Một Hồ Sen Xanh Đợi Trăng Lên
Chương 13: Cầu trúc ngọc rơi tâm tựa tuyết
Mộ Dung Cẩn dẫn mọi người rời khỏi sơn cốc, sau đó gặp lại Lam Hạo Nguyệt và Trì Thanh Ngọc đã chạy vào rừng trước đó, thấy trên tay áo phải của Hạo Nguyệt loang lổ máu, liền biết miệng vết thương của nàng đã bị rách. Vì nơi này bốn bề toàn núi, nhỡ lại có cao thủ của Đoạt Mộng lâu đến, e sẽ có một trận ác chiến. Vì vậy Mộ Dung Cẩn ngẫm nghĩ, liền đưa mọi người đến phái Nga Mi nghỉ nhờ.
Ban nãy đánh nhau ác liệt, Lam Hạo Nguyệt không nghĩ tới chỗ đau của mình, nay thì thấy cánh tay đau đớn khó nhịn, ngẩng đầu nhìn thấy Trì Thanh Ngọc đang ôm Hoàn Nhi, tiến lên nói: “Chúng tôi muốn đến Nga Mi nghỉ tạm, chi bằng anh cũng đi cùng đi.”
Trì Thanh Ngọc đang sờ mạch Hoàn Nhi, thấy mạch tượng không rõ, trong lòng không khỏi nặng nề, rầu rĩ hỏi: “Nơi này cách núi Nga Mi có xa lắm không?”
“Không xa đâu, từ đây có thể thấy được này!” Lam Hạo Nguyệt buột miệng, lời vừa nói ra thì lập tức giật mình.
Trì Thanh Ngọc lại có vẻ không để ý, chỉ hơi ngẩng mặt lên, thấp giọng nói: “Liệu bọn họ có thể giúp điều trị cho Hoàn Nhi không?”
Mộ Dung Cẩn đứng đó không xa, vẫn luôn để ý tới chàng trai này. Bấy giờ chầm chậm đi tới bên người chàng, nói: “Liễu Ý sư thái của phái Nga Mi vốn có giao tình với lão phu nhân nhà chúng tôi, cậu cứ yên tâm.”
Trì Thanh Ngọc nghe thấy lời bà, hai hàng lông mày cứ nhíu chặt hơi giãn ra, chỉ là ánh mắt vẫn hoàn toàn không thay đổi.
“Là Đường phu nhân đó sao?” Chàng vẫn hướng về trước, khóe môi lại thấp thoáng vẻ nhã nhặn dễ gần: “Cám ơn bà đã ra tay tương trợ.”
Mộ Dung Cẩn nhìn chàng một vòng, sau đó dời tầm mắt, cười nhẹ: “Nào nói vậy được, là cậu và Hoàn Nhi ra tay giúp đỡ Đường môn chúng tôi, thế nên mới đắc tội với người của Đoạt Mộng lâu, sao chúng tôi có thể làm ngơ bất kể, không màng tới cho được?”
Bà dứt lời, thấy Trì Thanh Ngọc cần người dẫn đường, liền cho kẻ khác tới nhận Hoàn Nhi trong tay chàng, sắp xếp đi theo xe ngựa.
Lam Hạo Nguyệt thấy mọi người sắp chuẩn bị lên đường, liền tới trước Trì Thanh Ngọc, cố tình nhẹ giọng hỏi: “Trì Thanh Ngọc, hay là để tôi đưa anh đi nhé?”
“Không cần…” Trong lời nói của chàng có vẻ hơi chần chừ. Mộ Dung Cẩn ở bên xe ngựa quay sang gọi, “Hạo Nguyệt, tay con vẫn còn đang chảy máu, mau lên xe ngựa nghỉ đi. Mợ sẽ tự sắp xếp cho người dìu Trì công tử.”
“Tôi không sao…” Lam Hạo Nguyệt ngẩn ra, Trì Thanh Ngọc nhíu mày nói: “Cô mau đi đi.”
Có người đi tới đưa Lam Hạo Nguyệt đi, rồi dẫn Trì Thanh Ngọc tới cạnh xe ngựa, muốn đỡ chàng lên xe. Chàng đặt tay trên cửa sổ xe, bình tĩnh nói: “Tôi có thể tự đi.”
Còn Lam Hạo Nguyệt được Mộ Dung Cẩn khuyên ngồi vào xe, không lâu sau, xe ngựa bắt đầu khởi hành. Cách rèm lụa mỏng, nàng thường đưa mắt nhìn ra ngoài.
“Mợ, không thể để anh ta vào ngồi cùng được ạ?” Có tiếng bánh xe che giấu, nàng rụt rè hỏi Mộ Dung Cẩn.
Mộ Dung Cẩn thương xót nhìn nàng, nhẹ giọng bảo: “Hạo Nguyệt, tuy con có lòng tốt, nhưng dù sao chúng ta cũng là nữ quyến, sao có thể ngồi chung một chiếc xe ngựa với nam tử xa lạ? Về chuyện này, con phải cẩn thận nhớ kĩ, nhất định không được làm hỏng thanh danh.”
Lòng Lam Hạo Nguyệt thoáng sa sút.
***
Đoàn người Đường môn vừa tới chân núi Nga Mi thì liền có đệ tử canh núi chạy lên thông báo. Bấy giờ sắc trời đã tối, đứng ở núi này phóng mắt nhìn xa, cả một rặng núi trang nghiêm, mênh mông ngút ngàn, vô hình chung khiến người ta không dám lỗ mãng.
