ngần ngại nhưng khi anh giải thích rằng tôi là cháu nội của ông Augustus Middleton thì bà đổi ý. Bà đã đồng ý gặp chúng tôi nhưng không nói gì thêm, và đầu tôi đầy rẫy những nghi ngờ rằng bà chẳng có gì cho chúng tôi biết thêm và rằng chuyến đi của chúng tôi chỉ là vô bổ và tốn thời gian mà thôi.
Tôi cảm thấy bức bối khó chịu vào sáng hôm sau trong khi chúng tôi ghé tiệm thức ăn nhanh mua cà phê và đồ ăn sáng trước khi lái xe đi Colchester. Jack thì vui vẻ hoạt bát và trông có vẻ như anh đã ngủ ngon đêm qua, việc này càng khiến tôi cáu kỉnh hơn khi anh chúc tôi một buổi sáng tốt lành.
Chúng tôi gõ địa chỉ của Susannah vào thiết bị dẫn đường GPS và lái đi theo chỉ dẫn của nó qua vùng quê lạnh giá của Vermont. Tôi biết chắc chắn rằng phong cảnh ở đây rất hữu tình và đầy màu sắc nhưng tôi chẳng còn lòng dạ nào mà thưởng thức vẻ đẹp của nó bằng đôi mắt sưng mọng và ngứa ngáy của mình. Jack cũng biết điều nên cứ giữ im lặng.
Ngôi nhà chúng tôi đang tìm quả là hoàn toàn ngoài sức tưởng tượng của tôi. Tôi cứ nghĩ chắc chắn Susannah sẽ muốn sống trong một ngôi nhà kiểu miền Nam truyền thống, giống như ngôi nhà cũ của bà ở Charleston, chứ không phải kiểu nhà gọn ghẽ và trắng toát với những hàng rào cọc cũng trắng cùng với những cánh cửa sổ giả kiểu Pháp màu đen trước mặt tôi như thế này. Tuy nhiên, tôi biết rằng chúng tôi đã tìm đúng nhà khi tôi nhìn khu vườn có cổng rào ở phía sau nhà. Ở Vermont vào cuối thu như thế này, các khóm hoa và bụi cây đã phai tàn hết sắc màu, nhưng chính cái tổng thể tinh khiết của nó đã khiến tôi nghĩ rằng đây chắc chắn là nơi cư ngụ của một người gốc Charleston.
Chúng tôi đứng trên bậc thềm bằng gạch được quét tước sạch sẽ, và Jack bấm chuông cửa. Có tiếng bước chân vội vã từ bên trong, rồi một người phụ nữ trạc ngoài năm mươi và ăn mặc gọn gàng ra mở cửa.
“Xin chào,” bà chào chúng tôi. “Tôi là bà Marston. Tôi chăm sóc cho bà Barnsley.” Rồi bà mở rộng cửa hơn. “Xin mời vào. Chúng tôi đang chờ quý vị đến đây.”
Ngôi nhà được trang hoàng bằng đồ cổ, nhưng không phải theo phong cách tầm thường thực dụng thường thấy trong một ngôi nhà vùng quê Vermont. Trái lại, đây là những món đồ rất tao nhã mà nếu được bày biện trong ngôi nhà trên phố Tradd thì sẽ hợp thời hợp cảnh hơn.
Ngọn lửa réo gào chào đón chúng tôi khi cả hai bước vào phòng khách chính, và tôi suýt không để ý thấy người đàn bà nhỏ thó được dựng ngồi lên bằng nhiều chiếc gối trong chiếc ghế bành khổng lồ đặt cạnh lò sưởi. Mặc dù bà đã cao tuổi, tôi đoán cũng cỡ chín mươi, nhưng tôi vẫn có thể nhận ra bà từ tấm hình. Bà có rất ít nếp nhăn trên gương mặt da nâu nhạt ấy, như thể bà đã mất cả đời chăm sóc nó, còn đôi mắt màu xanh lá cây của bà thật to và đầy sức sống, hoàn toàn ngược lại với tuổi tác của bà.
“Trông cô thật giống ông nội của cô đấy,” bà nói bằng một giọng thật khỏe và cùng với nó vẫn còn âm hưởng nhẹ nhàng và ngữ điệu phảng phất của Charleston. Nó khiến tôi cảm thấy như đang ở quê nhà.
“Thật thế à?” Tôi hỏi bà, rồi tiến lên phía trước và cầm lấy cánh tay của bà vừa chìa ra. Chúng tôi bắt tay, cái nắm tay của bà khá khỏe, rồi tôi giới thiệu bà với Jack. Tôi có thể nhận thấy đôi mắt bà sáng lên chứng tỏ sức mê hoặc của Jack rõ ràng là không vượt ra khỏi sự quan sát ấy. Nhớ lại phản ứng tương tự của Yvonne với Jack, tôi tự nhủ sau này nhớ phải nói với Jack rằng nếu nghề viết của anh không phất lên được thì anh luôn luôn có thể chuyển sang làm giám đốc quan hệ khách hàng cho nhà dưỡng lão. Hoặc làm trai bao.
Bà Marston mang đi áo khoác của tôi và Jack rồi chúng tôi ngồi lên chiếc ghế sô-pha đối diện với bà Susannah, hơi ấm từ ngọn lửa thấm dần vào cơ thể lạnh ngắt của tôi. Bởi vì tôi là dân sinh trưởng ở Nam Carolina nên nếu nhiệt độ xuống dưới mười bốn độ C là quá lạnh đối với tôi rồi. Bà Marston rời khỏi phòng để lấy khay trà, để chúng tôi có thể nói chuyện riêng với nhau.
Jack mở màn. “Cám ơn bà Barnsley, vì đã cho phép chúng cháu đến thăm viếng. Chắc bà cũng lấy làm lạ khi bỗng dưng lại nhận được cú điện thoại từ Charleston hoàn toàn bất ngờ như thế này.”
“Thật ra thì cũng không đến nỗi lạ lắm đâu. Cuộc gọi của cậu là cuộc gọi thứ ba trong những ngày này đấy.”
“Thật sao?” Tôi hỏi. “Bà có biết những người kia không?”
“À, hai cuộc gọi đầu mà bà Marston nói cho ta biết thì người gọi chỉ cúp máy, nên ta cũng không rõ. Tuy nhiên, bà ấy đã nhận ra mã vùng, nên ta biết cuộc gọi từ đâu đến. Rồi khi cậu gọi, ta nghĩ hai lần gọi trước cũng là từ cậu luôn.”
Tôi nhớ rằng Yvonne có kể cho chúng tôi biết rằng bà ấy đã gọi để xem Susannah còn sống hay không và tôi cho rằng bà đã gọi hai lần và quên đề cập đến việc ấy.
Jack rướn người lên phía trước, hai khuỷu tay anh đặt trên hai đầu gối. “Dạ, cháu cũng mừng là đã báo trước cho bà về cháu nội của ông Middleton, vì cháu biết rằng việc gặp Melanie sẽ gợi lại nhiều kỷ niệm xưa cho bà.”
“Ðúng đấy. Thật sự là như thế. Nhưng gần như toàn là kỷ niệm đẹp thôi.” Bà mỉm cười, nhưng đôi mắt bà dường như lại hướng nội và quay về một thời kỳ khác, một địa điểm khác. Tôi bỗng cảm thấy chóng mặt trong một thoáng, như thể tôi đang du hành cùng với bà, và cả hai chúng tôi đều đang quay lại Charleston và rằng tất cả trong tim bà chỉ có ông nội của tôi mà thôi. Bà ấy đã yêu ông nội thật nhiều, tôi nghĩ. Bà lại nhìn thẳng vào tôi và đôi mắt bà long lanh, và tôi có một ý nghĩ lướt qua rằng bà đã cảm nhận tôi trong đầu. “Thế thì cô cậu muốn biết về việc gì nào?”
Tôi mở túi xách và lấy ra tấm hình của bà mà tôi đã kẹp lại giữa hai miếng bìa các-tông cứng. “Ðây có phải là bà hay không?” Tôi hỏi.
Bà cầm nó bằng cả hai tay, móng tay của bà được cắt tỉa gọn gàng và sơn nước bóng. Bàn tay bà hơi run rẩy khi bà săm soi tấm hình. “Ðúng rồi,” bà khẽ nói. “Ðó là ta đấy. Hay nói đúng hơn, đó đã là ta. Gus cho chụp tấm hình này. Ta chỉ nhìn thấy nó một lần - anh ấy bảo anh thích giữ tấm hình này bên mình.”
“Vậy thì, theo như bà biết, tấm hình này đã luôn luôn ở bên ông Gus,” Jack xen vào.
Susannah gật đầu. “Theo như ta biết, đúng là như thế.”
Tôi nhìn Jack trong khi anh gật đầu, như đã biết chắc chắn rằng Robert và Augustus chắc hẳn đã cùng nhau lên kế hoạch cho những gì vào trong chiếc hộp ấy cho Nevin.
Jack tiếp tục. “Bà có quen thân với ông Robert Vanderhorst hay không?”
“Không thân chút nào. Dĩ nhiên, thời ấy thì khác xa bây giờ nhiều. Ngày nay dân tình thuộc đủ màu da đều được tự do bước vào bất kỳ giới quan hệ xã hội nào. Nhưng còn thời xưa ấy, vị trí của tôi không hề đồng đẳng với gia tộc Vanderhorst và Middleton.”
“Nhưng bà đã từng là tình nhân của ông Gus Middleton phải không?”
Bà không tỏ vẻ ngạc nhiên hay bực bội trước sự thẳng thừng của Jack. Thay vào đó, bà chỉ mỉm cười với anh. “Ðúng, ta đã từng. Anh ấy thậm chí còn muốn cưới ta nữa nhưng ta biết việc ấy thật điên khùng, và không chỉ là vì ta trẻ hơn anh ấy đến mười tám tuổi. Ta biết anh ấy có tình cảm như thế nào với ta, và ta không cần một chiếc nhẫn để chứng minh việc ấy. Nếu cưới ta, anh ấy sẽ phải từ bỏ tất cả mọi thứ - bạn bè thân hữu, nghề luật sư, vị trí xã hội của mình. Và đó sẽ là việc mà ta và anh ấy không muốn làm. Một ngày nào đó, anh ấy sẽ nhận ra rằng anh ấy đã mất tất cả những thứ ấy, và sẽ không có cách nào để lấy lại.” Bà lắc đầu. “Không, không đâu. Ta và anh ấy đã hài lòng với mọi việc vào lúc ấy. Trong một khoảng thời gian, nói đúng hơn là như thế.”
“Thế thì tại sao bà lại phải bỏ xứ đi xa?” Tôi hỏi và tự nhủ không biết bà nội tôi đã cảm nhận về việc này như thế nào. Nhưng bà nội thì trẻ hơn ông nội rất nhiều, và tôi chợt nhận ra rằng mãi đến tận năm một chín bốn mươi hay bốn mốt gì đấy thì hai người mới cưới nhau - khoảng mười năm sau khi Susannah đã rời bỏ Charleston vĩnh viễn.
Susannah nhìn xuống hai bàn tay nhỏ bé của mình, lúc này đang xếp gọn gàng trên chiếc mền len đan đặt trên đùi. “Bởi vì anh Gus muốn thế.”
Những lời của bà âm vang trong căn phòng yên lặng trong một lúc. “Xin phép cho cháu hỏi tại sao, nếu bà không phiền ạ?” Tôi bắt đầu thoáng cảm nhận một chút phấn khởi. Sự ra đi của bà ấy trùng hợp với việc Louisa mất tích, và kể từ khi tôi bắt đầu cố làm sáng tỏ sự kỳ bí xoay quanh việc gì đã xảy ra với mẹ của Nevin, thì đây là lần đầu tiên tôi cảm thấy mình đang vươn gần đến sự thật hơn bao giờ hết.
Bà Marston bước vào phòng cùng với chiếc khay chất đầy những chiếc bánh mì kẹp thịt nhỏ, các loại bánh ngọt, và trà nóng. Susannah rót trà cho chúng tôi, đôi bàn tay bà rõ ràng rất vững chãi trong khi đôi cổ tay ấy thật mảnh dẻ và mong manh. Sau khi nhận thấy rằng chúng tôi đã có tất cả những thứ cần thiết, bà Marston lại bước ra khỏi phòng, đóng cửa lại sau lưng.
Tôi nhón lấy vài chiếc bánh ngọt cùng một miếng bánh mì kẹp thịt nhỏ đặt vào đĩa và bắt đầu ăn, rồi ngưng nhai giữa chừng khi tôi để ý thấy bà Susannah đang ngắm tôi với nụ cười nửa miệng. “Ông nội của cô cũng thích đồ ngọt lắm. Quả thật là ông ấy cực thích đồ ngọt. Thật vui khi ngày nay ta vẫn còn được nhìn thấy một cô gái trẻ ăn uống ngon lành tự nhiên như thế này.”
Tôi nghe tiếng Jack cười rục rịch trong miệng nhưng tôi không chắc là anh ta cười vì lời nhận xét về sự ăn uống của tôi hay vì tôi vừa được gọi là “cô gái trẻ” khiến anh ta cảm thấy buồn cười.
Bà Susannah chấm nhẹ khăn ăn lên miệng một cách tao nhã. “Trước khi trả lời câu hỏi của cô, ta hy vọng cô không phiền nếu ta được hỏi vài câu của riêng ta trước.”
Tôi để ý thấy Jack đang nhìn chằm chằm vào chân tôi, và tôi hoảng hồn khi thấy nó đang bập lên bập xuống vì sự mất kiên nhẫn không kiểm soát nổi. Tôi đè hai bàn tay lên bắp chân để giữ cho nó yên, rồi mỉm cười với bà Susannah. “Tất nhiên rồi. Bọn cháu sẽ trả lời bất cứ câu hỏi nào của bà.”
Bà lão bắt đầu chậm rãi nhấp một ngụm trà, và tôi phải đè hai bàn tay mạnh hơn nữa lên cái chân đang bị kích động của mình. “Làm sao mà cô tìm ra tôi?”
