Máu Lạnh
Chương 10
Ngày 16 tháng Mười hai năm 1959, Las Vegas, Nevada. Năm tháng và thời tiết đã bỏ đi mất chữ đầu tiên và chữ cuối cùng - chữ R và chữ S - do đó tạo ra một từ mới có phần nào mang điềm gở: OOM. Chữ này, lờ mờ hiện lên trên cái bảng hiệu bị cong vênh vì nắng, xem chừng phù hợp với cái nơi mà nó quảng cáo, như Harold Nye viết trong báo cáo chính thức của K.B.I, một nơi “điêu tàn xập xệ, thứ khách sạn hay nhà trọ tồi nhất trong các thứ tồi”. Biên bản viết tiếp: “Cho tới vài năm trước đây (theo như thông tin cảnh sát Las Vegas cung cấp), nó là một trong mấy ổ điếm lớn nhất ở miền Tây. Rồi hỏa hoạn đã thiêu hủy ngôi nhà chính, phần còn lại được đem làm thành một cái nhà trọ rẻ tiền”. “Tiền sảnh” không bày biện thứ gì trừ một cây xương rồng cao mét tám và một quầy tiếp tân tạm bợ; nó cũng không có người ở. Nhà thám tử vỗ tay.
Cuối cùng, một tiếng người, đàn bà, song không nhiều nữ tính lắm, hét to, “Tôi đến đây,” nhưng phải đến năm phút sau mới hiện ra. Bà ta mặc một cái áo lao động trong nhà ố bẩn, đôi xăng đan da cao gót băng hàng kim nhũ. Những cái lô túm chặt lấy mái tóc thưa màu vàng nhạt. Mặt bà ta rộng, nạc thịt, đánh phấn, bôi đỏ. Tay cầm một lon bia Miller Hight Life; người sặc mùi bia và thuốc lá cùng sơn móng tay vừa mới bôi xong. Bà ta bảy mươi tư tuổi, nhưng theo ý Nye thì “nom trẻ hơn - có lẽ trẻ hơn mười phút”. Bà nhìn chằm chằm Nye, bộ áo quần màu nâu lịch sự, chiếc mũ nâu bẻ gập vành của ông. Khi ông đưa chiếc huy hiệu ra, bà thích thú; đôi môi bà hé, và Nye thấy lấp lóa hai hàng răng giả. “Ái chà, không ngờ đấy,” bà nói, “O.K. nào ta hãy nghe xem nào.” Ông đưa cho bà một tấm ảnh của Richard Hickock. “Biết hắn không?”
Một tiếng làu bàu phủ định. “Hay hắn?”
Bà nói, “Ái chà. Anh ta có ở đây ít ngày. Nhưng bây giờ thì thôi rồi. Trả phòng từ tháng trước rồi. Ông có muốn coi sổ đăng ký không?”
Nye tì lên bàn làm việc nhìn những móng tay dài có sơn của bà ta dò tìm một trang viết tháu bằng bút chì. Las Vegas là nơi đầu tiên trong ba nơi mà cấp trên của ông muốn ông đến. Cả ba đều được chọn ra vì chúng liên quan tới chuyện Perry Smith. Hai nơi kia là Reno, nơi được cho là bố Perry sống, và San Francisco, nhà của chị Perry, ở đây được biết đến với cái tên bà Frederic Johnson. Tuy Nye có kế hoạch phỏng vấn những người họ hàng này, và một ai đó khác có thể biết được tung tích của kẻ tình nghi, song mục tiêu chính của ông vẫn là tranh thủ sự giúp đỡ của cơ quan pháp luật sở tại. Chẳng hạn, khi đến Las Vegas, ông đã thảo luận vụ Clutter với Trung úy B.J. Handlon, Trưởng ban Thám tử của sở Cảnh sát Las Vegas. Lúc đó, viên trung úy đã viết một công văn ra lệnh cho toàn bộ nhân viên cảnh sát phải duy trì tình trạng báo động đối với Hickock và Smith: “Kansas truy nã về tội vi phạm lời hứa trước tòa; nghe nói đương sự đang lái một chiếc xe Chevrolet 1949 với giấy phép của Kansas số JO - 58269. Những người này chắc chắc có vũ khí nên bị coi là nguy hiểm.” Handlon cũng cử một thám tử giúp Nye “vụ nhà cầm đồ”, như ông nói, “luôn luôn có đám người này ở bất cứ thị trấn cờ bạc nào.” Nye và người thám tử Las Vegas đã cùng nhau kiểm tra từng biên lai cầm đồ được xuất trong tháng trước. Đặc biệt, Nye hy vọng tìm ra một rađiô xách tay nhãn Zenith mà người ta tin rằng đã bị lấy cắp ở nhà Clutter đêm án mạng, nhưng ông không may mắn trong việc này. Tuy nhiên một người cầm đồ đã nhớ ra Smith (“Hắn đi đi lại lại ở đây có đến mười năm rồi”) và đưa ra tấm biên lai về một cái chăn da gấu được cầm trong vòng tuần đầu tháng Mười một. Chính nhờ biên lai này mà Nye đã nắm được địa chỉ cái nhà trọ.
“Đăng ký ngày 13 tháng Mười,” bà chủ trọ nói, ‘trả ngày 11 tháng Mười một.” Nye liếc nhìn chữ ký của Smith. Sự bay bướm của nó, những uốn những móc kiểu cách làm ông ngạc nhiên - một phản ứng mà bà chủ trọ rõ ràng đoán ra, và bà nói. “Ái chà. Mà ông còn phải nghe hắn ta nói nữa cơ. Toàn những từ to tát dài dòng lọt vào tai mình bằng cái giọng thì thầm, lào thào. Tính cách có một không hai đây. Ông lùng hắn ta là vì cái gì - một thằng ma cô nhãi xinh xẻo như thế?”
“Vi phạm lời hứa phóng thích.”
