Máu Lạnh
Chương 8
Những người chưa ló mặt
Ngày thứ Hai, 16 tháng Mười một năm 1959 ấy vẫn là một tiêu bản đẹp của thời tiết săn trĩ trên bình nguyên cao trồng lúa mì miền Tây bang Kansas - một ngày vòm trời sáng huy hoàng, lấp lánh như mica. Những năm trước đây, vào những ngày này, Andy Erhart thường dành suốt nhiều buổi chiều dài săn trĩ ở Trại Lũng Sông, nhà của Herb Clutter, người bạn tốt của ông, và trong các buổi thể thao dã ngoại đó ông hay đi với ba người bạn thân nhất của Clutter: J. E. Dale, bác sĩ thú y, Carl Myers, chủ xưởng chế biến sữa, và Everett Ogburn, doanh nhân. Giống như Erhart, người phụ trách Trạm Thí nghiệm Nông nghiệp của Đại học Kansas, tất cả đều là những công dân nổi tiếng của Garden City.
Hôm nay, bộ tứ bạn săn lâu đời lại tụ tập làm một chuyến dã ngoại quen thuộc nhưng với một tinh thần chẳng hề quen thuộc, với những thiết bị kỳ quặc phi thể thao - tải lau sàn, xô thùng, bàn chải cọ rửa và một giỏ chất đầy những giẻ lẫn chất tẩy mạnh. Họ đều mặc những bộ quần áo cũ kỹ nhất. Vì cảm thấy đây là nghĩa vụ của mình, một bổn phận của người theo đạo Cơ đốc, những người này đã tình nguyện dọn dẹp sạch sẽ một số phòng trong số mười bốn phòng của ngôi nhà chính ở Trại Lũng Sông: những phòng đã có bốn người trong gia đình Clutter bị giết bởi “một hay nhiều kẻ chưa được nhận diện” như biên bản về cái chết của họ đã chứng thực.
Erhart và các bạn lái xe trong im lặng. Một người về sau nhận xét, “Chuyến đi làm cho cả bọn câm nín hết. Sự kỳ lạ của chuyến đi này. Đi ra ngoài đó, nơi chúng tôi xưa nay luôn được đón chào như thế.” Lúc này thì một người cảnh sát tuần tra xa lộ đón chào họ. Người tuần đường, người trông coi cái rào chắn nhà chức trách dựng lên ở lối vào khu trại, vẫy tay cho họ vào, và họ đi thêm nửa dặm nữa, xuống con đường nhỏ trồng du Tàu dẫn vào nhà Clutter.
Alfred Stoecklein, người làm mướn duy nhất sống ở trên đất nhà ông Clutter, đang chờ để nhận họ vào.
Trước tiên họ vào phòng lò sưởi ở tầng hầm, nơi người ta tìm thấy ông Clutter mặc pijama nằm còng queo trên một cái thùng các tông đựng đệm. Từ đây, họ đi vào phòng giải trí trong đó Kenyon đã bị bắn chết. Chiếc đi văng, một kỷ vật Kenyon đã cứu lấy và vá víu lại, còn Nancy thì phủ vải và chồng chất lên nó những chiếc gối có đề chữ, nó bây giờ là một tàn tích vấy đầy máu; giống như cái thùng đựng đệm, cũng cần phải đem đốt. Dần dần, khi đám người dọn dẹp từ dưới tầng hầm tiến đến các phòng ngủ ở tầng ba nơi Nancy và mẹ cô bị giết ngay trên giường, họ đã có được thêm chất đốt cho cuộc hỏa thiêu sắp tới - chăn đệm giường ố máu, một tấm thảm cạnh giường, một con gấu bông búp bê.
Tuy thường ít nói, Alfred Stoecklein hôm đó đã phải nói nhiều khi ông lấy nước nóng, không thì giúp việc dọn dẹp. Ông mong “họ hàng ông Clutter sẽ thôi cằn nhằn và cố hiểu cho” tại sao ông và vợ ông tuy sống chỉ cách nhà Clutter có một trăm mét mà lại “không nghe thấy tí ti gì” - cả đến tiếng vọng khẽ nhất của súng nổ cũng không - về sự thảm khốc đang diễn ra. “Cảnh sát trưởng và tất cả các ông ấy đã lấy dấu tay ở ngoài kia, đã cào bới khắp chung quanh, các ông ấy có nghề, họ thì họ hiểu chuyện đó thế nào. Như thế nào mà chúng tôi lại không nghe thấy ấy à! Vì một lẽ là gió. Gió Tây thổi, như lúc này đây, thì sẽ mang tiếng động đi tới chỗ khác. Một cái nữa, giữa nhà ông ấy và nhà chúng tôi có một cái kho chứa cao lương. Cái kho cũ ấy nó chắn mất nhiều thứ trước khi vọng đến chúng tôi. Với lại các ông có nghĩ tí nào tới chỗ này không? Là cái đứa đã làm cái đó, nó hẳn phải biết chúng tôi không nghe thấy được. Không thì nó chẳng có dại - bắn những bốn phát súng vào giữa đêm hôm khuya khoắt! Họa có mà điên. Dĩ nhiên, các ông có thể nói rằng chắc nó điên. Mới đi làm cái trò đó chứ. Nhưng ý tôi thì đứa làm cái đó chắc phải tính hoàn hảo đến cùng mọi sự cả rồi. Nó đã biết. Và có một điều tôi cũng biết. Tôi và bà nhà tôi, chúng tôi đã ngủ đêm cuối cùng ở đây. Chúng tôi sẽ dọn đến cái nhà ở dọc xa lộ.”
Đám người làm việc từ trưa tới chiều tối. Đến lúc đốt các thứ nhặt nhạnh được, họ chất chúng lên một chiếc xe tải nhỏ, rồi với Stoecklein cầm lái, họ đi sâu vào dải đồng ở phía Bắc khu trại, một chỗ bằng phẳng đầy màu sắc, tuy chỉ thuần một màu vàng hung hơi óng ánh của những cuống rạ lúa mì vào chập tháng Mười một. Đến đấy, họ dỡ xuống những gối của Nancy, đệm, khăn trải giường, đi văng ở phòng giải trí, làm thành một cái tháp; Stoecklein rảy xăng vào rồi đánh diêm.
Trong những người có mặt, không ai thân với nhà Clutter bằng Andy Erhart. Dịu dàng, quyền cao chức trọng song ân cần, một người thông thái với đôi tay lao động đầy chai và cái cổ sạm nắng, ông là bạn cùng lớp với Herb ở Đại học Bang Kansas. “Chúng tôi là bạn của nhau đã ba chục năm,” sau đó ít lâu ông nói, và trong những thập niên đó Erhart đã chứng kiến người bạn mình từ kỹ sư nông nghiệp ăn lương còm ở hạt tiến lên thành một trong những chủ trại được kính trọng khắp xa gần và được biết tiếng nhất ở vùng này: “Mọi cái Herb có là do tự kiếm ra và nhờ Chúa giúp đỡ. Herb là người khiêm tốn nhưng kiêu hãnh, và ông ấy có quyền kiêu hãnh như thế. Ông ấy đã gây dựng được một gia đình tốt đẹp. Ông ấy đã làm được cho đời mình một số điều.” Nhưng cuộc đời ấy, và những cái ông ấy làm nên cho cuộc đời ấy - làm sao mà lại hóa ra như thế, Erhart thầm nghĩ trong khi nhìn đống lửa cháy lem lém. Làm sao mà nghĩ được rằng chỉ trong một đêm, cố gắng kia, đức hạnh chân chất kia đã bị rút gọn thành làn khói này, làn khói cứ mảnh dần đi khi nó cất lên cao rồi được bầu trời lớn rộng làm tiêu tán mọi sự đón nhận lấy?
Cục Điều tra bang Kansas, một tổ chức cấp bang, sở chỉ huy đóng ở Topeka, có biên chế mười chín thám tử giàu kinh nghiệm phân bố rải rác khắp bang; khi nào có vụ gì xem vẻ vượt khỏi thẩm quyền của nhà chức trách sở tại thì người ta cậy đến những con người này. Người đại diện của Cục tại Garden City, chịu trách nhiệm về một phần đáng kể vùng Tây Kansas, là một người ở bang Kansas thuộc thê hệ thứ tư, bốn mươi bảy tuổi, người dong dỏng đẹp trai, tên gọi là Alvin Adams Dewey. Không thể tránh được việc Earl Robinson, cảnh sát trưởng hạt Finney, đã yêu cầu Al Dewey gánh lấy vụ án Clutter. Không tránh được và thích đáng. Vì Dewey, bản thân nguyên là cảnh sát trưởng hạt Finney (từ năm 1947 đến 1955) và, trước đó là đặc vụ của F.B.I. (giữa năm 1940 và 1945, ông đã phục vụ ở New Orleans, San Antonio, Denver, Miami và San Francisco), về nghiệp vụ là đủ tư cách đối phó với một vụ án nom ngoài thì không có động cơ và không có đầu mối, lắm rắc rối như vụ giết nhà Clutter. Hơn nữa, thái độ của ông với vụ án đã làm cho nó thành ra, như sau này ông nói, “một kiến nghị của cá nhân”. Ông luôn nói ông và vợ ông “thật sự yêu mến Herb và Bonnie”, “gặp nhau mỗi Chủ nhật ở nhà thờ, năng lui tới thăm nhau”, và nói thêm, “Nhưng cho dù tôi không biết gia đình đó và mến họ đến thế, tôi cũng không cảm thấy có gì khác cả. Vì tôi đã thấy một số việc xấu xa, tôi chắc chắn là đã thấy. Nhưng không có cái nào táng tận lương tâm như vụ này. Dù vụ này có sẽ kéo dài đến mấy, có thể là suốt những năm tháng cuối đời tôi, tôi vẫn sẽ biết chuyện gì đã xảy ra ở nhà này: kẻ nào làm và tại sao.”
Cuối cùng, tổng cộng mười tám người đã được giao chuyên trách vụ này, trong đó ba điều tra viên có năng lực nhất của K.B.I. (tức Cục Điều tra bang Kansas) - các đặc vụ Harold Nye, Roy Church và Clarence Duntz. Với bộ ba này đến Garden City, Dewey thỏa mãn là đã tập hợp được “một ê kíp mạnh”. “Tốt hơn hết, ai đó hãy coi chừng!” ông nói.
Văn phòng cảnh sát trưởng ở tầng bốn của tòa án hạt Finney, tòa nhà bằng đá và xi măng tọa lạc tại trung tâm một quảng trường đầy cây mà giá không có tòa nhà thì có khi lại hấp dẫn. Garden City xưa vốn là một thị trấn biên giới khá ầm ĩ song nay khá tĩnh lặng. Nhìn chung, cảnh sát trưởng không có mấy việc để làm, văn phòng của ông, ba gian phòng bày biện thưa thớt, thông thường là một nơi im ắng chỉ có dân rảnh việc la cà mới biết đến; bà Edna Richardson, thư ký đon đả của ông, thường có một bình cà phê nhâm nhi suốt và nhiều thì giờ để “buôn dưa lê”. Cho đến khi, như bà phàn nàn, “xảy vụ Clutter” thì nó đã đem tới “tất cả các dân tứ chiếng, tất cả đám báo chí nhặng xị ồn ào kia”. Vụ án lúc đó khiến các tít bài bay xa đến Chicago ở đằng Tây, tận Denver đằng Đông, đúng là đã dụ đến Garden City cả một đoàn báo chí đáng nể.
Trưa thứ Hai, Dewey tổ chức họp báo ở văn phòng cảnh sát trưởng. “Tôi sẽ nói sự việc chứ không nói giả thuyết,” ông thông báo với các nhà báo tụ tập ở đó.“Bây giờ, việc lớn ở đây, cái phải nhớ là, chúng ta đang phải giải quyết không chỉ một vụ án mạng mà là bốn. Và chúng ta không biết ai trong bốn người là mục tiêu chính. Nạn nhân số một. Đó có thể là Nancy hoặc Kenyon, hoặc ông bố hay bà mẹ. Một vài người nói, đúng, chắc phải là ông Clutter, vì ông ấy bị cắt cổ; ông ấy bị hành hạ nhiều nhất. Nhưng đó là giả thuyết, không phải sự việc. Nếu chúng ta biết gia đình này đã bị giết theo trật tự gì thì cũng sẽ giúp được cho chúng ta nhưng người giám định pháp y lại không thể nói rõ điều đó; ông ấy chỉ biết các vụ giết người đã xảy ra vào một lúc nào đó giữa mười một giờ đêm thứ Bảy và hai giờ sáng Chủ nhật.” Rồi, trả lời câu hỏi, Dewey nói không có, không người đàn bà nào bị “làm nhục về xác thịt” và, không, như hiện tình chúng tôi được biết thì không có gì bị lấy trộm, vâng, ông nghĩ, trong vòng tám tiếng trước khi chết, ông Clutter đã nộp bốn chục nghìn đô la tiền bảo hiểm với mức bồi thường gấp đôi, đấy chỉ là việc “thuần túy ngẫu nhiên”. Nhưng Dewey “chắc như đinh đóng cột” rằng việc này với vụ án không liên quan; làm sao có liên quan được khi mà những người duy nhất hưởng lợi về tài chính là hai người con còn sống của Clutter, người con gái cả, bà Donald Jarchow và cô Berverly Clutter? Vâng, ông bảo các phóng viên, ông cũng có ý kiến của ông về chuyện vụ án mạng này là do một hay nhiều người làm, nhưng lúc này ông không muốn lộ ra.
Đúng là lúc này, về vấn đề này, Dewey còn lưỡng lự. Ông vẫn giữ hai ý - hay để dùng từ của ông, hai “quan niệm” - và trong khi tái dựng vụ án, ông đã phát triển cả “quan niệm sát nhân đơn” lẫn “quan niệm sát nhân kép”. Trong quan niệm thứ nhất, kẻ sát nhân được coi là một người bạn của gia đình, hoặc dù thế nào thì cũng là một người có hiểu biết nhiều hơn mức qua loa về ngôi nhà và những người sống trong đó - một người biết rằng các cửa rất ít khi khóa, rằng ông Clutter ngủ một mình trong phòng ngủ ở tầng trệt, rằng bà Clutter và các con ngủ ở các phòng riêng trên tầng ba. Kẻ này, Dewey tưởng tượng như thế, đi bộ đến ngôi nhà, chắc vào khoảng nửa đêm. Cửa sổ tối om, nhà Clutter ngủ yên, còn về con Teddy, con chó giữ nhà thì, đúng, Teddy nổi tiếng là sợ súng mà. Trông thấy vũ khí của bọn đột nhập, chắc nó đã co rúm lại, rên rỉ bỏ đi. Vào trong nhà, tên sát nhân sờ trước tiên đến điện thoại - một ở trong phòng làm việc của ông Clutter, một ở trong bếp - rồi sau khi cắt đứt dây điện, hắn đã vào phòng ngủ ông Clutter đánh thức ông dậy. Trong tay người khách lạ có súng, ông Clutter buộc phải nghe theo - buộc phải đi với hắn lên tầng ba, tại đó họ đánh thức cả nhà dậy. Rồi, bằng dây thừng và băng dính do tên sát nhân đưa cho, ông Clutter đã trói và dán miệng vợ mình lại, trói con gái lại (cô không bị dán miệng, điều không thể giải thích được) rồi trói họ vào giường của họ. Sau đó, bố và con trai bị giải xuống tầng hầm, ở đấy ông Clutter bị buộc phải dán miệng rồi trói Kenyon vào đi văng ở phòng giải trí. Rồi ông Clutter bị dẫn đến phòng lò sưởi, bị đánh vào đầu, dán miệng rồi bị trói gô cả chân lẫn tay. Bây giờ thả cửa làm gì tùy thích, tên sát nhân đã giết họ lần lượt từng người, lần nào cũng cẩn thận nhặt lại vỏ đạn. Khi làm xong việc, hắn tắt hết đèn rồi bỏ đi.
Có thể chuyện đã xảy ra theo cách đó; chỉ là có thể. Nhưng Dewey có những ngờ vực: “Nếu Herb nghĩ gia đình mình lâm nguy, nguy đến tính mạng, thì ông ấy đã chiến đấu như một con cọp rồi. Và Herb không yếu - một người khỏe vào loại hàng đầu. Kenyon cũng vậy - cao lớn như bố, một cậu trai vai to bè. Khó lòng hiểu làm thế nào mà một người, có vũ khí hay không, lại khống chế nổi được hai bố con nhà ấy.” Hơn nữa, có lý do để giả định rằng cả bốn đều bị một người trói: trong cả bốn ca đều một kiểu nút buộc như nhau, nút đơn.