Jack ra hiệu cho tôi trả lời. “Ba của cháu, ông James Middleton - là con trai của ông Gus - đã tìm thấy tấm hình của bà trong chiếc hộp đựng xì gà, cùng với một bức thư cho con trai của Robert là Nevin, cùng với một cuộn phim.” Tôi bắt đầu nhăn nhó. “Cháu e rằng mọi việc đều hơi kỳ bí một chút. Bọn cháu hy vọng rằng toàn bộ những manh mối này sẽ dẫn dắt bọn cháu tìm ra vợ của ông Robert là bà Louisa. Và...” Tôi nhìn Jack chờ anh đồng ý, và anh nhanh chóng gật đầu. “Và thậm chí có lẽ là một manh mối giúp tìm hiểu xem việc gì đã xảy ra với sáu viên kim cương hoàn hảo mà nghe đồn là đã từng do gia tộc Vanderhorst nắm giữ.”
“À, vậy có nghĩa toàn bộ mọi chuyện đều là vì vụ này.” Giọng bà có vẻ thất vọng.
“Thật ra, không phải như thế ạ.” Tôi suy nghĩ trong một thoáng, cố nhớ lại từ lúc nào mà trong những tháng vừa qua tôi đã không còn hăm hở chỉ chăm chăm phục hồi ngôi nhà cổ cho xong nhằm bán kiếm lời, mà thay vào đó mọi việc đã hoàn toàn chuyển sang sứ mạng đi tìm người mẹ mất tích của cậu bé con để báo cho cả thế giới biết rằng bà ấy đã không bỏ rơi con trai của mình. Tôi đã nhận thức rằng ngay từ đầu đây mới là việc quan trọng đối với tôi, kể từ khi tôi đọc lá thư của ông Nevin vào dạo ấy. Gần như thể tôi đã tự thử thách mình trong việc chứng minh cho thế giới thấy rằng không phải người mẹ nào đã bỏ rơi con của mình đều đã cố ý làm thế. Tôi nghĩ đến những lời của ông trong lá thư mà tôi đã thuộc nằm lòng kể từ lúc ấy. Có lẽ số phận đã mang cháu đến trong đời ta giúp đưa sự thật ra ánh sáng để bà ấy có thể yên nghỉ sau những năm tháng qua. Tôi đằng hắng giọng và bắt gặp ánh mắt của bà Susannah. “Ông Vanderhorst - Nevin - đã qua đời mà chẳng bao giờ biết được sự thật về việc gì đã xảy ra cho mẹ ông ấy. Mục đích của cháu là tìm ra sự thật và gột rửa thanh danh cho bà ấy để cả hai cuối cùng có thể yên giấc ngàn thu. Bởi vì cháu biết chắc rằng Louisa đã yêu chồng yêu con thật nhiều. Bà ấy sẽ chẳng bao giờ cố tình bỏ rơi họ đâu.”
Gương mặt bà Susannah hơi chùng xuống. “Vậy là Nevin đã ra đi. Theo một cách nào đó, việc này có vẻ không hợp lý chút nào, vì cậu ấy lại ra đi trước ta.” Rồi bà lắc đầu. “Còn về việc Louisa đã bỏ rơi con trai của mình ấy à, không bao giờ. Nevin là cả cuộc đời của bà ấy.”
Tôi nhìn bà lòng tràn đầy hy vọng. “Vậy là bà có biết bà ấy?”
“Không, ta không quen biết bà ấy. Nhưng ta có biết đến bà ấy qua những trang báo xã hội và từ anh Gus. Chúng ta gọi bà ấy là “phẩm chất ưu tú” trong thời xưa ấy. Thật là một quý bà đúng nghĩa. Và chẳng có một giây nào mà ta tin vào mấy cái tờ báo ấy khi họ phao tin rằng bà ấy đã bỏ trốn với cái gã Joseph Longo chẳng ra gì ấy.”
“Vậy thì... bà đã không biết việc gì đã xảy ra cho bà ấy sao?” Tôi cảm thấy đôi vai mình đổ sụp xuống. Sự trùng hợp về ngày bà Susannah ra đi với ngày Louisa mất tích khiến tôi đã hy vọng họ đã cùng nhau đi lên miền bắc.
Susannah lắc đầu. “Ta xin lỗi, cưng ạ, nhưng thật lòng ta không biết. Gus biết việc ấy, nhưng anh ấy chẳng chịu nói cho ta nghe. Anh ấy chỉ nói rằng càng có ít người biết về việc này thì càng tốt cho tất cả mọi người. Anh ấy còn nói đây là loại thông tin có thể khiến người ta bị giết.” Ðôi mắt sáng của bà ánh lên nhìn tôi, rồi lại quay sang Jack. “Ta nghĩ việc này có nghĩa rằng đã đến lượt ta phải trả lời các câu hỏi của cô rồi.”
Bà ngồi lại và lắc một cái chuông nhỏ đặt trên chiếc rương thấp cạnh chiếc ghế bành của bà. Bà Marston xuất hiện ngay lập tức, như thể bà ấy đã chờ sẵn ngay bên ngoài cửa phòng. Susannah gật đầu nhẹ với bà ấy và bà Marston lại vội vã rời khỏi căn phòng. Tôi cho thêm một cái bánh ngọt vào miệng rồi lắng nghe.
Bà Susannah lại tiếp tục. “Ta không biết toàn bộ chi tiết - chỉ là những gì ta nghe từ anh Gus mà thôi - nhưng ta nghĩ như thế cũng đủ để trả lời câu hỏi của cô.” Jack và tôi chờ đợi trong khi bà lại nhấp thêm một ngụm trà. Bàn chân tôi lại bắt đầu đá lên vì mất kiên nhẫn, nhưng tôi đã kịp kềm và khóa nó lại bằng cả hai tay.
“Vào đêm Louisa mất tích, Gus đến gặp ta. Anh ấy nói với ta rằng có một việc không hay đã xảy ra - anh ấy chẳng cho ta biết việc gì nhưng chỉ nói ta cần rời khỏi thành phố ngay lập tức. Dĩ nhiên, ta không muốn đi. Ta không muốn rời xa anh ấy. Ta đã yêu anh ấy còn hơn cả trái tim của ta nữa, cô cũng thấy đấy.” Bà liếc ra nơi khác trong một khắc. Tôi nhìn những hạt ngọc trai trên chiếc áo len của bà dâng lên rồi hạ xuống, giống như sự thay đổi bất thường của thời gian, rồi chờ đợi cho đến khi bà có thể nói trở lại.
“Anh Gus nói với ta rằng anh ấy cần đưa một vật cho ta mang theo, và rằng không ai được tìm thấy nó. Không bao giờ. Anh ấy biết rằng kẻ nào đấy mà muốn nó thì ban đầu sẽ không nghĩ đến ta, nhưng nếu họ biết ta đang nắm giữ vật ấy, thì ta sẽ bị thủ tiêu ngay. Anh ấy còn nói với ta rằng nếu có ai đó phát hiện ra cái... vật mà anh ấy sẽ đưa cho ta, điều ấy cũng có nghĩa rằng chắc chắn anh ấy và Robert sẽ khó bảo toàn mạng sống. Và thậm chí cả cậu bé Nevin nữa.”
Bà nhìn chúng tôi và cười run rẩy, và Jack đứng lên đi lấy một chiếc khăn sạch trên khay trà đưa cho bà. Bà chậm góc khăn vào mắt và run rẩy thở. “Anh ấy đã hứa với ta rằng anh ấy sẽ chăm sóc cho ta, rằng anh ấy sẽ lo cho ta có một ngôi nhà thật đẹp cho ta ở bao lâu tùy thích và một nguồn tiền không giới hạn trong một ngân hàng nơi ta sẽ đến cư ngụ. Ta sẽ chẳng bao giờ thiếu bất cứ cái gì nếu ta đồng ý việc ấy.” Gương mặt bà nhăn nhúm lại như một cánh hồng đang héo khô. “Nhưng anh ấy đã lầm, cô thấy đấy, bởi vì tất cả những gì ta muốn chỉ là anh ấy mà thôi.”
“Nhưng bà đã đồng ý,” Jack khẽ nói.
Bà gật đầu. “Ðúng. Vì ta biết anh Gus sẽ không nhờ ta nếu đó không phải là một tình huống mang tính sống chết như thế này. Trong mười năm, anh ấy đã cho ta tất cả, và ta chẳng có gì để cho lại ngoài tình yêu mà ta dành cho anh ấy. Ta đã nghĩ thôi thì ít ra đây cũng là một việc mà ta có thể làm cho anh ấy.”
Có một tiếng gõ nhẹ trên cánh cửa, và bà Marston lại bước vào phòng, nhưng lần này bà ấy đang cầm một vật gì đó trên tay. Tôi đứng lên và nhận ra chiếc hộp đựng xì gà của ông nội tôi. Jack cũng đứng dậy, rồi ra hiệu cho tôi ngồi xuống. “Ðó không phải là cái hộp của mình, Mellie à. Nhìn xem, cái khóa vẫn còn đấy.”
Jack đưa tay ra nhận lấy cái hộp, và khi Susannah gật đầu, bà Marston đưa nó cho anh. Cả hai chúng tôi lại ngồi xuống và chờ bà Susannah lên tiếng. “Anh Gus đã giúp ta thu dọn đồ đạc, rồi đưa ta ra ga tàu lửa. Anh ấy mua vé cho ta và ngồi chờ với ta cho đến khi tàu đến. Và rồi... anh hôn tạm biệt và đưa ta cái hộp ấy. Gus nói với ta rằng anh ấy có một đối tác làm ăn, người sẽ đến đón ta tại ga tàu ở Atlanta và sẽ mua vé cho chặng tiếp theo rồi đưa ta lên miền bắc. Gus không muốn biết điểm đến cuối cùng của ta ngộ nhỡ... à, anh ấy sợ rằng ngộ nhỡ sẽ có ai đó đi tìm ta. Anh ấy còn nói rằng đối tác làm ăn này - ta chưa bao giờ biết tên ông ta - sẽ giúp thu xếp tài chính cho ta và đi cùng để giúp ta mua nhà. Gus đưa cho ta một cái gói nhỏ để đưa cho ông ấy, giải thích với ta rằng đó là chi phí để giúp ta trang trải cho chuyến đi và thời gian sắp tới nằm trong đó. Ta cho rằng đó là tiền, nhưng ta cũng không chắc lắm.”
Tôi cảm thấy nghèn nghẹn trong họng. “Bà có bao giờ gặp lại ông nội của cháu nữa không?”
Ðôi mắt bà trở nên xám xịt khi bà trả lời tôi. “Không, cưng à. Ta chưa bao giờ gặp lại anh ấy.” Căn phòng bỗng yên ắng nặng nề, chỉ có tiếng nổ nhẹ lách tách của ngọn lửa trong lò sưởi là vẫn còn đấy. “Anh ấy đã rất yêu ta - ta biết điều ấy. Nhưng anh ấy cũng yêu cả những người bạn và cậu con trai đỡ đầu của anh ấy nữa. Anh ấy đã làm một việc duy nhất mà anh ấy có thể nghĩ đến nhằm giúp cho tất cả mọi người được an toàn, và ta hiểu điều đó.” Bà nhún vai. “Và ta cũng biết, rằng thời gian chúng ta bên nhau cũng đang đi đến hồi kết. Cô thấy đấy, gia đình thật quan trọng đối với anh ấy. Một ngày nào đó anh ấy sẽ sớm muốn có một người vợ và vài đứa con, và ta chẳng thể nào giúp anh ấy trong cả hai việc ấy được. Và anh ấy thật là một người đàn ông sống rất quy tắc nên anh ấy sẽ chẳng bao giờ muốn tiếp tục mối quan hệ với ta trong khi lại đi cưới một người đàn bà khác. Những người đàn ông khác thì có thể làm việc ấy, nhưng Augustus Middleton thì không.”
Bà ưỡn ngực, như thể trong ấy chất chứa đầy tự hào. “Không, ta chưa bao giờ gặp lại anh ấy. Và việc ấy cũng là món quà chia tay của ta cho anh ấy: nó không chỉ giúp anh ấy cứu mạng những người anh yêu thương, mà còn giúp anh ấy có thể chia tay ta nữa.”
Những ngón tay của Jack đã trắng bệch và bấu chặt vào chiếc hộp. “Và bà không hề biết Gus lúc ấy đã sợ ai.”
Susannah lắc đầu. “Không. Và anh ấy đã bắt ta hứa không được đưa chiếc hộp này cho ai khác xem ngoại trừ Nevin. Không một ai. Anh ấy nói rằng khi Nevin lớn lên, cậu ta sẽ được biết sự thật, hoặc ít ra cũng sẽ được dẫn đường để tìm ra sự thật, và cậu ấy sẽ tìm gặp ta ở đây. Ta nghĩ những gì cô tìm được trong chiếc hộp của anh Gus chính là để giúp Nevin tìm ra ta ở đây.”
Jack gật đầu. “Phải. Bọn cháu đoán rằng Augustus đã cất giữ cái hộp ấy cho Nevin, trong trường hợp cha cậu ta có mệnh hệ nào và không kịp nói cho Nevin biết sự thật. Nhưng Robert và Gus lại qua đời cách nhau chỉ vài ngày khiến Nevin chẳng bao giờ biết được gì cả. Và rồi cái hộp đầu tiên lại do Gus nắm giữ cho đến một ngày vào tháng trước thì ba của Mellie tìm ra nó.”
Ðầu của bà buông thõng xuống khiến cằm của bà gần như dựa vào ngực. “Mãi về sau ta mới biết việc Robert qua đời, nhưng ta có biết về Gus. Ta nhận được một mảnh giấy thời báo Charleston đăng tin cáo phó của ông ấy. Phong bì được đóng dấu bưu điện từ Atlanta, nên ta cho rằng nó được gửi từ đối tác làm ăn của anh ấy. Ta vẫn còn nhớ mình đã khóc cả ngày hôm ấy, nhưng đó không hoàn toàn vì đau buồn. Ồ không - vẫn còn có rất nhiều người như ta vốn có nhiều điều để khóc hơn. Ta đã có mười năm tuyệt đẹp với chàng.” Bà liếc nhìn lên và mắt chúng tôi giao nhau. “Ta khóc vì toàn bộ những năm tháng mà ta đã nhớ chàng vì ta luôn vờ xem như chàng đã chết. Và đây, chàng lại xuất hiện, lần này thì chàng đã mất thật sự, và ta lại phải quay về nhớ thương chàng như từ đầu.”