“Ái chà. Đi ngần ấy đường từ Kansas đến vì một vụ vi phạm lời hứa. Được, tôi chỉ là một mẹ tóc vàng ú ớ thôi mà. Tôi tin ông. Nhưng tôi sẽ không kể lại chuyện này cho bất cứ con bé tóc đen nào nghe đâu.” Bà giơ lon bia lên, uống cạn, rồi từ từ lăn cái lon rỗng giữa hai bàn tay nổi gân và lấm chấm đồi mồi. “Muốn làm gì thì làm, những không thể là tay cầm đầu được. Không thể được. Tôi chưa từng gặp người nào mà tôi không ước nổi cỡ giày đâu. Thằng cha này chỉ là một gã ma cô. Đồ ma cô nhãi ranh cố dụ tôi không đòi tiền trọ tuần cuối cùng nó ở đây.” Bà chặc lưỡi, chắc là do nghĩ tới sự hoang đường của một mưu mô như thế.
Nye hỏi tiền phòng của Smith là bao nhiêu.
“Giá quy định. Chín đô một tuần. Thêm năm hào tiền gửi chìa. Dứt khoát trả ngay. Dứt khoát trả trước tháng.”
“Trong khi ở đây, anh ta làm gì? Có bạn bè gì không?”
“Ông nghĩ tôi phải để mắt tới từng đứa mạt hạng đến ở đây hay sao?” bà chủ nhà trọ vặn lại. “Bọn cầu bơ cầu bất. Bọn ma cô. Tôi không quan tâm. Tôi có một đứa con gái lấy được tay cỡ bự.” Rồi bà nói, “Không, hắn chẳng có bạn nào. Ít nhất cũng không thấy hắn ta la cà với ai đặc biệt cả. Lần cuối cùng hắn ở đây, ngày nào hắn cũng mất gần hết thì giờ lỉnh kỉnh với cái xe. Hắn đỗ xe ngoài kia. Một chiếc Ford cũ. Nom như có từ thời hắn ra đời. Hắn sơn lại. Phần mui sơn đen, phần còn lại thì sơn bạc. Rồi hắn viết “Xe bán” lên trên kính chắn gió. Một hôm tôi nghe một dân hấp dừng lại trả bốn chục đô - nghĩa là cao hơn giá trị của nó những bốn chục lần. Nhưng hắn nói hắn không thể để được dưới chín chục. Nói hắn cần tiền để mua vé xe buýt. Trước khi hắn rời đi, tôi nghe nói một người da màu nào đó đã mua phải cái xe.”
“Nói cần tiền mua vé xe buýt, bà có biết anh ta định đi đâu không?”
Bà ta chúm môi lại, cho một điếu thuốc lá vào mồm nhưng mắt vẫn dừng lại ở Nye. “Chơi đẹp đấy nhá. Có tiền lên bàn không? Thưởng chứ?” Bà ta chờ một câu trả lời; khi không có gì xảy ra, bà ta hình như cân nhắc thiệt hơn rồi quyết định tốt nhất là nói. “Vì tôi có cảm tưởng bất kỳ đến đâu hắn ta cũng không có ý ở lại lâu. Cảm tưởng là hắn có ý bỏ bớt lại đồ đạc ở đây. Kiểu như chờ có ngày hắn còn quay lại.” Bà hất đầu về phía trong nhà. “Vào đây, tôi sẽ cho ông thấy là tại sao.”
Những bậc cầu thang. Những gian sảnh xám xịt. Nye ngửi các mùi, phân biệt chúng với nhau: cồn tẩy uế phòng vệ sinh, rượu, mẩu thuốc lá đã dụi tắt. Bên kia một cánh cửa, một tay nghiện đang rên rỉ hát, không biết vui hay sầu. “Nguội đi, Dutch! Tắt máy đi không là ông cuốn gói đấy!” người đàn bà thét. “Đây,” bà bảo Nye, đưa ông vào một nhà kho tối tăm. Bà bật đèn lên. “Đằng kia. Cái thùng đó. Hắn ta hỏi tôi có thể giữ cho đến khi hắn quay lại không.”
Đó là một cái thùng các tông, không bọc nhưng buộc lại bằng dây thừng. Một lời tuyên bố, một cảnh báo phần nào có ý nghĩa một lời nguyền độc, được viết bằng bút chì ngang qua nắp thùng: “Cẩn thận! Tài sản của Perry E.Smith! Cẩn thận!” Nye cởi dây; cái nút thắt, ông không vui khi thấy nó không cùng kiểu với cái nút đơn bọn giết người đã dùng để trói nhà Clutter. Ông bật hai mép thùng. Một con gián vọt ra, bà chủ giẫm ngay lên, nghiền nát nó dưới gót chiếc dép bằng kim nhũ của bà. “Hầy!” bà nói trong khi Nye thận trọng lấy đồ đạc của Smith ra thong thả xem. “Thằng mất dạy. Đây là khăn tắm của tôi.” Cùng với cái khăn tắm, ông Nye tỉ mỉ ghi thành khoản mục vào sổ tay mình: “Một cái gối bẩn ‘kỷ niệm Honolulu’; một chăn trẻ con màu hồng; một quần kaki; một chảo nhôm với cái đánh trứng. “Nhiều thứ bà giằn khác bao gồm một cuốn dán dày đặc những tấm ảnh cắt ra từ tạp chí thể dục thể thao (hình các lực sĩ cử tạ bóng nhoáng mồ hôi) và, bên trong một hộp giày, một loạt các thứ thuốc: bàn chải và bột dùng để đỡ hôi mồm, và cả một lượng aspirin đáng kinh ngạc - ít ra tới một tá hộp, nhiều hộp đã dùng hết.”
“Toàn vứt đi,” bà chủ trọ nói. “Chẳng gì ngoài giẻ rách.” Đúng thế, đây là thứ vô giá trị ngay cả với nhà thám tử đang khát đòi tung tích. Nhưng Nye vẫn thích; mỗi thứ - thuốc đau lợi, cái gối Honolulu nhẫy bóng - đều đem lại cho ông một ấn tượng rõ rệt hơn về người chủ của nó cùng cuộc sống đơn độc, khốn cùng của hắn.