Lam Hạo Nguyệt nhìn một cảnh bao la hùng vĩ này đến xuất thần, chợt nghe một thanh âm nhỏ bé yếu ớt vang lên từ sau: “Sư thúc?”
Nàng quay đầu, có người bế Hoàn Nhi từ trong ngựa đi ra, đưa đến trước mặt Trì Thanh Ngọc. Chàng vội vàng vươn tay ra, sờ khuôn mặt Hoàn Nhi, giữa hai lông mày lộ ra niềm vui sướng từ tận đáy lòng, thấp giọng bảo: “Hoàn Nhi, con không cần sợ, chúng ta đã cứu con về được rồi.”
Tuy Hoàn Nhi đã mở mắt, nhưng vẫn mơ màng hỏi lại: “Đây là đâu?”
“Đây là Nga Mi.” Bên cạnh Trì Thanh Ngọc là người của Đường môn, nhưng chàng vẫn đưa lưng về vách núi, không để tâm bên cạnh có ai, tiếp tục nhẹ giọng bảo, “Lúc trước không phải con rất muốn thúc mang con tới đây sao? Chờ thương thế của con tốt lên, thúc sẽ dẫn con đi chơi.”
Lam Hạo Nguyệt nghiêng người nhìn chàng. Trong màn đêm u ám, chàng lẳng lặng cúi đầu, dù dùng giọng thanh lãnh để nói chuyện, nhưng có một sự dịu dàng ôn hòa hoàn toàn khác với ban ngày.
— Người này, thì ra cũng không phải hoàn toàn không hiểu tình lý. Tiếc là, chỉ thi thoảng mới lộ ra sự dịu dàng đối với những người bên cạnh mà thôi.
Không lâu sau, từ trên đường núi có đám người đang vội vàng đi tới, đi đầu là một nữ ni tuổi ngoài năm mươi, mặc áo bào màu tro, dáng người thon gầy, tràng hạt bằng gỗ đàn hương nặng trĩu trước ngực, trên là khuyên màu vàng ánh đỏ phất phơ trong gió. Đằng sau là hai hàng nữ đệ tử nối đuôi đi tới, một là nữ ni, một là tục gia, tất cả đều buông mày rũ mi không nói lời nào, chỉ có tiếng bước chân khẽ khàng vang lên không dứt.
Mộ Dung Cẩn đi tới cúi chào nữ ni mặc áo bào tro, dẫn Lam Hạo Nguyệt đến trước mặt, nói: “Sư thái, đây chính là Hạo Nguyệt mà con từng nói qua. Vì vết đao chém trên tay con bé chưa lành, muốn mượn chỗ xin nghỉ tạm.”
Liễu Ý dịu dàng nhìn chăm chú vào Lam Hạo Nguyệt, nói: “Ta và phụ thân cháu từng gặp nhau một lần, hôm nay mọi người đã tới Nga Mi, không thể không ở lâu mấy ngày. Vừa rồi ta nghe các đệ tử có báo về chuyện của Đoạt Mộng lâu, vừa khéo sao mọi người đã đến đây.”
Mộ Dung Cẩn lại nghiêng người ra sau nhìn Trì Thanh Ngọc, thấp giọng nói với Liễu Ý về lai lịch của chàng. Liễu Ý tỏ ra rất ngạc nhiên: “Thì ra là cao đồ của tiền bối Hải Quỳnh Tử của núi La Phù. Từ trước tới nay ông ấy luôn nhàn vân dã hạc (tự do không vướng bận), tuy nhiều năm nay chưa gặp lại, nhưng không ngờ ông ta còn một đệ tử trẻ như vậy.”
Trì Thanh Ngọc nhẹ giọng nói: “Thanh Ngọc đã được gia sư dắt lên núi La Phù từ bé, sau đó trở đi chưa từng rời khỏi, vậy nên trừ vài sư huynh sư tỷ trong Thần Tiêu cung, những người khác đều không biết đến sự tồn tại của tôi.” Chàng dừng lại một chút, lại đưa tay vỗ nhẹ vào Hoàn Nhi, “Đây là đồ đệ của đại sư tỷ tôi, Hoàn Nhi.”
Liễu Ý thấy thần sắc Hoàn Nhi tái mét, liền gọi đệ tử tới cõng cô bé, cùng mọi người đi tới Thanh Âm các ở cách đấy không xa nghỉ tạm.
***
Đêm đó, Mộ Dung Cẩn tự mình giải độc thay Hoàn Nhi. Lấy ngân châm đâm vào bảy yếu huyệt, dẫn nọc độc tích tụ trong cơ thể ra ngoài, sau đó lại nhờ Liễu Ý sư thái dùng nội công để lưu thông máu huyết, xua tan cơn đau.
Lúc mọi người đang chữa thương cho Hoàn Nhi, Trì Thanh Ngọc vẫn đứng trên thềm đá ngoài Thanh Âm các. Ánh trăng dịu dàng rơi xuống, hơi lành lạnh. Ngoài Thanh Âm các có hai con suối giao nhau, nước chảy siết, gặp nhau phát tiếng vang như sấm, bắn ra vô số bọt nước như tuyết, tản mát trong gió.
Trên suối có một chiếc cầu vòm bằng trúc, sau khi đã nghỉ ngơi trong phòng được một lát, Lam Hạo Nguyệt đi lên cầu. Dưới hàng cây thấp thoáng, từ xa, nàng đã trông thấy Trì Thanh Ngọc. Trong đêm xuân ấy, gió núi ban đêm vẫn hơi mang theo hơi lạnh, thổi tung tà áo đan xen hai màu xanh trắng của chàng. Bước chân Lam Hạo Nguyệt chậm hơn, chàng như cảm giác được, nghiêng người hướng về nơi nàng đang đứng.