“Việc này thật không dễ dàng cho bà chút nào,” Jack nói.
Susannah làm chúng tôi ngạc nhiên khi bà mỉm cười. “Thật ra cũng không phải thế. Cậu thấy đấy, ta cảm nhận được anh ấy tại đây, ngay trong ngôi nhà này. Ở bên ta. Khi ta đi ngủ, ta thấy chàng. Giống như chàng đang đợi ta vậy.”
Tôi nhìn đi nơi khác, sợ rằng nếu không làm thế thì tôi sẽ khóc mất. “Vậy ra những manh mối đều nằm tại đây trong suốt những năm tháng qua, và Nevin chẳng bao giờ biết đến nó. Ông ấy đã mất mà chẳng biết gì về sự thật.”
“Không đúng đâu, cháu gái ạ,” Susannah nhẹ nhàng nói. “Cậu ấy biết rằng mẹ cậu ấy đã yêu mình thật nhiều. Và cậu ấy cũng biết đủ nhiều khi để lại ngôi nhà cho cô. Cậu ấy chắc chắn đã phải biết rõ rằng cô sẽ tiếp tục giúp cậu ấy tìm mẹ mình.” Bà mỉm cười. “Và đó là tại sao ta quyết định đưa chiếc hộp cho cô chứ không phải đưa cho gã kia.”
Jack ngồi nhổm dậy. “Có một người nào khác đã đến đây và hỏi về Louisa à?”
Susannah nhăn trán. “Ðúng - vào chiều tối hôm qua. Anh ta chỉ ở đây trong chốc lát, có lẽ vì thế mà ta quên bẵng đi mất cho đến bây giờ.” Bà lắc đầu. “Ta xin lỗi - ta e rằng trí nhớ của ta không còn được như xưa nữa.”
Một cảm giác lành lạnh và nặng nề bỗng quấn lấy ruột gan tôi. “Bà có nhớ tên của người ấy không?” Giọng tôi nghe nghèn nghẹn, như thể tôi đang gắng sức lôi những từ ấy ra khỏi cổ họng đang xiết chặt lại của mình vậy. Tôi nhớ lại Marc đã hủy cuộc hẹn của chúng tôi vì một chuyến đi xa bất chợt của anh, rồi lại có người đã đến Thư viện Lịch sử và đã đặt sai chỗ cuốn sách mà chúng tôi cần để tìm ra Susannah Barnsley. Và cả những cuộc gọi ẩn danh và cúp máy mà bà Barnsley đã nhận từ Charleston mà không phải do chúng tôi gọi. Tôi cảm thấy mắt của Jack đang dán vào tôi, nhưng tôi không nhìn lại anh.
Susannah gõ nhẹ móng lên tay ghế bành của bà. “Rồi ta sẽ nhớ ra thôi. Chờ một chút.” Bà tiếp tục nhấp nhấp những ngón tay, đôi lông mày bà châu lại tạo thành một nếp nhăn thật sâu.
Jack hắng giọng. “Hắn ta trông như thế nào?”
“Ồ, việc ấy thì dễ. Ta luôn để ý một người đàn ông ưa nhìn. Anh ta rất cao, cao hơn cậu. Tóc đen và mắt sẫm màu. Và anh ta vận bộ veston đắt tiền. Gus đã dạy ta biết cách nhận ra kỹ thuật cắt may khéo léo.” Bà cười khoái trá ra mặt. “Thật buồn cười phải không, rằng ta có thể nhớ những thứ như thế từ đời nảo đời nào nhưng lại không thể nhớ nổi những việc chỉ vừa xảy ra ngày hôm qua?”
Jack hơi do dự, và tôi biết anh đang chờ tôi hoặc là hỏi câu hỏi ấy, hoặc là chẳng hỏi gì cả. Tôi quyết định hỏi, cảm giác như giọng nói ấy đến từ một người nào khác. “Có phải tên anh ta là Marc Longo?”
Cái nhăn mày của Susannah nhanh chóng giãn ra và gương mặt bà bừng sáng. “Ðúng rồi, chính xác là nó. Ít ra ta cũng phải nhớ cho được cái họ chứ, vì Joseph Longo chính là kẻ mà thiên hạ đồn đãi là Louisa đã bỏ trốn cùng. Dĩ nhiên là ta chẳng bao giờ tin vào chuyện ấy.”
Tôi lại mở miệng định hỏi câu hỏi kế tiếp nhưng rồi tôi không thể thốt nên lời. Thế là Jack nói thay cho tôi. “Hắn ta có hỏi gì về Louisa và Joseph hay không?”
Bà lại chau mày. “Cậu biết không, ta cũng không chắc lắm về việc ấy. Nhưng ta nhớ rằng anh ta có hỏi về những viên kim cương. Anh ta hỏi ta nhiều lần có phải anh Gus đã gửi những viên kim cương ấy đi cùng với ta hay không.”
“Thế bà đã nói gì với hắn?”
Susannah mỉm cười dịu dàng. “Dĩ nhiên là ta trả lời ‘không’ với anh ta rồi. Rằng ta chưa bao giờ nghe gì đến những viên kim cương ấy. Mà việc này thì không đúng sự thật - bởi vì ta đã có nghe về chúng, nhưng ta chẳng biết gì về chúng cả. Dù sao thì ta cũng sẽ chẳng cho anh ta biết việc ấy làm gì. Có cái gì đó ở anh ta mà ta không thích. Một cái gì đó... không đáng tin cậy.”
Jack lại rất biết điều mà chẳng nói gì thêm.
Lúc này tôi đã lấy lại được giọng. “Bà có muốn bọn cháu mở cái hộp bây giờ không?”
Có vẻ như bà đang cân nhắc câu hỏi của tôi trong chốc lát, nhưng rồi lại lắc đầu. “Không. Ta nghĩ không nên như thế. Nó chẳng bao giờ dành cho ta cả, cô có thấy không. Ta đã giữ nó và không nói cho ai biết ngoài cô cậu trong từng ấy năm, đúng như lời ta đã hứa với Gus. Giờ thì ta chẳng muốn phá vỡ lời hứa ấy.”
Jack chầm chậm gật đầu, rồi đứng dậy. “Có lẽ bọn cháu đã làm phiền bà khá nhiều rồi, thưa bà Barnsley. Thật không biết dùng từ nào hơn để cảm ơn bà. Bà đã giúp ích cho bọn cháu rất nhiều.”
Tôi cũng đứng lên, hai đầu gối tôi run rẩy, không biết mình có đi nổi với tảng băng đang cuộn tròn nặng nề trong dạ dày của mình hay không nữa. Tôi bước đến bà Susannah và quỳ gối trước mặt bà. “Dạ, cháu xin cám ơn bà rất nhiều. Cám ơn bà đã tin tưởng mà giao cho cháu chiếc hộp này.”
Bà chạm vào tóc tôi, rồi ôm hai má tôi và mỉm cười. “Ta thật vui vì đã gặp được cháu. Thật thú vị khi được nhìn một phần xương thịt của Gus sau chừng ấy năm. Cháu đã làm cho bà già này thật mãn nguyện và hạnh phúc.”
Tôi ấp lấy tay bà bằng cả hai tay. “Nếu chỉ có thế thôi cũng đã bõ công cho chuyến đi này rồi. Bà có muốn cháu gửi cho bà món gì từ quê nhà không? Bà có cần gì không?”
Bà siết chặt bàn tay tôi. “Gus đã ra đi rồi, cho nên ta chẳng còn cần gì trên đời này nữa. Nhưng ta muốn cháu hứa với ta một chuyện.”
“Việc gì cũng được ạ. Bà cứ nói đi.”
“Hứa với ta rằng cháu sẽ thực hiện mọi việc cho đúng đắn - không chỉ cho Louisa mà còn cho tất cả những người đã khuất.”
“Cháu sẽ làm như thế, thưa bà Barnsley. Cháu hứa.”
“Tốt lắm,” bà nói, siết lấy bàn tay tôi một lần nữa rồi liếc lên nhìn Jack. “Anh này có phải là chàng hoàng tử của cháu không?”
“Hoàn toàn không,” tôi nói cùng lúc khi Jack nói, “Cháu thích cái ý nghĩ ấy.”
Susannah làm tôi ngạc nhiên khi bà cười phá lên. “Ta hiểu. Anh này hơi giống Gus, cái con người ấy. Cháu cứ kháng cự và kháng cự anh ta, và rồi một ngày nào đó cháu sẽ cảm thấy như bị một thùng nước dội thẳng lên đầu, và cháu sẽ tự nhủ làm sao mình có thể sống thiếu anh ta đấy.”
Tôi đứng lên và cười gượng. “Có lẽ trước tiên thì cái thùng ấy phải đánh vào đầu cháu đủ mạnh để làm cháu không còn lý trí gì nữa cũng nên.”
Jack huých khuỷu tay vào người tôi trong khi anh cúi xuống hôn vào má bà Susannah. “Tạm biệt bà Barnsley. Thật hân hạnh được gặp bà hôm nay. Cháu hy vọng chúng ta sẽ có dịp gặp nhau lần nữa.”
“Ta cũng thế,” bà nói trong khi bà Marston xuất hiện với áo khoác của chúng tôi trong tay để tiễn chúng tôi ra về.
***
Im lặng, Jack và tôi bước vào chiếc xe thuê, và Jack đưa cho tôi cầm cái hộp. Như đã có thỏa thuận ngầm, tôi và anh cứ giữ yên lặng như thế cho đến khi chúng tôi lái ra đến xa lộ thì Jack cất tiếng. “Cô có muốn nói về việc ấy không?”
Tôi lắc đầu.
“Ðược thôi.” Anh hít một hơi thật mạnh. “Có ý kiến gì để mở cái hộp này không?”
Tôi nhìn ra ngoài cửa sổ xe và ngắm khung cảnh đồng quê bao la đang chạy băng băng trước mặt, màu xanh dương và xanh lá còn sót lại của mùa hè ẩn giấu bên dưới sắc đỏ và vàng của mùa thu. “Tạt vào lề.”
Jack thật thông minh khi anh chẳng hỏi gì tôi mà tắp xe ngay vào lề của xa lộ hai chiều. Tôi nhảy ra khỏi xe cùng với chiếc hộp, còn Jack đi theo tôi đến ven bìa một cánh đồng. “Giúp tôi tìm một hòn đá to nào.”
Mắt anh bừng sáng khi hiểu ra vấn đề và anh vội vã quay đi, và chúng tôi bắt đầu càn quét ven dọc cánh đồng để tìm cho ra bất cứ thứ gì đủ nặng để bẻ khóa. Khi chúng tôi đi tìm được chừng năm phút thì Jack gọi lớn, tay cầm một hòn đá hơi to hơn cổ tay anh một chút. Anh tiến đến và đưa tay vớ lấy chiếc hộp.
“Không,” tôi nói. “Ðể tôi làm.”
Anh chẳng cãi lại mà đưa cho tôi hòn đá. Tôi quỳ xuống dưới cỏ bên cạnh chiếc hộp, dùng tay trái giữ cho nó nằm yên còn tay phải giơ cao hòn đá lên và đập. Tôi phải đập đến lần thứ ba thì cái khóa kim loại mới sứt ra khỏi hộp gỗ.
Jack cầm chiếc hộp lên và kiểm tra công trình đập phá của tôi. “Ôi, đúng là sư tử Hà Ðông mà!”
Tôi cảnh cáo anh bằng một cái liếc xéo thật dài. Một lần nữa Jack lại tỏ ra rất biết điều, anh gập người thực hiện nghĩa vụ tháo những mảnh vụn của cái khóa ra khỏi phần gỗ rồi đưa chiếc hộp lại cho tôi. “Tôi nghĩ cô nên là người được vinh dự mở nó ra.”
“Cám ơn anh,” Tôi nói. Trong khi anh cầm cái hộp, tôi từ từ mở cái nắp hộp và nghía vào bên trong.
“Sao rồi?” Jack hỏi một cách mất kiên nhẫn.
“Ồ,” tôi nói. “Chắc chắn là tôi không nghĩ nó là cái này.” Tôi đặt cái hộp xuống để chúng tôi có thể cùng nhau kiểm tra những thứ bên trong.
“Ngạc nhiên thật đấy,” Jack nói trong khi anh đưa tay vào và lấy ra một khẩu súng lục nhỏ và bắt đầu ngắm nghía nó. “Ðây là loại súng lục Remington,” anh nói và kiểm tra hai nòng súng. “Nó chỉ có thể bắn ra hai lần từng phát một và cả hai nòng súng đều không có đạn.” Mắt chúng tôi giao nhau trong một thoáng khi nghĩ đến những điều ẩn ý rồi tôi xộc tay vào và lôi ra một phong bì giống hệt như phong bì đựng bên trong chiếc hộp xì gà của ông nội.
“Mở nhanh ra nào,” Jack thúc giục.
Tên của Nevin được viết nguệch ngoạc ở mặt trước phong bì bằng nét chữ giống với nét chữ trên phong bì chúng tôi đã tìm thấy trước đó, nhưng lần này tôi chẳng ngần ngại mở toạc nó ra. Thư được viết trên ba trang giấy bằng nét chữ thảo gọn gàng. Tôi đằng hắng giọng trước khi đọc lên.
Ngày 1 tháng 9 năm 1930
Con trai yêu quý của cha,
Khi con đang đọc những dòng này thì có lẽ cha đã lìa đời mà chưa bao giờ có cơ hội để nói cho con biết việc gì đã xảy ra vào cái đêm mà mẹ con mất tích. Cha lấy làm tiếc khi phải cho con biết sự thật bằng cách này, nhưng cha hy vọng con hiểu rằng cha không còn chọn lựa nào khác và rằng từng quyết định mà cha đã làm là hoàn toàn vì yêu con và mẹ con. Cha cũng hy vọng rằng ký ức của con về cái đêm khủng khiếp ấy sẽ quay về sau khi con đọc xong lá thư này để con thêm vững tin về những gì cha đang viết, và biết rằng đây là toàn bộ sự thật.