Ngày hôm sau ở Reno, chuẩn bị cho bản báo cáo chính thức, Nye viết: “”
Buổi sáng thì vậy. Chiều hôm ấy Nye lên đường đi tìm Tex John Smith. Nhưng ở chặng dừng đầu tiên, tại bưu điện, một nhân viên ở quầy Gửi phát chung bảo ông chả cần phải tìm đâu xa cả - chả cần ở Nevada - vì “cá thể kia” đã rời đó đi từ hồi tháng Tám trước và hiện đang sống ở lân cận Circle City, Alaska. Dẫu gì thì thư tín của hắn cũng đang được gửi đến đó.
“Chu cha! Cha này thì mới kinh đây,” viên thư ký nói, đáp lại yêu cầu của Nye là hãy tả cho nghe về Smith bố. “Lão này y như ở trong sách ra ấy. Tự nhận là Sói Cô độc. Nhiều thư từ của lão được gửi đến với cái tên Sói Cô độc ấy. Lão không nhận nhiều thư, không, nhưng mà hàng đống ca ta lô và tờ rơi quảng cáo thì có. Ông phải lấy làm lạ về cái số lượng những kẻ cứ gửi hoài mấy thứ này đi, chỉ là để mong nhận lại dăm ba hồi âm. Lão ấy già đến đâu hả? Chắc là sáu chục. Mặc kiểu miền Tây, ủng cao bồi, một cái mũ tổ bố. Lão bảo tôi hồi xưa lão chơi trò rodeo, cưỡi bò cưỡi ngựa bất kham. Tôi nói chuyện với lão ít thôi. Ít năm gần đây hầu như ngày nào lão cũng ở đây. Thi thoảng, lão mất tăm ít lâu, đi xa đâu như một tháng hay gì đó - lúc nào cũng bảo là đi khảo sát. Tháng Tám vừa rồi một hôm có một thanh niên đến quầy đây. Nói là hắn đi tìm bố, Tex John Smith, và hỏi tôi có biết tìm ở đâu không. Hắn trông khác bố nhiều; bố thì mỏng môi và người Ái Nhĩ Lan, anh con thì xem ra gần như da đỏ hẳn, tóc đen như xi đánh ủng, mắt cũng đọ được với tóc. Nhưng sáng hôm sau Sói đi vào khẳng định, bảo đây là con tôi, nó vừa mới phục viên và hai bố con sẽ đi Alaska. Lão là một tay làm ăn ở Alaska. Đâu như có thời lão có một cái khách sạn ở đó, hay một kiểu nhà trọ cho dân đi săn. Lão nói lão tính đi chừng hai năm. Không, từ đấy không bao giờ thấy lão nữa, cả lão lẫn thằng con.”
Gia đình Johnson là dân mới đến trong cái cộng đồng ở San Francisco này - một khu của tầng lớp trung lưu, dân thu nhập trung bình mới xây dựng nằm trên đồi cao phía Bắc thành phố. Chiều ngày 18 tháng Chạp năm 1959, bà Johnson trẻ tuổi đang đợi khách; ba bà hàng xóm sắp đến uống cà phê ăn bánh ngọt và có thể đánh bài. Bà chủ nhà căng thẳng; đây là lần đầu tiên bà chiêu đãi khách trong ngôi nhà mới của mình. Lúc này, trong khi chờ nghe tiếng chuông cửa, bà đang đi soát lại lần cuối cùng, dừng lại nhặt một mẩu sợi vương hay sửa lại cách bày mấy bông hoa Poisettia ngày lễ Nôen. Giống như các ngôi nhà khác trên con phố sườn dốc này, ngôi nhà này là một căn nhà trại thông dụng ở ngoại ô, dễ chịu và chẳng có gì đặc biệt. Bà Johnson yêu nó; bà mê mệt các tấm ván ốp tường bằng gỗ đỏ, các tấm thảm trải dài từ vách này qua vách nọ, những cửa sổ cả sau lẫn trước mở ra cảnh đẹp như tranh vẽ, phong cảnh mà cửa sổ sau nhà đem lại cho mắt nhìn - đồi, thung lũng, rồi thì trời và đại dương. Bà tự hào về mảnh vườn nho nhỏ sau nhà; chồng bà - nghề nghiệp là nhân viên bán bảo hiểm nhưng lại có xu hướng làm thợ mộc - đã dựng lên chung quanh nó một hàng rào bằng cọc trắng, trong vườn là một cái nhà cho gia đình chó, rồi một thùng cát và những cái đu cho trẻ con. Lúc này, cả bốn - con chó, hai đứa bé trai, một đứa bé gái - đang đùa ở trong vườn dưới một bầu trời êm đềm; bà hy vọng chúng sẽ vui vầy trong vườn cho tới khi các bà khách ra về. Khi chuông cửa reo, bà Johnson đi ra, mặc bộ váy mà bà cho là có thể tôn mình lên nhiều nhất, một hàng chun màu vàng ôm bó dáng người bà và làm nổi lên cái ánh ngăm ngăm của nước da Cherokee cũng như màu tóc đen nhánh ốp mượt của bà. Bà mở cửa, chuẩn bị đón khách vào; song thay vì vậy bà thấy hai người đàn ông lạ hoắc - họ chạm tay vào vành mũ và lật cái ví có huy hiệu cảnh sát ra. “Bà là bà Johnson?” một người nói. “Tôi là Nye. Đây là thanh tra Guthrie. Chúng tôi trực thuộc cảnh sát San Francisco, vừa nhận được yêu cầu của bang Kansas liên quan tới em trai bà, Perry Edward Smith. Hình như anh ta đã không đến trình diện với ban quản lý tù theo lời hứa danh dự, liệu bà có thể cho chúng tôi biết những việc làm gần đây của anh ấy không?”
Bà Johnson không thất vọng - và dứt khoát là không ngạc nhiên - khi biết cảnh sát lại một lần nữa bận tâm đến hành tung của em trai bà. Điều làm bà lo ngại là cái viễn cảnh khách mời tới mà lại thấy bà đang bị cảnh sát phỏng vấn. Bà nói, “Không. Không có gì hết. Tôi không gặp Perry bốn năm nay rồi.”