“Thương thế của cô thế nào?” Tựa như chàng vừa nghe đã biết người đến là ai, giọng nói cũng ôn hòa hơn so với trước kia một chút.
Lam Hạo Nguyệt đi qua cầu trúc, dọc theo thềm đá đến trước mặt chàng, thản nhiên đáp: “Đã đắp thuốc trị thương của Nga Mi lên rồi, chắc qua vài ngày nữa là ổn thôi.”
Chàng khẽ gật đầu, không nói gì nữa.
Lam Hạo Nguyệt kiễng chân nhìn vào phòng, hỏi: “Bọn họ vẫn chưa ra à?”
“Chưa. Tôi luôn đứng đây coi chừng.” Chàng nói chuyện lúc nào cũng lời ít ý nhiều như thế, ngữ điệu thong thả lạnh lùng, tuyệt đối không dài dòng dây dưa.
Lam Hạo Nguyệt hơi do dự, không kiềm được mà nói: “Thật ra… tôi vẫn luôn muốn hỏi anh…”
Chàng nhướng mày theo bản năng, tỏ ra đang lắng nghe nàng định nói gì tiếp. Thế nhưng nàng lại ngừng lại.
Trì Thanh Ngọc đợi một lát, cau mày hỏi: “Sao lại ngập ngừng vậy?”
“Không… tôi đang nghĩ không biết có hỏi cũng bằng thừa hay không.” Lam Hạo Nguyệt nhún vai, tự giễu, “Tôi biết anh không thích nói chuyện, hoặc có thể nói, không muốn chuyện người với tôi.”
Trì Thanh Ngọc hơi ngơ ngác, hờ hững bảo: “Không có chuyện vậy đâu.”
“Thật không?” Lam Hạo Nguyệt có vẻ hào hứng nhìn sườn mặt chàng, “Thế mà tôi cảm thấy, hình như, từ ban đầu anh đã có ác cảm với tôi rồi.”
Chàng hơi trầm mặc một chốc, bảo: “Tôi không thích những người ỷ vào danh tiếng của cha mình để làm chỗ dựa.”
Lam Hạo Nguyệt sửng sốt, lúc này mới nhớ tới lần gặp đầu tiên, khi thua dưới kiếm của chàng, Ký Dao sợ nàng bị thương, dưới tình thế cấp bách liền lấy thân phận của nàng ra, để Trì Thanh Ngọc không dám vô lễ.
“Thì ra là vậy.” Nàng nhướng mày, thoải mái bảo, “Tôi không phải là người vậy đâu. Hơn nữa, thật ra tôi còn rất ghét cha mình nữa kìa.”
Nàng chỉ là hoàn toàn nói lời trong lòng, không ngờ sau khi Trì Thanh Ngọc nghe xong, sắc mặt vốn đã dịu đi nay trầm hẳn, “Thật có lỗi, tôi càng không thích hạng người bất kính với cha mẹ mình hơn cả.” Dứt lời, chàng xoay người chống gậy trúc đi qua phía bên kia.
“Anh!” Lam Hạo Nguyệt bị bỏ lại ở ngoài Thanh Âm các, giận sôi gan.
***
Mãi đến khuya, Mộ Dung Cẩn mới mở cửa bước ra, thấy Lam Hạo Nguyệt ngồi lẻ loi trên lan can đá ngoài Thanh Âm các, còn Trì Thanh Ngọc thì đứng dưới mái hiên xa xa, hai người không ai nói với ai một lời, tựa như người xa lạ.
Bà mỉm cười, chưa kịp mở miệng thì nghe thấy Trì Thanh Ngọc hỏi dò: “Đường phu nhân?”
“Chính là tôi.” Mộ Dung Cẩn xoay người nói với chàng, “Không cần lo lắng, độc Hoàn Nhi trúng phải đã được giải, chỉ là cô bé còn hơi yếu, phải nghỉ ngơi ít lâu.”
“Cảm ơn.” Chàng hơi khập khừng nói cảm ơn.
Mộ Dung Cẩn nhìn qua Lam Hạo Nguyệt, lại nói: “Hạo Nguyệt quan tâm Hoàn Nhi quá, cứ ngồi đây suốt đó sao?”
Lam Hạo Nguyệt rầu rĩ nhìn bóng của mình, đung đưa hai chân, đáp: “Không phải ạ, chỉ là muốn tới thăm mợ và sư thái thôi.”
Lúc này Liễu Ý sư thái cũng vừa bước ra từ Thanh Âm các, nghe thấy vậy, không kiềm nổi nụ cười: “Hạo Nguyệt, ban đêm ở đây hơi lạnh, cháu có thương tích trong người, chớ nên đợi khuya quá.”
Lam Hạo Nguyệt yên lặng gật đầu, Liễu Ý sư thái gọi một tiểu ni vào phòng săn sóc cho Hoàn Nhi, xoay người hỏi Trì Thanh Ngọc có cần người đưa về chỗ nghỉ tạm không.
“Vừa rồi tôi có đi qua một lần, đã nhớ kỹ.” Chàng tỏ ra rất tôn kính với sư thái, hoàn toàn không giống như ban nãy.
Vì thế Lam Hạo Nguyệt không thể làm gì khác hơn là ôm một bụng tức nhìn chàng một mình đi qua cầu trúc, khuất bóng sau hàng cây.