Dewey - và đa số đồng nghiệp của ông cũng thế - thiên về giả thiết thứ hai, giả thiết này, ở nhiều mặt chủ yếu đi theo giả thiết thứ nhất, điểm khác quan trọng là tên sát nhân không chỉ hành động một mình mà có một tên tòng phạm giúp hắn khống chế gia đình này, dán băng miệng và trói họ lại. Nhưng, là một giả thuyết, nó cũng có khiếm khuyết. Chẳng hạn, Dewey thấy khó mà hiểu “Làm thế nào hai cá nhân lại có thể cùng đạt tới trình độ điên rồ như nhau, loại điên rồ tâm thần bệnh hoạn cần phải có để gây ra được một tội ác như thế này.” Ông tiếp tục giải thích: “Cứ cho rằng tên sát nhân là người biết gia đình này, một thành viên của cộng đồng này; cứ cho rằng hắn là người bình thường, bình thường trừ phi hắn có một cái gì đặc biệt, một mối ác cảm điên rồ chống lại nhà Clutter hay với một người nhà Clutter - nhưng hắn tìm đâu ra một người cùng làm, một ai đó đủ điên rồ để giúp hắn? Giả thiết này không vững. Nó vô lý. Nhưng tiếp cận tắp lự vào vấn đề thì cũng lại chẳng cái gì là có lý cả.”
Sau cuộc họp báo, Dewey về văn phòng, một gian buồng mà ông cảnh sát trưởng cho ông mượn tạm. Một bàn giấy và hai ghế dựa thẳng. Bàn giấy ngổn ngang những thư mà Dewey hy vọng một ngày nào đó sẽ được đem ra làm tang vật ở tòa án: băng dính cùng những thước dây cởi ở người các nạn nhân ra lúc này đựng trong những túi bằng chất dẻo niêm phong (là tang vật thì chẳng thứ nào có vẻ hứa hẹn vì tất cả đều là những mặt hàng phổ biến, ở Mỹ mua đâu cũng có), và các tấm ảnh một nhiếp ảnh viên cảnh sát chụp hiện trường vụ án - hai mươi tư tấm phóng to, nước ảnh láng bóng chụp cái đầu vỡ toác của ông Clutter, khuôn mặt bị hủy hoại của con trai ông, đôi tay bị trói của Nancy, đôi mắt vẫn mở trừng trừng, dại đi vì cái chết của mẹ cô, vân vân. Những ngày tới đây, Dewey phải xem xét những tấm ảnh này hàng giờ, hy vọng mình có thể “thình lình nhòm ra được một cái gì”, từ đó một chi tiết có ý nghĩa tự nó sẽ cung khai ra: “Giống như các trò ghép hình kia thôi. Những loại câu hỏi, ‘Bạn tìm ra được bao nhiêu giống vật trong bức vẽ này?’ Theo cách nào đó, chính đấy là điều tôi đang cố làm đây. Tìm ra những con vật ẩn núp. Tôi cảm thấy chúng ở đấy - giá như mà tôi nhìn ra chúng.” Như một sự thật hiển nhiên, một trong những tấm ảnh, một bức chụp cận cảnh ông Clutter và cái thùng đựng đệm mà ông nằm đè lên, đã hé ra một điều ngạc nhiên có giá trị: những vết chân, những vết giày bụi bặm đế có khía hình kim cương. Những vết này, không để ý thấy được bằng mắt thường, đã được ghi lại lên trên phim nhựa; quả thật, ánh chớp của đèn chụp để làm nổi bật đường nét đã làm lộ ra chính xác tuyệt vời sự có mặt của chúng. Những vết chân đó, cùng với một vết chân khác tìm thấy cũng ở trên nắp hộp các tông - một dấu hằn rõ ràng, thấm máu của một nửa đế giày Móng Mèo - là những “đầu mối quan trọng” duy nhất mà các điều tra viên có thể công bố. Không phải họ đang công bố; Dewey và đội của ông đã quyết định giữ bí mật bằng chứng này.
Trong nhiều thứ khác trên bàn làm việc của Dewey có cuốn nhật ký của Nancy Clutter. Ông đã liếc qua, không nhiều hơn, và nay ông đang ngồi xuống để đọc kỹ từng ghi chép hằng ngày, bắt đầu từ sinh nhật lần thứ mười ba của cô và chấm dứt hai tháng sớm hơn sinh nhật thứ mười bảy; những dòng tâm sự không giật gân gì cả của một cô gái thông minh yêu loài vật, thích đọc sách, nấu nướng, khâu vá, khiêu vũ, cưỡi ngựa - một cô gái trinh bạch, xinh đẹp, được nhiều người yêu mến, từng nghĩ “con trai con gái tán tỉnh nhau thì ngộ đấy” nhưng dù sao cũng “chỉ thật sự và thật lòng yêu có Bobby thôi”. Dewey đọc dòng ghi cuối cùng trước. Gồm ba dòng, viết trước khi cô chết một hay hai giờ: “Jolene K. đến và tôi đã chỉ em cách làm bánh anh đào. Tập nhạc với Roxie. Bobby ở đây, chúng tôi xem ti vi. Về lúc mười một giờ.”
Cậu Rupp non trẻ, được biết là người cuối cùng nhìn thấy cả gia đình họ còn sống, phải qua một cuộc thẩm vấn dài lê thê, và tuy cậu thẳng thắn kể lại là mình đã qua “đúng một buổi tối bình thường” với nhà Clutter, cậu được báo trước có cuộc hỏi cung thứ hai, lần này người ta sẽ cho kiểm tra cậu bằng máy dò nói dối. Rõ ràng là cảnh sát chưa sẵn sàng loại cậu ra khỏi danh sách những người bị tình nghi. Bản thân Dewey không tin cậu con trai này “có dính dáng tí nào vào đó”; nhưng ở bước đầu cuộc điều tra thì Bobby đúng là người duy nhất có thể bị gán cho một động cơ, dù nhỏ nhặt. Đây đó trong nhật ký, Nancy nhắc tới tình hình mà người ta giả định là đã tạo nên động cơ: ông bố đòi cô và Bobby “cắt đứt”, đừng “gặp nhau quá nhiều”, ông phản đối vì nhà Clutter theo dòng đạo Giám lý còn nhà Rupp thì Cơ đốc giáo - một hoàn cảnh mà theo con mắt ông đã loại bỏ bất cứ hy vọng nào về chuyện cưới xin của cặp trai gái. Nhưng ghi chép trong nhật ký làm cho Dewey phân vân nhất lại không liên quan đến cái ngõ cụt Clutter-Rupp, Giám lý - Cơ đốc. Đúng hơn là nó liên quan tới một con mèo, cái chết bí ẩn của Boobs, con mèo Nancy cưng, con mèo mà, theo như ghi chép trước khi cô chết hai tuần, cô đã tìm thấy “nằm trong nhà kho”, nạn nhân, hay là cô nghĩ thế (mà không nói lý do) của một kẻ đánh bả: “Boobs tội nghiệp, Tôi đã chôn nó tại một nơi đặc biệt.” Đọc tới đây, Dewey cảm thấy đây có thể là “rất quan trọng”. Nếu con mèo dính bả, thì cái việc đánh bả đó có thể là một dạo đầu nho nhỏ, ma quái cho các vụ án mạng hay không? Ông quyết định phải tìm ra “cái chỗ đặc biệt” Nancy chôn con mèo yêu, cho dù có phải cày xới cả cái vùng Trại Lũng Sông rộng rãi này lên.
Trong khi Dewey bận bịu với cuốn nhật ký, những trợ lý chính của ông, các đặc vụ Church, Dunzt, Nye lại đang đảo dọc đảo ngang cả vùng quê, nói chuyện, như Dunzt nói, “với bất cứ ai có thể nói cho chúng tôi bất cứ cái gì”: bộ phận giáo viên của Trường Holcomb, nơi cả Nancy lẫn Kenyon đều là học sinh hạng A, được bằng khen danh dự; những người làm mướn cho Trại Lũng Sông (vào mùa xuân và mùa hè đôi khi lên tới mười tám người nhưng trong lúc nông nhàn hiện nay thì chỉ có Gerald Van Vleet và ba người nữa, trong đó có bà Helm); bạn bè của các nạn nhân, hàng xóm láng giềng; và, rất đặc biệt, họ hàng của họ. Xa gần khắp nơi khoảng hai chục người họ hàng đến dự tang lễ tổ chức và sáng ngày thứ Tư đã có mặt.
Người trẻ nhất trong nhóm K.B.I., Harold Nye, một người ba mươi tư tuổi, nhỏ bé, hăng hái, với đôi mắt ngờ vực không lúc nào yên và cái mũi, cái cằm, đầu óc sắc nhọn, đã được giao cho cái việc ông gọi là “tế nhị chết rấp” - phỏng vấn họ hàng nhà Clutter: “Việc đó thật khổ tâm cho ta và khổ tâm cho cả họ. Khi đã là chuyện án mạng thì ta không thể kính trọng nỗi đau buồn. Hay sự riêng tư thầm kín. Hay tình cảm cá nhân. Ta phải đặt ra những câu hỏi. Và một số câu bập vào tới ruột gan.” Nhưng không người nào anh thẩm vấn, không câu hỏi nào anh đặt ra (“Tôi đang khám phá bối cảnh tình cảm. Tôi nghĩ câu trả lời có thể là một người phụ nữ khác - một cuộc tình tay ba. Vâng, hãy xem: ông Clutter vẫn còn khá trẻ, rất khỏe mạnh, nhưng vợ ông lại bị nửa tàn phế, bà ngủ riêng...”) đã cho ra thông tin có ích; ngay hai cô con gái sống sót cũng không thể gợi ra một lý do cho vụ án. Tóm lại, Nye chỉ biết thế này: “Trong số mọi người ở khắp thế giới này, gia đình Clutter xem ra là ít có khả năng bị giết nhất.”
Cuối ngày, khi ba nhân viên được triệu tập tới văn phòng của Dewey, tình hình hóa ra là Dunzt và Church đã may mắn hơn Nye - chú Nye, như người khác gọi anh. (Người của K.B.I. thịnh dùng biệt hiệu; Dunzt được gọi là Ông Già - không công bằng, vì ông chưa đầy năm chục tuổi, một người lực lưỡng mau chân lẹ tay với bộ mặt to bản của mèo đực, và Church, trạc sáu chục hay hơn, da hồng đỏ nom dáng chuyên nghiệp nhưng “dữ dằn” theo như lời các đồng nghiệp, và “người rút súng nhanh nhất bang Kansas”, thì được gọi là Quăn, bởi lẽ đầu ông bị hói một phần). Cả hai trong quá trình thẩm vấn đã nhặt được “những đầu mối hứa hẹn”.
Chuyện của Dunzt liên quan đến một người bố và một người con trai, những người sẽ được biết đến ở đây với tên John Già và John Trẻ. Mấy năm trước John Già đã có một vụ làm ăn nhỏ với ông Clutter, kết quả là John Già phát bực vì cảm thấy Clutter đã vứt “tiền giả” cho mình. Bây giờ cả John Già lẫn John Trẻ đều “nhậu nhẹt túy lúy”; quả thật, John Trẻ là một gã bợm nhậu hay bị bắt giam. Một ngày không may nọ, bố con nhà John, đầy dũng khí whiskey, đã xuất hiện ở nhà Clutter với ý định “thanh toán cái nợ đó với Herb”. Dịp may của hai người này đã bị khước từ vì ông Clutter, một người kiêng khem chống lại gay gắt việc uống rượu và những kẻ say bét nhè, đã cầm lấy một khẩu súng mà điệu hai bố con ra khỏi địa phận nhà mình. Sự bất nhã này bố con John không tha thứ được; mới một tháng trước đây, John Già đã bảo một người quen: “Mỗi lần nghĩ tới thằng chó đẻ ấy, bàn tay tôi lại bắt đầu giật lên đùng đùng. Tôi đang muốn choảng nó đây.”
Đầu mối của Church về bản chất cũng tương tự. Cũng thế, ông đã nghe nói đến một người được thừa nhận là thù địch với ông Clutter: một ông Smith nào đấy (tuy đây không phải là tên thật của ông ta), tin rằng chủ nhân của Trại Lũng Sông đã bắn chết con chó săn của mình. Church đã kiểm tra trại của Smith và tìm thấy ở đấy, treo trên một cái rui nhà kho, một đoạn dây thừng có kiểu nút giống như nút đã được dùng để trói bốn người nhà Clutter.
Dewey nói, “Một trong những người đó có thể là đầu mối của chúng ta đấy. Một chuyện cá nhân - một mối ác cảm không kiềm chế nổi.”
“Trừ phi đây là một vụ cướp,” Nye nói, tuy động cơ cướp của đã được thảo luận kha khá và ít nhiều đã bị gạt đi. Các luận điểm chống lại nó đều hợp lý, cái mạnh nhất là việc ông Clutter ghét trả tiền mặt đã thành chuyện đầu lưỡi ở tỉnh này; ông ấy không có két sắt và không bao giờ mang những khoản tiền lớn theo mình. Cũng thế, nếu giải thích là cướp của thì tại sao kẻ cướp lại không tháo đi nữ trang bà Clutter đeo trên người - một lắc cưới và một nhẫn kim cương? Nhưng Nye chưa chịu khuất phục: “Kiểu bố trí này sặc mùi ăn trộm, về cái ví của Clutter thì thế nào? Một người nào đó để nó mở phanh rỗng không ở trên giường Clutter - tôi nghĩ không phải người chủ cái ví. Và cái túi tay của Nancy nữa? Cái túi đó nằm trên sàn nhà. Sao nó lại ở đấy? Đúng, và chẳng còn lấy một đồng một chữ nào ở trong nhà. À - hai đô la, được. Chúng ta tìm thấy hai đô la trong một cái phong bì đặt trên bàn học của Nancy. Và chúng ta biết Clutter đã trả một tấm séc sáu chục đô la trước đó một hôm. Chúng ta tính có lẽ còn ít nhất năm chục nữa trong nhà. Cho nên một vài người mới nói, ‘Chẳng ai lại đi giết bốn nhân mạng vì năm chục đô la.’ Và nói, ‘Đúng thôi, có thể tên giết người đã lấy tiền đi - nhưng chính là để cố đánh lừa chúng ta, làm cho chúng ta nghĩ lý do là ăn cướp,’ tôi nghĩ như vậy.”
Trời đã tối, Dewey ngừng cuộc hội ý để gọi điện về nhà cho vợ ông, Marie, báo rằng ông sẽ không về ăn tối. Bà nói, “Vâng. Được thôi, Alvin,” nhưng ông để ý thấy trong giọng bà có vẻ lo lắng không quen thuộc. Vợ chồng Dewey, bố mẹ của hai đứa con trai, cưới nhau mười bảy năm nay, và Marie người quê bang Louisiana, nguyên tốc ký viên của F.B.I., người mà ông đã gặp khi đóng ở New Orleans, đồng cảm với những gian nan của nghề nghiệp ông - giờ giấc quái gở, những cú điện thoại triệu tập ông thình lình đến những vùng xa xôi của bang.
Ông nói, “Có sao không?”
“Không sao cả,” bà làm ông yên lòng. “Có điều, đêm nay khi anh về, anh sẽ phải bấm chuông đấy nhé. Em cho thay hết khóa rồi đấy.”
Bấy giờ ông đã hiểu, liền nói, “Chớ lo, em cưng. Cứ khóa hết cửa nẻo lại và bật đèn cổng.”
Sau khi ông đặt máy xuống, một đồng nghiệp hỏi, “Có gì lôi thôi không? Marie sợ à?”
“Con khỉ, ừ,” Dewey nói. “Cô ấy, và tất cả mọi người.”
Không phải tất cả. Chắc chắn không phải bà quả phụ chánh bưu điện Holcomb, bà Myrtle Clare gan dạ từng chế giễu đám dân cùng thị trấn với bà là “một lũ thỏ đế run rẩy trong đôi ủng, sợ đến nhắm cả mắt mũi lại”, và nói về bản thân, “Còn gái già này, nó vẫn cứ ngủ nghê tốt như thường. Ai muốn giở trò bịp với tôi thì cứ thử xem.” (Mười một tháng sau, chiếu theo đúng tuyên bố của bà, một toán cướp cầm súng đeo mặt nạ ập vào văn phòng bưu điện, nẫng mất của bà chín trăm năm chục đô la). Như thường lệ, khái niệm của bà Clare trùng với khái niệm của rất ít người. Theo ông chủ một cửa hàng ngũ kim ở Garden City thì, “Quanh đây, khóa và chốt cài là mặt hàng chạy nhất. Người ta mua bất cần nhãn hiệu; chỉ cốt sao chắc là được.” Dĩ nhiên, óc tưởng tượng có thể mở được bất cứ cửa nào - vặn khóa và để cho nỗi kinh hoàng bước thẳng vào nhà. Thứ Ba, lúc sáng sớm, một xe đầy nhóc dân săn trĩ từ Colorado đến - những dân lạ lẫm, không biết đến tai họa của địa phương - đã sửng sốt bởi điều họ trông thấy khi băng ngang các đồng cỏ hay đi qua Holcomb: cửa sổ chói chang, gần như mọi cửa sổ của mọi nhà, và trong các gian phòng đèn sáng quăng quắc đầy những người, thậm chí toàn gia, ăn mặc đủ lệ áo quần, ngồi suốt đêm thức trắng, theo dõi, nghe ngóng. Họ sợ cái gì thế? Nó “có thể lại xảy ra.” Đó là câu trả lời quen thuộc, với đôi chút khác nhau. Nhưng một phụ nữ, một cô giáo, đã nhận xét, “Cảm giác ấy lẽ ra không lên cao bằng được một nửa thế này nếu chuyện kia xảy ra với bất kỳ ai, trừ nhà Clutter. Ai đó ít được ngưỡng mộ hơn. Giàu có. An toàn. Nhưng nhà đó tiêu biểu cho một cái gì mà người quanh đây thật sự đánh giá cao và kính trọng, và một điều như thế rất có thể cũng xảy ra với họ - chậc, chả khác gì nghe nói là không có Chúa vậy. Nó làm cho cuộc đời có vẻ như vô vị. Tôi nghĩ cái chính không phải là người ta sợ quá mà cái chính là suy sụp quá.”