“Đây là một vấn đề nghiêm trọng, thưa bà Johnson,” Nye nói. “Tốt nhất chúng ta nên nói hết với nhau.”
Sau khi chịu thua, đưa họ vào và mời cà phê (họ uống), bà Johnson nói, “Tôi không gặp Perry đã bốn năm nay. Cũng chẳng nghe tin gì từ ngày nó được tha theo lời hứa. Mùa hè vừa rồi, khi ra tù, nó có đến thăm bố tôi ở Reno. Trong thư, bố tôi kể là ông quay về Alaska và đem nó đi theo. Rồi bố tôi lại viết thư, tôi nghĩ là hồi tháng Chín, kể rằng ông rất giận. Ông với Perry đã xích mích với nhau và tách lẻ trước khi hai người đến biên giới. Perry quay lại; bố tôi đi Alaska một mình.”
“Và từ đó ông cụ không viết cho bà nữa?”
“Không.”
“Vậy thì có thể em bà vừa mới lại đến với cụ xong. Tháng vừa rồi.”
“Tôi không biết. Tôi không quan tâm.”
“Quan hệ không tốt?”
“Với Perry ấy hả? Vâng. Tôi sợ nó.”
“Nhưng khi anh ta ở Lansing bà hay viết thư cho anh ta kia mà. Hay là các nhà chức trách ở Kansas đã nói như vậy với chúng tôi,” Nye nói. Người thứ hai, thanh tra Guthrie hình như bằng lòng đứng ở ngoài lề.
“Tôi đã muốn giúp nó. Tôi hy vọng có thể thay đổi được chút nào ý nghĩ của nó. Bây giờ tôi hiểu rõ hơn. Quyền lợi của người khác chẳng có nghĩa gì với Perry cả. Nó chẳng biết kính trọng lấy một ai.”
“Về bạn bè. Bà có biết người bạn nào mà anh ta có thể đến ở cùng được không?”
“Joe James,” bà nói, và giải thích rằng James là một thanh niên da đỏ làm rừng và câu cá sống ở trong một khu rừng gần Bellingham, Washington. Không, bà không quen anh này nhưng bà biết rằng anh ta và gia đình rất hào hiệp, trước đây từng rất tốt với Perry. Người bạn duy nhất của Perry mà bà từng gặp là một người đàn bà trẻ xuất hiện ở bậc cửa nhà Johnson tháng Bảy năm 1955, mang theo một bức thư của Perry trong đó giới thiệu cô ta là vợ nó.
“Nó nói đang gặp khó khăn, nhờ tôi trông nom vợ nó cho tới khi nó nhờ được người đến đón về. Cô gái nom chừng hai mươi tuổi, thế nào hóa ra chỉ mới mười bốn. Và dĩ nhiên cô ta chẳng phải là vợ của ai hết. Nhưng lúc đó tôi cũng thu nhận. Tôi thấy ái ngại cho cô ta, đề nghị cô ta ở với chúng tôi. Cô ta ở lại, nhưng không lâu. Chưa được một tuần. Và khi bỏ đi, cô ta mang theo cả va li quần áo của chúng tôi và mọi thứ đựng trong đó - phần lớn quần áo của tôi và của chồng tôi, bộ đồ ăn bằng bạc và cả cái đồng hồ ở trong bếp nữa.”
“Khi việc đó xảy ra, bà đang sống ở đâu?”
“Denver.”
“Bà đã từng sống ở Fort Scott, Kansas bao giờ chưa?”
“Chưa bao giờ. Tôi chưa bao giờ đến bang Kansas.”
“Bà có người chị em nào ở Fort Scott không?”
“Chị tôi chết rồi. Bà chị duy nhất.”
Nye mỉm cười. Ông nói, “Bà Johnson, bà hiểu cho, chúng tôi đang làm viêc theo một giả định cho rằng em bà sẽ tiếp xúc với bà. Bằng cách viết thư hay gọi điện. Hay đến gặp bà.”
“Tôi hy vọng là không. Vì sự thật là nó không biết chúng tôi đã đổi chỗ ở. Nó cứ nghĩ chúng tôi vẫn còn ở Denver. Nếu ông tìm ra nó, xin ông đừng cho nó địa chỉ của tôi. Tôi sợ.”
“Bà nói thế có phải vì bà nghĩ anh ta có thể làm hại bà không? Làm bị thương về thân thể?”
Bà ta suy nghĩ, và không thể dứt khoát, nói rằng bà không rõ. “Nhưng tôi sợ nó. Tôi luôn luôn sợ nó. Nó có thể coi bộ rất giàu tình cảm, dễ mủi lòng. Hiền lành tử tế. Nó dễ khóc lắm. Đôi khi âm nhạc làm nó hào hứng lên, lúc còn bé nó đã quen khóc vì nó nghĩ rằng mặt trời lặn là đẹp. Hay mặt trăng. Ô, nó có thể lừa được ông đấy. Nó có thể làm cho ông cảm thấy ái ngại cho nó...”
Chuông cửa reo, vẻ ngập ngừng của bà Johnson trước tiếng gọi cửa đã truyền đạt tâm trạng tiến thoái lưỡng nan của bà, và Nye (sau này đã viết về bà rằng, “Suốt cuộc phỏng vấn, bà luôn luôn giữ tư thế điềm tĩnh và tao nhã. Một người có cá tính khác thường”) liền với lấy chiếc mũ nâu bẻ gập vành của mình. “Xin lỗi đã quấy quả bà, bà Johnson. Nhưng nếu bà nghe được gì về Perry thì chúng tôi mong bà có thiện chí mà gọi báo chúng tôi hay. Xin hỏi thanh tra Guthrie.”