Chàng đã đi xa, Mộ Dung Cẩn than thở bảo: “Thấy cậu ta dùng kiếm chẳng thua người thường, đúng là một kỳ tài tập võ, chỉ tiếc…”
Liễu Ý niệm a di đà phật, nói, “Hải Quỳnh Tử có thể nhận cậu ta làm đồ đệ, nhất định là vì một nguyên nhân khác.”
Mộ Dung Cẩn gật đầu, lại thấy Lam Hạo Nguyệt vẫn đang ngồi trên lan can đá, không khỏi ngạc nhiên hỏi: “Hạo Nguyệt, sao con có vẻ không vui vậy? Vừa rồi mợ còn định hỏi con, chẳng lẽ có mâu thuẫn gì với cậu ta à?”
“Không, không có ạ.” Lam Hạo Nguyệt vội vàng đứng dậy, “Mợ, sao mợ lại nói vậy?”
Ý cười trong mắt Mộ Dung Cẩn lướt qua, nhẹ giọng bảo: “Chàng trai kia có phần thanh cao kiêu ngạo, mợ thấy với tính cách của con sẽ xung đột với cậu ta thôi.”
Lam Hạo Nguyệt ngượng ngùng lảng qua đề tài khác để che giấu, theo Liễu Ý sư thái đi qua cầu trúc. Ba người đi tới một hòn đá lớn trước con suối chảy từ trong núi, ở đây có xây một đình nghỉ chân, dòng chảy cuồn cuộn hai bên, mênh mang là nước.
Liễu Ý nhìn về bóng núi xa xa, nói: “Đường phu nhân, năm đó cô chịu tang chồng mà liều mình khổ tu trên núi, nhoáng cái đã nhiều năm vậy rồi.”
Giữa chân mày Mộ Dung Cẩn có một vẻ ảm đạm, cúi đầu bảo: “Khi còn sống, tiên phu từng hẹn với tôi, muốn đến Kim đỉnh Nga Mi bái phật, tiếc là chưa thành thì đã qua đời… Thế nên lúc đó tuy đau khổ, nhưng bất luận thế nào tôi cũng muốn đạt được tâm nguyện của chàng, cùng thưởng thức thắng cảnh phật quang.”
Trước kia Lam Hạo Nguyệt có nghe nói, cậu cả Đường Húc Càn qua đời khi còn trẻ, Mộ Dung Cẩn từng tự sát mấy lần, được người cứu, sau đó tiều tụy hẳn đi, một lòng muốn chịu tang chồng, tự mình lên núi Nga Mi, ăn chay niệm phật suốt ba năm ròng rã, không để ý đến thế sự. Câu chuyện này từng được mọi người truyền miệng cho nhau, được xem là một liệt nữ điển hình.
Nàng thấy Mộ Dung Cẩn nói chuyện này, tuy không có vẻ vô cùng thống khổ, nhưng vẻ mặt vẫn phần nào hiện ra nỗi đau thương. Một lòng trung trinh không đổi dẫu âm dương cách biệt, khiến Lam Hạo Nguyệt cũng cảm thấy rất xúc động.
“Chuỗi tràng hạt của Đường phu nhân ở Nga Mi bây giờ vẫn còn được thờ cúng tại Kim đỉnh, khi nào rỗi rãi, lão ni sẽ mang thí chủ đi nhìn lại, bày tỏ một lòng tưởng niệm người xưa.” Liễu Ý chắp tay trước ngực, xoay người an ủi Mộ Dung Cẩn.
Mộ Dung Cẩn thở dài khe khẽ, kéo tay Lam Hạo Nguyệt nói: “Cũng không biết vì sao, chuyện hôn nhân ở Đường môn nhà chúng ta lại long đong lận đận đến vậy. Trong năm người con của lão phu nhân, chồng mợ qua đời sớm quá, để mợ ở góa đến nay. Mẹ con và dì nhỏ cũng là người bất hạnh… Nay con đã lớn vậy rồi, mợ thật sự rất muốn chọn một ngày tốt, cùng sư thái lên Kim đỉnh, dâng hương cầu nguyện cho con, hi vọng con có thể tìm được người thương, không uổng những ngày tháng tươi đẹp này.”
“Mợ…” Lam Hạo Nguyệt thấp thỏm nhìn bà, “Hiện giờ con không có ý đó…”
***
Sau đó, bọn họ cứ ở gần Thanh Âm các. Đến khi độc tính trên người Hoàn Nhi được giải trừ, thân thể dần bình phục như trước, mỗi ngày Trì Thanh Ngọc đều đến thăm. Có nhiều lần, Lam Hạo Nguyệt ở trên cầu trúc thấy chàng đi tới, dù nàng không hẹp hòi đến mức ghi hận đến giờ, thế nhưng cũng không muốn chủ động bắt chuyện với chàng.
Vậy nên lần nào nàng cũng đứng nép sang thành cầu, nghiêm mặt, nhìn chàng ‘mắt hướng thẳng’ cầm gậy trúc lướt qua mình.
Gậy trúc gõ lên mặt cầu, âm thanh lộc cộc kia trở nên cực kì rõ ràng trong tiếng nước chảy.
Mỗi lần hai người gặp qua nhau, chàng đều chẳng có vẻ gì muốn dừng bước.
Lam Hạo Nguyệt nhìn bóng chàng đi xa, cảm thấy mọi chuyện trước đây mình làm đúng là như tự rước nhục. Chẳng qua có lòng tốt, không đành lòng nhìn chàng một thân một mình, thế nên mới quyết rời khỏi Đường môn, thậm chí chỉ băng bó vết thương qua loa, vội vàng đưa chàng lần theo dấu vết để cứu người. Mà lúc này, Hoàn Nhi thoát khỏi hiểm nguy, chàng lại chỉ vì một câu nói kia, lạnh lùng ném nàng qua một bên.