Vào đêm mà mẹ con biến mất khỏi cuộc sống của cha con mình, gia đình ta đã có một người khách đến nhà - một đối tác làm ăn của cha, Joseph Longo. Trước tiên, để cha giải thích rằng việc ông ta là đối tác làm ăn không phải là do sự lựa chọn của cha. Gia đình ông ta chi phối toàn bộ ngành kinh doanh rượu lậu và các hoạt động phi pháp khác ở Charleston thời ấy, và ông ta cũng có tham vọng quản lý toàn bộ các hoạt động khác của thế giới ngầm trong thành phố.
Vì chưa bao giờ có dính dáng gì đến lĩnh vực này, cha đã khá ngây thơ khi cha bắt đầu nấu rượu lậu ở đồn điền Magnolia Ridge nhằm nỗ lực tránh cho gia đình ta phải đi đến phá sản sau khi thị trường chứng khoán sụp đổ vào năm hăm chín. Ðó thật là một ngành kinh doanh sinh lợi rất cao, cho phép chúng ta giữ được ngôi nhà và đủ sức cho con đi học trường tốt hơn. Thật không may, khi làm ăn sinh lợi cao cũng có nghĩa là doanh nghiệp của cha bắt đầu rơi vào tầm ngắm của Longo. Cha biết hắn ta đã lót tay rất đậm cho giới chức chính quyền, do đó nếu cha tố cáo hắn thì cũng chẳng có nghĩa lý gì, trong khi cha thì lại không được ai bảo kê như thế.
Hắn đã đe dọa sẽ làm cho cha kiệt quệ tài chính cũng như cả thanh danh bằng cách tố cáo với chính quyền về những hoạt động phi pháp của cha trừ phi cha đồng ý đổi chác lại cho hắn một thứ để mua lấy sự im lặng của hắn. Thật đáng tiếc, cha đã vô tình cho hắn một thứ vũ khí duy nhất mà hắn cần để ép buộc cha. Con biết không, cách đây nhiều năm, theo sau cuộc chiến tranh chống lại miền Bắc, gia đình ta đã được sở hữu sáu viên kim cương cực kỳ quý báu. Những viên kim cương này vẫn được cất giấu cho đến khi cha vô tình phát hiện ra chúng cách đây vài năm. Khi ấy cha chẳng nghĩ gì đến sự phức tạp của vấn đề, nên cha đã lấy ra một viên kim cương cho làm một chiếc dây chuyền đeo cổ cho mẹ con, đó là chiếc dây chuyền mà bà ấy đã đeo trong tấm hình đăng trên báo thời ấy. Longo có biết về những viên kim cương này nhưng hắn nghĩ đó chỉ là huyền thoại, cho đến một ngày hắn nhìn thấy tấm hình ấy. Cha đã sẵn sàng đi tù hơn là để cho con người ấy chạm tay đến những thứ mà cha luôn xem như của thừa kế cho con, và cho con của con nữa. Nhưng hắn cũng biết điểm yếu của mẹ con khi sự việc có liên quan đến cha và con, và hắn đã đánh động vào lương tâm của mẹ con bằng cách nói với bà ấy rằng ngục tù khổ sai sẽ ra sao đối với cha, và khi ấy thì mẹ con bà ấy sẽ thiếu sự che chở như thế nào. Nhận thấy rằng không còn lựa chọn nào khác, bà ấy đã đầu hàng và đưa cho hắn sợi dây chuyền - bởi vì bà ấy không hề biết nơi cất giấu của những viên kim cương còn lại - và việc ấy đã làm dịu cơn thèm khát của hắn, nhưng chỉ trong một thời gian ngắn. Longo đã bay sang châu Âu và đánh bạc với số tiền ấy, và chẳng bao lâu sau đó thì hắn lại quay trở về. Lần này hắn đã đòi hỏi nhiều hơn.
Vào cái ngày mẹ con biến mất, Joseph Longo - vốn đã biết rằng cha sẽ ở văn phòng làm việc, và gần như cũng biết rằng thứ Tư là ngày nghỉ của những người giúp việc trong nhà - đã đến nhà mình để gặp mẹ con và đòi thêm một viên kim cương khác. Mẹ con đã nói với hắn rằng hắn phải nói chuyện với cha bởi vì bà ấy không biết những viên kim cương còn lại nằm ở đâu. Hắn đã hiểu đúng vấn đề khi cho rằng cha sẽ không bao giờ đưa cho hắn thêm một viên kim cương nào khác, nên hắn đã bắt đầu đe dọa bà ấy vì cho rằng bà ấy nói dối. Ngay khi bà ấy đã nài xin hắn hãy tin bà ấy, thì con, Nevin yêu quý, có lẽ đã nghe thấy tiếng xô đẩy nên đã bước vào phòng.
Không may cho Joseph Longo, khi ấy cha cũng vừa quay trở về nhà từ văn phòng để lấy vài tập tài liệu mà cha đã vô ý để quên ở nhà. Cha đã thấy xe hơi của hắn đậu bên ngoài và cha biết rằng sẽ có rắc rối. Nghe thấy tiếng mẹ con khóc, cha đã lao vào phòng khách chính và thấy Longo đang chĩa một khẩu súng lục về phía con. Sự có mặt của cha đã làm hắn mất tập trung, và mẹ con đã nhìn thấy cơ hội để bảo vệ con. Bà ấy đã chạy về phía con, và ngay khi Longo xoay lưng lại, hắn đã nổ súng. Cha tin rằng hắn cố tình bắn con, nhưng viên đạn lại trúng vào bà ấy.
Người mẹ hiền của con đã chết ngay tức khắc, vì viên đạn đã xuyên thủng vào tim bà ấy. Ðừng than khóc, con trai Nevin thương yêu. Bà ấy cũng sẽ không sống nổi nếu như con bị hại. Bà ấy đã chết như bà đã từng sống, hết lòng yêu thương cả hai cha con ta, và cha tự an ủi mình bằng niềm tin rằng cha con mình sẽ lại được trùng phùng với bà ấy.
Cha cũng không nhớ chính xác trình tự những sự việc diễn biến tiếp theo đó. Trong đời cha chưa bao giờ thịnh nộ như lúc ấy cả. Cha đã lao vào Longo, và hắn không thể tự vệ trước cơn giận dữ ấy của cha. Cha đã giật lấy khẩu súng lục từ tay hắn và bắn một phát vào ngực hắn mà không kịp nghĩ gì đến hậu quả của việc ấy. Thật đáng đời, hắn không chết ngay tức khắc. Và cha đã được chứng kiến khi hắn phải chịu đựng một cái chết thật dài và đau đớn. Cha cảm thấy toại nguyện về điều đó, bởi vì hắn đáng chết vì những gì hắn đã làm. Nhưng cha cũng biết rằng mình không bao giờ được tiết lộ sự thật về việc này.
Những đối tác làm ăn cùng bà con họ hàng đông đảo của Longo quen biết nhau rất mật thiết. Cha e sợ rằng nếu sự thật bị phát hiện thì không chỉ mạng sống của cha bị đe dọa, mà cả con nữa, cũng sẽ nằm trong vòng nguy hiểm. Bọn chúng rất nhẫn tâm và sẽ không hề đắn đo khi phải giết một đứa trẻ. Vì mẹ con đã hy sinh cả mạng sống của mình để con được sống nên cha không thể để cho cái chết của bà ấy trở nên vô nghĩa.
Cha đã gọi người bạn thân và đối tác hãng luật, và cũng là cha đỡ đầu của con, Augustus Middleton, để nhờ giúp đỡ. Cha đã hoàn toàn sụp đổ vào lúc ấy vì đau buồn khi đã mất mẹ con và suýt nữa thì cũng mất luôn cả con, cho nên ông ấy phải là người giúp cha suy nghĩ vì khi ấy cha cảm thấy hoàn toàn bất lực. Ông ấy đã giúp cha giấu đi hai thi hài ấy để không ai có thể tìm thấy trừ phi họ biết đi tìm ở đâu. Ông ấy cũng đã dàn dựng nên sáng kiến xoay quanh hai chiếc hộp đựng xì gà này để giữ cho bí mật gia đình mình khỏi những con mắt hồ nghi mà vẫn có thể cho phép con tìm được chúng trong trường hợp cả cha và Gus có mệnh hệ nào trước khi cha kịp giải thích mọi việc cho con. Và, hiện như con đã biết, ông ấy đưa chiếc hộp còn lại cho cô Barnsley giữ cho an toàn.
Augustus cũng đã nghĩ rằng tốt nhất nên gửi cho tòa soạn báo một thông tin nặc danh ám chỉ rằng mẹ con đã bỏ trốn cùng Longo. Cha đau đớn khôn cùng khi nghĩ đến sự vu khống trắng trợn dành cho mẹ con như thế, nhưng cha cũng biết rằng đó là cách duy nhất để giữ cho con được an toàn. Cha cũng tin rằng người mẹ hiền của con cũng sẽ đồng ý với bất cứ việc gì để có thể bảo vệ an toàn cho con.
Mọi việc đã hoàn toàn ổn thỏa, nhưng có một phần duy nhất không khớp với toàn bộ sự sắp đặt này chính là con, con trai thương yêu của cha. Những sự kiện xảy ra trong cái đêm định mệnh ấy đã gây tổn thương cho con theo một cách mà cha không hề lường trước được - trong cái rủi lại có cái may. Sáng hôm sau đó con thức dậy và hỏi mẹ đâu mà chẳng nhớ gì đến tai nạn đã xảy ra vào đêm trước đó. Cha nghĩ đây là cách mà đầu óc non nớt của con đối phó với thảm kịch này, bằng cách khóa nó lại không cho vào trí nhớ của con, và với việc ấy, cha thật mừng.
Con trai Nevin của cha, hãy vững tin rằng cả cha lẫn mẹ đều đã yêu con vô vàn. Khi con đang đọc những dòng chữ này thì con sẽ nhìn lại cuộc đời vừa qua của con và biết rằng đây chính là sự thật.
Hẹn ngày tái ngộ, con trai yêu quý,
Người cha mến yêu của con,
Robert Nevin Vanderhorst.
Tôi chậm rãi gấp lá thư lại và đặt nó vào trong bao thư. “Tội cho Louisa quá,” tôi nói, cố ngăn những giọt nước mắt sắp rơi ra. “Và tội cho Nevin. Bà ấy đã chết để bảo vệ mạng sống cho ông ấy, trong khi ông ấy lớn lên và tin rằng bà ấy đã bỏ rơi mình. Thật buồn làm sao.”
Jack choàng cánh tay quanh vai tôi, và tôi cho phép anh được làm thế vì tôi cần một nơi để che giấu những giọt nước mắt của mình. “Nhưng ít ra giờ đây chúng ta đã biết được sự thật. Và chúng ta có thể cho phần còn lại của thế giới biết về điều ấy. Việc này sẽ làm cho cả hai chúng ta cảm thấy dễ chịu hơn.” Tôi gật đầu, biết rằng anh nói đúng, nhưng tôi vẫn không thể ngưng nhìn thấy sự khắc khổ tuyệt vọng trên gương mặt ông Vanderhorst trong khi tôi chào tạm biệt ông ở khung cửa nhà ông. Một cảm giác không thỏa mãn bỗng vờn quanh, như thể chúng tôi vẫn chưa thật sự hoàn tất với câu chuyện của Louisa và Nevin.
Jack xoa lưng tôi. “Vẫn còn rất nhiều điều cần được giải đáp. Chẳng hạn như Louisa và Joseph đã được chôn ở đâu? Và những viên kim cương còn lại hiện đang ở đâu - giả sử như chúng vẫn còn tồn tại?”
Tôi vùng người ra, dụi mắt và bắt đầu nhìn khắp nơi ngoài Jack ra. Vẫn còn một vật nằm bên trong cái hộp, và anh sục tay vào trong rồi lôi ra một chiếc túi nhỏ bằng nhung đỏ đã phai màu có sợi dây màu hoàng kim thắt miệng túi, núm tua đính vào sợi dây đã mất hẳn màu vàng ánh xưa kia của nó nhưng vẫn còn treo lủng lẳng trên đầu sợi dây. Một cảm giác rờn rợn châm chích chạy dọc sống lưng khiến tôi rùng mình. Tôi nhớ lại có một lần mẹ đã từng nói với tôi rằng cảm giác ấy cũng tương tự như cảm giác mà các hồn ma cảm nhận được khi có người bước đi trên nấm mộ của họ, và tôi lại rùng mình lần nữa, cố tập trung nhìn Jack. Anh nới lỏng phần miệng túi, và tôi cảm thấy thúc bách phải đưa tay ra, lòng bàn tay khum lại và ngửa lên chờ đợi. Anh nghiêng cái túi nhỏ vào bàn tay tôi, và chúng tôi kinh ngạc khi cùng nhau nhìn một viên kim cương thật to, gần như không tì vết, từ từ trượt nhẹ nhàng vào lòng bàn tay tôi.
“Ừ. Và cả Thánh Michael, Thánh Philip, và cả Khu di tích Battery. Sắp tới tôi sẽ thử với các từ Jihad, Hussein, và Iraq.”
Tôi nhìn anh, hoàn toàn bối rối. “Tại sao lại phải làm thế?”
“Bởi vì tôi nghĩ rằng đó là những từ duy nhất trong từ điển mà chúng ta chưa sử dụng đến.” Rồi anh liếc dài sang tôi. “Nói đùa thôi mà.”
“Tôi biết,” tôi nói rồi lại tập trung vào tập giấy viết trước mặt và viết những chữ “Vườn White Point” vào bộ mã.
