Ngôi Nhà Cổ Trên Phố Tradd
Chương 18
Lần đầu tiên trong đời, tôi gọi điện vào công ty để cáo bệnh. Tôi nghĩ mình đã gọi đủ sớm để không phải nói chuyện với ai và chỉ cần để lại lời nhắn trong máy, nên khi Nancy bắt máy khi chuông reo lần thứ hai với một giọng chào đầy tươi tắn và vui vẻ, thì tôi bỗng không nói nên lời trong một thoáng.
“Xin chào?” cô nàng lặp lại. “Có ai ở đầu dây bên kia không?”
“Xin lỗi Nancy. Là tôi đây - Melanie.”
“Ồ! Chị đã đến đây chưa? Em không thấy xe của chị, còn dì Ruth thì nói là dì ấy cũng không thấy chị sáng nay khi em ghé vào mua cà phê.”
“À không. Tôi vẫn còn ở nhà. Ðúng ra là vẫn còn trên giường.” Tôi tự hỏi mình có nên giả ho hay không và rồi quyết định không làm thế. “Tôi không khỏe, nên tôi sẽ không đi làm hôm nay. Hy vọng chị có thể giúp tôi hủy tất cả các cuộc hẹn cho hôm nay của tôi.”
Cô ta im lặng một hồi lâu. “Chờ tí. Em phải tháo đôi bông tai có quả bóng golf này ra đã, vì nó vướng víu làm em khó mà áp ống nghe vào tai được, với lại em cũng chưa tìm ra được bộ tai nghe nữa chị ạ.” Chiếc ống nghe kêu lách cách trên bàn của Nancy, và tôi chờ thêm một chút thì lại nghe giọng của cô nàng. “Em xin lỗi nhé. Em tưởng chị gọi vào chỉ để cáo bệnh thôi.”
“Ðúng rồi. Và tôi hy vọng cô có thể hủy hết những cuộc hẹn gặp của tôi.”
“Chị đang ở cùng một người đàn ông à?” Cô nàng lúc này đang thầm thì.
“Không, dĩ nhiên là không. Tôi chỉ... không cảm thấy khỏe thôi.”
“Có phải là vì Jack không?”
“Không Nancy à. Không phải vì một người đàn ông nào cả. Chỉ là tôi cảm thấy không được khỏe trong người, thế thôi.”
“À, tại vì chị có gọi điện cáo bệnh bao giờ đâu, theo như em có thể nhớ, và chị cũng chẳng hẹn hò gì với ai cả, nên em nghĩ vụ này có lẽ có liên quan với nhau.”
“Nancy này?”
“Dạ, chị Melanie?”
“Chị làm ơn giữ những cái ý nghĩ ấy cho riêng mình thôi, được chứ?”
“Xin lỗi chị. Nhưng chị cũng biết là em chỉ muốn giúp chị thôi. Ngoài ra, em biết vụ này không phải vì Jack.”
“Làm sao chị biết?”
“Bởi vì anh ấy đã gọi vào đây sáng nay để nói chuyện với em.”
Tôi chau mày và nhìn vào điện thoại. “Nói với chị? Về việc gì?”
“Về chị. Anh ấy muốn hỏi xem chị có ổn không, và khi em bảo anh ấy rằng em chưa thấy chị vào sáng nay, thì anh ấy nói có lẽ em sẽ không gặp chị ở văn phòng vào hôm nay. Anh ấy còn nói là chị vừa nhận được tin chẳng lành và cần phải nghỉ ngơi vào hôm nay. Cho nên sáng nay em ghé tiệm dì Ruth - và cái túi bánh tiêu ưa thích của chị vẫn còn nằm trên bàn của chị đấy.”
Tôi cảm thấy vui khi nghe đến sự chu đáo ấy của Jack dành cho tôi, nhưng rồi nhớ lại anh ta chính là kẻ chịu trách nhiệm về cảm giác tệ hại hiện tại của mình thì tôi chẳng hứng thú gì nữa. “Cám ơn nhiều, Nancy ạ. Nhưng chị cứ ăn hết chỗ bánh ấy đi. Hôm nay tôi sẽ không đi làm.”
“Chờ chút, em có điện thoại khác gọi vào. Chị đừng cúp máy nhé.”
Nhạc nổi lên trong thời gian chờ đợi, tôi đảo mắt nhìn quanh những bức tường vốn đã từng ấm cúng trong căn hộ của mình - những bức tường sơn trắng và trống trơn, hoàn toàn không có hoa văn chạm trổ sát trần hay ván gỗ to bản ghép ở chân tường, còn phòng sinh hoạt chính cũng chẳng có lò sưởi hay bất cứ thứ gì được gọi là họa tiết trang trí cả. Ðiểm nhấn của căn phòng là chiếc tivi màn hình phẳng tôi đã tự mua cho mình làm quà Giáng Sinh hồi năm kia. Tôi rất ít xem tivi ngoại trừ những phim trữ tình lãng mạn đen trắng thời xưa chiếu trên kênh AMC và Kênh Thời tiết. Sàn gỗ thì đã được đúc sẵn từ xưởng và hoàn toàn không có bóng dáng của sự hao mòn nào, bằng chứng về điều kiện còn mới nguyên của nó chứng tỏ con người trong gần hai trăm năm qua đã không bước xuyên qua nó rồi để lại dấu gót giày và dấu trầy xước như là dấu hiệu của lịch sử đã đi qua.
Những bóng đèn được lắp hõm vào trần nhà đã choán hết diện tích không còn chỗ cho những bộ đèn chùm tinh vi và đồ sộ, và những bức tường trắng toát chỉ được trang trí bằng đèn chiếu điểm thay vì những bức tranh sơn dầu vẽ Cảng Charleston và những con người đã từng ăn sáng bên chiếc bàn gỗ gụ to và ngủ trên cùng chiếc giường mà tôi đã dùng trong thời gian vừa qua.
Những món đồ nội thất bằng thủy tinh và thép mà tôi đã từng tự tay chọn lựa cực kỳ khắt khe tỉ mỉ, giờ đây trông có vẻ lạnh lẽo và không hợp nơi hợp chỗ. Mọi thứ đều có vẻ mới tinh, quá hoàn hảo, như thể cái người sống ở đây chẳng hề có quá khứ. Chẳng hiểu vì sao mọi thứ đều có vẻ bất bình thường, như thể tôi chỉ là một khách trọ tạm thời còn nhà thật của tôi thì lại ở nơi khác.
Tôi cố tự thức tỉnh, rồi ép não của mình phải nhớ đến những công việc mệt nhừ tử và đau cúp lưng mà cơ thể tôi đã phải chịu đựng trong suốt bốn tháng ròng rã vừa qua. Móng tay tôi chẳng còn, tóc tai thì là một thảm họa, còn tôi thì biết thật nhiều về cách cạo sơn trên nhiều bề mặt vật liệu khác nhau, nhiều hơn bất cứ gái độc thân ba mươi chín tuổi nào cần phải biết nhiều đến thế. Nếu tôi tập trung đủ lâu vào những thứ ấy, có lẽ tôi sẽ bắt đầu nghĩ rằng một căn hộ với nhiều cá tính như một căn phòng khách sạn cũng có thể là một nơi được gọi là nhà.
Có người gọi đến, và khi tôi nhìn vào màn hình nhỏ trên điện thoại để xem danh tính người gọi thì thấy đó là ba tôi. Tôi nhìn chằm chặp vào số điện thoại ấy một hồi lâu và lắng nghe thêm hai hồi chuông reo nữa cho đến khi nó im hẳn rồi số điện thoại cũng biến mất trên màn hình.
“Chị Melanie ơi? Chị còn đó không?” Giọng của Nancy luồn vào trong ống nghe.
“Ừa, tôi vẫn còn đây. Tôi không còn gì để nói thêm - vui lòng chỉ cần hủy các cuộc hẹn của tôi là được.”
“Em cũng sẽ hủy toàn bộ các cuộc hẹn của chị cho cả tuần này luôn vậy. Chị đã làm việc quá mức và chị cần được nghỉ dưỡng cho đúng điệu mới được. Em đang nhìn vào lịch làm việc của chị đây, và nếu em chuyển loanh quanh vài việc và đẩy vài cuộc hẹn sang tuần tới, thì chị sẽ ổn thôi. Ðể em bảo với ông Handerson là chị bị cúm hay gì đó.” Tôi nghe tiếng Nancy gõ gõ đầu bút chì lên bàn, rõ ràng là đang mất kiên nhẫn mong sớm được quay lại để luyện cú đánh golf mới học của cô nàng.
“Nhưng mà...”
Cô ta cắt ngang. “Không có nhưng gì hết. Và đừng có kết tội em là đang cố chăm sóc chị một cách quá đáng nhé. Ðây toàn là ý của Jack cả đấy. Chờ đã - em lại có điện thoại đến, em phải nhận điện thoại ngay. Chúc chị một tuần nghỉ ngơi thư giãn nhé.”
Tôi cầm điện thoại trong tay, lắng nghe tiếng tít tít ở đầu dây bên kia, không rõ mình có nên giận dữ hay nhẹ lòng. Thật sự, hiện giờ tôi không nghĩ rằng mình muốn làm gì với nhà cửa nữa, dù là nhà cũ hay nhà mới. Nhưng khi biết đây là ý của Jack thì tôi lại khó chịu vô cùng, chỉ muốn nhảy bổ ngay vào lại văn phòng. Hay tệ hơn - mang theo một thùng sơn và lao vào ngôi nhà trên phố Tradd.
Và rồi tôi chợt nhớ đến những viên kim cương và những lời nói dối của Jack, cùng với việc ba tôi bảo rằng chúng tôi không đủ tiền để hoàn tất việc trùng tu, thế là sự giận dữ của tôi tan chảy ra thành một thứ rất giống như thất vọng tràn trề. Thế nên, thay vì làm những điều không nên ấy, tôi lại leo lên giường, trùm chăn kín đầu, và ngủ lại.
Trong ba ngày tiếp theo đó tôi nằm liệt giường, chủ yếu là ngủ. Tôi chỉ bò ra khỏi những lớp chăn mền để trả tiền cho cậu bé giao bánh pizza hoặc đi lấy iPod, và sau đó là quay về cái kén của mình, nơi tôi có thể đắm chìm trong nỗi khổ sở của chính mình. Tôi thanh lọc danh sách liên lạc trong máy BlackBerry, sắp xếp lại bộ sưu tập đĩa CD theo tên đĩa thay vì theo tên nhạc sĩ như trước, rồi tạo một bản excel chỉ dẫn tham khảo cho bộ CD này. Tôi còn sắp xếp lại ngăn tủ đựng đồ trang điểm cho theo mùa, nhóm các hộp phấn mắt và son môi cùng bộ với nhau. Nhưng vì lý do nào đấy, việc sắp xếp lại này chẳng mang lại cho tôi cảm giác hài lòng như nó đã từng luôn luôn mang lại cho tôi trước đây.
Chuông điện thoại reo liên miên, một vòng tròn bất tận gồm có Sophie, Jack, ba tôi, và Marc. Thậm chí Amelia Trenholm cũng gọi một lần, và tay tôi cứ lơ lửng bên trên điện thoại trong một hồi lâu cho đến khi điện thoại ngừng reo hẳn. Tôi không giận bà ấy; bà đã cố bảo Jack nói sự thật với tôi ngay từ đầu còn gì. Và tôi thậm chí còn nhớ ra rằng đó là sự thật về Jack mà anh cần nói cho tôi biết, chứ không liên quan gì đến bà. Tuy vậy, tôi vẫn chẳng muốn nghĩ đến bất cứ cái gì gây đau khổ, và nói chuyện với bà ấy sẽ nhắc tôi về những công việc mà chúng tôi đã làm cho ngôi nhà phố Tradd và tất cả những công việc vẫn còn phải làm. Và nó cũng sẽ lại nhắc nhở tôi rằng người đàn ông đầu tiên trong vòng hơn một năm qua vừa thể hiện sự quan tâm đến tôi nhưng rồi thực chất chỉ là quan tâm đến cái nhà mắc dịch ấy.
Cuối cùng, tất cả bọn họ quyết định gọi cho Nancy, suy diễn một cách chính xác rằng cô ta là người giữ cổng của tôi, và họ đều được nghe rằng tôi đang không khỏe và chẳng muốn bị quấy rầy. Jack là người duy nhất tiếp tục gọi, nhưng chỉ một lần mỗi ngày. Anh chẳng bao giờ để lại lời nhắn. Dường như anh chỉ muốn cho tôi biết rằng anh đang ở đấy, và thật kỳ lạ là tôi lại cảm thấy ấm lòng về việc ấy. Nhưng lại không đủ để tôi có thể bắt máy và nói chuyện với anh.
Trong ngày đầu tiên đi làm trở lại, tôi chẳng cảm thấy được nghỉ ngơi hoặc thanh thản hơn so với cái ngày tôi bảo với Jack rằng tôi chẳng bao giờ muốn nhìn mặt anh ta nữa. Tôi đã dặn dò rất dứt khoát với Nancy rằng tôi không muốn gặp bất kỳ ai cho đến khi tôi có ít nhất là nửa ngày để thu dọn bàn làm việc, nên tôi thật ngạc nhiên khi cô ta lại gọi vào phòng làm việc của tôi để cho tôi biết rằng Marc đang ở khu tiếp tân chờ tôi và anh ta chẳng muốn nhận lời từ chối thay cho câu trả lời.
Tôi gặp anh ta tại bàn của Nancy, cảm thấy lưỡi của mình như líu lại và sưng lên có lẽ vì đã lâu ngày tôi không nói chuyện, hoặc cũng có thể vì tôi chẳng biết nói gì.
Anh bước đến và nắm hai tay tôi rồi hôn lên má tôi. “Anh nhớ em lắm. Hy vọng em đã khỏe hơn.”
Tôi nhìn chằm chằm vào đôi mắt đen của anh ta, cố tìm trong ấy sự gian trá nào đó, nhưng tôi chỉ nhìn thấy sự quan ngại đầy chân thành.
“Chỉ một chút thôi,” tôi nói.
“Thế thì tốt. Anh đã lo rằng...” Anh nhìn lên Nancy, rồi hạ thấp giọng trước khi nói. “Anh đã lo rằng em đang cố tránh mặt anh.”
Tôi nhìn xuống đôi giày da Gucci của anh ta sợ rằng anh ta có thể nhìn thấy sự thật trong mắt mình. Thả tay ra khỏi tay Marc, tôi nói, “Chúng ta hãy đi ra ngoài để nói chuyện.”
Anh gật đầu, rồi theo tôi ra ngoài.
Chúng tôi bước xuống phố Broad hướng về dinh thự Old Exchange, nghe nói đây là tòa nhà bị ma ám nhất ở Charleston vì những năm tháng được sử dụng làm nhà tù của nó. Tôi không có ý định công khai tranh cãi về việc này bởi vì tôi khá miễn cưỡng chẳng muốn cung cấp bằng chứng đi ngược với điều mọi người tin tưởng, nhưng thật sự là tôi đã nhìn thấy nhiều hồn ma lang thang trong khu vườn và hành lang nhà bà ngoại tôi trên phố Legare, nhiều hơn cả những hồn ma mà tôi đã thấy ẩn nấp dưới những hầm rượu trong nhà tù xưa này.