Một lý do khác, lý do đơn giản nhất, lý do xấu nhất, là sự kết đoàn yên bình của những hàng xóm láng giềng và bầu bạn lâu ngày từ xưa đến nay bất thình lình phải chịu đựng cái chuyện chưa từng có này: mất tin tưởng ở nhau, âu cũng có thể hiểu được, họ tin rằng kẻ giết người là ai đó trong số họ và ai ai cũng tán thành ý kiến do Arthur Clutter, một người anh em của người quá cố đưa ra trong khi chuyện trò với cánh báo chí ở gian sảnh của khách sạn Garden City hôm 17 tháng Mười một, “Cứ để chuyện này sáng tỏ rồi xem, tôi xin cược rằng bất kỳ ai mà làm chuyện đó hẳn phải là người sống ở cách chỗ chúng ta đang đứng đây có mười dặm.”
Khoảng bốn trăm dặm về phía Đông nơi Arthur Clutter đứng lúc đó, hai gã trẻ tuổi đang ngồi chung trong một cái khoang nhỏ của Nhà Chim Ó, một quán ăn rẻ tiền tại Kansas City. Một gã - mặt hẹp, tay phải xăm một con mèo màu lam - đã ngốn sạch nhiều chiếc bánh kẹp gà quay xà lách và bây giờ thì liếc vào phần của bạn đường: một bánh tròn kẹp pa tê còn nguyên vẹn và một cốc bia không cồn có khuấy ba viên aspirin.
“Perry, cưng,” Dick nói, “cậu không muốn cái bánh này chứ gì. Tớ ăn nha.”
Perry đẩy cái đĩa sang. “Chúa ơi! Cậu không để tớ tập trung nghĩ ngợi được à?”
“Cậu chẳng việc gì phải đọc đến những năm chục lượt như thế.”
Một bài báo in trên trang nhất tờ Ngôi sao ở Kansas City ra ngày 17 tháng Mười một. Đầu đề: Ít manh mối trong vụ thảm sát bốn người, bài báo là bài tiếp theo mẩu tin sơ bộ hôm trước về vụ giết bốn người, kết thúc bằng một đoạn tóm lược như sau:
Đội điều tra phải đối mặt với cuộc tìm kiếm một tên sát nhân hay những tên sát nhân mà sự khéo léo là thật rõ ràng trong khi động cơ của hắn (hay của chúng) lại không. Vì tên giết người này hay những tên giết người: * Đã cẩn thận cắt dây hai chiếc điện thoại trong nhà. * Thành thạo trói và dán miệng các nạn nhân, với bằng chứng hiển nhiên là không hề có sự vật lộn giữa hai bên. * Không để lại một cái gì ở trong nhà, không để lại dấu vết là chúng đã tìm kiếm cái gì, ngoại trừ có thể là cái ví [của ông Clutter]. * Bắn bốn người tại bốn nơi khác nhau trong nhà, bình thản thu nhặt vỏ đạn. * Đến và đi, chắc có mang theo vũ khí, mà không hề bị trông thấy. * Hành động không có một động cơ nào, nếu như ta không tính đến một mưu toan ăn trộm bị thất bại, điều mà các điều tra viên vốn dĩ đã quen.
“Sai rồi đây này. Ngữ pháp ấy. Phải là ‘Vì tên giết người hay những tên giết người này’ mới đúng.” Perry đọc to lên. Nhâm nhi chỗ bia pha aspirin, hắn nói tiếp, “Dù gì tớ cũng không tin. Cả cậu cũng không. Thú thật đi, Dick. Hãy thật thà. Cậu không tin cái trò không có dấu vết này chứ?”
Hôm qua, sau khi nghiên cứu báo chí, Perry cũng đã đặt ra câu hỏi này, và Dick nghĩ là hắn quả quyết như thế (“Kìa. Nếu bọn cao bồi ấy tìm ra tí ti liên quan nào thì chúng ta đã nghe thấy tiếng vó ngựa từ xa cả trăm dặm rồi!”), nên nghe đã phát ngán. Quá ngán đến độ chẳng buồn phản đối khi Perry lại theo đuổi vấn đề này: “Tớ luôn luôn đặt cược vào linh cảm,” Dick nói. “Vì thế tớ còn sống đến hôm nay. Cậu biết Willie-Jay chứ? Hắn nói tớ là một ‘thầy đồng trời cho’, hắn hiểu những chuyện như vậy, hắn quan tâm. Hắn nói tớ có trình độ ‘ngoại cảm’ cao. Kiểu như có một máy ra đa lắp trong người vậy - mắt chưa nhìn thấy, cậu đã thấy trước rồi. Thấy đường nét những sự kiện sẽ tới. Thí dụ như anh tớ và vợ hắn. Jimmy và mụ vợ. Mê nhau như điếu đổ ấy, nhưng hắn lại ghen quá xá, làm mụ vợ hết chịu nổi, ghen rồi luôn luôn nghĩ là vợ lăng nhăng sau lưng mình đến nỗi mụ vợ tự bắn mình tự sát, hôm sau Jimmy cũng tự cho một viên đạn xuyên qua đầu. Khi chuyện đó xảy ra - năm 1949, tớ đang ở Alaska với bố tớ tận trên vùng Circle City - tớ bảo ông già, ‘Jimmy chết rồi.’ Tuần sau nhận được tin. Chúa báo sự thật cho mà. Một lần khác nữa, ở Nhật Bản, tớ giúp chất hàng xuống một con tàu và đang ngồi nghỉ tay. Thình lình trong người tớ có một tiếng nói: ‘Nhảy!’ Tớ nhảy liền, từ trên cao chắc phải ba mét, vừa đúng lúc một tấn hàng rơi đánh sầm xuống ngay tại chỗ tớ ngồi. Tớ có thể cho cậu hàng trăm thí dụ như thế. Tớ chẳng cần biết cậu tin hay không. Chẳng hạn, ngay trước khi bị tai nạn xe máy, tớ đã thấy toàn bộ cái vở đó diễn ra: nhìn thấy ở trong đầu tớ - trời mưa, trượt bánh, tớ nằm đó máu me, chân gãy rời. Như bây giờ tớ vẫn như thế ấy. Điềm báo trước. Một cái gì đó bảo tớ rằng đây là một cái bẫy.” Hắn đập tay vào tờ báo.“Một lô những lời nói lảng quanh co.”
Dick gọi một bánh kẹp pa tê nữa. Trong ít ngày qua, hắn bị một cơn đói mà chẳng cái gì - ba bít tết liền tù tì, một tá bánh đũa, nửa ký kẹo hồng - cắt nối được cơn. Về phần mình, Perry lại chẳng thiết ăn; hắn sống bằng bia, aspirin và thuốc lá. “Thảo nào cậu tính khí thất thường,” Dick bảo hắn. “Ồ, nào cưng. Đừng có sôi máu lên làm gì. Chúng ta vào cầu. Hoàn hảo mà.”
“Tớ ngạc nhiên thấy cậu mà lại nói như thế,” Perry nói. Giọng hắn bình thản làm nổi lên nét ác ý ở câu trả lời của hắn. Nhưng Dick chịu, thậm chí còn mỉm cười - và nụ cười của hắn là một đề nghị khôn khéo. Nó nói rằng tớ đây, đang nở nụ cười con trẻ đây, là một nhân vật rất có cá tính, một đứa rất đáng yêu, niềm nở, minh bạch mà ai cũng có thể tin cẩn. “O.K.,” Dick nói. “Có lẽ tớ đã có vài thông tin sai.”
“Đội ơn Chúa.”
“Nhưng nhìn chung thì hoàn hảo. Chúng ta đánh quả banh ra ngoài bãi. Nó mất tăm. Và nó cứ mất tăm như vậy thôi. Không có lấy một liên quan gì đặc biệt cả.”
“Tớ nghĩ có thể có một.”
Perry đã đi quá xa. Hắn còn đi xa hơn: “Floyd - có phải tên thế không nhỉ?” Một cú chơi xỏ, nhưng lúc này Dick đáng bị thế, tâm sự của hắn cứ như cái diều đang cần phải cuộn dây lại. Dẫu sao, Perry cũng hơi sờ sợ khi thấy những triệu chứng thịnh nộ đang bày biện lại vẻ mặt Dick: quai hàm, môi, cả khuôn mặt chùng lại; nước bọt hiện ra ở khóe miệng. Được, nếu chuyện đó xảy ra thì Perry có thể tự vệ được. Hắn thấp, thấp hơn Dick bảy tám phân và đôi cẳng khẳng khiu tàn tật của hắn là không thể trông cậy vào được, nhưng hắn nặng cân hơn bạn hắn, dày mình hơn, có hai cánh tay đủ sức ghì nghẹt thở một con gấu. Tuy nhiên, chứng minh chuyện đó - phải có đánh nhau, một trận ngã ngũ thật sự - thì không nên tí nào. Dù thích Dick hay không (và hắn không ghét Dick, tuy đã có lúc hắn thích gã nhiều hơn, kính trọng gã nhiều hơn), song nay rõ ràng là chúng không thể chia lìa nhau mà an toàn được. Chúng giống nhau ở điểm này, vì Dick từng nói, “Nếu chúng ta bị tóm thì nên là bị tóm cả hai. Lúc đó chúng ta có thể nâng đỡ nhau lên. Khi mà chúng bắt đầu giở trò thú nhận linh tinh, bảo là cậu nói thế này tớ nói thế kia.” Hơn nữa, nếu hắn cắt đứt với Dick thì có nghĩa là mục tiêu của các dự án vẫn cứ hấp dẫn Perry, và mặc dù những thận trọng ý tứ giữ gìn gần đây, nó vẫn được cả hai cho là khả thi - một cuộc đời trần truồng, lặn tìm kho báu sống với nhau ở giữa những hòn đảo hay dọc các bờ biển phía Nam biên giới.
Dick nói, “Ông Wells!” Hắn nhặt một cái nĩa lên. “Nó lẽ ra đáng cái này. Tựa như là tớ bị tóm về tội chống lại việc kiểm tra ấy. Nó lẽ ra đáng cái này. Chỉ là để quay lại vào đây.” Chiếc nĩa vút xuống đâm phập vào bàn. “Xuyên thấu hết tim, cưng ơi.”
“Tớ không nói là lão ta nên bị thế,” Perry nói, bây giờ đang muốn nhân nhượng khi mà cơn thịnh nộ của Dick đã dâng cao ở sát cạnh hắn và đánh vào chỗ khác. “Lão đã hãi quá.”
“Chắc rồi,” Dick nói. “Chắc chứ. Sợ quá chứ.” Thật kỳ diệu, đúng thế, cái sự dễ dàng đến lạ lùng khi Dick chuyển từ tính khí này sang tính khí kia; trong nháy mắt mọi dấu vết độc ác, bộ dạng sưng sỉa liền tan biến hết. Hắn nói, “Về cái món điềm báo trước kia. Nói tớ nghe cái này: nếu cậu cầm chắc sẽ bị gãy giò thì sao không cầu hòa với nó đi? Nếu cậu không dính vào cái xe máy thì đã không xảy chuyên gãy giò, đúng không?”
Đó là một bài đố mà Perry cứ loay hoay nghĩ. Hắn cảm thấy đã giải được, nhưng tuy đơn giản, lời giải vẫn cứ mù mờ thế nào đó: “Không. Vì khi mà một cái gì được định là sẽ xảy ra cho cậu rồi thì cậu chỉ còn mỗi cách là hy vọng nó đừng xảy ra. Hoặc tùy trời. Ngày nào cậu còn sống thì luôn có cái rình rập cậu, mà dù nó xấu thật, và cậu biết rõ nó xấu đi nữa thì cậu làm được gì? Cậu có ngừng sống được đâu? Giống như giấc mơ của tớ. Từ lúc còn chíp hôi, tớ vẫn chỉ có giấc mơ ấy. Tại cái chỗ tớ sống ở châu Phi. Một khu rừng. Tớ đi len giữa các cây cối đến cái cây đứng trơ trọi một mình. Chúa ơi, mùi nó mới thối chứ, cái cây ấy; nó thối kiểu gì mà làm cho tớ phát ốm lên được. Có điều, nhìn nó thì đẹp, lá xanh và đầy kim cương treo lủng liểng. Kim cương cứ như cam vậy. Vì thế tớ ở đó - nhặt mấy thúng kim cương. Nhưng tớ biết là ngay lúc tớ thử nhặt, lúc tớ vươn tay tới là một con rắn sẽ rơi vào tớ. Con rắn canh cái cây mà. Cái con chó đẻ béo quay ấy nó sống trên các cành. Tớ thấy trước cái đó chứ, thấy không? Và Chúa ơi, tớ không biết cách đánh nhau với rắn. Nhưng tớ hình dung ra được, tớ sẽ thử vận may của tớ. Cái rắc rối là tớ lại muốn kim cương hơn cả sợ rắn. Thế nên tớ nhặt lấy một viên, tớ có kim cương ở trong tay rồi, tớ kéo nó thì con rắn sà ngay vào đỉnh đầu tớ. Chúng tớ vật nhau nhưng nó là một con chó đẻ trơn nhẫy, tớ không sao túm được, nó quấn tớ lại, nó siết, cậu nghe được thấy cả chân tớ kêu răng rắc. Bây giờ đến cái đoạn mà nghĩ lại tớ còn toát hết mồ hôi. Xem xem, nó bắt đầu nuốt tớ. Nuốt chân trước. Như tụt vào chỗ cát lún vậy.” Perry ngập ngừng. Hắn không thể không thấy Dick đang bận nạy móng tay bằng cái răng nĩa, không để ý gì tới giấc mơ của hắn.
Dick nói, “Rồi sao? Con rắn nuốt cậu? Hay cái gì?”
“Chẳng sao. Không quan trọng.” (Nhưng nó quan trọng chứ! Cái kết rất là quan trọng, một nguồn vui riêng. Hắn đã có lần nói với gã bạn Willie-Jay của hắn; hắn đã tả cho gã bạn về con chim dữ tợn, “cái giống vẹt” màu vàng ấy. Dĩ nhiên, Willie-Jay thì khác - đầu óc tế nhị, “một bậc thánh.” Gã hiểu. Còn Dick? Gã lại có thể cười. Và điều đó thì Perry không cho phép: chế giễu con vẹt, con vẹt bay đầu tiên vào những giấc mơ của hắn khi hắn mới lên bảy, một đứa trẻ lai bị ghét bỏ và ghét bỏ mọi thứ, sống trong một trại trẻ mồ côi tại California do các nữ tu cai quản - những viên quản giáo giấu mặt quất roi vào người hắn vì hắn đái dầm. Chính là sau một trận đòn như thế, trận hắn không bao giờ quên được (“Mẹ ấy đánh thức tớ dậy. Mẹ ấy có chiếc đèn pin, mẹ ấy đánh tớ bằng cái đèn ấy. Đánh, đánh hoài. Khi cái đèn vỡ, mẹ ấy vẫn cứ đánh tớ tiếp trong bóng tối”), chính sau trận đó con vẹt đã xuất hiện, đến trong lúc hắn đang ngủ, một con chim “cao hơn Giê-su, vàng như hoa hướng dương”, một thiên thần-chiến binh mổ mù mắt đám tu sĩ, moi mắt chúng, giết chết chúng trong khi chúng lạy van “xin tha tội”, rồi rất nhẹ nhàng con chim nâng hắn lên, ủ bọc hắn, vỗ cánh đưa hắn lên “thiên đường”.
Năm tháng trôi đi, những cực hình mà con chim cứu hắn thoát ra kia đã thay đổi; những kẻ khác - đám trẻ con lớn hơn, bố hắn, một cô gái chẳng chút lòng tin, một sĩ quan hắn biết trong quân đội - thay vào chỗ các nữ tu sĩ, nhưng con vẹt thì vẫn nguyên vẹn, một người phục thù luôn bay quanh bên hắn. Thế là con rắn, kẻ canh giữ cây kim cương, chẳng bao giờ thôi nuốt hắn nhưng chính con rắn cũng lại luôn luôn bị nuốt. Rồi sau đó là một cuộc lên trời đầy ân sủng! Cuộc lên thiên đường mà trong dị bản này của Kinh Thánh chỉ là “một cảm giác”, một cảm thức về quyền uy, về sự ưu việt không gì công phá nổi mà trong một dị bản khác chúng lại được chuyển dịch tới “Một nơi đích thực. Như từ trong một cuốn phim mà ra vậy. Vì có lẽ đó chính là nơi tớ đã thấy nó - nhớ lại nó từ một cuốn phim. Bởi tớ còn có thể thấy ở đâu khác một cái vườn như thế chứ? Với những bậc tam cấp cẩm thạch trắng toát? Những vòi phun nước? Và tít bên dưới cùng kia, nếu cậu đi tới cuối khu vườn, cậu có thể nhìn thấy đại dương. Tuyệt vời! Hệt như ở quanh vùng Carmel, California vậy. Tuy cái hay nhất - đúng, là cái bàn ăn dài, dài ơi là dài. Cậu không tưởng tượng được lắm thức ăn đến thế đâu. Sò huyết. Gà tây. Bánh kẹp xúc xích. Hoa quả thì cậu có thể đựng được vào hàng triệu cái đĩa bồn ấy chứ. Và nghe này - cái gì cũng tha hồ. Ý tớ nói là tớ có thể đụng vào đấy mà chẳng phải sợ cái gì. Ăn được bao nhiêu tùy thích mà chẳng tốn một xu. Cái đó cho tớ biết là tớ đang ở đâu.”)