Sau khi hai thám tử đi rồi, cái tư thế đã làm cho Nye mến mộ bị rơi vỡ tan tành: một nỗi tuyệt vọng về gia đình mình treo lơ lửng. Bà vật lộn với nó, gạt đẩy đòn đánh toàn diện của nó cho tới khi bữa liên hoan đã vãn và khách khứa ra về, cho tới khi bà cho con cái ăn uống, tắm rửa và nghe chúng đọc kinh đêm xong. Rồi thì tâm trạng, như làn sương mù trên biển hiện đang che mờ những cây đèn đường, đến bủa vây lấy bà. Bà đã nói bà sợ Perry, và bà sợ thật, nhưng có phải chỉ đơn giản là sợ Perry không thôi, hay là sợ cảnh ngộ mà Perry là một phần của nó - những số phận khủng khiếp hình như đã được hứa hẹn sẵn cho bốn đứa con của Florence Buckskin và Tex John Smith? Ông anh cả, người mà bà yêu mến, đã tự bắn mình; Fern ngã hay nhảy từ trên cửa sổ xuống; và Perry thì phạm bạo hành, một tên tội phạm. Cho nên, ở một nghĩa nào đó, bà là kẻ sống sót duy nhất; và điều dằn vặt bà chính là cái ý nghĩ rằng đến lúc nào đó, bà cũng sẽ bị dập vùi, hóa điên, hay mắc phải một căn bệnh nan y, hay mất hết những gì quý nhất đời bà - nhà cửa, chồng con - trong một cơn hỏa hoạn.
Chồng bà đang đi làm ăn xa, và khi chỉ có một mình, bà cũng chưa nghĩ đến rượu bao giờ. Nhưng đêm nay bà đã làm một ly mạnh, rồi nằm lên chiếc đi văng trong phòng khách, một quyển an bum ảnh đặt trên đầu gối.
Tấm ảnh chụp bố bà choán hết trang nhất - một bức chân dung chụp năm 1922, năm ông lấy cô kỵ mã da đỏ, tiểu thư Florence Buckskin. Tấm ảnh đó đã cố định mãi ấn tượng của bà Johnson. Nhờ nó, bà có thể hiểu được tại sao mẹ bà lấy bố, tuy hai người thực chất không hề hợp nhau.
Người thanh niên trong ảnh toát ra phong thái đường đường một đấng nam nhi. Mọi thứ - cái lọn vểnh lên của mái tóc đỏ nâu, mắt trái hơi nheo lại (tựa như đang nhắm bắn), chiếc khăn quàng con con kiểu cao bồi buộc thắt nút quanh cổ - hết sức là hấp đẫn. Nhìn chung, thái độ của bà Johnson với ông bố là mập mờ, nhưng có một phương diện ở bố mà bà luôn luôn kính trọng - sức chịu đựng kiên cường. Bà biết rõ bố có vẻ kỳ dị như thế nào trong con mắt người khác; về mặt này, hình như ông bố cũng kỳ dị với cả bà. Muốn gì thì ông bố vẫn là “một con người chân chính”. Ông cụ làm đủ việc, và làm thật dễ dàng. Ông cụ có thể quật đổ một cái cây đúng vào nơi ông cụ muốn. Ông cụ có thể lột da gấu, chữa đồng hồ, xây nhà, làm bánh, mạng bít cất, hay bắt cá hồi bằng một cái kim bẻ cong và một đoạn dây. Có lần, ông cụ đã sống sót một mình suốt cả mùa đông ở vùng đại hoang bang Alaska.
Một mình: theo ý bà Johnson, đó là cách những người đàn ông như thế nên sống. Vợ con, một đời sống e dè không phải là để cho họ.
Bà lật mở mấy trang ảnh chụp thời thơ ấu - những bức ảnh chụp tại các bang Utah, Nevada, Idaho, Oregon. Sự nghiệp kỵ mã trị ngựa bất kham của “Tex và Flo” đã chấm dứt, cả gia đình sống trên một xe tải cũ đi lang thang khắp cả nước săn lùng việc làm, một thứ khó tìm vào năm 1933. “Gia đình Tex John Smith hái quả ở Oregon, năm 1933” là câu chú thích dưới bức chụp bốn đứa trẻ chân đất mặc quần yếm, nhất loạt đều có vẻ mặt hốc hác mỏi mệt. Quả dại hoặc bánh mì ăn cắp giầm vào sữa đặc thường là thứ duy nhất họ ăn. Barbara Johnson nhớ lại một lần gia đình phải sống nhiều ngày bằng chuối nẫu, kết quả là Perry bị đau bụng; nó rên la suốt đêm, trong khi Bobo, tức là Barbara thì kêu khóc vì sợ em chết.
Bobo hơn Perry ba tuổi và rất yêu em; nó là đồ chơi duy nhất của cô, một con búp bê mà cô tắm rửa, chải đầu, hôn hít và đôi khi đét đòn. Đây có một bức ảnh hai đứa cùng tắm truồng trong một vụng nước trong như kim cương ở Colorado, đứa em, một thằng quỷ con bụng ỏng, rám nắng đen sì, đang nắm chặt tay chị mà cười rúc rích, tựa hồ dòng suối đổ xuống tung tóe có cả những ngón tay ma quái cù người. Trong một bức khác (bà Johnson không chắc, nhưng bà nghĩ có lẽ nó được chụp ở một trại chăn nuôi hẻo lánh tại Nevada, nơi gia đình đã ở khi cuộc xung đột cuối cùng giữa bố mẹ, một cuộc xích mích kinh khủng trong đó các thứ roi ngựa, nước sôi đèn dầu đều được sử dụng làm vũ khí, đưa cuộc hôn nhân đến bờ tan vỡ), bà và Perry ngồi trên một con ngựa lùn, đầu sát đầu, má chạm má; sau lưng những quả núi khô nỏ bốc cháy.