Chúng tôi dừng lại bên trước một chiếc ghế dài làm bằng gỗ và sắt rồi ngồi xuống. Tôi mỉm cười với chính mình khi Marc đưa tay cho tôi nắm và chờ trong khi anh lau chỗ ngồi cho tôi bằng chiếc khăn lụa vuông của anh. Rồi anh ngồi xuống cạnh tôi và đưa tay nắm lấy tay tôi. Sau khi nhận ra rằng hai bàn tay của tôi đã yên vị rúc vào bên dưới người tôi, thì anh đặt hai tay của mình lên đùi.
“Việc này nghĩa là gì hả Melanie? Anh nghĩ là chúng ta... đang tìm hiểu nhau một cách rất thoải mái vui vẻ.”
Tôi nhìn vào mắt anh, và tôi hơi đỏ mặt một tí, nhớ lại đúng là chúng tôi đã có một thời gian rất tuyệt trong khi tìm hiểu về nhau. Cương vị một nữ doanh nhân đã dạy tôi cách rút ngắn cuộc rượt đuổi, và tôi quyết định làm việc ấy ngay bây giờ trước khi tôi hoàn toàn hóa rồ. “Khi anh nói anh phải đi ra khỏi thành phố, có phải ý anh nói là đi Las Vegas để chơi một canh bạc cá cược cao hay không?”
Nếu có giật mình hay thất vọng, thì anh ta đã nhanh chóng định thần lại được. “Ðúng thế, anh đã ở đấy.” Rồi anh thở dài. “Em trai của anh, Anthony, có vấn đề về cờ bạc. Bất cứ khi nào anh nghe phong phanh rằng nó sắp có một cuộc đánh lớn, thì anh cũng đăng ký luôn, để trông chừng nó. Ðể chắc chắn rằng nó không cá cược nhiều hơn khả năng trả nợ của nó.” Anh nhẹ nhàng nhún vai. “Anh đã không đề cập việc này với em bởi vì chúng ta đã cố giữ riêng các vấn đề gia đình với nhau mà.” Mắt anh hơi châu lại khi anh dò xét tôi. “Có phải em im hơi lặng tiếng là vì việc ấy không? Rằng em phản đối việc cờ bạc?”
Tôi lắc đầu. “Không đâu. Ðúng ra là tôi phản đối sự giả dối, và nói sai về bản thân mình để lấy được cái mà anh muốn.”
Anh xoay cả người lại để hoàn toàn đối diện với tôi lúc này. “Em đang nói về cái gì thế này?”
Tôi cố nhìn xem anh ta có lảng đi hay không hoặc có bất cứ sự tự thú tội nào không, nhưng chẳng thấy gì. “Anh đã từng nghe nói đến huyền thoại về những thỏi vàng của phe miền Nam hay không?”
Trông anh có vẻ bối rối. “Tất nhiên rồi, chẳng phải ai cũng từng nghe nói đến hay sao? Jefferson Davis mang theo số vàng ấy trong người khi ông ta tháo chạy khỏi Richmond khi cuộc Nội chiến kết thúc. Chúng biến mất một cách bí ẩn, và chẳng ai biết điều gì đã xảy ra với chúng. Nhưng việc ấy thì có liên quan gì đến anh và em nhỉ?”
Tôi chẳng muốn quanh co, vì đã đi quá xa như thế này. “Anh có bao giờ nghe nói rằng một phần của kho báu ấy có lẽ đã được giấu trong ngôi nhà của tôi trên phố Tradd hay không?”
“Vàng à? Giấu trong nhà của em? Với những công việc trùng tu hiện tại, liệu em có nghĩ rằng giờ đây chúng đã được tìm ra rồi hay không?”
Tôi lại lắc đầu. “Không phải vàng - mà là kim cương.” Tôi vẫn nhìn vào mặt anh để xem anh có biểu lộ cảm xúc gì về những điều tôi vừa nói hay không, nhưng nét mặt của anh dường như vẫn chỉ thể hiện sự bối rối rất thành thật. Tôi tiếp tục. “Nhà vua Brunei đã tuyên bố hiến tặng sáu viên kim cương quý giá cho phe miền Nam, và chúng là một phần của kho báu bị thất lạc. Ông cụ kỵ của ông Vanderhorst là người cuối cùng biết được mối dây liên lạc của chúng, nhưng ông ấy đã chết trận. Kể từ đó không ai còn nghe thấy gì về chúng nữa.”
Một nụ cười nhẹ thoảng qua môi Marc. “Cũng giống như Louisa và Joseph.”
“Vì sao anh lại nói thế?”
Anh nhún vai. “Chỉ là vì nếu những sự kiện lịch sử ấy đi kèm với những sự diễn giải hoàn toàn hợp lý thì sẽ có xu hướng trở thành huyền thoại khi năm tháng trôi qua. Nếu giải thích sự việc theo hướng kỳ bí hoặc huyền diệu thì nghe sẽ lãng mạn hơn là chấp nhận sự thật về một người đàn bà nội trợ đã nhàm chán với cuộc hôn nhân của mình rồi bỏ trốn với một người đàn ông khác, hoặc giả một quý ông được kính trọng ở Charleston đã biển thủ một đống tiền khổng lồ của một chính quyền đang sụp đổ cốt để chắc chắn rằng gia đình mình sẽ được cứu nguy khỏi thời khó khăn mà ông biết đang sắp xảy đến.” Marc lại nhún vai, lần này nụ cười quay trở lại gương mặt anh. “Ðó là đời. Không phải sự kỳ bí gì cả.”
“Vậy là anh chưa bao giờ nghe về những viên kim cương của nhà vua Brunei?” Tôi gặng hỏi.
Marc cố kéo một tay của tôi ra, lúc này vẫn đang chêm giữa đùi tôi và chiếc ghế dài. “Này, Melanie. Anh bạn Jack của em có lẽ là người đã nhồi nhét vào đầu em những ý tưởng như thế đấy. Với tính chất công việc của mình, anh ta có một sự tưởng tượng phong phú và khi nào anh ta nghe phong phanh về những con ngựa, anh ta sẽ nghĩ đó là những con ngựa vằn. Nghề nghiệp của anh ta phụ thuộc vào việc dùng những sự kiện lịch sử bình thường rồi làm cho chúng trở nên đủ hấp dẫn để viết thành sách. Thế thì tốt cho anh ta - bởi vì tất cả chúng ta đôi khi cũng cần phải thoát khỏi thực tế một chút. Nhưng chúng ta cũng không được quên đi một thực tế rằng tất cả những việc ấy đều dựa trên một phỏng đoán yếu ớt từ một nghiên cứu tầm thường nhưng lại được diễn dịch theo cách thuận lợi cho anh ta nhất.”
Tôi không trả lời, vẫn chờ xem anh ta có trả lời câu hỏi của tôi hay không.
Rồi anh lại thở dài và nói, “Cũng giống như những huyền thoại khác về Charleston, có lẽ anh cũng có nghe về chúng vào lúc này hay lúc khác, cho nên cũng hoàn toàn có thể là anh đã có nghe về những viên kim cương ấy. Ðiều mà em đang suy diễn, theo anh nghĩ, là anh có đủ tin vào câu chuyện này hay không để theo đuổi em nhằm mục đích được tiếp cận với ngôi nhà chứ gì.”
Tôi nhìn xuống bàn tay được cắt tỉa móng cẩn thận của anh lúc này đang nắm lấy bàn tay tôi, nhớ lại cũng chính bàn tay này đã mang đến cho tôi những cảm giác tuyệt vời thế nào khi chúng chạm vào những phần thân thể khác trên người mình. Tôi phải ép mình nhìn vào mắt anh một lần nữa. “Có phải anh đã có ý định ấy không?”
Anh nhắm mắt lại trong một thoáng, trông anh thật sự bị tổn thương. “Cái đêm ấy - có phải là giả dối hay không? Có phải như anh đã cố ép mình ân ái với em hay không?” Anh bỏ tay ra và đứng dậy. “Và trông anh có giống như một gã doanh nhân hèn kém đến nỗi không tìm ra nổi cách nào khác để đoạt được ngôi nhà - nếu anh thật sự nghĩ rằng nó đang che giấu một kho báu - hơn là hẹn hò cùng em?”
Tôi phải thú nhận rằng mọi điều anh ta nói đều hoàn toàn có lý. Thậm chí những gì anh nói về Jack cũng có một chút sự thật nào trong đó - mà như thế nghe cũng càng đáng tin cậy hơn vì thực tế là tôi đã sẵn sàng tin vào điều tệ hại nhất về Jack để nhờ vào đó tôi có thể không nghĩ đến Jack nữa.
Tôi cũng đứng dậy, và đặt hai tay lên vai anh. “Em xin lỗi, Marc à. Chỉ là...” Tôi ngừng nói vì chưa sẵn sàng tâm sự hết tất cả mọi việc. Tôi nhìn vào ve áo bằng len màu than đá của anh, rồi nhướn mắt nhìn lên, tôi bắt gặp ánh mắt của anh đầy trìu mến và quan ngại chân thành. “Chỉ là vì... à, việc trùng tu ngôi nhà đang không được suôn sẻ, và em chỉ cần được biết rằng mình sẽ không bị bất ngờ vì nhận thêm tin chẳng lành nào nữa.”
Anh xoa nhẹ lên má tôi khiến những luồng hơi ấm rung lên và chạy dọc theo hai cánh tay tôi. “Có việc gì thế, Melanie?”
“Việc trùng tu đang ngốn nhiều tiền hơn dự tính ngân sách ban đầu, và em cũng không rõ là mình sẽ có đủ tiền để hoàn tất nó hay không.”
Anh nhướn một bên mày. “Nhưng em thậm chí còn không thích ngôi nhà này cơ mà. Chẳng phải em đã từng gọi nó là ‘cái bướu cổ của cuộc đời’ à?” Anh mỉm cười nhẹ nhàng với tôi, nhưng cái nhìn của anh thì vẫn mãnh liệt.
“À, có lẽ em đã nói thế. Nhưng em đã đầu tư quá nhiều thời gian và sức lực cho nó đến nỗi em không thể chịu nổi ý nghĩ rằng tất cả những công việc ấy rồi sẽ bị bỏ dở.”
“Và sau đó thì việc gì sẽ xảy ra?”
“Em cũng chẳng biết. Em cần nói chuyện với ba em. Là người quản lý quỹ, ông ấy sẽ phải tìm cách. Nhưng mà, em cho rằng, nếu em dọn ra ngoài luôn và bỏ mặc nó, thì quyền sở hữu sẽ chuyển sang người khác vì em không đóng đủ thuế nhà đất. Dù là gì đi nữa, kết cục thì em sẽ chẳng được cái gì cả. Ngôi nhà là một mảnh lịch sử mà ta có thể nắm trong tay. Câu nói này của ông Vanderhorst cứ vang vọng mãi trong đầu, dù tôi có cố gắng bỏ ngoài tai đến thế nào đi nữa.
“Vốn cũng chẳng phải là một điều không tốt vì ngay từ đầu thì em đã không thực sự muốn nhận nó mà.”
“Ðúng thế.” Tôi nói, và tự hỏi không biết anh cũng có nghe thấy sự trống rỗng trong giọng nói của tôi hay không.
“Trừ phi em tìm được những viên kim cương ảo tưởng ấy đang được giấu bên trong ngôi nhà. Như thế thì mọi vấn đề của em sẽ được giải quyết cả.”
Tôi bật nhìn lên và bắt gặp ánh mắt của anh, và thấy rằng anh đang mỉm cười. “Ðúng rồi, đại loại là như thế,” tôi nói và mỉm cười lại với anh. Tôi lắc đầu, “Em cảm thấy mình thật ngốc nghếch.”
Anh lại nắm lấy tay tôi với cả hai bàn tay. “Em không ngốc nghếch. Em cực kỳ thông minh - nhưng có lẽ lại dễ bị lầm đường lạc lối bởi những người mà em tin cẩn. Và anh tha thứ cho em vì đã vội vã kết luận về anh như thế. Anh hiểu rằng toàn bộ dự án trùng tu ngôi nhà này đã khiến em quá mỏi mệt và căng thẳng quá sức chịu đựng của em. Cho nên,” anh nói, nghiêng người lên và hôn vào trán tôi, “tại sao ta lại không lên kế hoạch đi nghỉ ngơi thư giãn ở ngôi nhà ở biển của anh một lần nữa? Anh hứa với em là em sẽ không phải nghĩ ngợi gì về bất cứ thứ gì về nó trong hai ngày liền. Thậm chí em chẳng cần phải mặc quần áo nếu em không muốn.”
Lần này thì tôi cứ để cho mình được đỏ mặt và chẳng còn e dè mà nhướn môi lên hôn vào môi anh. “Em không chắc lắm về vế thứ hai ấy, nhưng chắc chắn là em muốn đi thư giãn vào cuối tuần này.”
Chiếc điện thoại BlackBerry của Marc kêu bíp trong túi áo khoác của anh, và anh bước lùi lại để trả lời điện thoại. Khi đã xong, anh nói, “Anh phải đi bây giờ. Anh sẽ đón em vào lúc bốn giờ chiều thứ Sáu, nếu em có thể sắp xếp được.”
Tôi đưa cho anh địa chỉ căn hộ của tôi ở phố Mt. Pleasant, rồi hôn anh tạm biệt. Khi tôi nhìn anh bước đi, tôi mới để ý thấy người ngồi trên băng ghế bên cạnh. Người đàn ông này, trong bộ quân phục sĩ quan kỵ binh của phe miền Nam thời xưa, đang nhìn tôi lặng lẽ, và trong một thoáng tôi nghĩ rằng ông ta có lẽ là một người đóng giả trang quân nhân thời Nội chiến - vì thành phố này có rất nhiều người như thế - cho đến khi tôi nhận ra rằng tôi có thể nhìn thấy những thanh gỗ của băng ghế xuyên qua thân mình của ông. Trước khi tôi kịp quay người đi để cho ông biết rằng tôi không quan tâm, thì ông đã biến mất, chỉ để lại một làn gió thoảng nhẹ đủ làm xào xạc vài chiếc lá rơi trên vỉa hè để cho thấy rằng ông đã từng ở đó.
***
Ba ngày sau, khi tôi đang ở cửa hàng đồ lót Victoria’s Secret để chọn đồ lót đồng bộ cho kỳ nghỉ cuối tuần thì điện thoại di động của tôi reo vang. Tôi suýt không bắt máy nhưng rồi chợt thấy tên người gọi là Sophie. Tôi đã không gặp nó kể từ cái đêm cuối cùng đầy tai họa ấy ở ngôi nhà phố Tradd, mặc dù tôi đã có một cuộc hội thoại chung trên điện thoại với nó cùng với ba tôi để thảo luận về việc tạm hoãn dự án trùng tu này. Khi ấy nó chẳng nói gì, và tôi không biết có phải vì nó giận gì tôi hay không. Như thể mọi việc đều là do lỗi của tôi, theo một cách nào đó.