Dick nói, “Tớ là người bình thường. Chỉ mê thấy gái tóc vàng. Ấy, nói đến chuyện này, cậu có nghe đến cơn ác mộng của thằng dê già bao giờ chưa?” Dick là như thế đấy - về bất cứ vấn đề gì hắn luôn luôn có sẵn một câu chuyện tục. Nhưng món ấy hắn kể hay, và Perry, tuy là người trong chừng mực nào đó nghiêm túc, vẫn không nín được cười, như thường lệ.
Nhắc đến tình bạn với Nancy Clutter, Susan Kidwell nói, “Chúng cháu như chị em. Ít nhất là cháu cảm thấy như thế với bạn ấy - tựa như bạn ấy là chị cháu. Cháu không thể đi học được - không phải mấy ngày ban đầu kia đâu. Cháu không đến trường mãi cho đến sau tang lễ. Bobby Rupp cũng thế. Một dạo Bobby và cháu luôn ở bên nhau. Cậu ấy hay lắm - cậu ấy tốt bụng - nhưng trước đó chưa hề có cái gì ghê gớm như thế xảy đến với cậu ấy. Như mất đi một người cậu ấy yêu quý. Rồi trên hết nữa, lại còn bị kiểm tra bằng máy dò nói dối. Cháu không nói là cậu ấy cay đắng về chuyện ấy, cậu ấy hiểu là cảnh sát làm những cái họ cần làm. Một vài điều gay go, hai hay ba gì đó đã xảy ra với cháu, nhưng với cậu ấy thì không, cho nên khi nhận ra cuộc đời có lẽ không phải là một cuộc chơi bóng rổ dài dài thì cậu ấy bị choáng. Phần lớn thời gian chúng cháu lái chiếc Ford cũ của cậu ấy đi loanh quanh. Lên rồi xuống xa lộ. Ra sân bay rồi quay về. Hay chúng cháu tới Cree-Mee - quán ăn phục vụ tận xe - ngồi trong xe, gọi một lon Coke, nghe rađiô. Rađiô cứ mở miết, chúng cháu chả có gì để nói về mình. Trừ mọi lần Bobby nói cậu ấy yêu Nancy biết bao và vì sao cậu ấy không thể chú ý đến những đứa con gái khác. Vâng, cháu chắc là Nancy không muốn như thế và cháu bảo cậu ấy như thế. Cháu nhớ - cháu nghĩ hôm đấy thứ Hai - chúng cháu lái xe ra sông. Chúng cháu đỗ xe trên cầu. Ở đấy có thể nhìn thấy căn nhà - nhà Clutter. Và một phần đất - vườn cây của ông Clutter và đồng lúa mì trải dài ra. Ở một thửa đồng có đống lửa đang cháy; họ đang đốt đồ dùng của nhà Nancy. Nhìn vào đâu cũng gợi cho ta nhớ lại cái gì đó. Những người mang sào và lưới đang câu dọc bờ sông, nhưng không phải để lấy cá. Bobby nói họ đang tìm vũ khí. Con dao. Khẩu súng.
Nancy yêu con sông. Những đêm hè, chúng cháu quen cưỡi chung trên con ngựa của Nancy - Babe - con ngựa già và béo ấy. Đi thẳng ra sông rồi thẳng luôn xuống nước. Rồi Babe lội đến một chỗ nông trong khi chúng cháu thổi sáo và hát. Bị cảm lạnh. Cháu vẫn nhớ, trời, bạn ấy, con Babe ấy, nay ra sao? Một bà ở Garden City lấy con chó của Kenyon. Lấy con Teddy. Nó bỏ chạy - tìm được đường về Holcomb. Nhưng bà ta lại đến đem nó đi. Và cháu thì có con mèo của Nancy - Evinrude. Nhưng còn Babe. Cháu cho là họ đã bán nó đi rồi. Liệu Nancy có ghét thế không? Liệu Nancy có giận điên lên với việc ấy không? Một hôm khác, hôm trước tang lễ, Bobby và cháu ngồi bên đường sắt xe lửa. Nhìn các chuyến tàu đi qua. Ngốc thật. Như con cừu trong bão tuyết. Thình lình Bobby sực tỉnh nói, ‘Chúng ta phải ở với bạn ấy. Chúng ta phải ở bên Nancy.’ Thế là chúng cháu lại đến Garden City - đi đến Nhà Tang lễ Phillip, ở trên Phố Chính. Hình như có cậu em của Bobby đi cùng với chúng cháu. Đúng, chắc chắn là có cậu ta. Vì cháu nhớ chúng cháu vẫn đến trường đón cậu ta mà. Và cháu nhớ cậu ta nói mai trường cho trẻ con ở Holcomb nghỉ học đi dự tang lễ. Và cậu ta không ngừng nói đám trẻ con nghĩ gì. Cậu ta nói chúng tin chắc việc này là do một ‘kẻ giết mướn’ làm. Cháu không muốn nghe mấy thứ ấy. Toàn đồn đại và chuyện phiếm - những thứ mà Nancy ghét. Dù gì cháu cũng không quan tâm kẻ nào làm chuyện đó. Không hiểu sao cháu thấy chuyện đó chẳng có ích lợi gì. Bạn cháu đã chết. Biết kẻ giết bạn ấy cũng không đem được bạn ấy trở về. Có gì khác quan trọng hơn nữa? Họ không để chúng cháu vào. Cháu muốn nói là ở phòng chờ tang lễ ấy. Họ nói không ai được ‘nhìn gia đình’. Trừ họ hàng. Bobby năn nỉ và cuối cùng ông làm dịch vụ tang lễ - ông ta biết Bobby, và cháu đoán ông ấy thấy thương hại cho cậu ấy - nói được, hãy giữ im lặng, cứ vào đi. Bây giờ cháu lại mong giá chúng cháu đừng vào.”
Bốn cỗ áo quan, để chật phòng tang lễ nho nhỏ đầy những vòng hoa, đã được đóng kín để tiến hành nghi lễ - rất dễ hiểu, vì dù người ta đã bỏ công sửa sang cho bề ngoài các nạn nhân, song hiệu quả khi thực hiện xong vẫn làm ta ngao ngán. Nancy mặc bộ váy nhung màu đỏ anh đào, Kenyon một sơ mi vải Ê-cốt; bố mẹ thì ăn mặc đơn giản hơn, ông Clutter với bộ bằng len flanen xanh dương, vợ ông trong bộ váy bằng crép xanh dương; và - và đặc biệt, chính điều này đã đem lại cho quang cảnh một không khí đáng sợ - đầu cả hai đều bọc kín bông gòn, một con kén sưng phồng to gấp hai lần một quả bóng hơi, và do được phun một chất bóng thành thử bông gòn lấp lánh y như tuyết cây Nôen.
Susan lập tức lui lại. “Cháu ra chờ ở ngoài xe,” cô nhớ lại. “Bên kia đường một người đang quét lá. Cháu cứ nhìn ông ấy. Vì cháu không muốn nhắm mắt. Cháu nghĩ, nếu nhắm mắt là cháu ngất. Cho nên cháu cứ nhìn người ấy quét và đốt lá. Nhìn nhưng thật ra không thấy ông ta. Vì tất cả những gì cháu thấy chỉ là bộ váy. Cháu biết nó quá rõ. Cháu giúp Nancy chọn chất liệu mà. Nancy tự thiết kế và may nó. Cháu nhớ bạn ấy hoan hỉ như thế nào khi lần đầu mặc nó. Ở một buổi liên hoan. Cháu chỉ còn nhìn thấy bộ nhung đỏ thắm của Nancy. Đang khiêu vũ.”
Tờ Ngôi sao ở Kansas City đăng một bài tường thuật dài về đám tang nhà Clutter, nhưng khi Perry, nằm ườn trên giường trong phòng khách sạn đọc tới thì tờ báo đã cũ mất hai ngày. Cho dù thế hắn cũng chỉ lướt qua, nhảy cóc các đoạn như: “Một nghìn người, đám đông lớn nhất trong lịch sử năm năm của Nhà thờ Giám lý Thứ nhất, đã dự lễ tang bốn nạn nhân ngày hôm nay... Nhiều bạn của Nancy ở Trường cấp III Holcomb đã khóc khi Đức Cha Leonard Cowan nói: ‘Chúa ban cho chúng ta lòng dũng cảm, tình yêu và hy vọng cho dù chúng ta đang đi xuyên qua bóng tối âm u của thung lũng chết chóc. Tôi tin rằng Chúa đã ở bên họ trong những giờ phút cuối cùng. Giê-su không bao giờ hứa hẹn với chúng ta là chúng ta sẽ không phải đau đớn và buồn phiền nhưng Chúa luôn luôn nói Chúa sẽ ở đó giúp chúng ta mang nỗi buồn và nỗi đau... Vào một cái ngày ấm áp trái mùa, khoảng sáu trăm con người đã đến nghĩa trang Cảnh Lũng ở đầu phía Bắc thành phố này. Ở đó, tại buổi lễ bên những nấm mồ, họ đọc kinh câu nguyện Đức Chúa cha. Giọng họ hợp lại thành một tiếng thầm thì trầm thấp đâu cũng nghe thấy được ở trong khắp nghĩa trang.”
Một nghìn người! Perry ngạc nhiên. Hắn tự hỏi không biết đám tang tốn mất bao nhiêu tiền. Tiền choán chỗ lớn trong đầu óc hắn, tuy không còn riết ròng như một ngày trước - cái ngày hắn đã bắt đầu “không phải trả giá cho tiếng meo meo của một con mèo”. Tình hình đã được cải thiện từ đây; nhờ Dick, hắn và Dick bây giờ đã có “một khoản vốn kha khá” - đủ để đưa chúng tới Mexico.
Dick! Êm ru. Lắm mánh. Đúng, vụ này phải giao cho hắn đi. Lạy Chúa, không thể tin được làm sao hắn lại “úm được một gã đực rựa” như thế chứ. Như gã bán hàng ở cửa hàng may mặc tại Kansas City, Missouri, chỗ đầu tiên Dick quyết định “ra đòn”. Còn như Perry, hắn không bao giờ thử “để qua kiểm tra” cả. Hắn hay bồn chồn, nhưng Dick đã bảo hắn, “Tớ chỉ cần cậu đứng đó. Cấm cười, cấm ngạc nhiên với bất cứ điều gì tớ nói ra. Cậu phải chơi các cái trò này bằng tai.” Hình như với cái nhiệm vụ đề ra này, Dick ở hàng tổ sư. Hắn vào nhẹ như gió, giới thiệu Perry đến là nhẹ tênh với người bán hàng, “bạn tôi đây sắp cưới vợ,” rồi tiếp tục, “Tôi là người thân nhất của anh ấy. Giúp anh ấy đại khái mua sắm loanh quanh các thứ áo quần. Ha ha, cái thứ ha ha - ông có thể nói là bộ mồi của chú rể ấy mà.” Người bán hàng “cắn câu ngay”, và Perry lập tức tụt chiếc quần jeans ra, thử một bộ sáng bóng mà người bán hàng coi là thứ “lý tưởng cho một lễ hội không nghi thức”. Sau khi bình luận cái thân hình có tỷ lệ kỳ dị của ông khách - phần trên quá cỡ, phần dưới hụt cỡ - ông ta nói thêm, “Tôi sợ rằng chúng tôi không có thứ gì thích hợp mà không cần phải sửa.” “Ồ,” Dick nói, “Cứ O.K. đi, chúng tôi nhiều thì giờ - đám cưới mãi ‘tuần sau cơ mà’.” Thỏa thuận xong, chúng liền chọn một bộ lòe loẹt được xem là thích hợp với cái Dick gọi là một tuần trăng mật ở Florida. “Ông biết Hòn Địa đàng không?” Dick nói với người bán hàng. “Ở bãi biển Miami ấy? Anh chị ấy đặt trước phòng ở đó rồi. Quà bố mẹ vợ tặng - hai tuần, mỗi ngày bốn chục đô. Anh bảo sao đây hả? Một gã cà nhắc xấu xí như anh ta, chả hiểu tán ngon tán ngọt thế nào chị chàng không chỉ chịu đổ mà còn sẵn lòng cống đủ thứ đồ cho nữa. Trong khi như ông và tôi, ngon lành tốt mã thế này...” Người bán hàng đưa hóa đơn. Dick cho tay vào túi sau, cau mày, búng ngón tay đánh tách một cái nói, “Chui cha! Quên ví mất rồi.” Điều này với Perry xem ra là một mánh quá yếu không “lừa nổi một thằng mọi mới một ngày tuổi”. Nhưng rõ ràng người bán hàng không tán thành ý kiến này vì anh ta chìa ra một ngân phiếu khống, rồi khi Dick ghi vào đó dôi ra đến tám chục đô so với tiền hóa đơn cộng lại thì anh ta bèn lập tức trả chỗ chênh bằng tiền mặt.
Ra ngoài Dick nói, “Vậy là tuần sau cậu lấy vợ hả? Được, cậu cần một cái nhẫn.” Ít lâu sau, ngồi trong chiếc Chevrolet cũ kỹ của Dick, chúng đến một cửa hàng tên gọi Kim hoàn Thượng hạng. Sau khi mua ở đây chiếc nhẫn đính hôn và dây kim cương cổ tay dùng cho đám cưới, chúng đến một nhà cầm đồ dể cho đi mấy khoản này. Perry buồn vì phải thấy chúng ra đi. Hắn đã bắt đầu tin một nửa vào cô dâu vờ, tuy hình dung của hắn về cô ta có trái với quan niệm của Dick, cô ta không giàu không đẹp, nhưng mà cô ta biết trang điểm xinh xắn, nói năng dịu dàng, được coi là “tốt nghiệp cao đẳng”, muốn gì thì cũng là “một nàng rất trí thức” - loại gái hắn luôn mong gặp gỡ nhưng trên thực tế thì chưa bao giờ.
Trừ phi nếu tính đến Cookie, cô y tá hắn quen khi bị tai nạn xe máy phải nằm bệnh viện. Một cô bé dịu dàng, Cookie ấy, và cô đã thích hắn, thương hắn, cưng hắn, gợi hứng cho hắn đọc “văn chương nghiêm chỉnh” - Cuốn theo chiều gió, Đây là người yêu dấu của em. Những chương hồi ăn nằm mang tính kỳ lạ và vụng trộm đã xảy ra, tình yêu đã được nhắc đến, cả hôn nhân nữa, nhưng cuối cùng, khi các vết thương lành, hắn chào từ biệt và tặng cô, thay cho lời giải thích, một bài thơ hắn nói là tự sáng tác:
Có một giống người không hợp với đời,
Một giống người không thể ngồi yên;
Cho nên họ làm cho bè bạn
Và họ hàng tan nát con tim;
Họ phỉ chí dọc ngang trần thế
Đi khắp các cánh đồng, lang thang
Khắp các triền sông
Và leo lên đỉnh núi cao;
Lời nguyền của họ là lời nguyền của dòng máu Gipxi[5]
Và họ không biết thế nào là nghỉ.
Nếu cứ thẳng tắp đi thì có thể họ sẽ đi xa;
Họ khỏe, họ can trường và họ thật;
Nhưng họ luôn mệt với những cái đang là thực tại,
Và họ mong cái mới cùng cái lạ.
Hắn không gặp lại cô nữa, không nghe cô hay người khác nói đến cô, nhưng nhiều năm sau hắn xăm tên cô lên cánh tay mình, và một lần, khi Dick hỏi là “Cookie” ai, hắn nói, “Không ai cả. Một cô gái tớ gần như đã lấy.” (Việc Dick đã hai lần lấy vợ và làm bố của ba đứa con là một điều hắn thèm muốn. Một người vợ, những đứa con - đó là kinh lịch mà “một người đàn ông phải trải”, dẫu là, với Dick, nó không hề “làm cho hắn được hạnh phúc hay lợi lộc gì”).