Trái tim người này, e rằng cũng như Thần châu, đều từ băng tuyết Thiên Sơn ngựng tụ thành!
Ban nãy đánh nhau ác liệt, Lam Hạo Nguyệt không nghĩ tới chỗ đau của mình, nay thì thấy cánh tay đau đớn khó nhịn, ngẩng đầu nhìn thấy Trì Thanh Ngọc đang ôm Hoàn Nhi, tiến lên nói: “Chúng tôi muốn đến Nga Mi nghỉ tạm, chi bằng anh cũng đi cùng đi.”
Trì Thanh Ngọc đang sờ mạch Hoàn Nhi, thấy mạch tượng không rõ, trong lòng không khỏi nặng nề, rầu rĩ hỏi: “Nơi này cách núi Nga Mi có xa lắm không?”
“Không xa đâu, từ đây có thể thấy được này!” Lam Hạo Nguyệt buột miệng, lời vừa nói ra thì lập tức giật mình.
Trì Thanh Ngọc lại có vẻ không để ý, chỉ hơi ngẩng mặt lên, thấp giọng nói: “Liệu bọn họ có thể giúp điều trị cho Hoàn Nhi không?”
Mộ Dung Cẩn đứng đó không xa, vẫn luôn để ý tới chàng trai này. Bấy giờ chầm chậm đi tới bên người chàng, nói: “Liễu Ý sư thái của phái Nga Mi vốn có giao tình với lão phu nhân nhà chúng tôi, cậu cứ yên tâm.”
Trì Thanh Ngọc nghe thấy lời bà, hai hàng lông mày cứ nhíu chặt hơi giãn ra, chỉ là ánh mắt vẫn hoàn toàn không thay đổi.
“Là Đường phu nhân đó sao?” Chàng vẫn hướng về trước, khóe môi lại thấp thoáng vẻ nhã nhặn dễ gần: “Cám ơn bà đã ra tay tương trợ.”
Mộ Dung Cẩn nhìn chàng một vòng, sau đó dời tầm mắt, cười nhẹ: “Nào nói vậy được, là cậu và Hoàn Nhi ra tay giúp đỡ Đường môn chúng tôi, thế nên mới đắc tội với người của Đoạt Mộng lâu, sao chúng tôi có thể làm ngơ bất kể, không màng tới cho được?”
Bà dứt lời, thấy Trì Thanh Ngọc cần người dẫn đường, liền cho kẻ khác tới nhận Hoàn Nhi trong tay chàng, sắp xếp đi theo xe ngựa.
Lam Hạo Nguyệt thấy mọi người sắp chuẩn bị lên đường, liền tới trước Trì Thanh Ngọc, cố tình nhẹ giọng hỏi: “Trì Thanh Ngọc, hay là để tôi đưa anh đi nhé?”
“Không cần…” Trong lời nói của chàng có vẻ hơi chần chừ. Mộ Dung Cẩn ở bên xe ngựa quay sang gọi, “Hạo Nguyệt, tay con vẫn còn đang chảy máu, mau lên xe ngựa nghỉ đi. Mợ sẽ tự sắp xếp cho người dìu Trì công tử.”
“Tôi không sao…” Lam Hạo Nguyệt ngẩn ra, Trì Thanh Ngọc nhíu mày nói: “Cô mau đi đi.”
Có người đi tới đưa Lam Hạo Nguyệt đi, rồi dẫn Trì Thanh Ngọc tới cạnh xe ngựa, muốn đỡ chàng lên xe. Chàng đặt tay trên cửa sổ xe, bình tĩnh nói: “Tôi có thể tự đi.”
Còn Lam Hạo Nguyệt được Mộ Dung Cẩn khuyên ngồi vào xe, không lâu sau, xe ngựa bắt đầu khởi hành. Cách rèm lụa mỏng, nàng thường đưa mắt nhìn ra ngoài.
“Mợ, không thể để anh ta vào ngồi cùng được ạ?” Có tiếng bánh xe che giấu, nàng rụt rè hỏi Mộ Dung Cẩn.
Mộ Dung Cẩn thương xót nhìn nàng, nhẹ giọng bảo: “Hạo Nguyệt, tuy con có lòng tốt, nhưng dù sao chúng ta cũng là nữ quyến, sao có thể ngồi chung một chiếc xe ngựa với nam tử xa lạ? Về chuyện này, con phải cẩn thận nhớ kĩ, nhất định không được làm hỏng thanh danh.”
Lòng Lam Hạo Nguyệt thoáng sa sút.
***
Đoàn người Đường môn vừa tới chân núi Nga Mi thì liền có đệ tử canh núi chạy lên thông báo. Bấy giờ sắc trời đã tối, đứng ở núi này phóng mắt nhìn xa, cả một rặng núi trang nghiêm, mênh mông ngút ngàn, vô hình chung khiến người ta không dám lỗ mãng.
Lam Hạo Nguyệt nhìn một cảnh bao la hùng vĩ này đến xuất thần, chợt nghe một thanh âm nhỏ bé yếu ớt vang lên từ sau: “Sư thúc?”
Nàng quay đầu, có người bế Hoàn Nhi từ trong ngựa đi ra, đưa đến trước mặt Trì Thanh Ngọc. Chàng vội vàng vươn tay ra, sờ khuôn mặt Hoàn Nhi, giữa hai lông mày lộ ra niềm vui sướng từ tận đáy lòng, thấp giọng bảo: “Hoàn Nhi, con không cần sợ, chúng ta đã cứu con về được rồi.”