Tiếp sau đó chúng tôi trải qua năm tiếng rưỡi đồng hồ của chuyến đi - ngoại trừ thời gian quá cảnh ở Atlanta - hết giải mã rồi lại ngủ. Chúng tôi đáp xuống thành phố Burlington, tiểu bang Vermont, khoảng chín giờ tối, thuê một chiếc xe, và thuê hai phòng trọ gần đấy để tiết kiệm thời gian lái xe đến Colchester vào buổi sáng và kịp đáp chuyến bay quay về lại Charleston sau đó.
Tôi ngủ chập chờn, cứ choàng tỉnh giấc vì những bộ mã quay cuồng trong đầu và tự hỏi không biết có phải Jack cũng đang nghĩ đến cuộc gặp ngày mai với Susannah Barnsley hay không. Jack đã nói chuyện ngắn gọn với bà ấy trên điện thoại, giải thích cho bà chúng tôi là ai và xin phép cho chúng tôi được gặp mặt. Ban đầu bà ấy có vẻ ngần ngại nhưng khi anh giải thích rằng tôi là cháu nội của ông Augustus Middleton thì bà đổi ý. Bà đã đồng ý gặp chúng tôi nhưng không nói gì thêm, và đầu tôi đầy rẫy những nghi ngờ rằng bà chẳng có gì cho chúng tôi biết thêm và rằng chuyến đi của chúng tôi chỉ là vô bổ và tốn thời gian mà thôi.
Tôi cảm thấy bức bối khó chịu vào sáng hôm sau trong khi chúng tôi ghé tiệm thức ăn nhanh mua cà phê và đồ ăn sáng trước khi lái xe đi Colchester. Jack thì vui vẻ hoạt bát và trông có vẻ như anh đã ngủ ngon đêm qua, việc này càng khiến tôi cáu kỉnh hơn khi anh chúc tôi một buổi sáng tốt lành.
Chúng tôi gõ địa chỉ của Susannah vào thiết bị dẫn đường GPS và lái đi theo chỉ dẫn của nó qua vùng quê lạnh giá của Vermont. Tôi biết chắc chắn rằng phong cảnh ở đây rất hữu tình và đầy màu sắc nhưng tôi chẳng còn lòng dạ nào mà thưởng thức vẻ đẹp của nó bằng đôi mắt sưng mọng và ngứa ngáy của mình. Jack cũng biết điều nên cứ giữ im lặng.
Ngôi nhà chúng tôi đang tìm quả là hoàn toàn ngoài sức tưởng tượng của tôi. Tôi cứ nghĩ chắc chắn Susannah sẽ muốn sống trong một ngôi nhà kiểu miền Nam truyền thống, giống như ngôi nhà cũ của bà ở Charleston, chứ không phải kiểu nhà gọn ghẽ và trắng toát với những hàng rào cọc cũng trắng cùng với những cánh cửa sổ giả kiểu Pháp màu đen trước mặt tôi như thế này. Tuy nhiên, tôi biết rằng chúng tôi đã tìm đúng nhà khi tôi nhìn khu vườn có cổng rào ở phía sau nhà. Ở Vermont vào cuối thu như thế này, các khóm hoa và bụi cây đã phai tàn hết sắc màu, nhưng chính cái tổng thể tinh khiết của nó đã khiến tôi nghĩ rằng đây chắc chắn là nơi cư ngụ của một người gốc Charleston.
Chúng tôi đứng trên bậc thềm bằng gạch được quét tước sạch sẽ, và Jack bấm chuông cửa. Có tiếng bước chân vội vã từ bên trong, rồi một người phụ nữ trạc ngoài năm mươi và ăn mặc gọn gàng ra mở cửa.
“Xin chào,” bà chào chúng tôi. “Tôi là bà Marston. Tôi chăm sóc cho bà Barnsley.” Rồi bà mở rộng cửa hơn. “Xin mời vào. Chúng tôi đang chờ quý vị đến đây.”
Ngôi nhà được trang hoàng bằng đồ cổ, nhưng không phải theo phong cách tầm thường thực dụng thường thấy trong một ngôi nhà vùng quê Vermont. Trái lại, đây là những món đồ rất tao nhã mà nếu được bày biện trong ngôi nhà trên phố Tradd thì sẽ hợp thời hợp cảnh hơn.
Ngọn lửa réo gào chào đón chúng tôi khi cả hai bước vào phòng khách chính, và tôi suýt không để ý thấy người đàn bà nhỏ thó được dựng ngồi lên bằng nhiều chiếc gối trong chiếc ghế bành khổng lồ đặt cạnh lò sưởi. Mặc dù bà đã cao tuổi, tôi đoán cũng cỡ chín mươi, nhưng tôi vẫn có thể nhận ra bà từ tấm hình. Bà có rất ít nếp nhăn trên gương mặt da nâu nhạt ấy, như thể bà đã mất cả đời chăm sóc nó, còn đôi mắt màu xanh lá cây của bà thật to và đầy sức sống, hoàn toàn ngược lại với tuổi tác của bà.
“Trông cô thật giống ông nội của cô đấy,” bà nói bằng một giọng thật khỏe và cùng với nó vẫn còn âm hưởng nhẹ nhàng và ngữ điệu phảng phất của Charleston. Nó khiến tôi cảm thấy như đang ở quê nhà.
“Thật thế à?” Tôi hỏi bà, rồi tiến lên phía trước và cầm lấy cánh tay của bà vừa chìa ra. Chúng tôi bắt tay, cái nắm tay của bà khá khỏe, rồi tôi giới thiệu bà với Jack. Tôi có thể nhận thấy đôi mắt bà sáng lên chứng tỏ sức mê hoặc của Jack rõ ràng là không vượt ra khỏi sự quan sát ấy. Nhớ lại phản ứng tương tự của Yvonne với Jack, tôi tự nhủ sau này nhớ phải nói với Jack rằng nếu nghề viết của anh không phất lên được thì anh luôn luôn có thể chuyển sang làm giám đốc quan hệ khách hàng cho nhà dưỡng lão. Hoặc làm trai bao.
Bà Marston mang đi áo khoác của tôi và Jack rồi chúng tôi ngồi lên chiếc ghế sô-pha đối diện với bà Susannah, hơi ấm từ ngọn lửa thấm dần vào cơ thể lạnh ngắt của tôi. Bởi vì tôi là dân sinh trưởng ở Nam Carolina nên nếu nhiệt độ xuống dưới mười bốn độ C là quá lạnh đối với tôi rồi. Bà Marston rời khỏi phòng để lấy khay trà, để chúng tôi có thể nói chuyện riêng với nhau.
Jack mở màn. “Cám ơn bà Barnsley, vì đã cho phép chúng cháu đến thăm viếng. Chắc bà cũng lấy làm lạ khi bỗng dưng lại nhận được cú điện thoại từ Charleston hoàn toàn bất ngờ như thế này.”
“Thật ra thì cũng không đến nỗi lạ lắm đâu. Cuộc gọi của cậu là cuộc gọi thứ ba trong những ngày này đấy.”
“Thật sao?” Tôi hỏi. “Bà có biết những người kia không?”
“À, hai cuộc gọi đầu mà bà Marston nói cho ta biết thì người gọi chỉ cúp máy, nên ta cũng không rõ. Tuy nhiên, bà ấy đã nhận ra mã vùng, nên ta biết cuộc gọi từ đâu đến. Rồi khi cậu gọi, ta nghĩ hai lần gọi trước cũng là từ cậu luôn.”
Tôi nhớ rằng Yvonne có kể cho chúng tôi biết rằng bà ấy đã gọi để xem Susannah còn sống hay không và tôi cho rằng bà đã gọi hai lần và quên đề cập đến việc ấy.
Jack rướn người lên phía trước, hai khuỷu tay anh đặt trên hai đầu gối. “Dạ, cháu cũng mừng là đã báo trước cho bà về cháu nội của ông Middleton, vì cháu biết rằng việc gặp Melanie sẽ gợi lại nhiều kỷ niệm xưa cho bà.”
“Ðúng đấy. Thật sự là như thế. Nhưng gần như toàn là kỷ niệm đẹp thôi.” Bà mỉm cười, nhưng đôi mắt bà dường như lại hướng nội và quay về một thời kỳ khác, một địa điểm khác. Tôi bỗng cảm thấy chóng mặt trong một thoáng, như thể tôi đang du hành cùng với bà, và cả hai chúng tôi đều đang quay lại Charleston và rằng tất cả trong tim bà chỉ có ông nội của tôi mà thôi. Bà ấy đã yêu ông nội thật nhiều, tôi nghĩ. Bà lại nhìn thẳng vào tôi và đôi mắt bà long lanh, và tôi có một ý nghĩ lướt qua rằng bà đã cảm nhận tôi trong đầu. “Thế thì cô cậu muốn biết về việc gì nào?”
Tôi mở túi xách và lấy ra tấm hình của bà mà tôi đã kẹp lại giữa hai miếng bìa các-tông cứng. “Ðây có phải là bà hay không?” Tôi hỏi.
Bà cầm nó bằng cả hai tay, móng tay của bà được cắt tỉa gọn gàng và sơn nước bóng. Bàn tay bà hơi run rẩy khi bà săm soi tấm hình. “Ðúng rồi,” bà khẽ nói. “Ðó là ta đấy. Hay nói đúng hơn, đó đã là ta. Gus cho chụp tấm hình này. Ta chỉ nhìn thấy nó một lần - anh ấy bảo anh thích giữ tấm hình này bên mình.”
“Vậy thì, theo như bà biết, tấm hình này đã luôn luôn ở bên ông Gus,” Jack xen vào.
Susannah gật đầu. “Theo như ta biết, đúng là như thế.”
Tôi nhìn Jack trong khi anh gật đầu, như đã biết chắc chắn rằng Robert và Augustus chắc hẳn đã cùng nhau lên kế hoạch cho những gì vào trong chiếc hộp ấy cho Nevin.
Jack tiếp tục. “Bà có quen thân với ông Robert Vanderhorst hay không?”
“Không thân chút nào. Dĩ nhiên, thời ấy thì khác xa bây giờ nhiều. Ngày nay dân tình thuộc đủ màu da đều được tự do bước vào bất kỳ giới quan hệ xã hội nào. Nhưng còn thời xưa ấy, vị trí của tôi không hề đồng đẳng với gia tộc Vanderhorst và Middleton.”
“Nhưng bà đã từng là tình nhân của ông Gus Middleton phải không?”
Bà không tỏ vẻ ngạc nhiên hay bực bội trước sự thẳng thừng của Jack. Thay vào đó, bà chỉ mỉm cười với anh. “Ðúng, ta đã từng. Anh ấy thậm chí còn muốn cưới ta nữa nhưng ta biết việc ấy thật điên khùng, và không chỉ là vì ta trẻ hơn anh ấy đến mười tám tuổi. Ta biết anh ấy có tình cảm như thế nào với ta, và ta không cần một chiếc nhẫn để chứng minh việc ấy. Nếu cưới ta, anh ấy sẽ phải từ bỏ tất cả mọi thứ - bạn bè thân hữu, nghề luật sư, vị trí xã hội của mình. Và đó sẽ là việc mà ta và anh ấy không muốn làm. Một ngày nào đó, anh ấy sẽ nhận ra rằng anh ấy đã mất tất cả những thứ ấy, và sẽ không có cách nào để lấy lại.” Bà lắc đầu. “Không, không đâu. Ta và anh ấy đã hài lòng với mọi việc vào lúc ấy. Trong một khoảng thời gian, nói đúng hơn là như thế.”
“Thế thì tại sao bà lại phải bỏ xứ đi xa?” Tôi hỏi và tự nhủ không biết bà nội tôi đã cảm nhận về việc này như thế nào. Nhưng bà nội thì trẻ hơn ông nội rất nhiều, và tôi chợt nhận ra rằng mãi đến tận năm một chín bốn mươi hay bốn mốt gì đấy thì hai người mới cưới nhau - khoảng mười năm sau khi Susannah đã rời bỏ Charleston vĩnh viễn.
Susannah nhìn xuống hai bàn tay nhỏ bé của mình, lúc này đang xếp gọn gàng trên chiếc mền len đan đặt trên đùi. “Bởi vì anh Gus muốn thế.”
Những lời của bà âm vang trong căn phòng yên lặng trong một lúc. “Xin phép cho cháu hỏi tại sao, nếu bà không phiền ạ?” Tôi bắt đầu thoáng cảm nhận một chút phấn khởi. Sự ra đi của bà ấy trùng hợp với việc Louisa mất tích, và kể từ khi tôi bắt đầu cố làm sáng tỏ sự kỳ bí xoay quanh việc gì đã xảy ra với mẹ của Nevin, thì đây là lần đầu tiên tôi cảm thấy mình đang vươn gần đến sự thật hơn bao giờ hết.
Bà Marston bước vào phòng cùng với chiếc khay chất đầy những chiếc bánh mì kẹp thịt nhỏ, các loại bánh ngọt, và trà nóng. Susannah rót trà cho chúng tôi, đôi bàn tay bà rõ ràng rất vững chãi trong khi đôi cổ tay ấy thật mảnh dẻ và mong manh. Sau khi nhận thấy rằng chúng tôi đã có tất cả những thứ cần thiết, bà Marston lại bước ra khỏi phòng, đóng cửa lại sau lưng.
Tôi nhón lấy vài chiếc bánh ngọt cùng một miếng bánh mì kẹp thịt nhỏ đặt vào đĩa và bắt đầu ăn, rồi ngưng nhai giữa chừng khi tôi để ý thấy bà Susannah đang ngắm tôi với nụ cười nửa miệng. “Ông nội của cô cũng thích đồ ngọt lắm. Quả thật là ông ấy cực thích đồ ngọt. Thật vui khi ngày nay ta vẫn còn được nhìn thấy một cô gái trẻ ăn uống ngon lành tự nhiên như thế này.”
Tôi nghe tiếng Jack cười rục rịch trong miệng nhưng tôi không chắc là anh ta cười vì lời nhận xét về sự ăn uống của tôi hay vì tôi vừa được gọi là “cô gái trẻ” khiến anh ta cảm thấy buồn cười.
Bà Susannah chấm nhẹ khăn ăn lên miệng một cách tao nhã. “Trước khi trả lời câu hỏi của cô, ta hy vọng cô không phiền nếu ta được hỏi vài câu của riêng ta trước.”