Sau khi đám trẻ con và mẹ chúng đến sống ở San Francisco, tình yêu thương em của Bobo nhạt dần rồi khi nguội hẳn. Nó không còn là bé cưng của cô mà là một đồ man rợ, một thằng ăn cắp, một thằng trấn lột. Vụ đầu tiên nó bị bắt bị ghi tên vào sổ cảnh sát là vào ngày 27 tháng Mười năm 1936 - lần sinh nhật thứ tám của nó. Cuối cùng, sau nhiều lần bị giữ tại nhà cải tạo và trung tâm giáo dưỡng trẻ vị thành niên, nhờ sự bảo lãnh của bố nó lại được trở về, và nhiều năm sau Bobo mới lại gặp lại nó, trừ trong mấy bức ảnh mà thỉnh thoảng Tex John gửi cho các đứa con kia của mình - những bức ảnh được dán lên trên các chú thích viết bằng mực trắng là một phần nội dung của quyển an bum. Có “Perry, bố và con chó Etkimô”, “Perry và bố đang đãi vàng”, “Perry săn gấu ở Alaska”, Trong bức thư cuối cùng này, Perry là một cậu trai mười lăm tuổi đội mũ lông đi giày trượt tuyết, đứng giữa hàng cây nặng trĩu tuyết, một khẩu súng quàng dưới cánh tay; mặt mũi bơ phờ, con mắt thì buồn và rất mệt, nhìn tấm ảnh đó, bà Johnson lại nhớ đến một “vụ” Perry gây ra khi hắn tới thăm bà ở Denver. Quả thực, đó là lần cuối cùng bà gặp hắn - mùa xuân năm 1955. Hai chị em đang bàn về tuổi thơ ấu của mình với Tex John thì thình lình Perry, vốn đã có quá nhiều rượu trong người rồi, liền đẩy bà sát vào tường rồi ghìm chặt bà ở đó. “Tôi là một thằng mọi,” Perry nói. “Có thể thôi. Một kẻ mà ông ta có thể sai làm mửa mật ra mà chẳng phải trả lấy một đồng xu. Không, Bobo, tôi đang nói đây. Câm ngay, không thì tôi ném bà xuống sông bây giờ. Như một lần tôi đang đi qua một cây cầu ở Nhật thì có một gã đứng trên đó, tôi chưa hề gặp gã ta trước đó bao giờ, nhưng tôi cứ nhấc gã lên mà ném xuống sông.”
“Làm ơn đi. Bobo. Nghe tôi này. Chị nghĩ là tôi thích tôi ư? Ôi! Đáng ra tôi có thể là một người như thế nào ấy chứ! Nhưng cái lão chết giấp ấy lão có cho tôi cơ hội nào đâu. Lão không cho tôi đi học. O.K. O.K. Tôi là một đứa hư. Nhưng có lúc tôi đã xin đi học. Tôi là một đứa có đầu óc sáng láng cơ mà. Nói vậy để nhớ ra chị không biết. Đầu óc sáng láng mà lại có tài nữa. Nhưng không có học, vì lão không muốn tôi học bất cứ cái gì, chỉ là cốt khuân vác như thế nào cho lão thôi. Đần độn. Ngu dốt. Lão muốn tôi như vậy cơ. Để cho tôi không bao giờ thoát ra khỏi tay lão. Nhưng chị ấy, Bobo. Chị được đi học. Chị và Jimmy và Fern. Các người đứa khỉ nào cũng được học hành. Tất cả, trừ tôi. Tôi thù ghét các người, tất cả - ông già và tất cả các người.”
Làm như với các anh chị hắn đời lót bằng hoa hồng không bằng! Có lẽ là thế thật, nếu đó có nghĩa là dọn các đống nôn mửa của mẹ, là chẳng được mặc cái gì là đẹp, chẳng được ăn cái gì cho no. Nhưng cũng đúng là cả ba đều được đi học tới nơi tới chốn. Thực tế là Jimmy đã đỗ đầu lớp - một vinh dự có được hoàn toàn nhờ vào nghị lực bản thân anh ấy. Chính điều ấy đã làm cho việc anh tự sát có vẻ như một điềm gở đến thế, Barbara Johnson cảm thấy vậy. Tính cách mạnh, rất dũng cảm, hay lam hay làm - hình như những cái đó không hề là yếu tố quyết định trong số phận của các đứa con nhà Tex John. Họ cùng chia sẻ một số phận bất hạnh mà đức hạnh không sao giúp họ cưỡng lại được. Không phải là Perry hay Fern có đức hạnh gì cho cam. Khi Fern mười bốn tuổi, chị đổi tên, và trong suốt những ngày còn lại của đời mình chị ấy đã có biện minh cho việc đổi tên đó là phải: Joy[10]. Chị là một cô gái thoải mái vô tư, “người tình của tất cả mọi người” - đúng hơn là của quá nhiều người, vì chị thiên vị với đàn ông, mặc dù vì lẽ gì đấy chị chẳng được may mắn lắm với họ. Vì lẽ gì đấy, loại người chị ưa chẳng biết sao cứ luôn bỏ rơi chị. Mẹ chết trong một cơn say ngất lịm, thế nên chị sợ uống rượu - nhưng chị vẫn uống. Trước tuổi hai mươi, mỗi sáng chị chào ngày mới bằng một chai bia. Rồi một đêm hè, chị ngã từ trên cửa sổ một phòng khách sạn xuống. Khi đang rơi xuống, chị đập vào mái cổng dẫn vào một nhà hát, bắn tung lên rồi lăn vào bánh một chiếc xe tắc xi. Ở trên kia, trong căn phòng trống không, cảnh sát tìm thấy đôi giày của chị, một ví tiền, một chai uýt ki rỗng.
Người ta có thể thông cảm và tha thứ cho Fern, nhưng Jimmy thì khác. Bà Johnson nhìn bức ảnh trong đó anh mặc quần áo lính thủy; hồi chiến tranh anh phục vụ cho hải quân. Mảnh khảnh, một thủy thủ trẻ tuổi nước da tai tái có bộ mặt dài dài mang đôi chút thánh thiện khắc khổ, anh đứng quàng eo một cô gái sau này anh cưới và theo đánh giá của bà Johnson thì đáng lẽ không nên cưới, vì hai người này chẳng có gì hợp nhau sất - anh Jimmy nghiêm túc với cô gái San Diego mười mấy tuổi đầu quen bám các hạm tàu mà chuỗi hạt thủy tinh phản chiếu lại một vầng mặt trời nay đã ố nhạt từ lâu. Nhưng cái mà Jimmy dành cho cô gái đã vượt quá tình yêu thông thường; nó là đam mê - một đam mê có phần nào bệnh lý. Còn cô gái, cô ắt phải yêu anh, yêu anh vô cùng, bằng không thì cô đã chẳng làm như đã làm. Giá mà Jimmy tin như thế nhỉ! Hay là có khả năng tin được thế. Nhưng lòng ghen tuông đã cầm tù anh rồi. Anh bị cắn xé bởi ý nghĩ về đám đàn ông mà cô từng ngủ cùng trước khi lấy anh; hơn nữa, anh đinh ninh rằng cô vẫn còn tính ăn nằm bừa bãi - rằng mỗi khi anh đi biển hay thậm chí chỉ xa cô có một ngày thôi, cô liền phản bội anh ngay với cả lô cả lốc người tình, anh không ngừng bắt cô phải nhận là đã có những người tình như vậy. Thế rồi cô chĩa khẩu súng vào một điểm - giữa hai mắt mình và lấy ngón chân bấm cò. Khi tìm thấy cô, Jimmy không báo cảnh sát. Anh bế cô đặt lên giường rồi nằm xuống bên cạnh cô. Ngay hôm sau vào khoảng sắp rạng đông, anh lắp đạn lại vào súng và tự sát.