Mấy cái nhẫn cầm được một trăm năm chục đô la. Chúng lại vào một tiệm kim hoàn khác, tiệm Goldman, và lừng khừng ra khỏi đó với một chiếc đồng hồ vàng của đàn ông. Lần đỗ lại sau, ở một cửa hàng Camera Elko, nơi chúng “mua” một camera quay phim hiện đại. “Camera là khoản đầu tư tốt nhất của cậu đấy,” Dick bảo với Perry. “Món dễ cầm dễ bán nhất. Camer
Ngày thứ Hai, 16 tháng Mười một năm 1959 ấy vẫn là một tiêu bản đẹp của thời tiết săn trĩ trên bình nguyên cao trồng lúa mì miền Tây bang Kansas - một ngày vòm trời sáng huy hoàng, lấp lánh như mica. Những năm trước đây, vào những ngày này, Andy Erhart thường dành suốt nhiều buổi chiều dài săn trĩ ở Trại Lũng Sông, nhà của Herb Clutter, người bạn tốt của ông, và trong các buổi thể thao dã ngoại đó ông hay đi với ba người bạn thân nhất của Clutter: J. E. Dale, bác sĩ thú y, Carl Myers, chủ xưởng chế biến sữa, và Everett Ogburn, doanh nhân. Giống như Erhart, người phụ trách Trạm Thí nghiệm Nông nghiệp của Đại học Kansas, tất cả đều là những công dân nổi tiếng của Garden City.
Hôm nay, bộ tứ bạn săn lâu đời lại tụ tập làm một chuyến dã ngoại quen thuộc nhưng với một tinh thần chẳng hề quen thuộc, với những thiết bị kỳ quặc phi thể thao - tải lau sàn, xô thùng, bàn chải cọ rửa và một giỏ chất đầy những giẻ lẫn chất tẩy mạnh. Họ đều mặc những bộ quần áo cũ kỹ nhất. Vì cảm thấy đây là nghĩa vụ của mình, một bổn phận của người theo đạo Cơ đốc, những người này đã tình nguyện dọn dẹp sạch sẽ một số phòng trong số mười bốn phòng của ngôi nhà chính ở Trại Lũng Sông: những phòng đã có bốn người trong gia đình Clutter bị giết bởi “một hay nhiều kẻ chưa được nhận diện” như biên bản về cái chết của họ đã chứng thực.
Erhart và các bạn lái xe trong im lặng. Một người về sau nhận xét, “Chuyến đi làm cho cả bọn câm nín hết. Sự kỳ lạ của chuyến đi này. Đi ra ngoài đó, nơi chúng tôi xưa nay luôn được đón chào như thế.” Lúc này thì một người cảnh sát tuần tra xa lộ đón chào họ. Người tuần đường, người trông coi cái rào chắn nhà chức trách dựng lên ở lối vào khu trại, vẫy tay cho họ vào, và họ đi thêm nửa dặm nữa, xuống con đường nhỏ trồng du Tàu dẫn vào nhà Clutter.
Alfred Stoecklein, người làm mướn duy nhất sống ở trên đất nhà ông Clutter, đang chờ để nhận họ vào.
Trước tiên họ vào phòng lò sưởi ở tầng hầm, nơi người ta tìm thấy ông Clutter mặc pijama nằm còng queo trên một cái thùng các tông đựng đệm. Từ đây, họ đi vào phòng giải trí trong đó Kenyon đã bị bắn chết. Chiếc đi văng, một kỷ vật Kenyon đã cứu lấy và vá víu lại, còn Nancy thì phủ vải và chồng chất lên nó những chiếc gối có đề chữ, nó bây giờ là một tàn tích vấy đầy máu; giống như cái thùng đựng đệm, cũng cần phải đem đốt. Dần dần, khi đám người dọn dẹp từ dưới tầng hầm tiến đến các phòng ngủ ở tầng ba nơi Nancy và mẹ cô bị giết ngay trên giường, họ đã có được thêm chất đốt cho cuộc hỏa thiêu sắp tới - chăn đệm giường ố máu, một tấm thảm cạnh giường, một con gấu bông búp bê.
Tuy thường ít nói, Alfred Stoecklein hôm đó đã phải nói nhiều khi ông lấy nước nóng, không thì giúp việc dọn dẹp. Ông mong “họ hàng ông Clutter sẽ thôi cằn nhằn và cố hiểu cho” tại sao ông và vợ ông tuy sống chỉ cách nhà Clutter có một trăm mét mà lại “không nghe thấy tí ti gì” - cả đến tiếng vọng khẽ nhất của súng nổ cũng không - về sự thảm khốc đang diễn ra. “Cảnh sát trưởng và tất cả các ông ấy đã lấy dấu tay ở ngoài kia, đã cào bới khắp chung quanh, các ông ấy có nghề, họ thì họ hiểu chuyện đó thế nào. Như thế nào mà chúng tôi lại không nghe thấy ấy à! Vì một lẽ là gió. Gió Tây thổi, như lúc này đây, thì sẽ mang tiếng động đi tới chỗ khác. Một cái nữa, giữa nhà ông ấy và nhà chúng tôi có một cái kho chứa cao lương. Cái kho cũ ấy nó chắn mất nhiều thứ trước khi vọng đến chúng tôi. Với lại các ông có nghĩ tí nào tới chỗ này không? Là cái đứa đã làm cái đó, nó hẳn phải biết chúng tôi không nghe thấy được. Không thì nó chẳng có dại - bắn những bốn phát súng vào giữa đêm hôm khuya khoắt! Họa có mà điên. Dĩ nhiên, các ông có thể nói rằng chắc nó điên. Mới đi làm cái trò đó chứ. Nhưng ý tôi thì đứa làm cái đó chắc phải tính hoàn hảo đến cùng mọi sự cả rồi. Nó đã biết. Và có một điều tôi cũng biết. Tôi và bà nhà tôi, chúng tôi đã ngủ đêm cuối cùng ở đây. Chúng tôi sẽ dọn đến cái nhà ở dọc xa lộ.”
Đám người làm việc từ trưa tới chiều tối. Đến lúc đốt các thứ nhặt nhạnh được, họ chất chúng lên một chiếc xe tải nhỏ, rồi với Stoecklein cầm lái, họ đi sâu vào dải đồng ở phía Bắc khu trại, một chỗ bằng phẳng đầy màu sắc, tuy chỉ thuần một màu vàng hung hơi óng ánh của những cuống rạ lúa mì vào chập tháng Mười một. Đến đấy, họ dỡ xuống những gối của Nancy, đệm, khăn trải giường, đi văng ở phòng giải trí, làm thành một cái tháp; Stoecklein rảy xăng vào rồi đánh diêm.
Trong những người có mặt, không ai thân với nhà Clutter bằng Andy Erhart. Dịu dàng, quyền cao chức trọng song ân cần, một người thông thái với đôi tay lao động đầy chai và cái cổ sạm nắng, ông là bạn cùng lớp với Herb ở Đại học Bang Kansas. “Chúng tôi là bạn của nhau đã ba chục năm,” sau đó ít lâu ông nói, và trong những thập niên đó Erhart đã chứng kiến người bạn mình từ kỹ sư nông nghiệp ăn lương còm ở hạt tiến lên thành một trong những chủ trại được kính trọng khắp xa gần và được biết tiếng nhất ở vùng này: “Mọi cái Herb có là do tự kiếm ra và nhờ Chúa giúp đỡ. Herb là người khiêm tốn nhưng kiêu hãnh, và ông ấy có quyền kiêu hãnh như thế. Ông ấy đã gây dựng được một gia đình tốt đẹp. Ông ấy đã làm được cho đời mình một số điều.” Nhưng cuộc đời ấy, và những cái ông ấy làm nên cho cuộc đời ấy - làm sao mà lại hóa ra như thế, Erhart thầm nghĩ trong khi nhìn đống lửa cháy lem lém. Làm sao mà nghĩ được rằng chỉ trong một đêm, cố gắng kia, đức hạnh chân chất kia đã bị rút gọn thành làn khói này, làn khói cứ mảnh dần đi khi nó cất lên cao rồi được bầu trời lớn rộng làm tiêu tán mọi sự đón nhận lấy?
Cục Điều tra bang Kansas, một tổ chức cấp bang, sở chỉ huy đóng ở Topeka, có biên chế mười chín thám tử giàu kinh nghiệm phân bố rải rác khắp bang; khi nào có vụ gì xem vẻ vượt khỏi thẩm quyền của nhà chức trách sở tại thì người ta cậy đến những con người này. Người đại diện của Cục tại Garden City, chịu trách nhiệm về một phần đáng kể vùng Tây Kansas, là một người ở bang Kansas thuộc thê hệ thứ tư, bốn mươi bảy tuổi, người dong dỏng đẹp trai, tên gọi là Alvin Adams Dewey. Không thể tránh được việc Earl Robinson, cảnh sát trưởng hạt Finney, đã yêu cầu Al Dewey gánh lấy vụ án Clutter. Không tránh được và thích đáng. Vì Dewey, bản thân nguyên là cảnh sát trưởng hạt Finney (từ năm 1947 đến 1955) và, trước đó là đặc vụ của F.B.I. (giữa năm 1940 và 1945, ông đã phục vụ ở New Orleans, San Antonio, Denver, Miami và San Francisco), về nghiệp vụ là đủ tư cách đối phó với một vụ án nom ngoài thì không có động cơ và không có đầu mối, lắm rắc rối như vụ giết nhà Clutter. Hơn nữa, thái độ của ông với vụ án đã làm cho nó thành ra, như sau này ông nói, “một kiến nghị của cá nhân”. Ông luôn nói ông và vợ ông “thật sự yêu mến Herb và Bonnie”, “gặp nhau mỗi Chủ nhật ở nhà thờ, năng lui tới thăm nhau”, và nói thêm, “Nhưng cho dù tôi không biết gia đình đó và mến họ đến thế, tôi cũng không cảm thấy có gì khác cả. Vì tôi đã thấy một số việc xấu xa, tôi chắc chắn là đã thấy. Nhưng không có cái nào táng tận lương tâm như vụ này. Dù vụ này có sẽ kéo dài đến mấy, có thể là suốt những năm tháng cuối đời tôi, tôi vẫn sẽ biết chuyện gì đã xảy ra ở nhà này: kẻ nào làm và tại sao.”
Cuối cùng, tổng cộng mười tám người đã được giao chuyên trách vụ này, trong đó ba điều tra viên có năng lực nhất của K.B.I. (tức Cục Điều tra bang Kansas) - các đặc vụ Harold Nye, Roy Church và Clarence Duntz. Với bộ ba này đến Garden City, Dewey thỏa mãn là đã tập hợp được “một ê kíp mạnh”. “Tốt hơn hết, ai đó hãy coi chừng!” ông nói.
Văn phòng cảnh sát trưởng ở tầng bốn của tòa án hạt Finney, tòa nhà bằng đá và xi măng tọa lạc tại trung tâm một quảng trường đầy cây mà giá không có tòa nhà thì có khi lại hấp dẫn. Garden City xưa vốn là một thị trấn biên giới khá ầm ĩ song nay khá tĩnh lặng. Nhìn chung, cảnh sát trưởng không có mấy việc để làm, văn phòng của ông, ba gian phòng bày biện thưa thớt, thông thường là một nơi im ắng chỉ có dân rảnh việc la cà mới biết đến; bà Edna Richardson, thư ký đon đả của ông, thường có một bình cà phê nhâm nhi suốt và nhiều thì giờ để “buôn dưa lê”. Cho đến khi, như bà phàn nàn, “xảy vụ Clutter” thì nó đã đem tới “tất cả các dân tứ chiếng, tất cả đám báo chí nhặng xị ồn ào kia”. Vụ án lúc đó khiến các tít bài bay xa đến Chicago ở đằng Tây, tận Denver đằng Đông, đúng là đã dụ đến Garden City cả một đoàn báo chí đáng nể.
Trưa thứ Hai, Dewey tổ chức họp báo ở văn phòng cảnh sát trưởng. “Tôi sẽ nói sự việc chứ không nói giả thuyết,” ông thông báo với các nhà báo tụ tập ở đó.“Bây giờ, việc lớn ở đây, cái phải nhớ là, chúng ta đang phải giải quyết không chỉ một vụ án mạng mà là bốn. Và chúng ta không biết ai trong bốn người là mục tiêu chính. Nạn nhân số một. Đó có thể là Nancy hoặc Kenyon, hoặc ông bố hay bà mẹ. Một vài người nói, đúng, chắc phải là ông Clutter, vì ông ấy bị cắt cổ; ông ấy bị hành hạ nhiều nhất. Nhưng đó là giả thuyết, không phải sự việc. Nếu chúng ta biết gia đình này đã bị giết theo trật tự gì thì cũng sẽ giúp được cho chúng ta nhưng người giám định pháp y lại không thể nói rõ điều đó; ông ấy chỉ biết các vụ giết người đã xảy ra vào một lúc nào đó giữa mười một giờ đêm thứ Bảy và hai giờ sáng Chủ nhật.” Rồi, trả lời câu hỏi, Dewey nói không có, không người đàn bà nào bị “làm nhục về xác thịt” và, không, như hiện tình chúng tôi được biết thì không có gì bị lấy trộm, vâng, ông nghĩ, trong vòng tám tiếng trước khi chết, ông Clutter đã nộp bốn chục nghìn đô la tiền bảo hiểm với mức bồi thường gấp đôi, đấy chỉ là việc “thuần túy ngẫu nhiên”. Nhưng Dewey “chắc như đinh đóng cột” rằng việc này với vụ án không liên quan; làm sao có liên quan được khi mà những người duy nhất hưởng lợi về tài chính là hai người con còn sống của Clutter, người con gái cả, bà Donald Jarchow và cô Berverly Clutter? Vâng, ông bảo các phóng viên, ông cũng có ý kiến của ông về chuyện vụ án mạng này là do một hay nhiều người làm, nhưng lúc này ông không muốn lộ ra.
Đúng là lúc này, về vấn đề này, Dewey còn lưỡng lự. Ông vẫn giữ hai ý - hay để dùng từ của ông, hai “quan niệm” - và trong khi tái dựng vụ án, ông đã phát triển cả “quan niệm sát nhân đơn” lẫn “quan niệm sát nhân kép”. Trong quan niệm thứ nhất, kẻ sát nhân được coi là một người bạn của gia đình, hoặc dù thế nào thì cũng là một người có hiểu biết nhiều hơn mức qua loa về ngôi nhà và những người sống trong đó - một người biết rằng các cửa rất ít khi khóa, rằng ông Clutter ngủ một mình trong phòng ngủ ở tầng trệt, rằng bà Clutter và các con ngủ ở các phòng riêng trên tầng ba. Kẻ này, Dewey tưởng tượng như thế, đi bộ đến ngôi nhà, chắc vào khoảng nửa đêm. Cửa sổ tối om, nhà Clutter ngủ yên, còn về con Teddy, con chó giữ nhà thì, đúng, Teddy nổi tiếng là sợ súng mà. Trông thấy vũ khí của bọn đột nhập, chắc nó đã co rúm lại, rên rỉ bỏ đi. Vào trong nhà, tên sát nhân sờ trước tiên đến điện thoại - một ở trong phòng làm việc của ông Clutter, một ở trong bếp - rồi sau khi cắt đứt dây điện, hắn đã vào phòng ngủ ông Clutter đánh thức ông dậy. Trong tay người khách lạ có súng, ông Clutter buộc phải nghe theo - buộc phải đi với hắn lên tầng ba, tại đó họ đánh thức cả nhà dậy. Rồi, bằng dây thừng và băng dính do tên sát nhân đưa cho, ông Clutter đã trói và dán miệng vợ mình lại, trói con gái lại (cô không bị dán miệng, điều không thể giải thích được) rồi trói họ vào giường của họ. Sau đó, bố và con trai bị giải xuống tầng hầm, ở đấy ông Clutter bị buộc phải dán miệng rồi trói Kenyon vào đi văng ở phòng giải trí. Rồi ông Clutter bị dẫn đến phòng lò sưởi, bị đánh vào đầu, dán miệng rồi bị trói gô cả chân lẫn tay. Bây giờ thả cửa làm gì tùy thích, tên sát nhân đã giết họ lần lượt từng người, lần nào cũng cẩn thận nhặt lại vỏ đạn. Khi làm xong việc, hắn tắt hết đèn rồi bỏ đi.
Có thể chuyện đã xảy ra theo cách đó; chỉ là có thể. Nhưng Dewey có những ngờ vực: “Nếu Herb nghĩ gia đình mình lâm nguy, nguy đến tính mạng, thì ông ấy đã chiến đấu như một con cọp rồi. Và Herb không yếu - một người khỏe vào loại hàng đầu. Kenyon cũng vậy - cao lớn như bố, một cậu trai vai to bè. Khó lòng hiểu làm thế nào mà một người, có vũ khí hay không, lại khống chế nổi được hai bố con nhà ấy.” Hơn nữa, có lý do để giả định rằng cả bốn đều bị một người trói: trong cả bốn ca đều một kiểu nút buộc như nhau, nút đơn.