Tuy Hoàn Nhi đã mở mắt, nhưng vẫn mơ màng hỏi lại: “Đây là đâu?”
“Đây là Nga Mi.” Bên cạnh Trì Thanh Ngọc là người của Đường môn, nhưng chàng vẫn đưa lưng về vách núi, không để tâm bên cạnh có ai, tiếp tục nhẹ giọng bảo, “Lúc trước không phải con rất muốn thúc mang con tới đây sao? Chờ thương thế của con tốt lên, thúc sẽ dẫn con đi chơi.”
Lam Hạo Nguyệt nghiêng người nhìn chàng. Trong màn đêm u ám, chàng lẳng lặng cúi đầu, dù dùng giọng thanh lãnh để nói chuyện, nhưng có một sự dịu dàng ôn hòa hoàn toàn khác với ban ngày.
— Người này, thì ra cũng không phải hoàn toàn không hiểu tình lý. Tiếc là, chỉ thi thoảng mới lộ ra sự dịu dàng đối với những người bên cạnh mà thôi.
Không lâu sau, từ trên đường núi có đám người đang vội vàng đi tới, đi đầu là một nữ ni tuổi ngoài năm mươi, mặc áo bào màu tro, dáng người thon gầy, tràng hạt bằng gỗ đàn hương nặng trĩu trước ngực, trên là khuyên màu vàng ánh đỏ phất phơ trong gió. Đằng sau là hai hàng nữ đệ tử nối đuôi đi tới, một là nữ ni, một là tục gia, tất cả đều buông mày rũ mi không nói lời nào, chỉ có tiếng bước chân khẽ khàng vang lên không dứt.
Mộ Dung Cẩn đi tới cúi chào nữ ni mặc áo bào tro, dẫn Lam Hạo Nguyệt đến trước mặt, nói: “Sư thái, đây chính là Hạo Nguyệt mà con từng nói qua. Vì vết đao chém trên tay con bé chưa lành, muốn mượn chỗ xin nghỉ tạm.”
Liễu Ý dịu dàng nhìn chăm chú vào Lam Hạo Nguyệt, nói: “Ta và phụ thân cháu từng gặp nhau một lần, hôm nay mọi người đã tới Nga Mi, không thể không ở lâu mấy ngày. Vừa rồi ta nghe các đệ tử có báo về chuyện của Đoạt Mộng lâu, vừa khéo sao mọi người đã đến đây.”
Mộ Dung Cẩn lại nghiêng người ra sau nhìn Trì Thanh Ngọc, thấp giọng nói với Liễu Ý về lai lịch của chàng. Liễu Ý tỏ ra rất ngạc nhiên: “Thì ra là cao đồ của tiền bối Hải Quỳnh Tử của núi La Phù. Từ trước tới nay ông ấy luôn nhàn vân dã hạc (tự do không vướng bận), tuy nhiều năm nay chưa gặp lại, nhưng không ngờ ông ta còn một đệ tử trẻ như vậy.”
Trì Thanh Ngọc nhẹ giọng nói: “Thanh Ngọc đã được gia sư dắt lên núi La Phù từ bé, sau đó trở đi chưa từng rời khỏi, vậy nên trừ vài sư huynh sư tỷ trong Thần Tiêu cung, những người khác đều không biết đến sự tồn tại của tôi.” Chàng dừng lại một chút, lại đưa tay vỗ nhẹ vào Hoàn Nhi, “Đây là đồ đệ của đại sư tỷ tôi, Hoàn Nhi.”
Liễu Ý thấy thần sắc Hoàn Nhi tái mét, liền gọi đệ tử tới cõng cô bé, cùng mọi người đi tới Thanh Âm các ở cách đấy không xa nghỉ tạm.
***
Đêm đó, Mộ Dung Cẩn tự mình giải độc thay Hoàn Nhi. Lấy ngân châm đâm vào bảy yếu huyệt, dẫn nọc độc tích tụ trong cơ thể ra ngoài, sau đó lại nhờ Liễu Ý sư thái dùng nội công để lưu thông máu huyết, xua tan cơn đau.
Lúc mọi người đang chữa thương cho Hoàn Nhi, Trì Thanh Ngọc vẫn đứng trên thềm đá ngoài Thanh Âm các. Ánh trăng dịu dàng rơi xuống, hơi lành lạnh. Ngoài Thanh Âm các có hai con suối giao nhau, nước chảy siết, gặp nhau phát tiếng vang như sấm, bắn ra vô số bọt nước như tuyết, tản mát trong gió.
Trên suối có một chiếc cầu vòm bằng trúc, sau khi đã nghỉ ngơi trong phòng được một lát, Lam Hạo Nguyệt đi lên cầu. Dưới hàng cây thấp thoáng, từ xa, nàng đã trông thấy Trì Thanh Ngọc. Trong đêm xuân ấy, gió núi ban đêm vẫn hơi mang theo hơi lạnh, thổi tung tà áo đan xen hai màu xanh trắng của chàng. Bước chân Lam Hạo Nguyệt chậm hơn, chàng như cảm giác được, nghiêng người hướng về nơi nàng đang đứng.
“Thương thế của cô thế nào?” Tựa như chàng vừa nghe đã biết người đến là ai, giọng nói cũng ôn hòa hơn so với trước kia một chút.