Tôi bật mở điện thoại trong khi đang so sánh hai chiếc váy ngủ bằng lụa với nhau. “Chào, Sophie.”
“Chào, Melanie.”
“Sophie? Cậu đấy à? Nghe cứ như cậu đang bị cảm lạnh ấy.”
“Chỉ là rị ứn lông chó.”
“Mình tưởng là Chad giữ Ðại tướng Lee ấy chứ.”
Chỉ có yên lặng và tiếng hít mũi ở đầu dây bên kia. Rồi có những tiếng nói thầm thì và tiếng sủa ăng ẳng của con chó.
“Có phải Chad đang có ở đấy không, Sophie? Thế còn vụ cậu là Song Tử còn anh chàng là hình chữ thập thì sao?”
“Ðó là Ma Kết, Melanie ạ. Và anh ấy chỉ đến đây vì anh ấy mua cho mình trọn bộ DVD phim hoạt hình Scooby-Doo, và mình mời anh ấy đến xem phim cùng. Anh ấy phải mang con chó theo vì Ðại tướng Lee cảm thấy cô đơn khi bị bỏ một mình quá lâu và sẽ tru lên. Chad nói rằng hàng xóm đã bắt đầu phàn nàn về vụ ấy. Hiện giờ, chủ nhà của anh ấy cho phép nuôi chó trong nhà cho thuê, nhưng Chad thì nghĩ rằng nếu anh ấy mà không cẩn thận, thì ông chủ nhà có thể sẽ đổi ý.”
Tôi gỡ chiếc váy ngủ lụa màu ngọc lam ra khỏi cái giá treo và quấn nó vòng quanh cánh tay mình. Tôi bỗng có một cảm giác nôn nao vì biết rằng điều gì sẽ xảy ra tiếp theo đó. “Cậu có cần mình đến mang nó đi không?”
“Không đâu. Mình vừa uống thuốc chống dị ứng, cho nên mình sẽ không sao. Mình chỉ gọi để nhắc cậu về tua tham quan nhà ma vào tối thứ Bảy này cho Halloween. Cậu có mua vé rồi, nhớ không?”
Phải mất một hồi tôi mới có thể ghép các phụ âm vào những nguyên âm giọng mũi của Sophie mới hiểu được những gì nó vừa nói. “Hả? Là thứ Bảy này à?”
“Lúc nào cũng rơi vào ngày thứ Bảy thứ ba trong tháng Mười, Melanie - cậu biết việc này mà. Mình gọi để hỏi xem cậu có muốn gặp mình uống nước trước giờ đi tua hay không.”
Tôi nhìn chằm chằm vào chiếc váy ngủ bằng lụa màu ngọc lam tuyệt đẹp đang quấn quanh cánh tay mình. “Ừm, à, mình... à, mình đã có kế hoạch khác rồi.”
Một sự im lặng chết chóc ở đầu dây bên kia - ấy là chưa kể tiếng thở khò khè đứt quãng qua đường mũi bị nghẹt cứng - và tôi bắt đầu cảm thấy hồi hộp. Lần trước khi tôi nuốt lời không đi tua tham quan nhà ma với Sophie, nó đã đưa tên tôi vào danh sách thư tín của từng hiệu bán quần áo cũ trên toàn tiểu bang Nam Carolina này, chưa kể là còn đưa tôi vào danh sách đã tuyển lọc để làm diễn giả tiềm năng cho hội nghị toàn quốc của những người ăn chay.
“Cậu đã hứa sẽ tham dự.” Lời cáo buộc của nó đi kèm với nhiều tiếng hít mũi hơn.
“Mình xin lỗi, Sophie à. Mình quên mất. Và mình đã có kế hoạch đi chơi xa cho cuối tuần này.”
“Với Marc Longo chứ gì?” Thậm chí khi Sophie đang bị nghẹt mũi như thế này, thì lời chỉ trích của nó bỗng được nói thành lời nghe thật rõ.
“Phải, đúng là như thế đấy. Với Marc.”
“Sau khi đã nghe tất cả những gì Jack đã nói với cậu?”
Mặc dù ước muốn mãnh liệt của tôi lúc này là Jack cứ biến mất khỏi cuộc đời của mình, nhưng rõ ràng bạn tôi chẳng hề có cái ước muốn nào tương tự như thế. “Jack đã kể cho cậu nghe về những viên kim cương ấy à?”
“Anh ấy đã kể cho mình, Melanie à. Và thêm một chút về Marc Longo. Mình nghĩ cậu đúng là cực kỳ ngu ngốc nếu cậu không nghe lời anh ấy.”
“Mình có nghe anh ta đấy chứ. Mình đã lắng nghe khi Jack tự nói với mình rằng anh ta đã lừa dối mình ngay từ lần đầu bọn mình nói chuyện trên điện thoại ấy.”
“Và làm sao cậu biết rằng Marc không lừa dối cậu?”
Tôi thở dài, cố không nhớ lại đã bao lần tôi cũng tự đặt cho mình câu hỏi này. “Bởi vì mình đã hỏi anh ấy. Và anh ấy nói không có.” Ðiều này không hoàn toàn chính xác, nhưng chung quy thì câu trả lời của Marc cũng đại loại là như thế. Chưa nói đến cái nhìn trong đôi mắt của anh ấy, hoàn toàn không có gì khác ngoài sự chân thành.
“Ðược lắm.” Tôi nghe nó kéo điện thoại ra xa để xì mũi. “Và cậu tin anh ta nhưng không tin Jack. Thật là một hiện tượng tâm lý thú vị đấy, Melanie. Có lẽ bọn mình nên lên kế hoạch ngồi thiền khác để bọn mình có thể phân tích thêm về vụ này.”
Tôi hốt một nắm quần lót lụa từ chiếc thùng đặt cạnh quầy tính tiền và quẳng chúng lên quầy, bên cạnh chiếc váy ngủ. “Mình không cần được ai phân tích gì cả. Mình chỉ cần được yên thân và được phép tự quyết định cho chính mình.”
“Chẳng hạn như quyết định chẳng xem bạn thân của mình ra gì. Người bạn đã tự nguyện đến giúp cậu mà chẳng nề hà khối lượng công việc ngập đầu của người ấy khi cậu bảo với người ấy rằng cậu cần được giúp một chút cho ngôi nhà mà cậu đã thừa kế.”
Ối. Giờ thì nó đang chơi trò khổ nhục kế đây - một việc mà nó ít khi sử dụng đến nhưng ít ra, trong trường hợp này, hoàn toàn chấp nhận được. Tôi đưa tay lên với cô gái bán hàng, lúc này đang bắt đầu gấp chiếc váy ngủ vào giấy lót màu hồng mềm mại. Chờ đã, tôi ra dấu bằng miệng với cô gái. Rồi tôi lại nói vào điện thoại, “Nếu lần này mà mình không đi tua nhà ma của cậu thì cậu lại đăng ký cho mình một suất đi nghỉ mát ở bãi biển khỏa thân hoặc làm người mẫu cho những sô diễn thời trang nhựa tái chế của bạn cậu như những lần trước phải không?”
“Có thể lắm.” Giọng của Sophie nghe chẳng có vẻ gì là nó đang mỉm cười cả.
Tôi thở dài thườn thượt. “Ðược thôi. Mấy giờ thì mình cần có mặt ở đấy?”
Nó cho tôi mọi chi tiết, rồi tôi cúp máy. Tôi cám ơn cô gái bán hàng rồi nói với cô ấy rằng tôi đã đổi ý. Rồi tôi liếc nhìn đầy nuối tiếc chiếc váy ngủ lụa màu ngọc lam một lần cuối trước khi bước ra khỏi cửa hiệu. Hy vọng duy nhất của tôi là năm nay Sophie sẽ lưu ý đến lời khuyên của tôi là sẽ ăn mặc đứng đắn một chút. Trong những lần đi tua Halloween của những năm trước, nó luôn giả làm bà đồng, người có khả năng điều khiển những hồn ma, và tôi thấy thật xấu hổ thay cho nó khi nó vận trang phục của phù thủy hoặc của các nhân vật có nanh nhọn nào đó. Lần này nó đã ép buộc tôi phải từ bỏ chuyến đi nghỉ cuối tuần của mình để tham gia cuộc đi bộ tham quan nhà ma giả tạo này, thì ít ra nó cũng phải ăn mặc cho ra vẻ một bà đồng chính hiệu và noi gương thời trang của tôi.
***
Nhóm người đông đúc tụ tập bó cụm lại trông giống như những chùm nho mọc bao trùm lấy những chiếc cổng của nghĩa trang St. Philip, mồm thì há hốc nhìn vào cái sinh vật mặc bộ đồ choàng đen trùm kín từ đầu đến chân, tay cầm lưỡi hái và mang bảng hướng dẫn viên vòng quanh cổ. Khi nhân vật ấy bước đến một bước, và khi tôi nhìn thấy đôi vớ sọc ngang cùng đôi giày xăng đan đế bằng, tôi biết đó là Sophie.
Nó đã đưa tôi đi ăn tối trước và sau đó lái xe đưa tôi ra khu trung tâm, nhưng rồi lại thả tôi xuống phố King để mua sắm trong khi nó chuẩn bị cho buổi tối, nên tôi chưa có dịp nhìn thấy bộ đồ hóa trang của nó. Trước khi cho nó lái xe đi, tôi đã nhắc đi nhắc lại những gì tôi đã nói trước đó về việc ăn mặc cho đàng hoàng, nhưng tôi vẫn lo. Và với lý do chính đáng, rõ là thế rồi.
Ít ra nó không ăn mặc như một mụ phù thủy hay mang răng nanh, nhưng tôi nghĩ nó đã đi hơi quá đà khi cầm cái lưỡi hái như thế này.
Những nhóm khác đứng gần bên, nhưng Sophie đã chiếm đoạt điểm gần bia mộ của Sue Howard Hardy nhất và cũng là khu vực được cho là có thể thấy nhiều ma nhất của thành phố. Theo lời đồn thì bà Hardy đã thường ra quỳ gập người trước mộ đứa con mình, than khóc cho một em bé chết non chào đời đã được hơn trăm năm về trước. Tôi biết câu chuyện không phải thế, dĩ nhiên, vì đã nói chuyện với người thiếu phụ than khóc ấy một lần trong khi đang đi dạo với mẹ khi tôi còn là một cô bé. Mẹ đã kéo tôi ra khỏi cánh tay đang cố vươn ra từ chiếc cổng nghĩa trang trước khi những ngón tay trắng bệch ấy kịp nắm lấy tay áo khoác của tôi. Mãi cho đến đêm ấy, sau khi mẹ đã đặt tôi vào giường ngủ, thì tôi mới nhận ra rằng mẹ tôi cũng đã nhìn thấy người đàn bà ấy.
Sophie ra dấu với tôi bằng cách nhấc cái lưỡi hái lên, và tôi trợn mắt trong khi cố giữ khoảng cách với những chiếc cổng, phòng khi có cái gì đó bên trong muốn gây sự chú ý nơi tôi. Tôi nhìn những nhóm tham quan khác ở chung quanh, và cảm thấy mình đã đúng khi để ý rằng rất ít có hướng dẫn viên nào mặc đồ hóa trang. Sophie thì cố giải thích rằng mặc đồ hóa trang thì sẽ thu hút thêm khách vào nhóm của nó, cũng có nghĩa rằng nó sẽ gây quỹ được nhiều hơn cho trường của nó, nhưng tôi thì không hoàn toàn bị thuyết phục. Tôi nói với nó rằng nếu kể những câu chuyện một cách chính xác có lẽ sẽ là động cơ để người ta nhập nhóm của nó hơn thay vì nhập nhóm của những đối thủ khác của nó, nhưng cô nàng vẫn nghi ngờ lý lẽ này của tôi.
Sophie bắt đầu nói. “Chính ngay tại điểm này vào năm một ngàn chín trăm tám mươi bảy, một người chụp ảnh nghiệp dư đã chụp một tấm hình và đã biến nghĩa trang này trở thành tâm điểm của nhiều cuộc điều tra về những điều huyền bí. Người chụp hình này, một cư dân trước đây của Charleston, không hề biết đến bà Sue Howard Hardy, người đã chết vì đau khổ thống thiết cách đây trên một thế kỷ và đã luôn ngồi than khóc bên cạnh mộ đứa bé chết non của mình. Anh ta đã rất ngạc nhiên khi nhìn thấy hình ảnh này hiển thị trong tấm hình khi anh ta tráng rửa cuộn phim mình đã chụp.” Giọng của Sophie, trong khi vẫn còn nghèn nghẹt hơn bình thường, lúc này lại nghe hơn run khiến tôi suýt nữa thì bật cười to lên.
“Nghe có vẻ như cô ấy biết mình đang nói gì, nhỉ!”
Tôi xoay người định bào chữa cho bạn mình, thì đứng sững người lại. Tôi giật ngược người ra khi thấy Jack, và tôi ngã nhào người vào một phụ nữ to béo mặc chiếc áo thun chui đầu có in hình logo của quán café Salty Dog đang đứng sau lưng tôi. “Jack - anh làm gì ở đây?”
“Giống như cô thôi. Ủng hộ trường Ðại học Charleston, cũng như học hỏi thêm những điều mới về thành phố nơi mình ở.”
Tôi nhìn lên đôi mắt xanh lấp lánh của anh và phải tự thú nhận với lòng là trông anh thật đẹp. Không đủ đẹp để cho tôi có thể tha thứ cho anh ta hoặc cho phép anh ta được ở gần tôi, nhưng vẫn đủ đẹp để tôi ngưỡng mộ từ xa. Từ rất xa. “Tốt cho anh đấy, Jack ạ. Nhưng trong khi anh lắng nghe, làm ơn đừng đứng gần tôi nhé. Tôi không bao giờ muốn nhìn mặt anh nữa, nhớ không?”
Tôi bắt đầu lần đường rẽ ra ngoài đám đông, nhưng Jack đã đặt một tay lên cánh tay tôi. “Cô đã không gọi lại cho tôi lần nào.”
“Và anh ngạc nhiên về điều đó à?” Tôi cố giật cánh tay mình ra, nhưng anh đã nhanh tay nắm lại. Tôi có thể thấy rằng người phụ nữ trong chiếc áo thun Salty Dog ấy giờ đây đang để ý đến chúng tôi hơn là đến những gì Sophie đang nói, cho nên tôi không chống cự nữa.
“Không,” anh nói, hạ thấp giọng. “Nhưng tôi ngạc nhiên vì cô đã không cho tôi một cơ hội được chuộc lỗi.” Anh thả cánh tay tôi xuống, rồi vươn người đến gần tôi, và chúng tôi gần như sắp chạm mặt vào nhau. “Tôi nghĩ chúng ta đã là bạn.”