Dewey - và đa số đồng nghiệp của ông cũng thế - thiên về giả thiết thứ hai, giả thiết này, ở nhiều mặt chủ yếu đi theo giả thiết thứ nhất, điểm khác quan trọng là tên sát nhân không chỉ hành động một mình mà có một tên tòng phạm giúp hắn khống chế gia đình này, dán băng miệng và trói họ lại. Nhưng, là một giả thuyết, nó cũng có khiếm khuyết. Chẳng hạn, Dewey thấy khó mà hiểu “Làm thế nào hai cá nhân lại có thể cùng đạt tới trình độ điên rồ như nhau, loại điên rồ tâm thần bệnh hoạn cần phải có để gây ra được một tội ác như thế này.” Ông tiếp tục giải thích: “Cứ cho rằng tên sát nhân là người biết gia đình này, một thành viên của cộng đồng này; cứ cho rằng hắn là người bình thường, bình thường trừ phi hắn có một cái gì đặc biệt, một mối ác cảm điên rồ chống lại nhà Clutter hay với một người nhà Clutter - nhưng hắn tìm đâu ra một người cùng làm, một ai đó đủ điên rồ để giúp hắn? Giả thiết này không vững. Nó vô lý. Nhưng tiếp cận tắp lự vào vấn đề thì cũng lại chẳng cái gì là có lý cả.”
Sau cuộc họp báo, Dewey về văn phòng, một gian buồng mà ông cảnh sát trưởng cho ông mượn tạm. Một bàn giấy và hai ghế dựa thẳng. Bàn giấy ngổn ngang những thư mà Dewey hy vọng một ngày nào đó sẽ được đem ra làm tang vật ở tòa án: băng dính cùng những thước dây cởi ở người các nạn nhân ra lúc này đựng trong những túi bằng chất dẻo niêm phong (là tang vật thì chẳng thứ nào có vẻ hứa hẹn vì tất cả đều là những mặt hàng phổ biến, ở Mỹ mua đâu cũng có), và các tấm ảnh một nhiếp ảnh viên cảnh sát chụp hiện trường vụ án - hai mươi tư tấm phóng to, nước ảnh láng bóng chụp cái đầu vỡ toác của ông Clutter, khuôn mặt bị hủy hoại của con trai ông, đôi tay bị trói của Nancy, đôi mắt vẫn mở trừng trừng, dại đi vì cái chết của mẹ cô, vân vân. Những ngày tới đây, Dewey phải xem xét những tấm ảnh này hàng giờ, hy vọng mình có thể “thình lình nhòm ra được một cái gì”, từ đó một chi tiết có ý nghĩa tự nó sẽ cung khai ra: “Giống như các trò ghép hình kia thôi. Những loại câu hỏi, ‘Bạn tìm ra được bao nhiêu giống vật trong bức vẽ này?’ Theo cách nào đó, chính đấy là điều tôi đang cố làm đây. Tìm ra những con vật ẩn núp. Tôi cảm thấy chúng ở đấy - giá như mà tôi nhìn ra chúng.” Như một sự thật hiển nhiên, một trong những tấm ảnh, một bức chụp cận cảnh ông Clutter và cái thùng đựng đệm mà ông nằm đè lên, đã hé ra một điều ngạc nhiên có giá trị: những vết chân, những vết giày bụi bặm đế có khía hình kim cương. Những vết này, không để ý thấy được bằng mắt thường, đã được ghi lại lên trên phim nhựa; quả thật, ánh chớp của đèn chụp để làm nổi bật đường nét đã làm lộ ra chính xác tuyệt vời sự có mặt của chúng. Những vết chân đó, cùng với một vết chân khác tìm thấy cũng ở trên nắp hộp các tông - một dấu hằn rõ ràng, thấm máu của một nửa đế giày Móng Mèo - là những “đầu mối quan trọng” duy nhất mà các điều tra viên có thể công bố. Không phải họ đang công bố; Dewey và đội của ông đã quyết định giữ bí mật bằng chứng này.
Trong nhiều thứ khác trên bàn làm việc của Dewey có cuốn nhật ký của Nancy Clutter. Ông đã liếc qua, không nhiều hơn, và nay ông đang ngồi xuống để đọc kỹ từng ghi chép hằng ngày, bắt đầu từ sinh nhật lần thứ mười ba của cô và chấm dứt hai tháng sớm hơn sinh nhật thứ mười bảy; những dòng tâm sự không giật gân gì cả của một cô gái thông minh yêu loài vật, thích đọc sách, nấu nướng, khâu vá, khiêu vũ, cưỡi ngựa - một cô gái trinh bạch, xinh đẹp, được nhiều người yêu mến, từng nghĩ “con trai con gái tán tỉnh nhau thì ngộ đấy” nhưng dù sao cũng “chỉ thật sự và thật lòng yêu có Bobby thôi”. Dewey đọc dòng ghi cuối cùng trước. Gồm ba dòng, viết trước khi cô chết một hay hai giờ: “Jolene K. đến và tôi đã chỉ em cách làm bánh anh đào. Tập nhạc với Roxie. Bobby ở đây, chúng tôi xem ti vi. Về lúc mười một giờ.”
Cậu Rupp non trẻ, được biết là người cuối cùng nhìn thấy cả gia đình họ còn sống, phải qua một cuộc thẩm vấn dài lê thê, và tuy cậu thẳng thắn kể lại là mình đã qua “đúng một buổi tối bình thường” với nhà Clutter, cậu được báo trước có cuộc hỏi cung thứ hai, lần này người ta sẽ cho kiểm tra cậu bằng máy dò nói dối. Rõ ràng là cảnh sát chưa sẵn sàng loại cậu ra khỏi danh sách những người bị tình nghi. Bản thân Dewey không tin cậu con trai này “có dính dáng tí nào vào đó”; nhưng ở bước đầu cuộc điều tra thì Bobby đúng là người duy nhất có thể bị gán cho một động cơ, dù nhỏ nhặt. Đây đó trong nhật ký, Nancy nhắc tới tình hình mà người ta giả định là đã tạo nên động cơ: ông bố đòi cô và Bobby “cắt đứt”, đừng “gặp nhau quá nhiều”, ông phản đối vì nhà Clutter theo dòng đạo Giám lý còn nhà Rupp thì Cơ đốc giáo - một hoàn cảnh mà theo con mắt ông đã loại bỏ bất cứ hy vọng nào về chuyện cưới xin của cặp trai gái. Nhưng ghi chép trong nhật ký làm cho Dewey phân vân nhất lại không liên quan đến cái ngõ cụt Clutter-Rupp, Giám lý - Cơ đốc. Đúng hơn là nó liên quan tới một con mèo, cái chết bí ẩn của Boobs, con mèo Nancy cưng, con mèo mà, theo như ghi chép trước khi cô chết hai tuần, cô đã tìm thấy “nằm trong nhà kho”, nạn nhân, hay là cô nghĩ thế (mà không nói lý do) của một kẻ đánh bả: “Boobs tội nghiệp, Tôi đã chôn nó tại một nơi đặc biệt.” Đọc tới đây, Dewey cảm thấy đây có thể là “rất quan trọng”. Nếu con mèo dính bả, thì cái việc đánh bả đó có thể là một dạo đầu nho nhỏ, ma quái cho các vụ án mạng hay không? Ông quyết định phải tìm ra “cái chỗ đặc biệt” Nancy chôn con mèo yêu, cho dù có phải cày xới cả cái vùng Trại Lũng Sông rộng rãi này lên.
Trong khi Dewey bận bịu với cuốn nhật ký, những trợ lý chính của ông, các đặc vụ Church, Dunzt, Nye lại đang đảo dọc đảo ngang cả vùng quê, nói chuyện, như Dunzt nói, “với bất cứ ai có thể nói cho chúng tôi bất cứ cái gì”: bộ phận giáo viên của Trường Holcomb, nơi cả Nancy lẫn Kenyon đều là học sinh hạng A, được bằng khen danh dự; những người làm mướn cho Trại Lũng Sông (vào mùa xuân và mùa hè đôi khi lên tới mười tám người nhưng trong lúc nông nhàn hiện nay thì chỉ có Gerald Van Vleet và ba người nữa, trong đó có bà Helm); bạn bè của các nạn nhân, hàng xóm láng giềng; và, rất đặc biệt, họ hàng của họ. Xa gần khắp nơi khoảng hai chục người họ hàng đến dự tang lễ tổ chức và sáng ngày thứ Tư đã có mặt.
Người trẻ nhất trong nhóm K.B.I., Harold Nye, một người ba mươi tư tuổi, nhỏ bé, hăng hái, với đôi mắt ngờ vực không lúc nào yên và cái mũi, cái cằm, đầu óc sắc nhọn, đã được giao cho cái việc ông gọi là “tế nhị chết rấp” - phỏng vấn họ hàng nhà Clutter: “Việc đó thật khổ tâm cho ta và khổ tâm cho cả họ. Khi đã là chuyện án mạng thì ta không thể kính trọng nỗi đau buồn. Hay sự riêng tư thầm kín. Hay tình cảm cá nhân. Ta phải đặt ra những câu hỏi. Và một số câu bập vào tới ruột gan.” Nhưng không người nào anh thẩm vấn, không câu hỏi nào anh đặt ra (“Tôi đang khám phá bối cảnh tình cảm. Tôi nghĩ câu trả lời có thể là một người phụ nữ khác - một cuộc tình tay ba. Vâng, hãy xem: ông Clutter vẫn còn khá trẻ, rất khỏe mạnh, nhưng vợ ông lại bị nửa tàn phế, bà ngủ riêng...”) đã cho ra thông tin có ích; ngay hai cô con gái sống sót cũng không thể gợi ra một lý do cho vụ án. Tóm lại, Nye chỉ biết thế này: “Trong số mọi người ở khắp thế giới này, gia đình Clutter xem ra là ít có khả năng bị giết nhất.”
Cuối ngày, khi ba nhân viên được triệu tập tới văn phòng của Dewey, tình hình hóa ra là Dunzt và Church đã may mắn hơn Nye - chú Nye, như người khác gọi anh. (Người của K.B.I. thịnh dùng biệt hiệu; Dunzt được gọi là Ông Già - không công bằng, vì ông chưa đầy năm chục tuổi, một người lực lưỡng mau chân lẹ tay với bộ mặt to bản của mèo đực, và Church, trạc sáu chục hay hơn, da hồng đỏ nom dáng chuyên nghiệp nhưng “dữ dằn” theo như lời các đồng nghiệp, và “người rút súng nhanh nhất bang Kansas”, thì được gọi là Quăn, bởi lẽ đầu ông bị hói một phần). Cả hai trong quá trình thẩm vấn đã nhặt được “những đầu mối hứa hẹn”.
Chuyện của Dunzt liên quan đến một người bố và một người con trai, những người sẽ được biết đến ở đây với tên John Già và John Trẻ. Mấy năm trước John Già đã có một vụ làm ăn nhỏ với ông Clutter, kết quả là John Già phát bực vì cảm thấy Clutter đã vứt “tiền giả” cho mình. Bây giờ cả John Già lẫn John Trẻ đều “nhậu nhẹt túy lúy”; quả thật, John Trẻ là một gã bợm nhậu hay bị bắt giam. Một ngày không may nọ, bố con nhà John, đầy dũng khí whiskey, đã xuất hiện ở nhà Clutter với ý định “thanh toán cái nợ đó với Herb”. Dịp may của hai người này đã bị khước từ vì ông Clutter, một người kiêng khem chống lại gay gắt việc uống rượu và những kẻ say bét nhè, đã cầm lấy một khẩu súng mà điệu hai bố con ra khỏi địa phận nhà mình. Sự bất nhã này bố con John không tha thứ được; mới một tháng trước đây, John Già đã bảo một người quen: “Mỗi lần nghĩ tới thằng chó đẻ ấy, bàn tay tôi lại bắt đầu giật lên đùng đùng. Tôi đang muốn choảng nó đây.”
Đầu mối của Church về bản chất cũng tương tự. Cũng thế, ông đã nghe nói đến một người được thừa nhận là thù địch với ông Clutter: một ông Smith nào đấy (tuy đây không phải là tên thật của ông ta), tin rằng chủ nhân của Trại Lũng Sông đã bắn chết con chó săn của mình. Church đã kiểm tra trại của Smith và tìm thấy ở đấy, treo trên một cái rui nhà kho, một đoạn dây thừng có kiểu nút giống như nút đã được dùng để trói bốn người nhà Clutter.
Dewey nói, “Một trong những người đó có thể là đầu mối của chúng ta đấy. Một chuyện cá nhân - một mối ác cảm không kiềm chế nổi.”
“Trừ phi đây là một vụ cướp,” Nye nói, tuy động cơ cướp của đã được thảo luận kha khá và ít nhiều đã bị gạt đi. Các luận điểm chống lại nó đều hợp lý, cái mạnh nhất là việc ông Clutter ghét trả tiền mặt đã thành chuyện đầu lưỡi ở tỉnh này; ông ấy không có két sắt và không bao giờ mang những khoản tiền lớn theo mình. Cũng thế, nếu giải thích là cướp của thì tại sao kẻ cướp lại không tháo đi nữ trang bà Clutter đeo trên người - một lắc cưới và một nhẫn kim cương? Nhưng Nye chưa chịu khuất phục: “Kiểu bố trí này sặc mùi ăn trộm, về cái ví của Clutter thì thế nào? Một người nào đó để nó mở phanh rỗng không ở trên giường Clutter - tôi nghĩ không phải người chủ cái ví. Và cái túi tay của Nancy nữa? Cái túi đó nằm trên sàn nhà. Sao nó lại ở đấy? Đúng, và chẳng còn lấy một đồng một chữ nào ở trong nhà. À - hai đô la, được. Chúng ta tìm thấy hai đô la trong một cái phong bì đặt trên bàn học của Nancy. Và chúng ta biết Clutter đã trả một tấm séc sáu chục đô la trước đó một hôm. Chúng ta tính có lẽ còn ít nhất năm chục nữa trong nhà. Cho nên một vài người mới nói, ‘Chẳng ai lại đi giết bốn nhân mạng vì năm chục đô la.’ Và nói, ‘Đúng thôi, có thể tên giết người đã lấy tiền đi - nhưng chính là để cố đánh lừa chúng ta, làm cho chúng ta nghĩ lý do là ăn cướp,’ tôi nghĩ như vậy.”
Trời đã tối, Dewey ngừng cuộc hội ý để gọi điện về nhà cho vợ ông, Marie, báo rằng ông sẽ không về ăn tối. Bà nói, “Vâng. Được thôi, Alvin,” nhưng ông để ý thấy trong giọng bà có vẻ lo lắng không quen thuộc. Vợ chồng Dewey, bố mẹ của hai đứa con trai, cưới nhau mười bảy năm nay, và Marie người quê bang Louisiana, nguyên tốc ký viên của F.B.I., người mà ông đã gặp khi đóng ở New Orleans, đồng cảm với những gian nan của nghề nghiệp ông - giờ giấc quái gở, những cú điện thoại triệu tập ông thình lình đến những vùng xa xôi của bang.
Ông nói, “Có sao không?”
“Không sao cả,” bà làm ông yên lòng. “Có điều, đêm nay khi anh về, anh sẽ phải bấm chuông đấy nhé. Em cho thay hết khóa rồi đấy.”
Bấy giờ ông đã hiểu, liền nói, “Chớ lo, em cưng. Cứ khóa hết cửa nẻo lại và bật đèn cổng.”
Sau khi ông đặt máy xuống, một đồng nghiệp hỏi, “Có gì lôi thôi không? Marie sợ à?”
“Con khỉ, ừ,” Dewey nói. “Cô ấy, và tất cả mọi người.”
Không phải tất cả. Chắc chắn không phải bà quả phụ chánh bưu điện Holcomb, bà Myrtle Clare gan dạ từng chế giễu đám dân cùng thị trấn với bà là “một lũ thỏ đế run rẩy trong đôi ủng, sợ đến nhắm cả mắt mũi lại”, và nói về bản thân, “Còn gái già này, nó vẫn cứ ngủ nghê tốt như thường. Ai muốn giở trò bịp với tôi thì cứ thử xem.” (Mười một tháng sau, chiếu theo đúng tuyên bố của bà, một toán cướp cầm súng đeo mặt nạ ập vào văn phòng bưu điện, nẫng mất của bà chín trăm năm chục đô la). Như thường lệ, khái niệm của bà Clare trùng với khái niệm của rất ít người. Theo ông chủ một cửa hàng ngũ kim ở Garden City thì, “Quanh đây, khóa và chốt cài là mặt hàng chạy nhất. Người ta mua bất cần nhãn hiệu; chỉ cốt sao chắc là được.” Dĩ nhiên, óc tưởng tượng có thể mở được bất cứ cửa nào - vặn khóa và để cho nỗi kinh hoàng bước thẳng vào nhà. Thứ Ba, lúc sáng sớm, một xe đầy nhóc dân săn trĩ từ Colorado đến - những dân lạ lẫm, không biết đến tai họa của địa phương - đã sửng sốt bởi điều họ trông thấy khi băng ngang các đồng cỏ hay đi qua Holcomb: cửa sổ chói chang, gần như mọi cửa sổ của mọi nhà, và trong các gian phòng đèn sáng quăng quắc đầy những người, thậm chí toàn gia, ăn mặc đủ lệ áo quần, ngồi suốt đêm thức trắng, theo dõi, nghe ngóng. Họ sợ cái gì thế? Nó “có thể lại xảy ra.” Đó là câu trả lời quen thuộc, với đôi chút khác nhau. Nhưng một phụ nữ, một cô giáo, đã nhận xét, “Cảm giác ấy lẽ ra không lên cao bằng được một nửa thế này nếu chuyện kia xảy ra với bất kỳ ai, trừ nhà Clutter. Ai đó ít được ngưỡng mộ hơn. Giàu có. An toàn. Nhưng nhà đó tiêu biểu cho một cái gì mà người quanh đây thật sự đánh giá cao và kính trọng, và một điều như thế rất có thể cũng xảy ra với họ - chậc, chả khác gì nghe nói là không có Chúa vậy. Nó làm cho cuộc đời có vẻ như vô vị. Tôi nghĩ cái chính không phải là người ta sợ quá mà cái chính là suy sụp quá.”