Lam Hạo Nguyệt đi qua cầu trúc, dọc theo thềm đá đến trước mặt chàng, thản nhiên đáp: “Đã đắp thuốc trị thương của Nga Mi lên rồi, chắc qua vài ngày nữa là ổn thôi.”
Chàng khẽ gật đầu, không nói gì nữa.
Lam Hạo Nguyệt kiễng chân nhìn vào phòng, hỏi: “Bọn họ vẫn chưa ra à?”
“Chưa. Tôi luôn đứng đây coi chừng.” Chàng nói chuyện lúc nào cũng lời ít ý nhiều như thế, ngữ điệu thong thả lạnh lùng, tuyệt đối không dài dòng dây dưa.
Lam Hạo Nguyệt hơi do dự, không kiềm được mà nói: “Thật ra… tôi vẫn luôn muốn hỏi anh…”
Chàng nhướng mày theo bản năng, tỏ ra đang lắng nghe nàng định nói gì tiếp. Thế nhưng nàng lại ngừng lại.
Trì Thanh Ngọc đợi một lát, cau mày hỏi: “Sao lại ngập ngừng vậy?”
“Không… tôi đang nghĩ không biết có hỏi cũng bằng thừa hay không.” Lam Hạo Nguyệt nhún vai, tự giễu, “Tôi biết anh không thích nói chuyện, hoặc có thể nói, không muốn chuyện người với tôi.”
Trì Thanh Ngọc hơi ngơ ngác, hờ hững bảo: “Không có chuyện vậy đâu.”
“Thật không?” Lam Hạo Nguyệt có vẻ hào hứng nhìn sườn mặt chàng, “Thế mà tôi cảm thấy, hình như, từ ban đầu anh đã có ác cảm với tôi rồi.”
Chàng hơi trầm mặc một chốc, bảo: “Tôi không thích những người ỷ vào danh tiếng của cha mình để làm chỗ dựa.”
Lam Hạo Nguyệt sửng sốt, lúc này mới nhớ tới lần gặp đầu tiên, khi thua dưới kiếm của chàng, Ký Dao sợ nàng bị thương, dưới tình thế cấp bách liền lấy thân phận của nàng ra, để Trì Thanh Ngọc không dám vô lễ.
“Thì ra là vậy.” Nàng nhướng mày, thoải mái bảo, “Tôi không phải là người vậy đâu. Hơn nữa, thật ra tôi còn rất ghét cha mình nữa kìa.”
Nàng chỉ là hoàn toàn nói lời trong lòng, không ngờ sau khi Trì Thanh Ngọc nghe xong, sắc mặt vốn đã dịu đi nay trầm hẳn, “Thật có lỗi, tôi càng không thích hạng người bất kính với cha mẹ mình hơn cả.” Dứt lời, chàng xoay người chống gậy trúc đi qua phía bên kia.
“Anh!” Lam Hạo Nguyệt bị bỏ lại ở ngoài Thanh Âm các, giận sôi gan.
***
Mãi đến khuya, Mộ Dung Cẩn mới mở cửa bước ra, thấy Lam Hạo Nguyệt ngồi lẻ loi trên lan can đá ngoài Thanh Âm các, còn Trì Thanh Ngọc thì đứng dưới mái hiên xa xa, hai người không ai nói với ai một lời, tựa như người xa lạ.
Bà mỉm cười, chưa kịp mở miệng thì nghe thấy Trì Thanh Ngọc hỏi dò: “Đường phu nhân?”
“Chính là tôi.” Mộ Dung Cẩn xoay người nói với chàng, “Không cần lo lắng, độc Hoàn Nhi trúng phải đã được giải, chỉ là cô bé còn hơi yếu, phải nghỉ ngơi ít lâu.”
“Cảm ơn.” Chàng hơi khập khừng nói cảm ơn.
Mộ Dung Cẩn nhìn qua Lam Hạo Nguyệt, lại nói: “Hạo Nguyệt quan tâm Hoàn Nhi quá, cứ ngồi đây suốt đó sao?”
Lam Hạo Nguyệt rầu rĩ nhìn bóng của mình, đung đưa hai chân, đáp: “Không phải ạ, chỉ là muốn tới thăm mợ và sư thái thôi.”
Lúc này Liễu Ý sư thái cũng vừa bước ra từ Thanh Âm các, nghe thấy vậy, không kiềm nổi nụ cười: “Hạo Nguyệt, ban đêm ở đây hơi lạnh, cháu có thương tích trong người, chớ nên đợi khuya quá.”
Lam Hạo Nguyệt yên lặng gật đầu, Liễu Ý sư thái gọi một tiểu ni vào phòng săn sóc cho Hoàn Nhi, xoay người hỏi Trì Thanh Ngọc có cần người đưa về chỗ nghỉ tạm không.
“Vừa rồi tôi có đi qua một lần, đã nhớ kỹ.” Chàng tỏ ra rất tôn kính với sư thái, hoàn toàn không giống như ban nãy.
Vì thế Lam Hạo Nguyệt không thể làm gì khác hơn là ôm một bụng tức nhìn chàng một mình đi qua cầu trúc, khuất bóng sau hàng cây.
Chàng đã đi xa, Mộ Dung Cẩn than thở bảo: “Thấy cậu ta dùng kiếm chẳng thua người thường, đúng là một kỳ tài tập võ, chỉ tiếc…”
Liễu Ý niệm a di đà phật, nói, “Hải Quỳnh Tử có thể nhận cậu ta làm đồ đệ, nhất định là vì một nguyên nhân khác.”