Đối diện với bức ảnh Jimmy và vợ là một bức ảnh chụp Perry mặc binh phục. Ảnh được cắt ra từ một tờ báo, có dán kèm theo một đoạn bài báo: “Sở Chỉ huy Quân đội Hoa Kỳ, Alaska. Binh nhì Perry E. Smith, 23 tuổi, cựu chiến binh đầu tiên của quân đội từng tham chiến ở Triều Tiên quay về Anchorage, Alaska, được Đại úy Mason, Sĩ quan Truyền thông đón tiếp khi đến Căn cứ Không quân Elmendorf. Smith phục vụ 15 tháng ở sư đoàn số 24 với tư cách lính kỹ thuật. Chuyến đi của anh từ Seattle đến Anchorage là quà tặng của Hãng Hàng không Bắc Thái Bình Dương. Cô Lynn Marquis, tiếp viên hàng không, mỉm cười đón tiếp anh. (Ảnh chính thức của Quân đội Hoa Kỳ).” Đại úy Mason chìa tay ra, nhìn binh nhì Perry, nhưng binh nhì Perry lại nhìn vào máy quay. Trông vẻ mặt chú em, bà Johnson nhìn thấy, hay tưởng tượng thấy, không phải lòng biết ơn mà là sự ngạo mạn, và thay vì tự hào thì lại là hết sức vênh vang tự phụ. Thật không thể nào tin rằng khi đi qua một cây cầu hắn đã gặp một người và đã ném người đó khỏi cầu. Dĩ nhiên hắn đã làm vậy. Điều đó bà không bao giờ nghi ngờ.
Bà gấp quyển an bum lại, mở ti vi, nhưng nó không làm bà khuây khỏa được. Giả dụ hắn đến thì sao? Các thám tử đã tìm bà; cớ gì Perry lại không tìm? Nó chẳng cần mong bà giúp nó, thậm chí bà còn không cho nó vào nữa kia. Cửa chính khóa, nhưng cửa ra vườn thì không. Mảnh vườn trắng xóa sương mù của biển; nó có thể là một cuộc tụ hội những hồn ma lắm. Mẹ, Jimmy và Fern. Khi bà John ra gài chốt cửa lại, trong đầu bà người chết lẫn người sống đều như đang hiển hiện.
Một cơn giông đột ngột. Mưa. Trút như thác. Dick chạy. Perry cũng chạy, nhưng không nhanh bằng; chân hắn ngắn hơn, mà hắn lại vướng cái va li quần áo. Dick đến được nơi trú ẩn - một nhà kho cạnh xa lộ - trước hắn khá lâu. Trong khi rời Omaha, sau một đêm ngủ nhờ ở Nhà của Đội quân Cứu rỗi, chúng đã được một tài xế xe tải cho đi nhờ qua biên giới bang Nebraska vào bang Iowa. Nhưng nhiều giờ trước đó thì chúng cuốc bộ. Trời đổ mưa khi chúng còn cách khu định cư Tenville Junction ở Iowa mười sáu dặm về phía Bắc.
Nhà kho tối om.
“Dick ơi,” Perry gọi.
“Lại đây!” Dick nói. Hắn đang nằm dài trên một ổ cỏ khô.
Ướt sũng, run lẩy bẩy, Perry buông người xuống cạnh hắn. “Tớ rét quá,” hắn nói, và rúc vào trong cỏ khô. “Tớ rét quá, nếu cỏ này bốc lửa mà thiêu cháy tớ tớ cũng cóc cần.” Hắn cũng đói nữa. Đói lả. Đêm qua chúng đã ăn cháo bố thí của Đội quân Cứu rỗi, còn hôm nay cái duy nhất nuôi sống chúng là mấy thanh sô cô la và kẹo cao su Dick thó được ở quầy kẹo bánh của một tiệm thuốc. “Còn sô cô la Hershey nữa không?” Perry hỏi.
Không, nhưng hãy còn một gói kẹo cao su. Chúng chia nhau rồi nằm xuống nhai, mỗi đứa nhai hai thanh rưỡi kẹo cao su Doublemint, cái hương vị Dick thích (Perry thì thích vị quả hơn là bạc hà). Tiền trở thành vấn đề. Sự thiếu tiền gay gắt khiến Dick đi tới quyết định rằng cú sau đây của chúng sẽ là cái mà Perry coi là “cú liều của một gã điên rồ” - quay lại Kansas City. Khi Dick giục về đó lần đầu tiên, Perry đã nói, “Cậu phải đi khám đốc tờ đi.” Bây giờ, chen chúc bên nhau trong bóng đêm lạnh lẽo, lắng nghe mưa lạnh lẽo mịt mù, chúng lại bắt đầu bàn bạc, Perry một lần nữa liệt kê ra các mối nguy hiểm của một bước đi như vậy, vì lần này chắc chắn Dick đã bị truy nã về tội vi phạm lời hứa danh dự rồi - “nếu như không có gì nghiêm trọng hơn thế nữa”. Nhưng Dick không dễ bị thuyết phục. Hắn nài một lần nữa rằng Kansas City là cái nơi duy nhất hắn tin dứt khoát mình sẽ “cho đi lọt thành công những tấm séc giả. Mẹ khỉ, tớ biết là ta phải cẩn thận. Tớ biết chúng nó đã phát trát bắt. Vì những tấm séc chúng ta tiêu trước đây. Nhưng chúng ta sẽ hành động lẹ. Một hôm thôi là xong liền. Nếu vớ được khá, chúng ta sẽ đến Florida thử xem sao. Qua Nôen ở Miami - nếu thấy hay hay thì ở hết mùa đông tại đó.” Nhưng Perry nhai kẹo cao su, run lập cập và dằn dỗi. Dick nói, “Gì thế, bồ? Cái vụ kia ấy ư? Làm quái gì cậu cứ không quên được thế nhỉ? Chúng nó đã tìm ra được mối liên hệ nào đâu. Không bao giờ.”