Tôi để ý thấy Jack đang nhìn chằm chằm vào chân tôi, và tôi hoảng hồn khi thấy nó đang bập lên bập xuống vì sự mất kiên nhẫn không kiểm soát nổi. Tôi đè hai bàn tay lên bắp chân để giữ cho nó yên, rồi mỉm cười với bà Susannah. “Tất nhiên rồi. Bọn cháu sẽ trả lời bất cứ câu hỏi nào của bà.”
Bà lão bắt đầu chậm rãi nhấp một ngụm trà, và tôi phải đè hai bàn tay mạnh hơn nữa lên cái chân đang bị kích động của mình. “Làm sao mà cô tìm ra tôi?”
Jack ra hiệu cho tôi trả lời. “Ba của cháu, ông James Middleton - là con trai của ông Gus - đã tìm thấy tấm hình của bà trong chiếc hộp đựng xì gà, cùng với một bức thư cho con trai của Robert là Nevin, cùng với một cuộn phim.” Tôi bắt đầu nhăn nhó. “Cháu e rằng mọi việc đều hơi kỳ bí một chút. Bọn cháu hy vọng rằng toàn bộ những manh mối này sẽ dẫn dắt bọn cháu tìm ra vợ của ông Robert là bà Louisa. Và...” Tôi nhìn Jack chờ anh đồng ý, và anh nhanh chóng gật đầu. “Và thậm chí có lẽ là một manh mối giúp tìm hiểu xem việc gì đã xảy ra với sáu viên kim cương hoàn hảo mà nghe đồn là đã từng do gia tộc Vanderhorst nắm giữ.”
“À, vậy có nghĩa toàn bộ mọi chuyện đều là vì vụ này.” Giọng bà có vẻ thất vọng.
“Thật ra, không phải như thế ạ.” Tôi suy nghĩ trong một thoáng, cố nhớ lại từ lúc nào mà trong những tháng vừa qua tôi đã không còn hăm hở chỉ chăm chăm phục hồi ngôi nhà cổ cho xong nhằm bán kiếm lời, mà thay vào đó mọi việc đã hoàn toàn chuyển sang sứ mạng đi tìm người mẹ mất tích của cậu bé con để báo cho cả thế giới biết rằng bà ấy đã không bỏ rơi con trai của mình. Tôi đã nhận thức rằng ngay từ đầu đây mới là việc quan trọng đối với tôi, kể từ khi tôi đọc lá thư của ông Nevin vào dạo ấy. Gần như thể tôi đã tự thử thách mình trong việc chứng minh cho thế giới thấy rằng không phải người mẹ nào đã bỏ rơi con của mình đều đã cố ý làm thế. Tôi nghĩ đến những lời của ông trong lá thư mà tôi đã thuộc nằm lòng kể từ lúc ấy. Có lẽ số phận đã mang cháu đến trong đời ta giúp đưa sự thật ra ánh sáng để bà ấy có thể yên nghỉ sau những năm tháng qua. Tôi đằng hắng giọng và bắt gặp ánh mắt của bà Susannah. “Ông Vanderhorst - Nevin - đã qua đời mà chẳng bao giờ biết được sự thật về việc gì đã xảy ra cho mẹ ông ấy. Mục đích của cháu là tìm ra sự thật và gột rửa thanh danh cho bà ấy để cả hai cuối cùng có thể yên giấc ngàn thu. Bởi vì cháu biết chắc rằng Louisa đã yêu chồng yêu con thật nhiều. Bà ấy sẽ chẳng bao giờ cố tình bỏ rơi họ đâu.”
Gương mặt bà Susannah hơi chùng xuống. “Vậy là Nevin đã ra đi. Theo một cách nào đó, việc này có vẻ không hợp lý chút nào, vì cậu ấy lại ra đi trước ta.” Rồi bà lắc đầu. “Còn về việc Louisa đã bỏ rơi con trai của mình ấy à, không bao giờ. Nevin là cả cuộc đời của bà ấy.”
Tôi nhìn bà lòng tràn đầy hy vọng. “Vậy là bà có biết bà ấy?”
“Không, ta không quen biết bà ấy. Nhưng ta có biết đến bà ấy qua những trang báo xã hội và từ anh Gus. Chúng ta gọi bà ấy là “phẩm chất ưu tú” trong thời xưa ấy. Thật là một quý bà đúng nghĩa. Và chẳng có một giây nào mà ta tin vào mấy cái tờ báo ấy khi họ phao tin rằng bà ấy đã bỏ trốn với cái gã Joseph Longo chẳng ra gì ấy.”
“Vậy thì... bà đã không biết việc gì đã xảy ra cho bà ấy sao?” Tôi cảm thấy đôi vai mình đổ sụp xuống. Sự trùng hợp về ngày bà Susannah ra đi với ngày Louisa mất tích khiến tôi đã hy vọng họ đã cùng nhau đi lên miền bắc.
Susannah lắc đầu. “Ta xin lỗi, cưng ạ, nhưng thật lòng ta không biết. Gus biết việc ấy, nhưng anh ấy chẳng chịu nói cho ta nghe. Anh ấy chỉ nói rằng càng có ít người biết về việc này thì càng tốt cho tất cả mọi người. Anh ấy còn nói đây là loại thông tin có thể khiến người ta bị giết.” Ðôi mắt sáng của bà ánh lên nhìn tôi, rồi lại quay sang Jack. “Ta nghĩ việc này có nghĩa rằng đã đến lượt ta phải trả lời các câu hỏi của cô rồi.”
Bà ngồi lại và lắc một cái chuông nhỏ đặt trên chiếc rương thấp cạnh chiếc ghế bành của bà. Bà Marston xuất hiện ngay lập tức, như thể bà ấy đã chờ sẵn ngay bên ngoài cửa phòng. Susannah gật đầu nhẹ với bà ấy và bà Marston lại vội vã rời khỏi căn phòng. Tôi cho thêm một cái bánh ngọt vào miệng rồi lắng nghe.
Bà Susannah lại tiếp tục. “Ta không biết toàn bộ chi tiết - chỉ là những gì ta nghe từ anh Gus mà thôi - nhưng ta nghĩ như thế cũng đủ để trả lời câu hỏi của cô.” Jack và tôi chờ đợi trong khi bà lại nhấp thêm một ngụm trà. Bàn chân tôi lại bắt đầu đá lên vì mất kiên nhẫn, nhưng tôi đã kịp kềm và khóa nó lại bằng cả hai tay.
“Vào đêm Louisa mất tích, Gus đến gặp ta. Anh ấy nói với ta rằng có một việc không hay đã xảy ra - anh ấy chẳng cho ta biết việc gì nhưng chỉ nói ta cần rời khỏi thành phố ngay lập tức. Dĩ nhiên, ta không muốn đi. Ta không muốn rời xa anh ấy. Ta đã yêu anh ấy còn hơn cả trái tim của ta nữa, cô cũng thấy đấy.” Bà liếc ra nơi khác trong một khắc. Tôi nhìn những hạt ngọc trai trên chiếc áo len của bà dâng lên rồi hạ xuống, giống như sự thay đổi bất thường của thời gian, rồi chờ đợi cho đến khi bà có thể nói trở lại.
“Anh Gus nói với ta rằng anh ấy cần đưa một vật cho ta mang theo, và rằng không ai được tìm thấy nó. Không bao giờ. Anh ấy biết rằng kẻ nào đấy mà muốn nó thì ban đầu sẽ không nghĩ đến ta, nhưng nếu họ biết ta đang nắm giữ vật ấy, thì ta sẽ bị thủ tiêu ngay. Anh ấy còn nói với ta rằng nếu có ai đó phát hiện ra cái... vật mà anh ấy sẽ đưa cho ta, điều ấy cũng có nghĩa rằng chắc chắn anh ấy và Robert sẽ khó bảo toàn mạng sống. Và thậm chí cả cậu bé Nevin nữa.”
Bà nhìn chúng tôi và cười run rẩy, và Jack đứng lên đi lấy một chiếc khăn sạch trên khay trà đưa cho bà. Bà chậm góc khăn vào mắt và run rẩy thở. “Anh ấy đã hứa với ta rằng anh ấy sẽ chăm sóc cho ta, rằng anh ấy sẽ lo cho ta có một ngôi nhà thật đẹp cho ta ở bao lâu tùy thích và một nguồn tiền không giới hạn trong một ngân hàng nơi ta sẽ đến cư ngụ. Ta sẽ chẳng bao giờ thiếu bất cứ cái gì nếu ta đồng ý việc ấy.” Gương mặt bà nhăn nhúm lại như một cánh hồng đang héo khô. “Nhưng anh ấy đã lầm, cô thấy đấy, bởi vì tất cả những gì ta muốn chỉ là anh ấy mà thôi.”
“Nhưng bà đã đồng ý,” Jack khẽ nói.
Bà gật đầu. “Ðúng. Vì ta biết anh Gus sẽ không nhờ ta nếu đó không phải là một tình huống mang tính sống chết như thế này. Trong mười năm, anh ấy đã cho ta tất cả, và ta chẳng có gì để cho lại ngoài tình yêu mà ta dành cho anh ấy. Ta đã nghĩ thôi thì ít ra đây cũng là một việc mà ta có thể làm cho anh ấy.”
Có một tiếng gõ nhẹ trên cánh cửa, và bà Marston lại bước vào phòng, nhưng lần này bà ấy đang cầm một vật gì đó trên tay. Tôi đứng lên và nhận ra chiếc hộp đựng xì gà của ông nội tôi. Jack cũng đứng dậy, rồi ra hiệu cho tôi ngồi xuống. “Ðó không phải là cái hộp của mình, Mellie à. Nhìn xem, cái khóa vẫn còn đấy.”
Jack đưa tay ra nhận lấy cái hộp, và khi Susannah gật đầu, bà Marston đưa nó cho anh. Cả hai chúng tôi lại ngồi xuống và chờ bà Susannah lên tiếng. “Anh Gus đã giúp ta thu dọn đồ đạc, rồi đưa ta ra ga tàu lửa. Anh ấy mua vé cho ta và ngồi chờ với ta cho đến khi tàu đến. Và rồi... anh hôn tạm biệt và đưa ta cái hộp ấy. Gus nói với ta rằng anh ấy có một đối tác làm ăn, người sẽ đến đón ta tại ga tàu ở Atlanta và sẽ mua vé cho chặng tiếp theo rồi đưa ta lên miền bắc. Gus không muốn biết điểm đến cuối cùng của ta ngộ nhỡ... à, anh ấy sợ rằng ngộ nhỡ sẽ có ai đó đi tìm ta. Anh ấy còn nói rằng đối tác làm ăn này - ta chưa bao giờ biết tên ông ta - sẽ giúp thu xếp tài chính cho ta và đi cùng để giúp ta mua nhà. Gus đưa cho ta một cái gói nhỏ để đưa cho ông ấy, giải thích với ta rằng đó là chi phí để giúp ta trang trải cho chuyến đi và thời gian sắp tới nằm trong đó. Ta cho rằng đó là tiền, nhưng ta cũng không chắc lắm.”
Tôi cảm thấy nghèn nghẹn trong họng. “Bà có bao giờ gặp lại ông nội của cháu nữa không?”
Ðôi mắt bà trở nên xám xịt khi bà trả lời tôi. “Không, cưng à. Ta chưa bao giờ gặp lại anh ấy.” Căn phòng bỗng yên ắng nặng nề, chỉ có tiếng nổ nhẹ lách tách của ngọn lửa trong lò sưởi là vẫn còn đấy. “Anh ấy đã rất yêu ta - ta biết điều ấy. Nhưng anh ấy cũng yêu cả những người bạn và cậu con trai đỡ đầu của anh ấy nữa. Anh ấy đã làm một việc duy nhất mà anh ấy có thể nghĩ đến nhằm giúp cho tất cả mọi người được an toàn, và ta hiểu điều đó.” Bà nhún vai. “Và ta cũng biết, rằng thời gian chúng ta bên nhau cũng đang đi đến hồi kết. Cô thấy đấy, gia đình thật quan trọng đối với anh ấy. Một ngày nào đó anh ấy sẽ sớm muốn có một người vợ và vài đứa con, và ta chẳng thể nào giúp anh ấy trong cả hai việc ấy được. Và anh ấy thật là một người đàn ông sống rất quy tắc nên anh ấy sẽ chẳng bao giờ muốn tiếp tục mối quan hệ với ta trong khi lại đi cưới một người đàn bà khác. Những người đàn ông khác thì có thể làm việc ấy, nhưng Augustus Middleton thì không.”
Bà ưỡn ngực, như thể trong ấy chất chứa đầy tự hào. “Không, ta chưa bao giờ gặp lại anh ấy. Và việc ấy cũng là món quà chia tay của ta cho anh ấy: nó không chỉ giúp anh ấy cứu mạng những người anh yêu thương, mà còn giúp anh ấy có thể chia tay ta nữa.”
Những ngón tay của Jack đã trắng bệch và bấu chặt vào chiếc hộp. “Và bà không hề biết Gus lúc ấy đã sợ ai.”
Susannah lắc đầu. “Không. Và anh ấy đã bắt ta hứa không được đưa chiếc hộp này cho ai khác xem ngoại trừ Nevin. Không một ai. Anh ấy nói rằng khi Nevin lớn lên, cậu ta sẽ được biết sự thật, hoặc ít ra cũng sẽ được dẫn đường để tìm ra sự thật, và cậu ấy sẽ tìm gặp ta ở đây. Ta nghĩ những gì cô tìm được trong chiếc hộp của anh Gus chính là để giúp Nevin tìm ra ta ở đây.”
Jack gật đầu. “Phải. Bọn cháu đoán rằng Augustus đã cất giữ cái hộp ấy cho Nevin, trong trường hợp cha cậu ta có mệnh hệ nào và không kịp nói cho Nevin biết sự thật. Nhưng Robert và Gus lại qua đời cách nhau chỉ vài ngày khiến Nevin chẳng bao giờ biết được gì cả. Và rồi cái hộp đầu tiên lại do Gus nắm giữ cho đến một ngày vào tháng trước thì ba của Mellie tìm ra nó.”