Mộ Dung Cẩn gật đầu, lại thấy Lam Hạo Nguyệt vẫn đang ngồi trên lan can đá, không khỏi ngạc nhiên hỏi: “Hạo Nguyệt, sao con có vẻ không vui vậy? Vừa rồi mợ còn định hỏi con, chẳng lẽ có mâu thuẫn gì với cậu ta à?”
“Không, không có ạ.” Lam Hạo Nguyệt vội vàng đứng dậy, “Mợ, sao mợ lại nói vậy?”
Ý cười trong mắt Mộ Dung Cẩn lướt qua, nhẹ giọng bảo: “Chàng trai kia có phần thanh cao kiêu ngạo, mợ thấy với tính cách của con sẽ xung đột với cậu ta thôi.”
Lam Hạo Nguyệt ngượng ngùng lảng qua đề tài khác để che giấu, theo Liễu Ý sư thái đi qua cầu trúc. Ba người đi tới một hòn đá lớn trước con suối chảy từ trong núi, ở đây có xây một đình nghỉ chân, dòng chảy cuồn cuộn hai bên, mênh mang là nước.
Liễu Ý nhìn về bóng núi xa xa, nói: “Đường phu nhân, năm đó cô chịu tang chồng mà liều mình khổ tu trên núi, nhoáng cái đã nhiều năm vậy rồi.”
Giữa chân mày Mộ Dung Cẩn có một vẻ ảm đạm, cúi đầu bảo: “Khi còn sống, tiên phu từng hẹn với tôi, muốn đến Kim đỉnh Nga Mi bái phật, tiếc là chưa thành thì đã qua đời… Thế nên lúc đó tuy đau khổ, nhưng bất luận thế nào tôi cũng muốn đạt được tâm nguyện của chàng, cùng thưởng thức thắng cảnh phật quang.”
Trước kia Lam Hạo Nguyệt có nghe nói, cậu cả Đường Húc Càn qua đời khi còn trẻ, Mộ Dung Cẩn từng tự sát mấy lần, được người cứu, sau đó tiều tụy hẳn đi, một lòng muốn chịu tang chồng, tự mình lên núi Nga Mi, ăn chay niệm phật suốt ba năm ròng rã, không để ý đến thế sự. Câu chuyện này từng được mọi người truyền miệng cho nhau, được xem là một liệt nữ điển hình.
Nàng thấy Mộ Dung Cẩn nói chuyện này, tuy không có vẻ vô cùng thống khổ, nhưng vẻ mặt vẫn phần nào hiện ra nỗi đau thương. Một lòng trung trinh không đổi dẫu âm dương cách biệt, khiến Lam Hạo Nguyệt cũng cảm thấy rất xúc động.
“Chuỗi tràng hạt của Đường phu nhân ở Nga Mi bây giờ vẫn còn được thờ cúng tại Kim đỉnh, khi nào rỗi rãi, lão ni sẽ mang thí chủ đi nhìn lại, bày tỏ một lòng tưởng niệm người xưa.” Liễu Ý chắp tay trước ngực, xoay người an ủi Mộ Dung Cẩn.
Mộ Dung Cẩn thở dài khe khẽ, kéo tay Lam Hạo Nguyệt nói: “Cũng không biết vì sao, chuyện hôn nhân ở Đường môn nhà chúng ta lại long đong lận đận đến vậy. Trong năm người con của lão phu nhân, chồng mợ qua đời sớm quá, để mợ ở góa đến nay. Mẹ con và dì nhỏ cũng là người bất hạnh… Nay con đã lớn vậy rồi, mợ thật sự rất muốn chọn một ngày tốt, cùng sư thái lên Kim đỉnh, dâng hương cầu nguyện cho con, hi vọng con có thể tìm được người thương, không uổng những ngày tháng tươi đẹp này.”
“Mợ…” Lam Hạo Nguyệt thấp thỏm nhìn bà, “Hiện giờ con không có ý đó…”
***
Sau đó, bọn họ cứ ở gần Thanh Âm các. Đến khi độc tính trên người Hoàn Nhi được giải trừ, thân thể dần bình phục như trước, mỗi ngày Trì Thanh Ngọc đều đến thăm. Có nhiều lần, Lam Hạo Nguyệt ở trên cầu trúc thấy chàng đi tới, dù nàng không hẹp hòi đến mức ghi hận đến giờ, thế nhưng cũng không muốn chủ động bắt chuyện với chàng.
Vậy nên lần nào nàng cũng đứng nép sang thành cầu, nghiêm mặt, nhìn chàng ‘mắt hướng thẳng’ cầm gậy trúc lướt qua mình.
Gậy trúc gõ lên mặt cầu, âm thanh lộc cộc kia trở nên cực kì rõ ràng trong tiếng nước chảy.
Mỗi lần hai người gặp qua nhau, chàng đều chẳng có vẻ gì muốn dừng bước.
Lam Hạo Nguyệt nhìn bóng chàng đi xa, cảm thấy mọi chuyện trước đây mình làm đúng là như tự rước nhục. Chẳng qua có lòng tốt, không đành lòng nhìn chàng một thân một mình, thế nên mới quyết rời khỏi Đường môn, thậm chí chỉ băng bó vết thương qua loa, vội vàng đưa chàng lần theo dấu vết để cứu người. Mà lúc này, Hoàn Nhi thoát khỏi hiểm nguy, chàng lại chỉ vì một câu nói kia, lạnh lùng ném nàng qua một bên.
Trái tim người này, e rằng cũng như Thần châu, đều từ băng tuyết Thiên Sơn ngựng tụ thành!
Tác giả :
Tử Ngọc Khinh Sương