“Tôi cũng từng nghĩ chúng ta đã là bạn đấy,” tôi nói, rồi bước thụt lùi lại. “Và trong mắt tôi giờ đây thì anh không thể làm gì để chuộc lỗi được nữa, cho nên anh cứ đi đi và để cho tôi được yên.”
Tôi xoay người và cố lần tìm đường đi qua đám đông đang bao quanh Sophie, lúc này đang thi vị hóa về những hồn ma đi lang thang dạo mát quanh các con phố Charleston về đêm, hoàn toàn chẳng hay biết gì về gã cướp biển với cái thòng lọng thắt chặt quanh cổ đang treo lơ lửng trên cành cây bên trong hàng rào nghĩa trang sau lưng nó.
Jack vẫn kiên trì lẽo đẽo đi theo tôi. “Tôi có thể tìm ra những viên kim cương ấy cho cô. Hãy nghĩ xem việc ấy sẽ có ý nghĩa như thế nào. Ít ra cô cũng sẽ có thể hoàn tất việc trùng tu cho ngôi nhà của mình chứ.”
Tôi đứng lại khi vừa lách khỏi đám đông và đối diện anh ta. “Ðó không phải là nhà của tôi. Chưa bao giờ - thật đấy. Và tất cả những gì mà nó mang lại cho tôi chỉ là những vòng tròn bất tận của thất vọng chán chường. Mọi việc đã quá đủ với tôi. Tôi đã xong việc với ngôi nhà và cũng chẳng còn việc gì liên quan với anh nữa. Làm ơn hãy để cho tôi được yên.” Tôi quay mặt lại nhìn Sophie, quay lưng lại với Jack và giả vờ tập trung nghe những gì Sophie đang nói.
Anh hạ thấp giọng, với âm bậc chỉ vừa đủ nghe bên cạnh giọng thuyết trình của Sophie. “Thế còn Louisa và Nevin thì sao? Cô định bỏ rơi họ cùng với ngôi nhà ấy à? Bởi vì tôi cũng như cô đều biết rằng Louisa đã yêu con trai của bà ấy vô vàn, và rằng chắc chắn đã có việc gì đó khủng khiếp lắm mới khiến bà ấy mới từ bỏ thằng bé. Và vì lý do nào đó mà một chiến dịch bôi nhọ danh dự của bà đã được thiết lập trên truyền thông để sự việc trông giống như bà ấy đã bỏ trốn cùng Joseph Longo. Nhưng cả hai chúng ta đều biết đó không phải là sự thật, đúng không nào? Cô có nhớ cái khung hình cứ bị ném xuyên qua phòng hay không? Ðó là Louisa và Nevin làm đấy - và cô đừng hòng cố mà phủ nhận việc ấy. Cả cô và tôi đều biết rằng có cái gì đó bất bình thường trong ngôi nhà này. Và rằng Louisa và Nevin đều muốn phơi bày sự thật ra ánh sáng.” Jack kéo cánh tay tôi cho đến khi tôi xoay người đối diện anh. “Họ cần cô giúp họ nói lên sự thật.”
“Anh thì biết gì về sự thật chứ?” Tôi hét lớn, và để ý rằng tất cả những cái đầu ở đấy đều quay về hướng tôi, cũng đúng lúc Sophie vừa hỏi đám đông nếu có ai đã từng trải qua một kinh nghiệm siêu nhiên nào hay không.
Sophie nhấc cái đầu đội mũ trùm kín mít của nó và nhìn về hướng tôi. “Cô gái trẻ ở phía dưới kia ơi. Cô có kinh nghiệm nào muốn chia sẻ không?”
Tôi hoảng vía nhìn nó, lại thấy gã cướp biển lúc này đang đung đưa trong cơn gió đêm. Tôi có thể nghe tiếng cót két của sợi dây thừng cạ vào cành cây, nhắc nhở tôi về một đứa trẻ đang ngồi trên chiếc xích đu cũ bằng gỗ. “Ừm, không.” Tôi ho nhẹ. “Không hề.”
“Cô có chắc không đấy?” Sophie lúc này đang nhăn mày nhìn tôi, đảo mắt qua lại như một dấu hiệu mà tôi buộc phải biết.
“Dạ, tôi chắc chắn về việc ấy.” Lúc này đã có thêm vài gã cướp biển khác lại xuất hiện và bắt đầu dùng những thanh kiếm dài và sáng loáng cắt dây thả chiến hữu của bọn chúng xuống.
Sophie vẫn cố nài ép. “Bởi vì dường như cô có điều gì muốn nói khi nãy.”
Tôi lầm bầm trong bụng. “Ðược rồi. Thôi được. Tôi đã có lần nhận cú điện thoại từ bà ngoại.”
Người phụ nữ to béo trong chiếc áo thun chui đầu cau có nói. “Ðó không phải là một kinh nghiệm huyền bí dị thường.”
Tôi quay sang và nhìn thẳng vào mắt bà ta. “Khi ấy bà của tôi mất đã trên hai mươi năm rồi.”
Người phụ nữ ấy bước lùi lại trong khi tôi nghe nhiều tiếng cười khẩy từ đám đông, cũng như vài lời nhận xét đại loại như “Có lẽ đó chỉ là một cuộc gọi phá đám thôi.” Tôi nhìn Sophie và nhún vai.
Ðám đông lại nhất tề ồ ạt quay bước và đi theo Sophie xuống phố Church, rẽ vào góc ngã tư cắt ngang phố Queen và dừng lại bên trước nhà hát Dock Street thiêng liêng và cũng được xem là bị ma ám, hiện đang được đại tu hoành tráng. Tôi cảm thấy Jack đang bước đi trong yên lặng bên cạnh tôi, nhưng tôi chẳng thèm quay lại để xác nhận sự có mặt của anh.
Ngay khi đám đông đã vây quanh Sophie, nó bắt đầu cất tiếng. “Ở đây có một phụ nữ vận váy đỏ sậm bay chầm chậm qua những hành lang bên trong và dọc theo lan can bên ngoài lầu hai của tòa nhà này. Những người trực đêm cũng như một số người đi xem hát đã nhìn thấy bà ấy.”
Có cái gì đó phủi nhẹ lên người tôi, và tôi giật mạnh người quay về Jack để bảo anh ta một lần nữa là hãy để cho tôi yên. Nhưng Jack đang nhìn chằm chằm về phía trước, chăm chú lắng nghe Sophie, và hoàn toàn không hay biết gì về người phụ nữ đang đứng ngay phía sau và dựa đầu vào lưng anh. Với một ngón tay trong suốt, cô ấy vuốt ve một lọn tóc đen sau tai Jack. Anh đưa tay lên như thể định xua đi con bọ đang làm phiền anh, rồi dừng lại với bàn tay giơ lên giữa lưng chừng trong không khí, và rồi anh cúp lòng bàn tay vào nơi mà người phụ nữ vừa đặt tay vào. Và rồi, như thể anh không nhận biết mình đang làm gì, anh nghiêng đầu giống như cách một người tình sẽ làm để lắng nghe lời thì thầm từ người yêu của mình.
Tôi lại nghe thấy tiếng nói ấy trong đầu mình, mặc dù đôi môi cô ấy chẳng hề chuyển dịch. Và mặc dù cô ta đang nhắm mắt, nhưng tôi biết những lời cô nói là dành cho tôi. Hãy nói với anh ấy. Hãy nói với anh ấy là tôi rất yêu anh. Nói với anh ấy rằng vì yêu anh mà tôi không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc ra đi. Hãy nói cho anh nghe những gì chị đã biết. Sau đó thì cô ta mở mắt ra, nhưng phía sau mí mắt lại chỉ là một không gian trống rỗng. Và rồi cô ấy biến đi.
Tôi cảm thấy có ai đó đang kéo nhẹ chiếc áo len của mình, và tôi nhìn xuống thì thấy một cậu bé tròn trĩnh chừng tám tuổi.
“Cháu cũng thấy cô ấy nữa.”
“Ai cơ?” Tôi hỏi một cách lo lắng.
Cậu bé nhìn tôi bằng đôi mắt trông già hơn tuổi của cậu. “Cô biết mà.” Rồi cậu rướn người lên và thì thầm, “Cháu không được phép nói về việc đó, nhưng cháu nghĩ là cô cũng có thấy nó nữa, vậy thì cháu biết rằng mình không hề điên khùng.”
Tim tôi hơi nhói đau khi nhớ lại lúc tôi bằng tuổi cậu bé và bị rượt đuổi trên sân chơi chỉ vì tôi đã nói rằng Mary Lou Watkins đã ở nhà tôi vào một đêm nọ trong khi mọi người đều biết là cô bé đã chết trong một tai nạn xe hơi. “Cháu không điên đâu,” tôi nói với cậu bé. “Và nếu cháu may mắn, có lẽ từ từ thì cháu sẽ không còn nhìn thấy họ nữa.”
“Nhưng cô đâu có thoát khỏi nó đâu nào.” Thằng bé nhìn tôi đầy trách móc.
“Phải, đúng là cô đã không thoát khỏi khả năng này, nhưng rất nhiều đứa trẻ khác thì đã thoát.”
“Cháu hy vọng cháu sẽ không mất đi khả năng này,” thằng bé nói rồi mỉm cười trước khi bước đi theo mẹ nó.
“Ai thế?” Jack hỏi, xoay người lại.
Tôi nhún vai. “Chỉ là một thằng bé. Nó tưởng nó bị lạc mất mẹ.”
Jack chau mày, rồi rướn người lên và nhìn tôi chăm chú. “Trông cô cứ như vừa nhìn thấy ma ấy.”
Thần kinh tôi vẫn còn căng thẳng sau cuộc đụng độ ấy khiến tôi văng ra một tràng cười, lần này cả đám đông lại quay lại nhìn tôi lần nữa. Sophie quay người nhìn tôi, và tôi có suy nghĩ thoáng qua là nếu nó lại yêu cầu tôi kể một câu chuyện cá nhân có thật nữa thì tôi sẽ ói ra mất.
“Tôi phải đi thôi. Bảo với Sophie là nó đã làm rất tốt, và tôi sẽ gọi nó vào ngày mai.” Tôi vẫn không nghĩ đến việc làm sao tôi có thể đi nhờ xe ai về nhà.
“Tôi cũng đi với cô. Chúng ta phải giải quyết việc này giữa hai người, Melanie à. Chúng ta không thể cứ để mọi việc như thế này mãi được.”
“Chúng ta có thể chứ.” Tôi nói và ngạc nhiên khi thấy bàn tay và giọng nói của mình vẫn còn run rẩy. Tôi bắt đầu bước ra khỏi khu phố Church hướng về Broad, nghĩ rằng mình sẽ gọi Nancy để đi nhờ xe.
Tôi nghe tiếng điện thoại của anh reo, và anh dừng lại còn tôi thì vẫn tiếp bước. Tôi đi gần đến dãy phố kế cận thì nghe tiếng anh gọi tên tôi lần nữa.
“Melanie, làm ơn chờ chút.”
Tôi dừng lại ở giữa đường, hai tay chống hông. Khi ấy tôi muốn kể cho anh ta nghe về Emily, để cho anh ta phải đau đớn như anh ta đã từng làm tôi đau. Nhưng rồi tôi nhớ lại cách anh đã nghiêng đầu ra sao và cô ấy đã chạm vào tóc anh như thế nào, thế là tôi lại không thể làm thế với anh được. Nhưng anh phải biết việc ấy. Tôi chỉ cần phải suy nghĩ xem sẽ nói cho anh nghe bằng cách nào để cả hai chúng tôi đều được an toàn.
“Cái gì thế, Jack? Có đoạn nào mà anh không hiểu khi tôi nói không với anh hả?”
Khi anh bắt kịp tôi, anh không dừng lại nhưng nắm lấy cánh tay tôi và tiếp tục bước đi. “Ðó là ba của cô.”
“Ông ấy có sao không?” Tôi cảm thấy một chút lo lắng thúc vào lương tâm mình. Tôi đã không hề lo nghĩ gì đến ba mình nữa. Tôi đã xài hết trữ lượng lo lắng của mình cho ông cách đây đã nhiều năm rồi.
“Sau khi cô bảo với ông ấy rằng tên ông nội của cô nằm trên chứng thư của đồn điền Magnolia Ridge, ông ấy đã quyết định lục lạo những di vật của ông nội cô để xem có thể tìm thấy gì nữa về ông nội Gus của cô hay không, cũng như tìm hiểu thêm về mối liên hệ của ông ấy với gia tộc Vanderhorst.”
“Và ông ấy có tìm thấy gì không?” Tôi hỏi và gần như đứt hơi vì chúng tôi vừa đi vừa chạy.
“Ông ấy tìm thấy một cái hộp giữ ẩm xì gà có khóa của ông Gus. Ông ấy đập vỡ cái khóa và bảo rằng chúng ta cần đến để xem ông ấy đã tìm thấy những gì bên trong hộp.”
Tôi cố nhấn mạnh gót giày xuống mặt đường để cho anh ta dừng lại, nhưng như thế chỉ giúp tôi níu lại được vài bước rồi tôi lại phải tiếp tục chạy đi. “Dừng lại nào, Jack! Không còn gì nữa, nhớ không? Không còn phải giải mã một bí mật nào nữa.”
Anh chẳng trả lời mà tiếp tục kéo lê tôi xuống phố Church, gây sự chú ý nơi hai người khách bộ hành đang ăn mặc hóa trang thành hai lọ muối và tiêu và đi cùng nhau ở phía bên kia đường.
“Jack, dừng lại. Tôi không quan tâm nữa. Những thứ này chẳng có ý nghĩa gì nữa. Ðấy là chưa kể rằng tôi đã quá chán ngấy cả anh lẫn ba tôi bởi vì tôi đã bảo anh đi ra khỏi nhà tôi và rằng tôi chẳng bao giờ muốn nhìn mặt anh nữa. Và bây giờ thì tôi lại phát hiện rằng hai người vẫn đang tiếp tục tìm hiểu về cái gọi là bí mật này sau lưng tôi.”
Chúng tôi đã đi đến xe của anh, rồi anh thả cánh tay tôi ra và liếc nhìn tôi. “Hay là ta cứ vờ như việc này không phải vì cô hay vì tôi nữa, một phút thôi, được chứ? Rằng có lẽ toàn bộ dự án này có ý nghĩa với ba cô thật nhiều, nhiều hơn bất kỳ ai trong chúng ta có thể đoán nổi. Nếu không có nó để tập trung vào, ông ấy sẽ lại... lầm đường lạc lối.”
Sự giận dữ của tôi bỗng chốc tiêu tan, thay thế bằng gánh nặng của sự kinh hãi. “Anh định nói gì với tôi hả Jack? Có phải ba tôi lại uống rượu nữa phải không?”
Jack mở cửa xe cho tôi. “Việc ấy còn tùy thuộc chúng ta đi nhanh như thế nào để đến nơi ấy.”
“Ðến đâu?”
“Râu Ðen. Hiện giờ ông ấy đang ngồi ở bàn với một cốc gin ngay trước mặt.”