Ðầu của bà buông thõng xuống khiến cằm của bà gần như dựa vào ngực. “Mãi về sau ta mới biết việc Robert qua đời, nhưng ta có biết về Gus. Ta nhận được một mảnh giấy thời báo Charleston đăng tin cáo phó của ông ấy. Phong bì được đóng dấu bưu điện từ Atlanta, nên ta cho rằng nó được gửi từ đối tác làm ăn của anh ấy. Ta vẫn còn nhớ mình đã khóc cả ngày hôm ấy, nhưng đó không hoàn toàn vì đau buồn. Ồ không - vẫn còn có rất nhiều người như ta vốn có nhiều điều để khóc hơn. Ta đã có mười năm tuyệt đẹp với chàng.” Bà liếc nhìn lên và mắt chúng tôi giao nhau. “Ta khóc vì toàn bộ những năm tháng mà ta đã nhớ chàng vì ta luôn vờ xem như chàng đã chết. Và đây, chàng lại xuất hiện, lần này thì chàng đã mất thật sự, và ta lại phải quay về nhớ thương chàng như từ đầu.”
“Việc này thật không dễ dàng cho bà chút nào,” Jack nói.
Susannah làm chúng tôi ngạc nhiên khi bà mỉm cười. “Thật ra cũng không phải thế. Cậu thấy đấy, ta cảm nhận được anh ấy tại đây, ngay trong ngôi nhà này. Ở bên ta. Khi ta đi ngủ, ta thấy chàng. Giống như chàng đang đợi ta vậy.”
Tôi nhìn đi nơi khác, sợ rằng nếu không làm thế thì tôi sẽ khóc mất. “Vậy ra những manh mối đều nằm tại đây trong suốt những năm tháng qua, và Nevin chẳng bao giờ biết đến nó. Ông ấy đã mất mà chẳng biết gì về sự thật.”
“Không đúng đâu, cháu gái ạ,” Susannah nhẹ nhàng nói. “Cậu ấy biết rằng mẹ cậu ấy đã yêu mình thật nhiều. Và cậu ấy cũng biết đủ nhiều khi để lại ngôi nhà cho cô. Cậu ấy chắc chắn đã phải biết rõ rằng cô sẽ tiếp tục giúp cậu ấy tìm mẹ mình.” Bà mỉm cười. “Và đó là tại sao ta quyết định đưa chiếc hộp cho cô chứ không phải đưa cho gã kia.”
Jack ngồi nhổm dậy. “Có một người nào khác đã đến đây và hỏi về Louisa à?”
Susannah nhăn trán. “Ðúng - vào chiều tối hôm qua. Anh ta chỉ ở đây trong chốc lát, có lẽ vì thế mà ta quên bẵng đi mất cho đến bây giờ.” Bà lắc đầu. “Ta xin lỗi - ta e rằng trí nhớ của ta không còn được như xưa nữa.”
Một cảm giác lành lạnh và nặng nề bỗng quấn lấy ruột gan tôi. “Bà có nhớ tên của người ấy không?” Giọng tôi nghe nghèn nghẹn, như thể tôi đang gắng sức lôi những từ ấy ra khỏi cổ họng đang xiết chặt lại của mình vậy. Tôi nhớ lại Marc đã hủy cuộc hẹn của chúng tôi vì một chuyến đi xa bất chợt của anh, rồi lại có người đã đến Thư viện Lịch sử và đã đặt sai chỗ cuốn sách mà chúng tôi cần để tìm ra Susannah Barnsley. Và cả những cuộc gọi ẩn danh và cúp máy mà bà Barnsley đã nhận từ Charleston mà không phải do chúng tôi gọi. Tôi cảm thấy mắt của Jack đang dán vào tôi, nhưng tôi không nhìn lại anh.
Susannah gõ nhẹ móng lên tay ghế bành của bà. “Rồi ta sẽ nhớ ra thôi. Chờ một chút.” Bà tiếp tục nhấp nhấp những ngón tay, đôi lông mày bà châu lại tạo thành một nếp nhăn thật sâu.
Jack hắng giọng. “Hắn ta trông như thế nào?”
“Ồ, việc ấy thì dễ. Ta luôn để ý một người đàn ông ưa nhìn. Anh ta rất cao, cao hơn cậu. Tóc đen và mắt sẫm màu. Và anh ta vận bộ veston đắt tiền. Gus đã dạy ta biết cách nhận ra kỹ thuật cắt may khéo léo.” Bà cười khoái trá ra mặt. “Thật buồn cười phải không, rằng ta có thể nhớ những thứ như thế từ đời nảo đời nào nhưng lại không thể nhớ nổi những việc chỉ vừa xảy ra ngày hôm qua?”
Jack hơi do dự, và tôi biết anh đang chờ tôi hoặc là hỏi câu hỏi ấy, hoặc là chẳng hỏi gì cả. Tôi quyết định hỏi, cảm giác như giọng nói ấy đến từ một người nào khác. “Có phải tên anh ta là Marc Longo?”
Cái nhăn mày của Susannah nhanh chóng giãn ra và gương mặt bà bừng sáng. “Ðúng rồi, chính xác là nó. Ít ra ta cũng phải nhớ cho được cái họ chứ, vì Joseph Longo chính là kẻ mà thiên hạ đồn đãi là Louisa đã bỏ trốn cùng. Dĩ nhiên là ta chẳng bao giờ tin vào chuyện ấy.”
Tôi lại mở miệng định hỏi câu hỏi kế tiếp nhưng rồi tôi không thể thốt nên lời. Thế là Jack nói thay cho tôi. “Hắn ta có hỏi gì về Louisa và Joseph hay không?”
Bà lại chau mày. “Cậu biết không, ta cũng không chắc lắm về việc ấy. Nhưng ta nhớ rằng anh ta có hỏi về những viên kim cương. Anh ta hỏi ta nhiều lần có phải anh Gus đã gửi những viên kim cương ấy đi cùng với ta hay không.”
“Thế bà đã nói gì với hắn?”
Susannah mỉm cười dịu dàng. “Dĩ nhiên là ta trả lời ‘không’ với anh ta rồi. Rằng ta chưa bao giờ nghe gì đến những viên kim cương ấy. Mà việc này thì không đúng sự thật - bởi vì ta đã có nghe về chúng, nhưng ta chẳng biết gì về chúng cả. Dù sao thì ta cũng sẽ chẳng cho anh ta biết việc ấy làm gì. Có cái gì đó ở anh ta mà ta không thích. Một cái gì đó... không đáng tin cậy.”
Jack lại rất biết điều mà chẳng nói gì thêm.
Lúc này tôi đã lấy lại được giọng. “Bà có muốn bọn cháu mở cái hộp bây giờ không?”
Có vẻ như bà đang cân nhắc câu hỏi của tôi trong chốc lát, nhưng rồi lại lắc đầu. “Không. Ta nghĩ không nên như thế. Nó chẳng bao giờ dành cho ta cả, cô có thấy không. Ta đã giữ nó và không nói cho ai biết ngoài cô cậu trong từng ấy năm, đúng như lời ta đã hứa với Gus. Giờ thì ta chẳng muốn phá vỡ lời hứa ấy.”
Jack chầm chậm gật đầu, rồi đứng dậy. “Có lẽ bọn cháu đã làm phiền bà khá nhiều rồi, thưa bà Barnsley. Thật không biết dùng từ nào hơn để cảm ơn bà. Bà đã giúp ích cho bọn cháu rất nhiều.”
Tôi cũng đứng lên, hai đầu gối tôi run rẩy, không biết mình có đi nổi với tảng băng đang cuộn tròn nặng nề trong dạ dày của mình hay không nữa. Tôi bước đến bà Susannah và quỳ gối trước mặt bà. “Dạ, cháu xin cám ơn bà rất nhiều. Cám ơn bà đã tin tưởng mà giao cho cháu chiếc hộp này.”
Bà chạm vào tóc tôi, rồi ôm hai má tôi và mỉm cười. “Ta thật vui vì đã gặp được cháu. Thật thú vị khi được nhìn một phần xương thịt của Gus sau chừng ấy năm. Cháu đã làm cho bà già này thật mãn nguyện và hạnh phúc.”
Tôi ấp lấy tay bà bằng cả hai tay. “Nếu chỉ có thế thôi cũng đã bõ công cho chuyến đi này rồi. Bà có muốn cháu gửi cho bà món gì từ quê nhà không? Bà có cần gì không?”
Bà siết chặt bàn tay tôi. “Gus đã ra đi rồi, cho nên ta chẳng còn cần gì trên đời này nữa. Nhưng ta muốn cháu hứa với ta một chuyện.”
“Việc gì cũng được ạ. Bà cứ nói đi.”
“Hứa với ta rằng cháu sẽ thực hiện mọi việc cho đúng đắn - không chỉ cho Louisa mà còn cho tất cả những người đã khuất.”
“Cháu sẽ làm như thế, thưa bà Barnsley. Cháu hứa.”
“Tốt lắm,” bà nói, siết lấy bàn tay tôi một lần nữa rồi liếc lên nhìn Jack. “Anh này có phải là chàng hoàng tử của cháu không?”
“Hoàn toàn không,” tôi nói cùng lúc khi Jack nói, “Cháu thích cái ý nghĩ ấy.”
Susannah làm tôi ngạc nhiên khi bà cười phá lên. “Ta hiểu. Anh này hơi giống Gus, cái con người ấy. Cháu cứ kháng cự và kháng cự anh ta, và rồi một ngày nào đó cháu sẽ cảm thấy như bị một thùng nước dội thẳng lên đầu, và cháu sẽ tự nhủ làm sao mình có thể sống thiếu anh ta đấy.”
Tôi đứng lên và cười gượng. “Có lẽ trước tiên thì cái thùng ấy phải đánh vào đầu cháu đủ mạnh để làm cháu không còn lý trí gì nữa cũng nên.”
Jack huých khuỷu tay vào người tôi trong khi anh cúi xuống hôn vào má bà Susannah. “Tạm biệt bà Barnsley. Thật hân hạnh được gặp bà hôm nay. Cháu hy vọng chúng ta sẽ có dịp gặp nhau lần nữa.”
“Ta cũng thế,” bà nói trong khi bà Marston xuất hiện với áo khoác của chúng tôi trong tay để tiễn chúng tôi ra về.
***
Im lặng, Jack và tôi bước vào chiếc xe thuê, và Jack đưa cho tôi cầm cái hộp. Như đã có thỏa thuận ngầm, tôi và anh cứ giữ yên lặng như thế cho đến khi chúng tôi lái ra đến xa lộ thì Jack cất tiếng. “Cô có muốn nói về việc ấy không?”
Tôi lắc đầu.
“Ðược thôi.” Anh hít một hơi thật mạnh. “Có ý kiến gì để mở cái hộp này không?”
Tôi nhìn ra ngoài cửa sổ xe và ngắm khung cảnh đồng quê bao la đang chạy băng băng trước mặt, màu xanh dương và xanh lá còn sót lại của mùa hè ẩn giấu bên dưới sắc đỏ và vàng của mùa thu. “Tạt vào lề.”
Jack thật thông minh khi anh chẳng hỏi gì tôi mà tắp xe ngay vào lề của xa lộ hai chiều. Tôi nhảy ra khỏi xe cùng với chiếc hộp, còn Jack đi theo tôi đến ven bìa một cánh đồng. “Giúp tôi tìm một hòn đá to nào.”
Mắt anh bừng sáng khi hiểu ra vấn đề và anh vội vã quay đi, và chúng tôi bắt đầu càn quét ven dọc cánh đồng để tìm cho ra bất cứ thứ gì đủ nặng để bẻ khóa. Khi chúng tôi đi tìm được chừng năm phút thì Jack gọi lớn, tay cầm một hòn đá hơi to hơn cổ tay anh một chút. Anh tiến đến và đưa tay vớ lấy chiếc hộp.
“Không,” tôi nói. “Ðể tôi làm.”
Anh chẳng cãi lại mà đưa cho tôi hòn đá. Tôi quỳ xuống dưới cỏ bên cạnh chiếc hộp, dùng tay trái giữ cho nó nằm yên còn tay phải giơ cao hòn đá lên và đập. Tôi phải đập đến lần thứ ba thì cái khóa kim loại mới sứt ra khỏi hộp gỗ.
Jack cầm chiếc hộp lên và kiểm tra công trình đập phá của tôi. “Ôi, đúng là sư tử Hà Ðông mà!”
Tôi cảnh cáo anh bằng một cái liếc xéo thật dài. Một lần nữa Jack lại tỏ ra rất biết điều, anh gập người thực hiện nghĩa vụ tháo những mảnh vụn của cái khóa ra khỏi phần gỗ rồi đưa chiếc hộp lại cho tôi. “Tôi nghĩ cô nên là người được vinh dự mở nó ra.”
“Cám ơn anh,” Tôi nói. Trong khi anh cầm cái hộp, tôi từ từ mở cái nắp hộp và nghía vào bên trong.
“Sao rồi?” Jack hỏi một cách mất kiên nhẫn.
“Ồ,” tôi nói. “Chắc chắn là tôi không nghĩ nó là cái này.” Tôi đặt cái hộp xuống để chúng tôi có thể cùng nhau kiểm tra những thứ bên trong.
“Ngạc nhiên thật đấy,” Jack nói trong khi anh đưa tay vào và lấy ra một khẩu súng lục nhỏ và bắt đầu ngắm nghía nó. “Ðây là loại súng lục Remington,” anh nói và kiểm tra hai nòng súng. “Nó chỉ có thể bắn ra hai lần từng phát một và cả hai nòng súng đều không có đạn.” Mắt chúng tôi giao nhau trong một thoáng khi nghĩ đến những điều ẩn ý rồi tôi xộc tay vào và lôi ra một phong bì giống hệt như phong bì đựng bên trong chiếc hộp xì gà của ông nội.
“Mở nhanh ra nào,” Jack thúc giục.