Một lý do khác, lý do đơn giản nhất, lý do xấu nhất, là sự kết đoàn yên bình của những hàng xóm láng giềng và bầu bạn lâu ngày từ xưa đến nay bất thình lình phải chịu đựng cái chuyện chưa từng có này: mất tin tưởng ở nhau, âu cũng có thể hiểu được, họ tin rằng kẻ giết người là ai đó trong số họ và ai ai cũng tán thành ý kiến do Arthur Clutter, một người anh em của người quá cố đưa ra trong khi chuyện trò với cánh báo chí ở gian sảnh của khách sạn Garden City hôm 17 tháng Mười một, “Cứ để chuyện này sáng tỏ rồi xem, tôi xin cược rằng bất kỳ ai mà làm chuyện đó hẳn phải là người sống ở cách chỗ chúng ta đang đứng đây có mười dặm.”
Khoảng bốn trăm dặm về phía Đông nơi Arthur Clutter đứng lúc đó, hai gã trẻ tuổi đang ngồi chung trong một cái khoang nhỏ của Nhà Chim Ó, một quán ăn rẻ tiền tại Kansas City. Một gã - mặt hẹp, tay phải xăm một con mèo màu lam - đã ngốn sạch nhiều chiếc bánh kẹp gà quay xà lách và bây giờ thì liếc vào phần của bạn đường: một bánh tròn kẹp pa tê còn nguyên vẹn và một cốc bia không cồn có khuấy ba viên aspirin.
“Perry, cưng,” Dick nói, “cậu không muốn cái bánh này chứ gì. Tớ ăn nha.”
Perry đẩy cái đĩa sang. “Chúa ơi! Cậu không để tớ tập trung nghĩ ngợi được à?”
“Cậu chẳng việc gì phải đọc đến những năm chục lượt như thế.”
Một bài báo in trên trang nhất tờ Ngôi sao ở Kansas City ra ngày 17 tháng Mười một. Đầu đề: Ít manh mối trong vụ thảm sát bốn người, bài báo là bài tiếp theo mẩu tin sơ bộ hôm trước về vụ giết bốn người, kết thúc bằng một đoạn tóm lược như sau:
Đội điều tra phải đối mặt với cuộc tìm kiếm một tên sát nhân hay những tên sát nhân mà sự khéo léo là thật rõ ràng trong khi động cơ của hắn (hay của chúng) lại không. Vì tên giết người này hay những tên giết người: * Đã cẩn thận cắt dây hai chiếc điện thoại trong nhà. * Thành thạo trói và dán miệng các nạn nhân, với bằng chứng hiển nhiên là không hề có sự vật lộn giữa hai bên. * Không để lại một cái gì ở trong nhà, không để lại dấu vết là chúng đã tìm kiếm cái gì, ngoại trừ có thể là cái ví [của ông Clutter]. * Bắn bốn người tại bốn nơi khác nhau trong nhà, bình thản thu nhặt vỏ đạn. * Đến và đi, chắc có mang theo vũ khí, mà không hề bị trông thấy. * Hành động không có một động cơ nào, nếu như ta không tính đến một mưu toan ăn trộm bị thất bại, điều mà các điều tra viên vốn dĩ đã quen.
“Sai rồi đây này. Ngữ pháp ấy. Phải là ‘Vì tên giết người hay những tên giết người này’ mới đúng.” Perry đọc to lên. Nhâm nhi chỗ bia pha aspirin, hắn nói tiếp, “Dù gì tớ cũng không tin. Cả cậu cũng không. Thú thật đi, Dick. Hãy thật thà. Cậu không tin cái trò không có dấu vết này chứ?”
Hôm qua, sau khi nghiên cứu báo chí, Perry cũng đã đặt ra câu hỏi này, và Dick nghĩ là hắn quả quyết như thế (“Kìa. Nếu bọn cao bồi ấy tìm ra tí ti liên quan nào thì chúng ta đã nghe thấy tiếng vó ngựa từ xa cả trăm dặm rồi!”), nên nghe đã phát ngán. Quá ngán đến độ chẳng buồn phản đối khi Perry lại theo đuổi vấn đề này: “Tớ luôn luôn đặt cược vào linh cảm,” Dick nói. “Vì thế tớ còn sống đến hôm nay. Cậu biết Willie-Jay chứ? Hắn nói tớ là một ‘thầy đồng trời cho’, hắn hiểu những chuyện như vậy, hắn quan tâm. Hắn nói tớ có trình độ ‘ngoại cảm’ cao. Kiểu như có một máy ra đa lắp trong người vậy - mắt chưa nhìn thấy, cậu đã thấy trước rồi. Thấy đường nét những sự kiện sẽ tới. Thí dụ như anh tớ và vợ hắn. Jimmy và mụ vợ. Mê nhau như điếu đổ ấy, nhưng hắn lại ghen quá xá, làm mụ vợ hết chịu nổi, ghen rồi luôn luôn nghĩ là vợ lăng nhăng sau lưng mình đến nỗi mụ vợ tự bắn mình tự sát, hôm sau Jimmy cũng tự cho một viên đạn xuyên qua đầu. Khi chuyện đó xảy ra - năm 1949, tớ đang ở Alaska với bố tớ tận trên vùng Circle City - tớ bảo ông già, ‘Jimmy chết rồi.’ Tuần sau nhận được tin. Chúa báo sự thật cho mà. Một lần khác nữa, ở Nhật Bản, tớ giúp chất hàng xuống một con tàu và đang ngồi nghỉ tay. Thình lình trong người tớ có một tiếng nói: ‘Nhảy!’ Tớ nhảy liền, từ trên cao chắc phải ba mét, vừa đúng lúc một tấn hàng rơi đánh sầm xuống ngay tại chỗ tớ ngồi. Tớ có thể cho cậu hàng trăm thí dụ như thế. Tớ chẳng cần biết cậu tin hay không. Chẳng hạn, ngay trước khi bị tai nạn xe máy, tớ đã thấy toàn bộ cái vở đó diễn ra: nhìn thấy ở trong đầu tớ - trời mưa, trượt bánh, tớ nằm đó máu me, chân gãy rời. Như bây giờ tớ vẫn như thế ấy. Điềm báo trước. Một cái gì đó bảo tớ rằng đây là một cái bẫy.” Hắn đập tay vào tờ báo.“Một lô những lời nói lảng quanh co.”
Dick gọi một bánh kẹp pa tê nữa. Trong ít ngày qua, hắn bị một cơn đói mà chẳng cái gì - ba bít tết liền tù tì, một tá bánh đũa, nửa ký kẹo hồng - cắt nối được cơn. Về phần mình, Perry lại chẳng thiết ăn; hắn sống bằng bia, aspirin và thuốc lá. “Thảo nào cậu tính khí thất thường,” Dick bảo hắn. “Ồ, nào cưng. Đừng có sôi máu lên làm gì. Chúng ta vào cầu. Hoàn hảo mà.”
“Tớ ngạc nhiên thấy cậu mà lại nói như thế,” Perry nói. Giọng hắn bình thản làm nổi lên nét ác ý ở câu trả lời của hắn. Nhưng Dick chịu, thậm chí còn mỉm cười - và nụ cười của hắn là một đề nghị khôn khéo. Nó nói rằng tớ đây, đang nở nụ cười con trẻ đây, là một nhân vật rất có cá tính, một đứa rất đáng yêu, niềm nở, minh bạch mà ai cũng có thể tin cẩn. “O.K.,” Dick nói. “Có lẽ tớ đã có vài thông tin sai.”
“Đội ơn Chúa.”
“Nhưng nhìn chung thì hoàn hảo. Chúng ta đánh quả banh ra ngoài bãi. Nó mất tăm. Và nó cứ mất tăm như vậy thôi. Không có lấy một liên quan gì đặc biệt cả.”
“Tớ nghĩ có thể có một.”
Perry đã đi quá xa. Hắn còn đi xa hơn: “Floyd - có phải tên thế không nhỉ?” Một cú chơi xỏ, nhưng lúc này Dick đáng bị thế, tâm sự của hắn cứ như cái diều đang cần phải cuộn dây lại. Dẫu sao, Perry cũng hơi sờ sợ khi thấy những triệu chứng thịnh nộ đang bày biện lại vẻ mặt Dick: quai hàm, môi, cả khuôn mặt chùng lại; nước bọt hiện ra ở khóe miệng. Được, nếu chuyện đó xảy ra thì Perry có thể tự vệ được. Hắn thấp, thấp hơn Dick bảy tám phân và đôi cẳng khẳng khiu tàn tật của hắn là không thể trông cậy vào được, nhưng hắn nặng cân hơn bạn hắn, dày mình hơn, có hai cánh tay đủ sức ghì nghẹt thở một con gấu. Tuy nhiên, chứng minh chuyện đó - phải có đánh nhau, một trận ngã ngũ thật sự - thì không nên tí nào. Dù thích Dick hay không (và hắn không ghét Dick, tuy đã có lúc hắn thích gã nhiều hơn, kính trọng gã nhiều hơn), song nay rõ ràng là chúng không thể chia lìa nhau mà an toàn được. Chúng giống nhau ở điểm này, vì Dick từng nói, “Nếu chúng ta bị tóm thì nên là bị tóm cả hai. Lúc đó chúng ta có thể nâng đỡ nhau lên. Khi mà chúng bắt đầu giở trò thú nhận linh tinh, bảo là cậu nói thế này tớ nói thế kia.” Hơn nữa, nếu hắn cắt đứt với Dick thì có nghĩa là mục tiêu của các dự án vẫn cứ hấp dẫn Perry, và mặc dù những thận trọng ý tứ giữ gìn gần đây, nó vẫn được cả hai cho là khả thi - một cuộc đời trần truồng, lặn tìm kho báu sống với nhau ở giữa những hòn đảo hay dọc các bờ biển phía Nam biên giới.
Dick nói, “Ông Wells!” Hắn nhặt một cái nĩa lên. “Nó lẽ ra đáng cái này. Tựa như là tớ bị tóm về tội chống lại việc kiểm tra ấy. Nó lẽ ra đáng cái này. Chỉ là để quay lại vào đây.” Chiếc nĩa vút xuống đâm phập vào bàn. “Xuyên thấu hết tim, cưng ơi.”
“Tớ không nói là lão ta nên bị thế,” Perry nói, bây giờ đang muốn nhân nhượng khi mà cơn thịnh nộ của Dick đã dâng cao ở sát cạnh hắn và đánh vào chỗ khác. “Lão đã hãi quá.”
“Chắc rồi,” Dick nói. “Chắc chứ. Sợ quá chứ.” Thật kỳ diệu, đúng thế, cái sự dễ dàng đến lạ lùng khi Dick chuyển từ tính khí này sang tính khí kia; trong nháy mắt mọi dấu vết độc ác, bộ dạng sưng sỉa liền tan biến hết. Hắn nói, “Về cái món điềm báo trước kia. Nói tớ nghe cái này: nếu cậu cầm chắc sẽ bị gãy giò thì sao không cầu hòa với nó đi? Nếu cậu không dính vào cái xe máy thì đã không xảy chuyên gãy giò, đúng không?”
Đó là một bài đố mà Perry cứ loay hoay nghĩ. Hắn cảm thấy đã giải được, nhưng tuy đơn giản, lời giải vẫn cứ mù mờ thế nào đó: “Không. Vì khi mà một cái gì được định là sẽ xảy ra cho cậu rồi thì cậu chỉ còn mỗi cách là hy vọng nó đừng xảy ra. Hoặc tùy trời. Ngày nào cậu còn sống thì luôn có cái rình rập cậu, mà dù nó xấu thật, và cậu biết rõ nó xấu đi nữa thì cậu làm được gì? Cậu có ngừng sống được đâu? Giống như giấc mơ của tớ. Từ lúc còn chíp hôi, tớ vẫn chỉ có giấc mơ ấy. Tại cái chỗ tớ sống ở châu Phi. Một khu rừng. Tớ đi len giữa các cây cối đến cái cây đứng trơ trọi một mình. Chúa ơi, mùi nó mới thối chứ, cái cây ấy; nó thối kiểu gì mà làm cho tớ phát ốm lên được. Có điều, nhìn nó thì đẹp, lá xanh và đầy kim cương treo lủng liểng. Kim cương cứ như cam vậy. Vì thế tớ ở đó - nhặt mấy thúng kim cương. Nhưng tớ biết là ngay lúc tớ thử nhặt, lúc tớ vươn tay tới là một con rắn sẽ rơi vào tớ. Con rắn canh cái cây mà. Cái con chó đẻ béo quay ấy nó sống trên các cành. Tớ thấy trước cái đó chứ, thấy không? Và Chúa ơi, tớ không biết cách đánh nhau với rắn. Nhưng tớ hình dung ra được, tớ sẽ thử vận may của tớ. Cái rắc rối là tớ lại muốn kim cương hơn cả sợ rắn. Thế nên tớ nhặt lấy một viên, tớ có kim cương ở trong tay rồi, tớ kéo nó thì con rắn sà ngay vào đỉnh đầu tớ. Chúng tớ vật nhau nhưng nó là một con chó đẻ trơn nhẫy, tớ không sao túm được, nó quấn tớ lại, nó siết, cậu nghe được thấy cả chân tớ kêu răng rắc. Bây giờ đến cái đoạn mà nghĩ lại tớ còn toát hết mồ hôi. Xem xem, nó bắt đầu nuốt tớ. Nuốt chân trước. Như tụt vào chỗ cát lún vậy.” Perry ngập ngừng. Hắn không thể không thấy Dick đang bận nạy móng tay bằng cái răng nĩa, không để ý gì tới giấc mơ của hắn.
Dick nói, “Rồi sao? Con rắn nuốt cậu? Hay cái gì?”
“Chẳng sao. Không quan trọng.” (Nhưng nó quan trọng chứ! Cái kết rất là quan trọng, một nguồn vui riêng. Hắn đã có lần nói với gã bạn Willie-Jay của hắn; hắn đã tả cho gã bạn về con chim dữ tợn, “cái giống vẹt” màu vàng ấy. Dĩ nhiên, Willie-Jay thì khác - đầu óc tế nhị, “một bậc thánh.” Gã hiểu. Còn Dick? Gã lại có thể cười. Và điều đó thì Perry không cho phép: chế giễu con vẹt, con vẹt bay đầu tiên vào những giấc mơ của hắn khi hắn mới lên bảy, một đứa trẻ lai bị ghét bỏ và ghét bỏ mọi thứ, sống trong một trại trẻ mồ côi tại California do các nữ tu cai quản - những viên quản giáo giấu mặt quất roi vào người hắn vì hắn đái dầm. Chính là sau một trận đòn như thế, trận hắn không bao giờ quên được (“Mẹ ấy đánh thức tớ dậy. Mẹ ấy có chiếc đèn pin, mẹ ấy đánh tớ bằng cái đèn ấy. Đánh, đánh hoài. Khi cái đèn vỡ, mẹ ấy vẫn cứ đánh tớ tiếp trong bóng tối”), chính sau trận đó con vẹt đã xuất hiện, đến trong lúc hắn đang ngủ, một con chim “cao hơn Giê-su, vàng như hoa hướng dương”, một thiên thần-chiến binh mổ mù mắt đám tu sĩ, moi mắt chúng, giết chết chúng trong khi chúng lạy van “xin tha tội”, rồi rất nhẹ nhàng con chim nâng hắn lên, ủ bọc hắn, vỗ cánh đưa hắn lên “thiên đường”.
Năm tháng trôi đi, những cực hình mà con chim cứu hắn thoát ra kia đã thay đổi; những kẻ khác - đám trẻ con lớn hơn, bố hắn, một cô gái chẳng chút lòng tin, một sĩ quan hắn biết trong quân đội - thay vào chỗ các nữ tu sĩ, nhưng con vẹt thì vẫn nguyên vẹn, một người phục thù luôn bay quanh bên hắn. Thế là con rắn, kẻ canh giữ cây kim cương, chẳng bao giờ thôi nuốt hắn nhưng chính con rắn cũng lại luôn luôn bị nuốt. Rồi sau đó là một cuộc lên trời đầy ân sủng! Cuộc lên thiên đường mà trong dị bản này của Kinh Thánh chỉ là “một cảm giác”, một cảm thức về quyền uy, về sự ưu việt không gì công phá nổi mà trong một dị bản khác chúng lại được chuyển dịch tới “Một nơi đích thực. Như từ trong một cuốn phim mà ra vậy. Vì có lẽ đó chính là nơi tớ đã thấy nó - nhớ lại nó từ một cuốn phim. Bởi tớ còn có thể thấy ở đâu khác một cái vườn như thế chứ? Với những bậc tam cấp cẩm thạch trắng toát? Những vòi phun nước? Và tít bên dưới cùng kia, nếu cậu đi tới cuối khu vườn, cậu có thể nhìn thấy đại dương. Tuyệt vời! Hệt như ở quanh vùng Carmel, California vậy. Tuy cái hay nhất - đúng, là cái bàn ăn dài, dài ơi là dài. Cậu không tưởng tượng được lắm thức ăn đến thế đâu. Sò huyết. Gà tây. Bánh kẹp xúc xích. Hoa quả thì cậu có thể đựng được vào hàng triệu cái đĩa bồn ấy chứ. Và nghe này - cái gì cũng tha hồ. Ý tớ nói là tớ có thể đụng vào đấy mà chẳng phải sợ cái gì. Ăn được bao nhiêu tùy thích mà chẳng tốn một xu. Cái đó cho tớ biết là tớ đang ở đâu.”)