Tôi trượt vào ghế xe mà không nói thêm lời nào, ước gì tôi đã không cảm thấy quá thất vọng mà chẳng hiểu tại sao. Mặc dù cùng với thời gian, tôi đã biết khá nhiều, nhưng bằng cách nào đó tôi vẫn còn giữ được một mảnh hy vọng cỏn con trong lòng.
“Xin chào?” cô nàng lặp lại. “Có ai ở đầu dây bên kia không?”
“Xin lỗi Nancy. Là tôi đây - Melanie.”
“Ồ! Chị đã đến đây chưa? Em không thấy xe của chị, còn dì Ruth thì nói là dì ấy cũng không thấy chị sáng nay khi em ghé vào mua cà phê.”
“À không. Tôi vẫn còn ở nhà. Ðúng ra là vẫn còn trên giường.” Tôi tự hỏi mình có nên giả ho hay không và rồi quyết định không làm thế. “Tôi không khỏe, nên tôi sẽ không đi làm hôm nay. Hy vọng chị có thể giúp tôi hủy tất cả các cuộc hẹn cho hôm nay của tôi.”
Cô ta im lặng một hồi lâu. “Chờ tí. Em phải tháo đôi bông tai có quả bóng golf này ra đã, vì nó vướng víu làm em khó mà áp ống nghe vào tai được, với lại em cũng chưa tìm ra được bộ tai nghe nữa chị ạ.” Chiếc ống nghe kêu lách cách trên bàn của Nancy, và tôi chờ thêm một chút thì lại nghe giọng của cô nàng. “Em xin lỗi nhé. Em tưởng chị gọi vào chỉ để cáo bệnh thôi.”
“Ðúng rồi. Và tôi hy vọng cô có thể hủy hết những cuộc hẹn gặp của tôi.”
“Chị đang ở cùng một người đàn ông à?” Cô nàng lúc này đang thầm thì.
“Không, dĩ nhiên là không. Tôi chỉ... không cảm thấy khỏe thôi.”
“Có phải là vì Jack không?”
“Không Nancy à. Không phải vì một người đàn ông nào cả. Chỉ là tôi cảm thấy không được khỏe trong người, thế thôi.”
“À, tại vì chị có gọi điện cáo bệnh bao giờ đâu, theo như em có thể nhớ, và chị cũng chẳng hẹn hò gì với ai cả, nên em nghĩ vụ này có lẽ có liên quan với nhau.”
“Nancy này?”
“Dạ, chị Melanie?”
“Chị làm ơn giữ những cái ý nghĩ ấy cho riêng mình thôi, được chứ?”
“Xin lỗi chị. Nhưng chị cũng biết là em chỉ muốn giúp chị thôi. Ngoài ra, em biết vụ này không phải vì Jack.”
“Làm sao chị biết?”
“Bởi vì anh ấy đã gọi vào đây sáng nay để nói chuyện với em.”
Tôi chau mày và nhìn vào điện thoại. “Nói với chị? Về việc gì?”
“Về chị. Anh ấy muốn hỏi xem chị có ổn không, và khi em bảo anh ấy rằng em chưa thấy chị vào sáng nay, thì anh ấy nói có lẽ em sẽ không gặp chị ở văn phòng vào hôm nay. Anh ấy còn nói là chị vừa nhận được tin chẳng lành và cần phải nghỉ ngơi vào hôm nay. Cho nên sáng nay em ghé tiệm dì Ruth - và cái túi bánh tiêu ưa thích của chị vẫn còn nằm trên bàn của chị đấy.”
Tôi cảm thấy vui khi nghe đến sự chu đáo ấy của Jack dành cho tôi, nhưng rồi nhớ lại anh ta chính là kẻ chịu trách nhiệm về cảm giác tệ hại hiện tại của mình thì tôi chẳng hứng thú gì nữa. “Cám ơn nhiều, Nancy ạ. Nhưng chị cứ ăn hết chỗ bánh ấy đi. Hôm nay tôi sẽ không đi làm.”
“Chờ chút, em có điện thoại khác gọi vào. Chị đừng cúp máy nhé.”
Nhạc nổi lên trong thời gian chờ đợi, tôi đảo mắt nhìn quanh những bức tường vốn đã từng ấm cúng trong căn hộ của mình - những bức tường sơn trắng và trống trơn, hoàn toàn không có hoa văn chạm trổ sát trần hay ván gỗ to bản ghép ở chân tường, còn phòng sinh hoạt chính cũng chẳng có lò sưởi hay bất cứ thứ gì được gọi là họa tiết trang trí cả. Ðiểm nhấn của căn phòng là chiếc tivi màn hình phẳng tôi đã tự mua cho mình làm quà Giáng Sinh hồi năm kia. Tôi rất ít xem tivi ngoại trừ những phim trữ tình lãng mạn đen trắng thời xưa chiếu trên kênh AMC và Kênh Thời tiết. Sàn gỗ thì đã được đúc sẵn từ xưởng và hoàn toàn không có bóng dáng của sự hao mòn nào, bằng chứng về điều kiện còn mới nguyên của nó chứng tỏ con người trong gần hai trăm năm qua đã không bước xuyên qua nó rồi để lại dấu gót giày và dấu trầy xước như là dấu hiệu của lịch sử đã đi qua.
Những bóng đèn được lắp hõm vào trần nhà đã choán hết diện tích không còn chỗ cho những bộ đèn chùm tinh vi và đồ sộ, và những bức tường trắng toát chỉ được trang trí bằng đèn chiếu điểm thay vì những bức tranh sơn dầu vẽ Cảng Charleston và những con người đã từng ăn sáng bên chiếc bàn gỗ gụ to và ngủ trên cùng chiếc giường mà tôi đã dùng trong thời gian vừa qua.
Những món đồ nội thất bằng thủy tinh và thép mà tôi đã từng tự tay chọn lựa cực kỳ khắt khe tỉ mỉ, giờ đây trông có vẻ lạnh lẽo và không hợp nơi hợp chỗ. Mọi thứ đều có vẻ mới tinh, quá hoàn hảo, như thể cái người sống ở đây chẳng hề có quá khứ. Chẳng hiểu vì sao mọi thứ đều có vẻ bất bình thường, như thể tôi chỉ là một khách trọ tạm thời còn nhà thật của tôi thì lại ở nơi khác.
Tôi cố tự thức tỉnh, rồi ép não của mình phải nhớ đến những công việc mệt nhừ tử và đau cúp lưng mà cơ thể tôi đã phải chịu đựng trong suốt bốn tháng ròng rã vừa qua. Móng tay tôi chẳng còn, tóc tai thì là một thảm họa, còn tôi thì biết thật nhiều về cách cạo sơn trên nhiều bề mặt vật liệu khác nhau, nhiều hơn bất cứ gái độc thân ba mươi chín tuổi nào cần phải biết nhiều đến thế. Nếu tôi tập trung đủ lâu vào những thứ ấy, có lẽ tôi sẽ bắt đầu nghĩ rằng một căn hộ với nhiều cá tính như một căn phòng khách sạn cũng có thể là một nơi được gọi là nhà.
Có người gọi đến, và khi tôi nhìn vào màn hình nhỏ trên điện thoại để xem danh tính người gọi thì thấy đó là ba tôi. Tôi nhìn chằm chặp vào số điện thoại ấy một hồi lâu và lắng nghe thêm hai hồi chuông reo nữa cho đến khi nó im hẳn rồi số điện thoại cũng biến mất trên màn hình.
“Chị Melanie ơi? Chị còn đó không?” Giọng của Nancy luồn vào trong ống nghe.
“Ừa, tôi vẫn còn đây. Tôi không còn gì để nói thêm - vui lòng chỉ cần hủy các cuộc hẹn của tôi là được.”
“Em cũng sẽ hủy toàn bộ các cuộc hẹn của chị cho cả tuần này luôn vậy. Chị đã làm việc quá mức và chị cần được nghỉ dưỡng cho đúng điệu mới được. Em đang nhìn vào lịch làm việc của chị đây, và nếu em chuyển loanh quanh vài việc và đẩy vài cuộc hẹn sang tuần tới, thì chị sẽ ổn thôi. Ðể em bảo với ông Handerson là chị bị cúm hay gì đó.” Tôi nghe tiếng Nancy gõ gõ đầu bút chì lên bàn, rõ ràng là đang mất kiên nhẫn mong sớm được quay lại để luyện cú đánh golf mới học của cô nàng.
“Nhưng mà...”
Cô ta cắt ngang. “Không có nhưng gì hết. Và đừng có kết tội em là đang cố chăm sóc chị một cách quá đáng nhé. Ðây toàn là ý của Jack cả đấy. Chờ đã - em lại có điện thoại đến, em phải nhận điện thoại ngay. Chúc chị một tuần nghỉ ngơi thư giãn nhé.”
Tôi cầm điện thoại trong tay, lắng nghe tiếng tít tít ở đầu dây bên kia, không rõ mình có nên giận dữ hay nhẹ lòng. Thật sự, hiện giờ tôi không nghĩ rằng mình muốn làm gì với nhà cửa nữa, dù là nhà cũ hay nhà mới. Nhưng khi biết đây là ý của Jack thì tôi lại khó chịu vô cùng, chỉ muốn nhảy bổ ngay vào lại văn phòng. Hay tệ hơn - mang theo một thùng sơn và lao vào ngôi nhà trên phố Tradd.
Và rồi tôi chợt nhớ đến những viên kim cương và những lời nói dối của Jack, cùng với việc ba tôi bảo rằng chúng tôi không đủ tiền để hoàn tất việc trùng tu, thế là sự giận dữ của tôi tan chảy ra thành một thứ rất giống như thất vọng tràn trề. Thế nên, thay vì làm những điều không nên ấy, tôi lại leo lên giường, trùm chăn kín đầu, và ngủ lại.
Trong ba ngày tiếp theo đó tôi nằm liệt giường, chủ yếu là ngủ. Tôi chỉ bò ra khỏi những lớp chăn mền để trả tiền cho cậu bé giao bánh pizza hoặc đi lấy iPod, và sau đó là quay về cái kén của mình, nơi tôi có thể đắm chìm trong nỗi khổ sở của chính mình. Tôi thanh lọc danh sách liên lạc trong máy BlackBerry, sắp xếp lại bộ sưu tập đĩa CD theo tên đĩa thay vì theo tên nhạc sĩ như trước, rồi tạo một bản excel chỉ dẫn tham khảo cho bộ CD này. Tôi còn sắp xếp lại ngăn tủ đựng đồ trang điểm cho theo mùa, nhóm các hộp phấn mắt và son môi cùng bộ với nhau. Nhưng vì lý do nào đấy, việc sắp xếp lại này chẳng mang lại cho tôi cảm giác hài lòng như nó đã từng luôn luôn mang lại cho tôi trước đây.
Chuông điện thoại reo liên miên, một vòng tròn bất tận gồm có Sophie, Jack, ba tôi, và Marc. Thậm chí Amelia Trenholm cũng gọi một lần, và tay tôi cứ lơ lửng bên trên điện thoại trong một hồi lâu cho đến khi điện thoại ngừng reo hẳn. Tôi không giận bà ấy; bà đã cố bảo Jack nói sự thật với tôi ngay từ đầu còn gì. Và tôi thậm chí còn nhớ ra rằng đó là sự thật về Jack mà anh cần nói cho tôi biết, chứ không liên quan gì đến bà. Tuy vậy, tôi vẫn chẳng muốn nghĩ đến bất cứ cái gì gây đau khổ, và nói chuyện với bà ấy sẽ nhắc tôi về những công việc mà chúng tôi đã làm cho ngôi nhà phố Tradd và tất cả những công việc vẫn còn phải làm. Và nó cũng sẽ lại nhắc nhở tôi rằng người đàn ông đầu tiên trong vòng hơn một năm qua vừa thể hiện sự quan tâm đến tôi nhưng rồi thực chất chỉ là quan tâm đến cái nhà mắc dịch ấy.
Cuối cùng, tất cả bọn họ quyết định gọi cho Nancy, suy diễn một cách chính xác rằng cô ta là người giữ cổng của tôi, và họ đều được nghe rằng tôi đang không khỏe và chẳng muốn bị quấy rầy. Jack là người duy nhất tiếp tục gọi, nhưng chỉ một lần mỗi ngày. Anh chẳng bao giờ để lại lời nhắn. Dường như anh chỉ muốn cho tôi biết rằng anh đang ở đấy, và thật kỳ lạ là tôi lại cảm thấy ấm lòng về việc ấy. Nhưng lại không đủ để tôi có thể bắt máy và nói chuyện với anh.
Trong ngày đầu tiên đi làm trở lại, tôi chẳng cảm thấy được nghỉ ngơi hoặc thanh thản hơn so với cái ngày tôi bảo với Jack rằng tôi chẳng bao giờ muốn nhìn mặt anh ta nữa. Tôi đã dặn dò rất dứt khoát với Nancy rằng tôi không muốn gặp bất kỳ ai cho đến khi tôi có ít nhất là nửa ngày để thu dọn bàn làm việc, nên tôi thật ngạc nhiên khi cô ta lại gọi vào phòng làm việc của tôi để cho tôi biết rằng Marc đang ở khu tiếp tân chờ tôi và anh ta chẳng muốn nhận lời từ chối thay cho câu trả lời.
Tôi gặp anh ta tại bàn của Nancy, cảm thấy lưỡi của mình như líu lại và sưng lên có lẽ vì đã lâu ngày tôi không nói chuyện, hoặc cũng có thể vì tôi chẳng biết nói gì.
Anh bước đến và nắm hai tay tôi rồi hôn lên má tôi. “Anh nhớ em lắm. Hy vọng em đã khỏe hơn.”
Tôi nhìn chằm chằm vào đôi mắt đen của anh ta, cố tìm trong ấy sự gian trá nào đó, nhưng tôi chỉ nhìn thấy sự quan ngại đầy chân thành.
“Chỉ một chút thôi,” tôi nói.
“Thế thì tốt. Anh đã lo rằng...” Anh nhìn lên Nancy, rồi hạ thấp giọng trước khi nói. “Anh đã lo rằng em đang cố tránh mặt anh.”
Tôi nhìn xuống đôi giày da Gucci của anh ta sợ rằng anh ta có thể nhìn thấy sự thật trong mắt mình. Thả tay ra khỏi tay Marc, tôi nói, “Chúng ta hãy đi ra ngoài để nói chuyện.”
Anh gật đầu, rồi theo tôi ra ngoài.
Chúng tôi bước xuống phố Broad hướng về dinh thự Old Exchange, nghe nói đây là tòa nhà bị ma ám nhất ở Charleston vì những năm tháng được sử dụng làm nhà tù của nó. Tôi không có ý định công khai tranh cãi về việc này bởi vì tôi khá miễn cưỡng chẳng muốn cung cấp bằng chứng đi ngược với điều mọi người tin tưởng, nhưng thật sự là tôi đã nhìn thấy nhiều hồn ma lang thang trong khu vườn và hành lang nhà bà ngoại tôi trên phố Legare, nhiều hơn cả những hồn ma mà tôi đã thấy ẩn nấp dưới những hầm rượu trong nhà tù xưa này.