Tên của Nevin được viết nguệch ngoạc ở mặt trước phong bì bằng nét chữ giống với nét chữ trên phong bì chúng tôi đã tìm thấy trước đó, nhưng lần này tôi chẳng ngần ngại mở toạc nó ra. Thư được viết trên ba trang giấy bằng nét chữ thảo gọn gàng. Tôi đằng hắng giọng trước khi đọc lên.
Ngày 1 tháng 9 năm 1930
Con trai yêu quý của cha,
Khi con đang đọc những dòng này thì có lẽ cha đã lìa đời mà chưa bao giờ có cơ hội để nói cho con biết việc gì đã xảy ra vào cái đêm mà mẹ con mất tích. Cha lấy làm tiếc khi phải cho con biết sự thật bằng cách này, nhưng cha hy vọng con hiểu rằng cha không còn chọn lựa nào khác và rằng từng quyết định mà cha đã làm là hoàn toàn vì yêu con và mẹ con. Cha cũng hy vọng rằng ký ức của con về cái đêm khủng khiếp ấy sẽ quay về sau khi con đọc xong lá thư này để con thêm vững tin về những gì cha đang viết, và biết rằng đây là toàn bộ sự thật.
Vào đêm mà mẹ con biến mất khỏi cuộc sống của cha con mình, gia đình ta đã có một người khách đến nhà - một đối tác làm ăn của cha, Joseph Longo. Trước tiên, để cha giải thích rằng việc ông ta là đối tác làm ăn không phải là do sự lựa chọn của cha. Gia đình ông ta chi phối toàn bộ ngành kinh doanh rượu lậu và các hoạt động phi pháp khác ở Charleston thời ấy, và ông ta cũng có tham vọng quản lý toàn bộ các hoạt động khác của thế giới ngầm trong thành phố.
Vì chưa bao giờ có dính dáng gì đến lĩnh vực này, cha đã khá ngây thơ khi cha bắt đầu nấu rượu lậu ở đồn điền Magnolia Ridge nhằm nỗ lực tránh cho gia đình ta phải đi đến phá sản sau khi thị trường chứng khoán sụp đổ vào năm hăm chín. Ðó thật là một ngành kinh doanh sinh lợi rất cao, cho phép chúng ta giữ được ngôi nhà và đủ sức cho con đi học trường tốt hơn. Thật không may, khi làm ăn sinh lợi cao cũng có nghĩa là doanh nghiệp của cha bắt đầu rơi vào tầm ngắm của Longo. Cha biết hắn ta đã lót tay rất đậm cho giới chức chính quyền, do đó nếu cha tố cáo hắn thì cũng chẳng có nghĩa lý gì, trong khi cha thì lại không được ai bảo kê như thế.
Hắn đã đe dọa sẽ làm cho cha kiệt quệ tài chính cũng như cả thanh danh bằng cách tố cáo với chính quyền về những hoạt động phi pháp của cha trừ phi cha đồng ý đổi chác lại cho hắn một thứ để mua lấy sự im lặng của hắn. Thật đáng tiếc, cha đã vô tình cho hắn một thứ vũ khí duy nhất mà hắn cần để ép buộc cha. Con biết không, cách đây nhiều năm, theo sau cuộc chiến tranh chống lại miền Bắc, gia đình ta đã được sở hữu sáu viên kim cương cực kỳ quý báu. Những viên kim cương này vẫn được cất giấu cho đến khi cha vô tình phát hiện ra chúng cách đây vài năm. Khi ấy cha chẳng nghĩ gì đến sự phức tạp của vấn đề, nên cha đã lấy ra một viên kim cương cho làm một chiếc dây chuyền đeo cổ cho mẹ con, đó là chiếc dây chuyền mà bà ấy đã đeo trong tấm hình đăng trên báo thời ấy. Longo có biết về những viên kim cương này nhưng hắn nghĩ đó chỉ là huyền thoại, cho đến một ngày hắn nhìn thấy tấm hình ấy. Cha đã sẵn sàng đi tù hơn là để cho con người ấy chạm tay đến những thứ mà cha luôn xem như của thừa kế cho con, và cho con của con nữa. Nhưng hắn cũng biết điểm yếu của mẹ con khi sự việc có liên quan đến cha và con, và hắn đã đánh động vào lương tâm của mẹ con bằng cách nói với bà ấy rằng ngục tù khổ sai sẽ ra sao đối với cha, và khi ấy thì mẹ con bà ấy sẽ thiếu sự che chở như thế nào. Nhận thấy rằng không còn lựa chọn nào khác, bà ấy đã đầu hàng và đưa cho hắn sợi dây chuyền - bởi vì bà ấy không hề biết nơi cất giấu của những viên kim cương còn lại - và việc ấy đã làm dịu cơn thèm khát của hắn, nhưng chỉ trong một thời gian ngắn. Longo đã bay sang châu Âu và đánh bạc với số tiền ấy, và chẳng bao lâu sau đó thì hắn lại quay trở về. Lần này hắn đã đòi hỏi nhiều hơn.
Vào cái ngày mẹ con biến mất, Joseph Longo - vốn đã biết rằng cha sẽ ở văn phòng làm việc, và gần như cũng biết rằng thứ Tư là ngày nghỉ của những người giúp việc trong nhà - đã đến nhà mình để gặp mẹ con và đòi thêm một viên kim cương khác. Mẹ con đã nói với hắn rằng hắn phải nói chuyện với cha bởi vì bà ấy không biết những viên kim cương còn lại nằm ở đâu. Hắn đã hiểu đúng vấn đề khi cho rằng cha sẽ không bao giờ đưa cho hắn thêm một viên kim cương nào khác, nên hắn đã bắt đầu đe dọa bà ấy vì cho rằng bà ấy nói dối. Ngay khi bà ấy đã nài xin hắn hãy tin bà ấy, thì con, Nevin yêu quý, có lẽ đã nghe thấy tiếng xô đẩy nên đã bước vào phòng.
Không may cho Joseph Longo, khi ấy cha cũng vừa quay trở về nhà từ văn phòng để lấy vài tập tài liệu mà cha đã vô ý để quên ở nhà. Cha đã thấy xe hơi của hắn đậu bên ngoài và cha biết rằng sẽ có rắc rối. Nghe thấy tiếng mẹ con khóc, cha đã lao vào phòng khách chính và thấy Longo đang chĩa một khẩu súng lục về phía con. Sự có mặt của cha đã làm hắn mất tập trung, và mẹ con đã nhìn thấy cơ hội để bảo vệ con. Bà ấy đã chạy về phía con, và ngay khi Longo xoay lưng lại, hắn đã nổ súng. Cha tin rằng hắn cố tình bắn con, nhưng viên đạn lại trúng vào bà ấy.
Người mẹ hiền của con đã chết ngay tức khắc, vì viên đạn đã xuyên thủng vào tim bà ấy. Ðừng than khóc, con trai Nevin thương yêu. Bà ấy cũng sẽ không sống nổi nếu như con bị hại. Bà ấy đã chết như bà đã từng sống, hết lòng yêu thương cả hai cha con ta, và cha tự an ủi mình bằng niềm tin rằng cha con mình sẽ lại được trùng phùng với bà ấy.
Cha cũng không nhớ chính xác trình tự những sự việc diễn biến tiếp theo đó. Trong đời cha chưa bao giờ thịnh nộ như lúc ấy cả. Cha đã lao vào Longo, và hắn không thể tự vệ trước cơn giận dữ ấy của cha. Cha đã giật lấy khẩu súng lục từ tay hắn và bắn một phát vào ngực hắn mà không kịp nghĩ gì đến hậu quả của việc ấy. Thật đáng đời, hắn không chết ngay tức khắc. Và cha đã được chứng kiến khi hắn phải chịu đựng một cái chết thật dài và đau đớn. Cha cảm thấy toại nguyện về điều đó, bởi vì hắn đáng chết vì những gì hắn đã làm. Nhưng cha cũng biết rằng mình không bao giờ được tiết lộ sự thật về việc này.
Những đối tác làm ăn cùng bà con họ hàng đông đảo của Longo quen biết nhau rất mật thiết. Cha e sợ rằng nếu sự thật bị phát hiện thì không chỉ mạng sống của cha bị đe dọa, mà cả con nữa, cũng sẽ nằm trong vòng nguy hiểm. Bọn chúng rất nhẫn tâm và sẽ không hề đắn đo khi phải giết một đứa trẻ. Vì mẹ con đã hy sinh cả mạng sống của mình để con được sống nên cha không thể để cho cái chết của bà ấy trở nên vô nghĩa.
Cha đã gọi người bạn thân và đối tác hãng luật, và cũng là cha đỡ đầu của con, Augustus Middleton, để nhờ giúp đỡ. Cha đã hoàn toàn sụp đổ vào lúc ấy vì đau buồn khi đã mất mẹ con và suýt nữa thì cũng mất luôn cả con, cho nên ông ấy phải là người giúp cha suy nghĩ vì khi ấy cha cảm thấy hoàn toàn bất lực. Ông ấy đã giúp cha giấu đi hai thi hài ấy để không ai có thể tìm thấy trừ phi họ biết đi tìm ở đâu. Ông ấy cũng đã dàn dựng nên sáng kiến xoay quanh hai chiếc hộp đựng xì gà này để giữ cho bí mật gia đình mình khỏi những con mắt hồ nghi mà vẫn có thể cho phép con tìm được chúng trong trường hợp cả cha và Gus có mệnh hệ nào trước khi cha kịp giải thích mọi việc cho con. Và, hiện như con đã biết, ông ấy đưa chiếc hộp còn lại cho cô Barnsley giữ cho an toàn.
Augustus cũng đã nghĩ rằng tốt nhất nên gửi cho tòa soạn báo một thông tin nặc danh ám chỉ rằng mẹ con đã bỏ trốn cùng Longo. Cha đau đớn khôn cùng khi nghĩ đến sự vu khống trắng trợn dành cho mẹ con như thế, nhưng cha cũng biết rằng đó là cách duy nhất để giữ cho con được an toàn. Cha cũng tin rằng người mẹ hiền của con cũng sẽ đồng ý với bất cứ việc gì để có thể bảo vệ an toàn cho con.
Mọi việc đã hoàn toàn ổn thỏa, nhưng có một phần duy nhất không khớp với toàn bộ sự sắp đặt này chính là con, con trai thương yêu của cha. Những sự kiện xảy ra trong cái đêm định mệnh ấy đã gây tổn thương cho con theo một cách mà cha không hề lường trước được - trong cái rủi lại có cái may. Sáng hôm sau đó con thức dậy và hỏi mẹ đâu mà chẳng nhớ gì đến tai nạn đã xảy ra vào đêm trước đó. Cha nghĩ đây là cách mà đầu óc non nớt của con đối phó với thảm kịch này, bằng cách khóa nó lại không cho vào trí nhớ của con, và với việc ấy, cha thật mừng.
Con trai Nevin của cha, hãy vững tin rằng cả cha lẫn mẹ đều đã yêu con vô vàn. Khi con đang đọc những dòng chữ này thì con sẽ nhìn lại cuộc đời vừa qua của con và biết rằng đây chính là sự thật.
Hẹn ngày tái ngộ, con trai yêu quý,
Người cha mến yêu của con,
Robert Nevin Vanderhorst.
Tôi chậm rãi gấp lá thư lại và đặt nó vào trong bao thư. “Tội cho Louisa quá,” tôi nói, cố ngăn những giọt nước mắt sắp rơi ra. “Và tội cho Nevin. Bà ấy đã chết để bảo vệ mạng sống cho ông ấy, trong khi ông ấy lớn lên và tin rằng bà ấy đã bỏ rơi mình. Thật buồn làm sao.”
Jack choàng cánh tay quanh vai tôi, và tôi cho phép anh được làm thế vì tôi cần một nơi để che giấu những giọt nước mắt của mình. “Nhưng ít ra giờ đây chúng ta đã biết được sự thật. Và chúng ta có thể cho phần còn lại của thế giới biết về điều ấy. Việc này sẽ làm cho cả hai chúng ta cảm thấy dễ chịu hơn.” Tôi gật đầu, biết rằng anh nói đúng, nhưng tôi vẫn không thể ngưng nhìn thấy sự khắc khổ tuyệt vọng trên gương mặt ông Vanderhorst trong khi tôi chào tạm biệt ông ở khung cửa nhà ông. Một cảm giác không thỏa mãn bỗng vờn quanh, như thể chúng tôi vẫn chưa thật sự hoàn tất với câu chuyện của Louisa và Nevin.
Jack xoa lưng tôi. “Vẫn còn rất nhiều điều cần được giải đáp. Chẳng hạn như Louisa và Joseph đã được chôn ở đâu? Và những viên kim cương còn lại hiện đang ở đâu - giả sử như chúng vẫn còn tồn tại?”
Tôi vùng người ra, dụi mắt và bắt đầu nhìn khắp nơi ngoài Jack ra. Vẫn còn một vật nằm bên trong cái hộp, và anh sục tay vào trong rồi lôi ra một chiếc túi nhỏ bằng nhung đỏ đã phai màu có sợi dây màu hoàng kim thắt miệng túi, núm tua đính vào sợi dây đã mất hẳn màu vàng ánh xưa kia của nó nhưng vẫn còn treo lủng lẳng trên đầu sợi dây. Một cảm giác rờn rợn châm chích chạy dọc sống lưng khiến tôi rùng mình. Tôi nhớ lại có một lần mẹ đã từng nói với tôi rằng cảm giác ấy cũng tương tự như cảm giác mà các hồn ma cảm nhận được khi có người bước đi trên nấm mộ của họ, và tôi lại rùng mình lần nữa, cố tập trung nhìn Jack. Anh nới lỏng phần miệng túi, và tôi cảm thấy thúc bách phải đưa tay ra, lòng bàn tay khum lại và ngửa lên chờ đợi. Anh nghiêng cái túi nhỏ vào bàn tay tôi, và chúng tôi kinh ngạc khi cùng nhau nhìn một viên kim cương thật to, gần như không tì vết, từ từ trượt nhẹ nhàng vào lòng bàn tay tôi.
Tác giả :
Karen White