Dick nói, “Tớ là người bình thường. Chỉ mê thấy gái tóc vàng. Ấy, nói đến chuyện này, cậu có nghe đến cơn ác mộng của thằng dê già bao giờ chưa?” Dick là như thế đấy - về bất cứ vấn đề gì hắn luôn luôn có sẵn một câu chuyện tục. Nhưng món ấy hắn kể hay, và Perry, tuy là người trong chừng mực nào đó nghiêm túc, vẫn không nín được cười, như thường lệ.
Nhắc đến tình bạn với Nancy Clutter, Susan Kidwell nói, “Chúng cháu như chị em. Ít nhất là cháu cảm thấy như thế với bạn ấy - tựa như bạn ấy là chị cháu. Cháu không thể đi học được - không phải mấy ngày ban đầu kia đâu. Cháu không đến trường mãi cho đến sau tang lễ. Bobby Rupp cũng thế. Một dạo Bobby và cháu luôn ở bên nhau. Cậu ấy hay lắm - cậu ấy tốt bụng - nhưng trước đó chưa hề có cái gì ghê gớm như thế xảy đến với cậu ấy. Như mất đi một người cậu ấy yêu quý. Rồi trên hết nữa, lại còn bị kiểm tra bằng máy dò nói dối. Cháu không nói là cậu ấy cay đắng về chuyện ấy, cậu ấy hiểu là cảnh sát làm những cái họ cần làm. Một vài điều gay go, hai hay ba gì đó đã xảy ra với cháu, nhưng với cậu ấy thì không, cho nên khi nhận ra cuộc đời có lẽ không phải là một cuộc chơi bóng rổ dài dài thì cậu ấy bị choáng. Phần lớn thời gian chúng cháu lái chiếc Ford cũ của cậu ấy đi loanh quanh. Lên rồi xuống xa lộ. Ra sân bay rồi quay về. Hay chúng cháu tới Cree-Mee - quán ăn phục vụ tận xe - ngồi trong xe, gọi một lon Coke, nghe rađiô. Rađiô cứ mở miết, chúng cháu chả có gì để nói về mình. Trừ mọi lần Bobby nói cậu ấy yêu Nancy biết bao và vì sao cậu ấy không thể chú ý đến những đứa con gái khác. Vâng, cháu chắc là Nancy không muốn như thế và cháu bảo cậu ấy như thế. Cháu nhớ - cháu nghĩ hôm đấy thứ Hai - chúng cháu lái xe ra sông. Chúng cháu đỗ xe trên cầu. Ở đấy có thể nhìn thấy căn nhà - nhà Clutter. Và một phần đất - vườn cây của ông Clutter và đồng lúa mì trải dài ra. Ở một thửa đồng có đống lửa đang cháy; họ đang đốt đồ dùng của nhà Nancy. Nhìn vào đâu cũng gợi cho ta nhớ lại cái gì đó. Những người mang sào và lưới đang câu dọc bờ sông, nhưng không phải để lấy cá. Bobby nói họ đang tìm vũ khí. Con dao. Khẩu súng.
Nancy yêu con sông. Những đêm hè, chúng cháu quen cưỡi chung trên con ngựa của Nancy - Babe - con ngựa già và béo ấy. Đi thẳng ra sông rồi thẳng luôn xuống nước. Rồi Babe lội đến một chỗ nông trong khi chúng cháu thổi sáo và hát. Bị cảm lạnh. Cháu vẫn nhớ, trời, bạn ấy, con Babe ấy, nay ra sao? Một bà ở Garden City lấy con chó của Kenyon. Lấy con Teddy. Nó bỏ chạy - tìm được đường về Holcomb. Nhưng bà ta lại đến đem nó đi. Và cháu thì có con mèo của Nancy - Evinrude. Nhưng còn Babe. Cháu cho là họ đã bán nó đi rồi. Liệu Nancy có ghét thế không? Liệu Nancy có giận điên lên với việc ấy không? Một hôm khác, hôm trước tang lễ, Bobby và cháu ngồi bên đường sắt xe lửa. Nhìn các chuyến tàu đi qua. Ngốc thật. Như con cừu trong bão tuyết. Thình lình Bobby sực tỉnh nói, ‘Chúng ta phải ở với bạn ấy. Chúng ta phải ở bên Nancy.’ Thế là chúng cháu lại đến Garden City - đi đến Nhà Tang lễ Phillip, ở trên Phố Chính. Hình như có cậu em của Bobby đi cùng với chúng cháu. Đúng, chắc chắn là có cậu ta. Vì cháu nhớ chúng cháu vẫn đến trường đón cậu ta mà. Và cháu nhớ cậu ta nói mai trường cho trẻ con ở Holcomb nghỉ học đi dự tang lễ. Và cậu ta không ngừng nói đám trẻ con nghĩ gì. Cậu ta nói chúng tin chắc việc này là do một ‘kẻ giết mướn’ làm. Cháu không muốn nghe mấy thứ ấy. Toàn đồn đại và chuyện phiếm - những thứ mà Nancy ghét. Dù gì cháu cũng không quan tâm kẻ nào làm chuyện đó. Không hiểu sao cháu thấy chuyện đó chẳng có ích lợi gì. Bạn cháu đã chết. Biết kẻ giết bạn ấy cũng không đem được bạn ấy trở về. Có gì khác quan trọng hơn nữa? Họ không để chúng cháu vào. Cháu muốn nói là ở phòng chờ tang lễ ấy. Họ nói không ai được ‘nhìn gia đình’. Trừ họ hàng. Bobby năn nỉ và cuối cùng ông làm dịch vụ tang lễ - ông ta biết Bobby, và cháu đoán ông ấy thấy thương hại cho cậu ấy - nói được, hãy giữ im lặng, cứ vào đi. Bây giờ cháu lại mong giá chúng cháu đừng vào.”
Bốn cỗ áo quan, để chật phòng tang lễ nho nhỏ đầy những vòng hoa, đã được đóng kín để tiến hành nghi lễ - rất dễ hiểu, vì dù người ta đã bỏ công sửa sang cho bề ngoài các nạn nhân, song hiệu quả khi thực hiện xong vẫn làm ta ngao ngán. Nancy mặc bộ váy nhung màu đỏ anh đào, Kenyon một sơ mi vải Ê-cốt; bố mẹ thì ăn mặc đơn giản hơn, ông Clutter với bộ bằng len flanen xanh dương, vợ ông trong bộ váy bằng crép xanh dương; và - và đặc biệt, chính điều này đã đem lại cho quang cảnh một không khí đáng sợ - đầu cả hai đều bọc kín bông gòn, một con kén sưng phồng to gấp hai lần một quả bóng hơi, và do được phun một chất bóng thành thử bông gòn lấp lánh y như tuyết cây Nôen.
Susan lập tức lui lại. “Cháu ra chờ ở ngoài xe,” cô nhớ lại. “Bên kia đường một người đang quét lá. Cháu cứ nhìn ông ấy. Vì cháu không muốn nhắm mắt. Cháu nghĩ, nếu nhắm mắt là cháu ngất. Cho nên cháu cứ nhìn người ấy quét và đốt lá. Nhìn nhưng thật ra không thấy ông ta. Vì tất cả những gì cháu thấy chỉ là bộ váy. Cháu biết nó quá rõ. Cháu giúp Nancy chọn chất liệu mà. Nancy tự thiết kế và may nó. Cháu nhớ bạn ấy hoan hỉ như thế nào khi lần đầu mặc nó. Ở một buổi liên hoan. Cháu chỉ còn nhìn thấy bộ nhung đỏ thắm của Nancy. Đang khiêu vũ.”
Tờ Ngôi sao ở Kansas City đăng một bài tường thuật dài về đám tang nhà Clutter, nhưng khi Perry, nằm ườn trên giường trong phòng khách sạn đọc tới thì tờ báo đã cũ mất hai ngày. Cho dù thế hắn cũng chỉ lướt qua, nhảy cóc các đoạn như: “Một nghìn người, đám đông lớn nhất trong lịch sử năm năm của Nhà thờ Giám lý Thứ nhất, đã dự lễ tang bốn nạn nhân ngày hôm nay... Nhiều bạn của Nancy ở Trường cấp III Holcomb đã khóc khi Đức Cha Leonard Cowan nói: ‘Chúa ban cho chúng ta lòng dũng cảm, tình yêu và hy vọng cho dù chúng ta đang đi xuyên qua bóng tối âm u của thung lũng chết chóc. Tôi tin rằng Chúa đã ở bên họ trong những giờ phút cuối cùng. Giê-su không bao giờ hứa hẹn với chúng ta là chúng ta sẽ không phải đau đớn và buồn phiền nhưng Chúa luôn luôn nói Chúa sẽ ở đó giúp chúng ta mang nỗi buồn và nỗi đau... Vào một cái ngày ấm áp trái mùa, khoảng sáu trăm con người đã đến nghĩa trang Cảnh Lũng ở đầu phía Bắc thành phố này. Ở đó, tại buổi lễ bên những nấm mồ, họ đọc kinh câu nguyện Đức Chúa cha. Giọng họ hợp lại thành một tiếng thầm thì trầm thấp đâu cũng nghe thấy được ở trong khắp nghĩa trang.”
Một nghìn người! Perry ngạc nhiên. Hắn tự hỏi không biết đám tang tốn mất bao nhiêu tiền. Tiền choán chỗ lớn trong đầu óc hắn, tuy không còn riết ròng như một ngày trước - cái ngày hắn đã bắt đầu “không phải trả giá cho tiếng meo meo của một con mèo”. Tình hình đã được cải thiện từ đây; nhờ Dick, hắn và Dick bây giờ đã có “một khoản vốn kha khá” - đủ để đưa chúng tới Mexico.
Dick! Êm ru. Lắm mánh. Đúng, vụ này phải giao cho hắn đi. Lạy Chúa, không thể tin được làm sao hắn lại “úm được một gã đực rựa” như thế chứ. Như gã bán hàng ở cửa hàng may mặc tại Kansas City, Missouri, chỗ đầu tiên Dick quyết định “ra đòn”. Còn như Perry, hắn không bao giờ thử “để qua kiểm tra” cả. Hắn hay bồn chồn, nhưng Dick đã bảo hắn, “Tớ chỉ cần cậu đứng đó. Cấm cười, cấm ngạc nhiên với bất cứ điều gì tớ nói ra. Cậu phải chơi các cái trò này bằng tai.” Hình như với cái nhiệm vụ đề ra này, Dick ở hàng tổ sư. Hắn vào nhẹ như gió, giới thiệu Perry đến là nhẹ tênh với người bán hàng, “bạn tôi đây sắp cưới vợ,” rồi tiếp tục, “Tôi là người thân nhất của anh ấy. Giúp anh ấy đại khái mua sắm loanh quanh các thứ áo quần. Ha ha, cái thứ ha ha - ông có thể nói là bộ mồi của chú rể ấy mà.” Người bán hàng “cắn câu ngay”, và Perry lập tức tụt chiếc quần jeans ra, thử một bộ sáng bóng mà người bán hàng coi là thứ “lý tưởng cho một lễ hội không nghi thức”. Sau khi bình luận cái thân hình có tỷ lệ kỳ dị của ông khách - phần trên quá cỡ, phần dưới hụt cỡ - ông ta nói thêm, “Tôi sợ rằng chúng tôi không có thứ gì thích hợp mà không cần phải sửa.” “Ồ,” Dick nói, “Cứ O.K. đi, chúng tôi nhiều thì giờ - đám cưới mãi ‘tuần sau cơ mà’.” Thỏa thuận xong, chúng liền chọn một bộ lòe loẹt được xem là thích hợp với cái Dick gọi là một tuần trăng mật ở Florida. “Ông biết Hòn Địa đàng không?” Dick nói với người bán hàng. “Ở bãi biển Miami ấy? Anh chị ấy đặt trước phòng ở đó rồi. Quà bố mẹ vợ tặng - hai tuần, mỗi ngày bốn chục đô. Anh bảo sao đây hả? Một gã cà nhắc xấu xí như anh ta, chả hiểu tán ngon tán ngọt thế nào chị chàng không chỉ chịu đổ mà còn sẵn lòng cống đủ thứ đồ cho nữa. Trong khi như ông và tôi, ngon lành tốt mã thế này...” Người bán hàng đưa hóa đơn. Dick cho tay vào túi sau, cau mày, búng ngón tay đánh tách một cái nói, “Chui cha! Quên ví mất rồi.” Điều này với Perry xem ra là một mánh quá yếu không “lừa nổi một thằng mọi mới một ngày tuổi”. Nhưng rõ ràng người bán hàng không tán thành ý kiến này vì anh ta chìa ra một ngân phiếu khống, rồi khi Dick ghi vào đó dôi ra đến tám chục đô so với tiền hóa đơn cộng lại thì anh ta bèn lập tức trả chỗ chênh bằng tiền mặt.
Ra ngoài Dick nói, “Vậy là tuần sau cậu lấy vợ hả? Được, cậu cần một cái nhẫn.” Ít lâu sau, ngồi trong chiếc Chevrolet cũ kỹ của Dick, chúng đến một cửa hàng tên gọi Kim hoàn Thượng hạng. Sau khi mua ở đây chiếc nhẫn đính hôn và dây kim cương cổ tay dùng cho đám cưới, chúng đến một nhà cầm đồ dể cho đi mấy khoản này. Perry buồn vì phải thấy chúng ra đi. Hắn đã bắt đầu tin một nửa vào cô dâu vờ, tuy hình dung của hắn về cô ta có trái với quan niệm của Dick, cô ta không giàu không đẹp, nhưng mà cô ta biết trang điểm xinh xắn, nói năng dịu dàng, được coi là “tốt nghiệp cao đẳng”, muốn gì thì cũng là “một nàng rất trí thức” - loại gái hắn luôn mong gặp gỡ nhưng trên thực tế thì chưa bao giờ.
Trừ phi nếu tính đến Cookie, cô y tá hắn quen khi bị tai nạn xe máy phải nằm bệnh viện. Một cô bé dịu dàng, Cookie ấy, và cô đã thích hắn, thương hắn, cưng hắn, gợi hứng cho hắn đọc “văn chương nghiêm chỉnh” - Cuốn theo chiều gió, Đây là người yêu dấu của em. Những chương hồi ăn nằm mang tính kỳ lạ và vụng trộm đã xảy ra, tình yêu đã được nhắc đến, cả hôn nhân nữa, nhưng cuối cùng, khi các vết thương lành, hắn chào từ biệt và tặng cô, thay cho lời giải thích, một bài thơ hắn nói là tự sáng tác:
Có một giống người không hợp với đời,
Một giống người không thể ngồi yên;
Cho nên họ làm cho bè bạn
Và họ hàng tan nát con tim;
Họ phỉ chí dọc ngang trần thế
Đi khắp các cánh đồng, lang thang
Khắp các triền sông
Và leo lên đỉnh núi cao;
Lời nguyền của họ là lời nguyền của dòng máu Gipxi[5]
Và họ không biết thế nào là nghỉ.
Nếu cứ thẳng tắp đi thì có thể họ sẽ đi xa;
Họ khỏe, họ can trường và họ thật;
Nhưng họ luôn mệt với những cái đang là thực tại,
Và họ mong cái mới cùng cái lạ.
Hắn không gặp lại cô nữa, không nghe cô hay người khác nói đến cô, nhưng nhiều năm sau hắn xăm tên cô lên cánh tay mình, và một lần, khi Dick hỏi là “Cookie” ai, hắn nói, “Không ai cả. Một cô gái tớ gần như đã lấy.” (Việc Dick đã hai lần lấy vợ và làm bố của ba đứa con là một điều hắn thèm muốn. Một người vợ, những đứa con - đó là kinh lịch mà “một người đàn ông phải trải”, dẫu là, với Dick, nó không hề “làm cho hắn được hạnh phúc hay lợi lộc gì”).
Mấy cái nhẫn cầm được một trăm năm chục đô la. Chúng lại vào một tiệm kim hoàn khác, tiệm Goldman, và lừng khừng ra khỏi đó với một chiếc đồng hồ vàng của đàn ông. Lần đỗ lại sau, ở một cửa hàng Camera Elko, nơi chúng “mua” một camera quay phim hiện đại. “Camera là khoản đầu tư tốt nhất của cậu đấy,” Dick bảo với Perry. “Món dễ cầm dễ bán nhất. Camer
Tác giả :
Truman Capote