Chúng tôi dừng lại bên trước một chiếc ghế dài làm bằng gỗ và sắt rồi ngồi xuống. Tôi mỉm cười với chính mình khi Marc đưa tay cho tôi nắm và chờ trong khi anh lau chỗ ngồi cho tôi bằng chiếc khăn lụa vuông của anh. Rồi anh ngồi xuống cạnh tôi và đưa tay nắm lấy tay tôi. Sau khi nhận ra rằng hai bàn tay của tôi đã yên vị rúc vào bên dưới người tôi, thì anh đặt hai tay của mình lên đùi.
“Việc này nghĩa là gì hả Melanie? Anh nghĩ là chúng ta... đang tìm hiểu nhau một cách rất thoải mái vui vẻ.”
Tôi nhìn vào mắt anh, và tôi hơi đỏ mặt một tí, nhớ lại đúng là chúng tôi đã có một thời gian rất tuyệt trong khi tìm hiểu về nhau. Cương vị một nữ doanh nhân đã dạy tôi cách rút ngắn cuộc rượt đuổi, và tôi quyết định làm việc ấy ngay bây giờ trước khi tôi hoàn toàn hóa rồ. “Khi anh nói anh phải đi ra khỏi thành phố, có phải ý anh nói là đi Las Vegas để chơi một canh bạc cá cược cao hay không?”
Nếu có giật mình hay thất vọng, thì anh ta đã nhanh chóng định thần lại được. “Ðúng thế, anh đã ở đấy.” Rồi anh thở dài. “Em trai của anh, Anthony, có vấn đề về cờ bạc. Bất cứ khi nào anh nghe phong phanh rằng nó sắp có một cuộc đánh lớn, thì anh cũng đăng ký luôn, để trông chừng nó. Ðể chắc chắn rằng nó không cá cược nhiều hơn khả năng trả nợ của nó.” Anh nhẹ nhàng nhún vai. “Anh đã không đề cập việc này với em bởi vì chúng ta đã cố giữ riêng các vấn đề gia đình với nhau mà.” Mắt anh hơi châu lại khi anh dò xét tôi. “Có phải em im hơi lặng tiếng là vì việc ấy không? Rằng em phản đối việc cờ bạc?”
Tôi lắc đầu. “Không đâu. Ðúng ra là tôi phản đối sự giả dối, và nói sai về bản thân mình để lấy được cái mà anh muốn.”
Anh xoay cả người lại để hoàn toàn đối diện với tôi lúc này. “Em đang nói về cái gì thế này?”
Tôi cố nhìn xem anh ta có lảng đi hay không hoặc có bất cứ sự tự thú tội nào không, nhưng chẳng thấy gì. “Anh đã từng nghe nói đến huyền thoại về những thỏi vàng của phe miền Nam hay không?”
Trông anh có vẻ bối rối. “Tất nhiên rồi, chẳng phải ai cũng từng nghe nói đến hay sao? Jefferson Davis mang theo số vàng ấy trong người khi ông ta tháo chạy khỏi Richmond khi cuộc Nội chiến kết thúc. Chúng biến mất một cách bí ẩn, và chẳng ai biết điều gì đã xảy ra với chúng. Nhưng việc ấy thì có liên quan gì đến anh và em nhỉ?”
Tôi chẳng muốn quanh co, vì đã đi quá xa như thế này. “Anh có bao giờ nghe nói rằng một phần của kho báu ấy có lẽ đã được giấu trong ngôi nhà của tôi trên phố Tradd hay không?”
“Vàng à? Giấu trong nhà của em? Với những công việc trùng tu hiện tại, liệu em có nghĩ rằng giờ đây chúng đã được tìm ra rồi hay không?”
Tôi lại lắc đầu. “Không phải vàng - mà là kim cương.” Tôi vẫn nhìn vào mặt anh để xem anh có biểu lộ cảm xúc gì về những điều tôi vừa nói hay không, nhưng nét mặt của anh dường như vẫn chỉ thể hiện sự bối rối rất thành thật. Tôi tiếp tục. “Nhà vua Brunei đã tuyên bố hiến tặng sáu viên kim cương quý giá cho phe miền Nam, và chúng là một phần của kho báu bị thất lạc. Ông cụ kỵ của ông Vanderhorst là người cuối cùng biết được mối dây liên lạc của chúng, nhưng ông ấy đã chết trận. Kể từ đó không ai còn nghe thấy gì về chúng nữa.”
Một nụ cười nhẹ thoảng qua môi Marc. “Cũng giống như Louisa và Joseph.”
“Vì sao anh lại nói thế?”
Anh nhún vai. “Chỉ là vì nếu những sự kiện lịch sử ấy đi kèm với những sự diễn giải hoàn toàn hợp lý thì sẽ có xu hướng trở thành huyền thoại khi năm tháng trôi qua. Nếu giải thích sự việc theo hướng kỳ bí hoặc huyền diệu thì nghe sẽ lãng mạn hơn là chấp nhận sự thật về một người đàn bà nội trợ đã nhàm chán với cuộc hôn nhân của mình rồi bỏ trốn với một người đàn ông khác, hoặc giả một quý ông được kính trọng ở Charleston đã biển thủ một đống tiền khổng lồ của một chính quyền đang sụp đổ cốt để chắc chắn rằng gia đình mình sẽ được cứu nguy khỏi thời khó khăn mà ông biết đang sắp xảy đến.” Marc lại nhún vai, lần này nụ cười quay trở lại gương mặt anh. “Ðó là đời. Không phải sự kỳ bí gì cả.”
“Vậy là anh chưa bao giờ nghe về những viên kim cương của nhà vua Brunei?” Tôi gặng hỏi.
Marc cố kéo một tay của tôi ra, lúc này vẫn đang chêm giữa đùi tôi và chiếc ghế dài. “Này, Melanie. Anh bạn Jack của em có lẽ là người đã nhồi nhét vào đầu em những ý tưởng như thế đấy. Với tính chất công việc của mình, anh ta có một sự tưởng tượng phong phú và khi nào anh ta nghe phong phanh về những con ngựa, anh ta sẽ nghĩ đó là những con ngựa vằn. Nghề nghiệp của anh ta phụ thuộc vào việc dùng những sự kiện lịch sử bình thường rồi làm cho chúng trở nên đủ hấp dẫn để viết thành sách. Thế thì tốt cho anh ta - bởi vì tất cả chúng ta đôi khi cũng cần phải thoát khỏi thực tế một chút. Nhưng chúng ta cũng không được quên đi một thực tế rằng tất cả những việc ấy đều dựa trên một phỏng đoán yếu ớt từ một nghiên cứu tầm thường nhưng lại được diễn dịch theo cách thuận lợi cho anh ta nhất.”
Tôi không trả lời, vẫn chờ xem anh ta có trả lời câu hỏi của tôi hay không.
Rồi anh lại thở dài và nói, “Cũng giống như những huyền thoại khác về Charleston, có lẽ anh cũng có nghe về chúng vào lúc này hay lúc khác, cho nên cũng hoàn toàn có thể là anh đã có nghe về những viên kim cương ấy. Ðiều mà em đang suy diễn, theo anh nghĩ, là anh có đủ tin vào câu chuyện này hay không để theo đuổi em nhằm mục đích được tiếp cận với ngôi nhà chứ gì.”
Tôi nhìn xuống bàn tay được cắt tỉa móng cẩn thận của anh lúc này đang nắm lấy bàn tay tôi, nhớ lại cũng chính bàn tay này đã mang đến cho tôi những cảm giác tuyệt vời thế nào khi chúng chạm vào những phần thân thể khác trên người mình. Tôi phải ép mình nhìn vào mắt anh một lần nữa. “Có phải anh đã có ý định ấy không?”
Anh nhắm mắt lại trong một thoáng, trông anh thật sự bị tổn thương. “Cái đêm ấy - có phải là giả dối hay không? Có phải như anh đã cố ép mình ân ái với em hay không?” Anh bỏ tay ra và đứng dậy. “Và trông anh có giống như một gã doanh nhân hèn kém đến nỗi không tìm ra nổi cách nào khác để đoạt được ngôi nhà - nếu anh thật sự nghĩ rằng nó đang che giấu một kho báu - hơn là hẹn hò cùng em?”
Tôi phải thú nhận rằng mọi điều anh ta nói đều hoàn toàn có lý. Thậm chí những gì anh nói về Jack cũng có một chút sự thật nào trong đó - mà như thế nghe cũng càng đáng tin cậy hơn vì thực tế là tôi đã sẵn sàng tin vào điều tệ hại nhất về Jack để nhờ vào đó tôi có thể không nghĩ đến Jack nữa.
Tôi cũng đứng dậy, và đặt hai tay lên vai anh. “Em xin lỗi, Marc à. Chỉ là...” Tôi ngừng nói vì chưa sẵn sàng tâm sự hết tất cả mọi việc. Tôi nhìn vào ve áo bằng len màu than đá của anh, rồi nhướn mắt nhìn lên, tôi bắt gặp ánh mắt của anh đầy trìu mến và quan ngại chân thành. “Chỉ là vì... à, việc trùng tu ngôi nhà đang không được suôn sẻ, và em chỉ cần được biết rằng mình sẽ không bị bất ngờ vì nhận thêm tin chẳng lành nào nữa.”
Anh xoa nhẹ lên má tôi khiến những luồng hơi ấm rung lên và chạy dọc theo hai cánh tay tôi. “Có việc gì thế, Melanie?”
“Việc trùng tu đang ngốn nhiều tiền hơn dự tính ngân sách ban đầu, và em cũng không rõ là mình sẽ có đủ tiền để hoàn tất nó hay không.”
Anh nhướn một bên mày. “Nhưng em thậm chí còn không thích ngôi nhà này cơ mà. Chẳng phải em đã từng gọi nó là ‘cái bướu cổ của cuộc đời’ à?” Anh mỉm cười nhẹ nhàng với tôi, nhưng cái nhìn của anh thì vẫn mãnh liệt.
“À, có lẽ em đã nói thế. Nhưng em đã đầu tư quá nhiều thời gian và sức lực cho nó đến nỗi em không thể chịu nổi ý nghĩ rằng tất cả những công việc ấy rồi sẽ bị bỏ dở.”
“Và sau đó thì việc gì sẽ xảy ra?”
“Em cũng chẳng biết. Em cần nói chuyện với ba em. Là người quản lý quỹ, ông ấy sẽ phải tìm cách. Nhưng mà, em cho rằng, nếu em dọn ra ngoài luôn và bỏ mặc nó, thì quyền sở hữu sẽ chuyển sang người khác vì em không đóng đủ thuế nhà đất. Dù là gì đi nữa, kết cục thì em sẽ chẳng được cái gì cả. Ngôi nhà là một mảnh lịch sử mà ta có thể nắm trong tay. Câu nói này của ông Vanderhorst cứ vang vọng mãi trong đầu, dù tôi có cố gắng bỏ ngoài tai đến thế nào đi nữa.
“Vốn cũng chẳng phải là một điều không tốt vì ngay từ đầu thì em đã không thực sự muốn nhận nó mà.”
“Ðúng thế.” Tôi nói, và tự hỏi không biết anh cũng có nghe thấy sự trống rỗng trong giọng nói của tôi hay không.
“Trừ phi em tìm được những viên kim cương ảo tưởng ấy đang được giấu bên trong ngôi nhà. Như thế thì mọi vấn đề của em sẽ được giải quyết cả.”
Tôi bật nhìn lên và bắt gặp ánh mắt của anh, và thấy rằng anh đang mỉm cười. “Ðúng rồi, đại loại là như thế,” tôi nói và mỉm cười lại với anh. Tôi lắc đầu, “Em cảm thấy mình thật ngốc nghếch.”
Anh lại nắm lấy tay tôi với cả hai bàn tay. “Em không ngốc nghếch. Em cực kỳ thông minh - nhưng có lẽ lại dễ bị lầm đường lạc lối bởi những người mà em tin cẩn. Và anh tha thứ cho em vì đã vội vã kết luận về anh như thế. Anh hiểu rằng toàn bộ dự án trùng tu ngôi nhà này đã khiến em quá mỏi mệt và căng thẳng quá sức chịu đựng của em. Cho nên,” anh nói, nghiêng người lên và hôn vào trán tôi, “tại sao ta lại không lên kế hoạch đi nghỉ ngơi thư giãn ở ngôi nhà ở biển của anh một lần nữa? Anh hứa với em là em sẽ không phải nghĩ ngợi gì về bất cứ thứ gì về nó trong hai ngày liền. Thậm chí em chẳng cần phải mặc quần áo nếu em không muốn.”
Lần này thì tôi cứ để cho mình được đỏ mặt và chẳng còn e dè mà nhướn môi lên hôn vào môi anh. “Em không chắc lắm về vế thứ hai ấy, nhưng chắc chắn là em muốn đi thư giãn vào cuối tuần này.”
Chiếc điện thoại BlackBerry của Marc kêu bíp trong túi áo khoác của anh, và anh bước lùi lại để trả lời điện thoại. Khi đã xong, anh nói, “Anh phải đi bây giờ. Anh sẽ đón em vào lúc bốn giờ chiều thứ Sáu, nếu em có thể sắp xếp được.”
Tôi đưa cho anh địa chỉ căn hộ của tôi ở phố Mt. Pleasant, rồi hôn anh tạm biệt. Khi tôi nhìn anh bước đi, tôi mới để ý thấy người ngồi trên băng ghế bên cạnh. Người đàn ông này, trong bộ quân phục sĩ quan kỵ binh của phe miền Nam thời xưa, đang nhìn tôi lặng lẽ, và trong một thoáng tôi nghĩ rằng ông ta có lẽ là một người đóng giả trang quân nhân thời Nội chiến - vì thành phố này có rất nhiều người như thế - cho đến khi tôi nhận ra rằng tôi có thể nhìn thấy những thanh gỗ của băng ghế xuyên qua thân mình của ông. Trước khi tôi kịp quay người đi để cho ông biết rằng tôi không quan tâm, thì ông đã biến mất, chỉ để lại một làn gió thoảng nhẹ đủ làm xào xạc vài chiếc lá rơi trên vỉa hè để cho thấy rằng ông đã từng ở đó.
***
Ba ngày sau, khi tôi đang ở cửa hàng đồ lót Victoria’s Secret để chọn đồ lót đồng bộ cho kỳ nghỉ cuối tuần thì điện thoại di động của tôi reo vang. Tôi suýt không bắt máy nhưng rồi chợt thấy tên người gọi là Sophie. Tôi đã không gặp nó kể từ cái đêm cuối cùng đầy tai họa ấy ở ngôi nhà phố Tradd, mặc dù tôi đã có một cuộc hội thoại chung trên điện thoại với nó cùng với ba tôi để thảo luận về việc tạm hoãn dự án trùng tu này. Khi ấy nó chẳng nói gì, và tôi không biết có phải vì nó giận gì tôi hay không. Như thể mọi việc đều là do lỗi của tôi, theo một cách nào đó.
Tôi bật mở điện thoại trong khi đang so sánh hai chiếc váy ngủ bằng lụa với nhau. “Chào, Sophie.”
“Chào, Melanie.”
“Sophie? Cậu đấy à? Nghe cứ như cậu đang bị cảm lạnh ấy.”
“Chỉ là rị ứn lông chó.”
“Mình tưởng là Chad giữ Ðại tướng Lee ấy chứ.”
Chỉ có yên lặng và tiếng hít mũi ở đầu dây bên kia. Rồi có những tiếng nói thầm thì và tiếng sủa ăng ẳng của con chó.
“Có phải Chad đang có ở đấy không, Sophie? Thế còn vụ cậu là Song Tử còn anh chàng là hình chữ thập thì sao?”
“Ðó là Ma Kết, Melanie ạ. Và anh ấy chỉ đến đây vì anh ấy mua cho mình trọn bộ DVD phim hoạt hình Scooby-Doo, và mình mời anh ấy đến xem phim cùng. Anh ấy phải mang con chó theo vì Ðại tướng Lee cảm thấy cô đơn khi bị bỏ một mình quá lâu và sẽ tru lên. Chad nói rằng hàng xóm đã bắt đầu phàn nàn về vụ ấy. Hiện giờ, chủ nhà của anh ấy cho phép nuôi chó trong nhà cho thuê, nhưng Chad thì nghĩ rằng nếu anh ấy mà không cẩn thận, thì ông chủ nhà có thể sẽ đổi ý.”
Tôi gỡ chiếc váy ngủ lụa màu ngọc lam ra khỏi cái giá treo và quấn nó vòng quanh cánh tay mình. Tôi bỗng có một cảm giác nôn nao vì biết rằng điều gì sẽ xảy ra tiếp theo đó. “Cậu có cần mình đến mang nó đi không?”
“Không đâu. Mình vừa uống thuốc chống dị ứng, cho nên mình sẽ không sao. Mình chỉ gọi để nhắc cậu về tua tham quan nhà ma vào tối thứ Bảy này cho Halloween. Cậu có mua vé rồi, nhớ không?”
Phải mất một hồi tôi mới có thể ghép các phụ âm vào những nguyên âm giọng mũi của Sophie mới hiểu được những gì nó vừa nói. “Hả? Là thứ Bảy này à?”
“Lúc nào cũng rơi vào ngày thứ Bảy thứ ba trong tháng Mười, Melanie - cậu biết việc này mà. Mình gọi để hỏi xem cậu có muốn gặp mình uống nước trước giờ đi tua hay không.”
Tôi nhìn chằm chằm vào chiếc váy ngủ bằng lụa màu ngọc lam tuyệt đẹp đang quấn quanh cánh tay mình. “Ừm, à, mình... à, mình đã có kế hoạch khác rồi.”
Một sự im lặng chết chóc ở đầu dây bên kia - ấy là chưa kể tiếng thở khò khè đứt quãng qua đường mũi bị nghẹt cứng - và tôi bắt đầu cảm thấy hồi hộp. Lần trước khi tôi nuốt lời không đi tua tham quan nhà ma với Sophie, nó đã đưa tên tôi vào danh sách thư tín của từng hiệu bán quần áo cũ trên toàn tiểu bang Nam Carolina này, chưa kể là còn đưa tôi vào danh sách đã tuyển lọc để làm diễn giả tiềm năng cho hội nghị toàn quốc của những người ăn chay.
“Cậu đã hứa sẽ tham dự.” Lời cáo buộc của nó đi kèm với nhiều tiếng hít mũi hơn.
“Mình xin lỗi, Sophie à. Mình quên mất. Và mình đã có kế hoạch đi chơi xa cho cuối tuần này.”
“Với Marc Longo chứ gì?” Thậm chí khi Sophie đang bị nghẹt mũi như thế này, thì lời chỉ trích của nó bỗng được nói thành lời nghe thật rõ.
“Phải, đúng là như thế đấy. Với Marc.”
“Sau khi đã nghe tất cả những gì Jack đã nói với cậu?”
Mặc dù ước muốn mãnh liệt của tôi lúc này là Jack cứ biến mất khỏi cuộc đời của mình, nhưng rõ ràng bạn tôi chẳng hề có cái ước muốn nào tương tự như thế. “Jack đã kể cho cậu nghe về những viên kim cương ấy à?”
“Anh ấy đã kể cho mình, Melanie à. Và thêm một chút về Marc Longo. Mình nghĩ cậu đúng là cực kỳ ngu ngốc nếu cậu không nghe lời anh ấy.”
“Mình có nghe anh ta đấy chứ. Mình đã lắng nghe khi Jack tự nói với mình rằng anh ta đã lừa dối mình ngay từ lần đầu bọn mình nói chuyện trên điện thoại ấy.”
“Và làm sao cậu biết rằng Marc không lừa dối cậu?”
Tôi thở dài, cố không nhớ lại đã bao lần tôi cũng tự đặt cho mình câu hỏi này. “Bởi vì mình đã hỏi anh ấy. Và anh ấy nói không có.” Ðiều này không hoàn toàn chính xác, nhưng chung quy thì câu trả lời của Marc cũng đại loại là như thế. Chưa nói đến cái nhìn trong đôi mắt của anh ấy, hoàn toàn không có gì khác ngoài sự chân thành.
“Ðược lắm.” Tôi nghe nó kéo điện thoại ra xa để xì mũi. “Và cậu tin anh ta nhưng không tin Jack. Thật là một hiện tượng tâm lý thú vị đấy, Melanie. Có lẽ bọn mình nên lên kế hoạch ngồi thiền khác để bọn mình có thể phân tích thêm về vụ này.”
Tôi hốt một nắm quần lót lụa từ chiếc thùng đặt cạnh quầy tính tiền và quẳng chúng lên quầy, bên cạnh chiếc váy ngủ. “Mình không cần được ai phân tích gì cả. Mình chỉ cần được yên thân và được phép tự quyết định cho chính mình.”
“Chẳng hạn như quyết định chẳng xem bạn thân của mình ra gì. Người bạn đã tự nguyện đến giúp cậu mà chẳng nề hà khối lượng công việc ngập đầu của người ấy khi cậu bảo với người ấy rằng cậu cần được giúp một chút cho ngôi nhà mà cậu đã thừa kế.”
Ối. Giờ thì nó đang chơi trò khổ nhục kế đây - một việc mà nó ít khi sử dụng đến nhưng ít ra, trong trường hợp này, hoàn toàn chấp nhận được. Tôi đưa tay lên với cô gái bán hàng, lúc này đang bắt đầu gấp chiếc váy ngủ vào giấy lót màu hồng mềm mại. Chờ đã, tôi ra dấu bằng miệng với cô gái. Rồi tôi lại nói vào điện thoại, “Nếu lần này mà mình không đi tua nhà ma của cậu thì cậu lại đăng ký cho mình một suất đi nghỉ mát ở bãi biển khỏa thân hoặc làm người mẫu cho những sô diễn thời trang nhựa tái chế của bạn cậu như những lần trước phải không?”
“Có thể lắm.” Giọng của Sophie nghe chẳng có vẻ gì là nó đang mỉm cười cả.
Tôi thở dài thườn thượt. “Ðược thôi. Mấy giờ thì mình cần có mặt ở đấy?”
Nó cho tôi mọi chi tiết, rồi tôi cúp máy. Tôi cám ơn cô gái bán hàng rồi nói với cô ấy rằng tôi đã đổi ý. Rồi tôi liếc nhìn đầy nuối tiếc chiếc váy ngủ lụa màu ngọc lam một lần cuối trước khi bước ra khỏi cửa hiệu. Hy vọng duy nhất của tôi là năm nay Sophie sẽ lưu ý đến lời khuyên của tôi là sẽ ăn mặc đứng đắn một chút. Trong những lần đi tua Halloween của những năm trước, nó luôn giả làm bà đồng, người có khả năng điều khiển những hồn ma, và tôi thấy thật xấu hổ thay cho nó khi nó vận trang phục của phù thủy hoặc của các nhân vật có nanh nhọn nào đó. Lần này nó đã ép buộc tôi phải từ bỏ chuyến đi nghỉ cuối tuần của mình để tham gia cuộc đi bộ tham quan nhà ma giả tạo này, thì ít ra nó cũng phải ăn mặc cho ra vẻ một bà đồng chính hiệu và noi gương thời trang của tôi.
***
Nhóm người đông đúc tụ tập bó cụm lại trông giống như những chùm nho mọc bao trùm lấy những chiếc cổng của nghĩa trang St. Philip, mồm thì há hốc nhìn vào cái sinh vật mặc bộ đồ choàng đen trùm kín từ đầu đến chân, tay cầm lưỡi hái và mang bảng hướng dẫn viên vòng quanh cổ. Khi nhân vật ấy bước đến một bước, và khi tôi nhìn thấy đôi vớ sọc ngang cùng đôi giày xăng đan đế bằng, tôi biết đó là Sophie.
Nó đã đưa tôi đi ăn tối trước và sau đó lái xe đưa tôi ra khu trung tâm, nhưng rồi lại thả tôi xuống phố King để mua sắm trong khi nó chuẩn bị cho buổi tối, nên tôi chưa có dịp nhìn thấy bộ đồ hóa trang của nó. Trước khi cho nó lái xe đi, tôi đã nhắc đi nhắc lại những gì tôi đã nói trước đó về việc ăn mặc cho đàng hoàng, nhưng tôi vẫn lo. Và với lý do chính đáng, rõ là thế rồi.
Ít ra nó không ăn mặc như một mụ phù thủy hay mang răng nanh, nhưng tôi nghĩ nó đã đi hơi quá đà khi cầm cái lưỡi hái như thế này.
Những nhóm khác đứng gần bên, nhưng Sophie đã chiếm đoạt điểm gần bia mộ của Sue Howard Hardy nhất và cũng là khu vực được cho là có thể thấy nhiều ma nhất của thành phố. Theo lời đồn thì bà Hardy đã thường ra quỳ gập người trước mộ đứa con mình, than khóc cho một em bé chết non chào đời đã được hơn trăm năm về trước. Tôi biết câu chuyện không phải thế, dĩ nhiên, vì đã nói chuyện với người thiếu phụ than khóc ấy một lần trong khi đang đi dạo với mẹ khi tôi còn là một cô bé. Mẹ đã kéo tôi ra khỏi cánh tay đang cố vươn ra từ chiếc cổng nghĩa trang trước khi những ngón tay trắng bệch ấy kịp nắm lấy tay áo khoác của tôi. Mãi cho đến đêm ấy, sau khi mẹ đã đặt tôi vào giường ngủ, thì tôi mới nhận ra rằng mẹ tôi cũng đã nhìn thấy người đàn bà ấy.
Sophie ra dấu với tôi bằng cách nhấc cái lưỡi hái lên, và tôi trợn mắt trong khi cố giữ khoảng cách với những chiếc cổng, phòng khi có cái gì đó bên trong muốn gây sự chú ý nơi tôi. Tôi nhìn những nhóm tham quan khác ở chung quanh, và cảm thấy mình đã đúng khi để ý rằng rất ít có hướng dẫn viên nào mặc đồ hóa trang. Sophie thì cố giải thích rằng mặc đồ hóa trang thì sẽ thu hút thêm khách vào nhóm của nó, cũng có nghĩa rằng nó sẽ gây quỹ được nhiều hơn cho trường của nó, nhưng tôi thì không hoàn toàn bị thuyết phục. Tôi nói với nó rằng nếu kể những câu chuyện một cách chính xác có lẽ sẽ là động cơ để người ta nhập nhóm của nó hơn thay vì nhập nhóm của những đối thủ khác của nó, nhưng cô nàng vẫn nghi ngờ lý lẽ này của tôi.
Sophie bắt đầu nói. “Chính ngay tại điểm này vào năm một ngàn chín trăm tám mươi bảy, một người chụp ảnh nghiệp dư đã chụp một tấm hình và đã biến nghĩa trang này trở thành tâm điểm của nhiều cuộc điều tra về những điều huyền bí. Người chụp hình này, một cư dân trước đây của Charleston, không hề biết đến bà Sue Howard Hardy, người đã chết vì đau khổ thống thiết cách đây trên một thế kỷ và đã luôn ngồi than khóc bên cạnh mộ đứa bé chết non của mình. Anh ta đã rất ngạc nhiên khi nhìn thấy hình ảnh này hiển thị trong tấm hình khi anh ta tráng rửa cuộn phim mình đã chụp.” Giọng của Sophie, trong khi vẫn còn nghèn nghẹt hơn bình thường, lúc này lại nghe hơn run khiến tôi suýt nữa thì bật cười to lên.
“Nghe có vẻ như cô ấy biết mình đang nói gì, nhỉ!”
Tôi xoay người định bào chữa cho bạn mình, thì đứng sững người lại. Tôi giật ngược người ra khi thấy Jack, và tôi ngã nhào người vào một phụ nữ to béo mặc chiếc áo thun chui đầu có in hình logo của quán café Salty Dog đang đứng sau lưng tôi. “Jack - anh làm gì ở đây?”
“Giống như cô thôi. Ủng hộ trường Ðại học Charleston, cũng như học hỏi thêm những điều mới về thành phố nơi mình ở.”
Tôi nhìn lên đôi mắt xanh lấp lánh của anh và phải tự thú nhận với lòng là trông anh thật đẹp. Không đủ đẹp để cho tôi có thể tha thứ cho anh ta hoặc cho phép anh ta được ở gần tôi, nhưng vẫn đủ đẹp để tôi ngưỡng mộ từ xa. Từ rất xa. “Tốt cho anh đấy, Jack ạ. Nhưng trong khi anh lắng nghe, làm ơn đừng đứng gần tôi nhé. Tôi không bao giờ muốn nhìn mặt anh nữa, nhớ không?”
Tôi bắt đầu lần đường rẽ ra ngoài đám đông, nhưng Jack đã đặt một tay lên cánh tay tôi. “Cô đã không gọi lại cho tôi lần nào.”
“Và anh ngạc nhiên về điều đó à?” Tôi cố giật cánh tay mình ra, nhưng anh đã nhanh tay nắm lại. Tôi có thể thấy rằng người phụ nữ trong chiếc áo thun Salty Dog ấy giờ đây đang để ý đến chúng tôi hơn là đến những gì Sophie đang nói, cho nên tôi không chống cự nữa.
“Không,” anh nói, hạ thấp giọng. “Nhưng tôi ngạc nhiên vì cô đã không cho tôi một cơ hội được chuộc lỗi.” Anh thả cánh tay tôi xuống, rồi vươn người đến gần tôi, và chúng tôi gần như sắp chạm mặt vào nhau. “Tôi nghĩ chúng ta đã là bạn.”
“Tôi cũng từng nghĩ chúng ta đã là bạn đấy,” tôi nói, rồi bước thụt lùi lại. “Và trong mắt tôi giờ đây thì anh không thể làm gì để chuộc lỗi được nữa, cho nên anh cứ đi đi và để cho tôi được yên.”
Tôi xoay người và cố lần tìm đường đi qua đám đông đang bao quanh Sophie, lúc này đang thi vị hóa về những hồn ma đi lang thang dạo mát quanh các con phố Charleston về đêm, hoàn toàn chẳng hay biết gì về gã cướp biển với cái thòng lọng thắt chặt quanh cổ đang treo lơ lửng trên cành cây bên trong hàng rào nghĩa trang sau lưng nó.
Jack vẫn kiên trì lẽo đẽo đi theo tôi. “Tôi có thể tìm ra những viên kim cương ấy cho cô. Hãy nghĩ xem việc ấy sẽ có ý nghĩa như thế nào. Ít ra cô cũng sẽ có thể hoàn tất việc trùng tu cho ngôi nhà của mình chứ.”
Tôi đứng lại khi vừa lách khỏi đám đông và đối diện anh ta. “Ðó không phải là nhà của tôi. Chưa bao giờ - thật đấy. Và tất cả những gì mà nó mang lại cho tôi chỉ là những vòng tròn bất tận của thất vọng chán chường. Mọi việc đã quá đủ với tôi. Tôi đã xong việc với ngôi nhà và cũng chẳng còn việc gì liên quan với anh nữa. Làm ơn hãy để cho tôi được yên.” Tôi quay mặt lại nhìn Sophie, quay lưng lại với Jack và giả vờ tập trung nghe những gì Sophie đang nói.
Anh hạ thấp giọng, với âm bậc chỉ vừa đủ nghe bên cạnh giọng thuyết trình của Sophie. “Thế còn Louisa và Nevin thì sao? Cô định bỏ rơi họ cùng với ngôi nhà ấy à? Bởi vì tôi cũng như cô đều biết rằng Louisa đã yêu con trai của bà ấy vô vàn, và rằng chắc chắn đã có việc gì đó khủng khiếp lắm mới khiến bà ấy mới từ bỏ thằng bé. Và vì lý do nào đó mà một chiến dịch bôi nhọ danh dự của bà đã được thiết lập trên truyền thông để sự việc trông giống như bà ấy đã bỏ trốn cùng Joseph Longo. Nhưng cả hai chúng ta đều biết đó không phải là sự thật, đúng không nào? Cô có nhớ cái khung hình cứ bị ném xuyên qua phòng hay không? Ðó là Louisa và Nevin làm đấy - và cô đừng hòng cố mà phủ nhận việc ấy. Cả cô và tôi đều biết rằng có cái gì đó bất bình thường trong ngôi nhà này. Và rằng Louisa và Nevin đều muốn phơi bày sự thật ra ánh sáng.” Jack kéo cánh tay tôi cho đến khi tôi xoay người đối diện anh. “Họ cần cô giúp họ nói lên sự thật.”
“Anh thì biết gì về sự thật chứ?” Tôi hét lớn, và để ý rằng tất cả những cái đầu ở đấy đều quay về hướng tôi, cũng đúng lúc Sophie vừa hỏi đám đông nếu có ai đã từng trải qua một kinh nghiệm siêu nhiên nào hay không.
Sophie nhấc cái đầu đội mũ trùm kín mít của nó và nhìn về hướng tôi. “Cô gái trẻ ở phía dưới kia ơi. Cô có kinh nghiệm nào muốn chia sẻ không?”
Tôi hoảng vía nhìn nó, lại thấy gã cướp biển lúc này đang đung đưa trong cơn gió đêm. Tôi có thể nghe tiếng cót két của sợi dây thừng cạ vào cành cây, nhắc nhở tôi về một đứa trẻ đang ngồi trên chiếc xích đu cũ bằng gỗ. “Ừm, không.” Tôi ho nhẹ. “Không hề.”
“Cô có chắc không đấy?” Sophie lúc này đang nhăn mày nhìn tôi, đảo mắt qua lại như một dấu hiệu mà tôi buộc phải biết.
“Dạ, tôi chắc chắn về việc ấy.” Lúc này đã có thêm vài gã cướp biển khác lại xuất hiện và bắt đầu dùng những thanh kiếm dài và sáng loáng cắt dây thả chiến hữu của bọn chúng xuống.
Sophie vẫn cố nài ép. “Bởi vì dường như cô có điều gì muốn nói khi nãy.”
Tôi lầm bầm trong bụng. “Ðược rồi. Thôi được. Tôi đã có lần nhận cú điện thoại từ bà ngoại.”
Người phụ nữ to béo trong chiếc áo thun chui đầu cau có nói. “Ðó không phải là một kinh nghiệm huyền bí dị thường.”
Tôi quay sang và nhìn thẳng vào mắt bà ta. “Khi ấy bà của tôi mất đã trên hai mươi năm rồi.”
Người phụ nữ ấy bước lùi lại trong khi tôi nghe nhiều tiếng cười khẩy từ đám đông, cũng như vài lời nhận xét đại loại như “Có lẽ đó chỉ là một cuộc gọi phá đám thôi.” Tôi nhìn Sophie và nhún vai.
Ðám đông lại nhất tề ồ ạt quay bước và đi theo Sophie xuống phố Church, rẽ vào góc ngã tư cắt ngang phố Queen và dừng lại bên trước nhà hát Dock Street thiêng liêng và cũng được xem là bị ma ám, hiện đang được đại tu hoành tráng. Tôi cảm thấy Jack đang bước đi trong yên lặng bên cạnh tôi, nhưng tôi chẳng thèm quay lại để xác nhận sự có mặt của anh.
Ngay khi đám đông đã vây quanh Sophie, nó bắt đầu cất tiếng. “Ở đây có một phụ nữ vận váy đỏ sậm bay chầm chậm qua những hành lang bên trong và dọc theo lan can bên ngoài lầu hai của tòa nhà này. Những người trực đêm cũng như một số người đi xem hát đã nhìn thấy bà ấy.”
Có cái gì đó phủi nhẹ lên người tôi, và tôi giật mạnh người quay về Jack để bảo anh ta một lần nữa là hãy để cho tôi yên. Nhưng Jack đang nhìn chằm chằm về phía trước, chăm chú lắng nghe Sophie, và hoàn toàn không hay biết gì về người phụ nữ đang đứng ngay phía sau và dựa đầu vào lưng anh. Với một ngón tay trong suốt, cô ấy vuốt ve một lọn tóc đen sau tai Jack. Anh đưa tay lên như thể định xua đi con bọ đang làm phiền anh, rồi dừng lại với bàn tay giơ lên giữa lưng chừng trong không khí, và rồi anh cúp lòng bàn tay vào nơi mà người phụ nữ vừa đặt tay vào. Và rồi, như thể anh không nhận biết mình đang làm gì, anh nghiêng đầu giống như cách một người tình sẽ làm để lắng nghe lời thì thầm từ người yêu của mình.
Tôi lại nghe thấy tiếng nói ấy trong đầu mình, mặc dù đôi môi cô ấy chẳng hề chuyển dịch. Và mặc dù cô ta đang nhắm mắt, nhưng tôi biết những lời cô nói là dành cho tôi. Hãy nói với anh ấy. Hãy nói với anh ấy là tôi rất yêu anh. Nói với anh ấy rằng vì yêu anh mà tôi không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc ra đi. Hãy nói cho anh nghe những gì chị đã biết. Sau đó thì cô ta mở mắt ra, nhưng phía sau mí mắt lại chỉ là một không gian trống rỗng. Và rồi cô ấy biến đi.
Tôi cảm thấy có ai đó đang kéo nhẹ chiếc áo len của mình, và tôi nhìn xuống thì thấy một cậu bé tròn trĩnh chừng tám tuổi.
“Cháu cũng thấy cô ấy nữa.”
“Ai cơ?” Tôi hỏi một cách lo lắng.
Cậu bé nhìn tôi bằng đôi mắt trông già hơn tuổi của cậu. “Cô biết mà.” Rồi cậu rướn người lên và thì thầm, “Cháu không được phép nói về việc đó, nhưng cháu nghĩ là cô cũng có thấy nó nữa, vậy thì cháu biết rằng mình không hề điên khùng.”
Tim tôi hơi nhói đau khi nhớ lại lúc tôi bằng tuổi cậu bé và bị rượt đuổi trên sân chơi chỉ vì tôi đã nói rằng Mary Lou Watkins đã ở nhà tôi vào một đêm nọ trong khi mọi người đều biết là cô bé đã chết trong một tai nạn xe hơi. “Cháu không điên đâu,” tôi nói với cậu bé. “Và nếu cháu may mắn, có lẽ từ từ thì cháu sẽ không còn nhìn thấy họ nữa.”
“Nhưng cô đâu có thoát khỏi nó đâu nào.” Thằng bé nhìn tôi đầy trách móc.
“Phải, đúng là cô đã không thoát khỏi khả năng này, nhưng rất nhiều đứa trẻ khác thì đã thoát.”
“Cháu hy vọng cháu sẽ không mất đi khả năng này,” thằng bé nói rồi mỉm cười trước khi bước đi theo mẹ nó.
“Ai thế?” Jack hỏi, xoay người lại.
Tôi nhún vai. “Chỉ là một thằng bé. Nó tưởng nó bị lạc mất mẹ.”
Jack chau mày, rồi rướn người lên và nhìn tôi chăm chú. “Trông cô cứ như vừa nhìn thấy ma ấy.”
Thần kinh tôi vẫn còn căng thẳng sau cuộc đụng độ ấy khiến tôi văng ra một tràng cười, lần này cả đám đông lại quay lại nhìn tôi lần nữa. Sophie quay người nhìn tôi, và tôi có suy nghĩ thoáng qua là nếu nó lại yêu cầu tôi kể một câu chuyện cá nhân có thật nữa thì tôi sẽ ói ra mất.
“Tôi phải đi thôi. Bảo với Sophie là nó đã làm rất tốt, và tôi sẽ gọi nó vào ngày mai.” Tôi vẫn không nghĩ đến việc làm sao tôi có thể đi nhờ xe ai về nhà.
“Tôi cũng đi với cô. Chúng ta phải giải quyết việc này giữa hai người, Melanie à. Chúng ta không thể cứ để mọi việc như thế này mãi được.”
“Chúng ta có thể chứ.” Tôi nói và ngạc nhiên khi thấy bàn tay và giọng nói của mình vẫn còn run rẩy. Tôi bắt đầu bước ra khỏi khu phố Church hướng về Broad, nghĩ rằng mình sẽ gọi Nancy để đi nhờ xe.
Tôi nghe tiếng điện thoại của anh reo, và anh dừng lại còn tôi thì vẫn tiếp bước. Tôi đi gần đến dãy phố kế cận thì nghe tiếng anh gọi tên tôi lần nữa.
“Melanie, làm ơn chờ chút.”
Tôi dừng lại ở giữa đường, hai tay chống hông. Khi ấy tôi muốn kể cho anh ta nghe về Emily, để cho anh ta phải đau đớn như anh ta đã từng làm tôi đau. Nhưng rồi tôi nhớ lại cách anh đã nghiêng đầu ra sao và cô ấy đã chạm vào tóc anh như thế nào, thế là tôi lại không thể làm thế với anh được. Nhưng anh phải biết việc ấy. Tôi chỉ cần phải suy nghĩ xem sẽ nói cho anh nghe bằng cách nào để cả hai chúng tôi đều được an toàn.
“Cái gì thế, Jack? Có đoạn nào mà anh không hiểu khi tôi nói không với anh hả?”
Khi anh bắt kịp tôi, anh không dừng lại nhưng nắm lấy cánh tay tôi và tiếp tục bước đi. “Ðó là ba của cô.”
“Ông ấy có sao không?” Tôi cảm thấy một chút lo lắng thúc vào lương tâm mình. Tôi đã không hề lo nghĩ gì đến ba mình nữa. Tôi đã xài hết trữ lượng lo lắng của mình cho ông cách đây đã nhiều năm rồi.
“Sau khi cô bảo với ông ấy rằng tên ông nội của cô nằm trên chứng thư của đồn điền Magnolia Ridge, ông ấy đã quyết định lục lạo những di vật của ông nội cô để xem có thể tìm thấy gì nữa về ông nội Gus của cô hay không, cũng như tìm hiểu thêm về mối liên hệ của ông ấy với gia tộc Vanderhorst.”
“Và ông ấy có tìm thấy gì không?” Tôi hỏi và gần như đứt hơi vì chúng tôi vừa đi vừa chạy.
“Ông ấy tìm thấy một cái hộp giữ ẩm xì gà có khóa của ông Gus. Ông ấy đập vỡ cái khóa và bảo rằng chúng ta cần đến để xem ông ấy đã tìm thấy những gì bên trong hộp.”
Tôi cố nhấn mạnh gót giày xuống mặt đường để cho anh ta dừng lại, nhưng như thế chỉ giúp tôi níu lại được vài bước rồi tôi lại phải tiếp tục chạy đi. “Dừng lại nào, Jack! Không còn gì nữa, nhớ không? Không còn phải giải mã một bí mật nào nữa.”
Anh chẳng trả lời mà tiếp tục kéo lê tôi xuống phố Church, gây sự chú ý nơi hai người khách bộ hành đang ăn mặc hóa trang thành hai lọ muối và tiêu và đi cùng nhau ở phía bên kia đường.
“Jack, dừng lại. Tôi không quan tâm nữa. Những thứ này chẳng có ý nghĩa gì nữa. Ðấy là chưa kể rằng tôi đã quá chán ngấy cả anh lẫn ba tôi bởi vì tôi đã bảo anh đi ra khỏi nhà tôi và rằng tôi chẳng bao giờ muốn nhìn mặt anh nữa. Và bây giờ thì tôi lại phát hiện rằng hai người vẫn đang tiếp tục tìm hiểu về cái gọi là bí mật này sau lưng tôi.”
Chúng tôi đã đi đến xe của anh, rồi anh thả cánh tay tôi ra và liếc nhìn tôi. “Hay là ta cứ vờ như việc này không phải vì cô hay vì tôi nữa, một phút thôi, được chứ? Rằng có lẽ toàn bộ dự án này có ý nghĩa với ba cô thật nhiều, nhiều hơn bất kỳ ai trong chúng ta có thể đoán nổi. Nếu không có nó để tập trung vào, ông ấy sẽ lại... lầm đường lạc lối.”
Sự giận dữ của tôi bỗng chốc tiêu tan, thay thế bằng gánh nặng của sự kinh hãi. “Anh định nói gì với tôi hả Jack? Có phải ba tôi lại uống rượu nữa phải không?”
Jack mở cửa xe cho tôi. “Việc ấy còn tùy thuộc chúng ta đi nhanh như thế nào để đến nơi ấy.”
“Ðến đâu?”
“Râu Ðen. Hiện giờ ông ấy đang ngồi ở bàn với một cốc gin ngay trước mặt.”
Tôi trượt vào ghế xe mà không nói thêm lời nào, ước gì tôi đã không cảm thấy quá thất vọng mà chẳng hiểu tại sao. Mặc dù cùng với thời gian, tôi đã biết khá nhiều, nhưng bằng cách nào đó tôi vẫn còn giữ được một mảnh hy vọng cỏn con trong lòng.
Tác giả :
Karen White