Perry nói, “Có thể cậu sai đấy. Và nếu cậu sai thì có nghĩa là Cái Xó.” Cả hai đứa trước đây chưa bao giờ nhắc đến hình phạt nặng nhất ở bang Kansas - treo cổ, hay là chết trong Cái Xó, như dân tù trong trại giam bang Kansas gọi mấy cái lán có thiết bị cần thiết để treo cổ tử tù.
Dick nói, “Anh diễn viên hài ơi. Cậu giết tớ thì có đấy.” Hắn đánh que diêm, định hút một điếu thuốc nhưng nhờ ánh lửa hắn nhìn thấy một cái gì. Hắn đứng dậy, đi qua gian nhà kho đến một cái chuồng bò. Một chiếc xe đỗ trong chuồng bò, một chiếc Chevrolet hai cửa, đời 1956, hai màu đen trắng. Chìa khóa vẫn nằm trong ổ.
Dewey đã quyết định không cho “dân thường” biết tí nào về đột phá quan trọng này trong vụ Clutter - ông quyết tâm đến độ lấy vào nhóm công tác tin cậy của mình hai anh mõ rao chuyên nghiệp của Garden City: Bill Brown, biên tập viên tờ Điện tín Garden City và người điều hành đài phát thanh địa phương, KIUL.
Vẽ phác qua tình hình, ông nhấn mạnh đến các lý do khiến ông coi bí mật là quan trọng hàng đầu: “Hãy nhớ là có khả năng hai người này vô tội.”
Đây là một khả năng không dễ bác bỏ, Floyd Wells, người cung cấp thông tin, có thể dễ dàng đặt chuyện; không ít tù nhân hy vọng giành được ân huệ hoặc thu hút được sự chú ý của nhà chức trách nên đã bịa ra các chuyện tương tự. Song dù cho mỗi lời của Wells đều là khuôn vàng thước ngọc thì Dewey và các đồng nghiệp ông vẫn chưa tìm được một mẩu bằng chứng vững chắc - “bằng chứng pháp đình” nào. Cái gì họ phát hiện ra mà lại không thể bị diễn giải thành sự trùng hợp có thể tin được, tuy kỳ lạ? Cho dù Smith đi đến Kansas thăm Hickock bạn hắn, cho dù Hickock sở hữu một khẩu súng thuộc loại đã được dùng để gây án, và cho dù các nghi phạm đã bày ra một chứng cứ ngoại phạm giả để kể về hành tung của chúng vào cái đêm 14 tháng Mười một, song đâu phải nhất thiết vì vậy mà chúng là những kẻ sát nhân hàng loạt. “Nhưng chúng ta gần như chắc chắn là chúng. Chúng ta đều nghĩ như thế. Nếu không thì chúng ta cho báo động khắp mười bảy bang, từ Arkansas đến Oregon làm gì? Nhưng trong đầu thì hãy cứ nhớ cho rằng: có thể phải hàng năm trời chúng ta mới tóm được chúng. Chúng có thể đã rời nhau rồi. Hay bỏ vùng đất này đi. Chúng có cơ tới tận Alaska - mất tăm ở đấy thì chả khó gì. Chúng còn xổng thì vụ này còn chưa xong. Nói thẳng ra, công việc đang giẫm chân tại chỗ thế này thì muốn thế nào chúng ta cũng chẳng tiến được là bao cả. Chúng ta có thể chẹt cổ bọn chó đẻ này ngày mai mà không thể chứng minh được cái quái gì.”
Dewey không cường điệu. Ngoài hai dấu gót ủng, một mang hình viên kim cương và một nhãn Móng Mèo, bọn giết người không để lại một manh mối nào. Có vẻ chúng hết sức thận trọng cho nên chắc hẳn đã quăng mấy cái ủng kia từ lâu. Cả chiếc rađiô - cho dù chúng đã ăn cắp nó - điều mà Dewey vẫn có phần ngập ngừng không muốn công nhận bởi vì theo ông việc này tỏ ra “trái ngược đến mức lố bịch” với mức độ ghê gớm của tội ác và sự xảo quyệt của bọn tội phạm, “không thể quan niệm nổi” rằng những đứa này vào một ngôi nhà với hy vọng tìm thấy một két sắt bộn tiền, thế rồi tìm không thấy thì lại cho rằng tàn sát cả một gia đình vì dăm ba đô la và một chiếc rađiô xách tay bé tẹo là chuyện thích đáng. “Không có lời thú tội, chúng ta sẽ không bao giờ kết tội được,” ông nói. “Ý kiến tôi là thế. Do đó chúng ta thận trọng mấy cũng không thừa. Chúng nghĩ là chúng đã thoát được vụ này. Được, chúng ta lại muốn chúng nghĩ thế đấy. Chúng càng cảm thấy an toàn thì chúng ta càng sớm tóm được chúng.”
Nhưng bí mật là thứ hàng xa xỉ không quen thuộc ở một thị trấn cỡ Garden City. Bất cứ ai đến văn phòng cảnh sát trưởng - ba gian phòng lèo tèo đồ đạc và người quá đông ở tầng bốn của tòa án hạt - đều có thể phát hiện một không khí kỳ lạ, gần như hung hiểm. Cảnh tíu tít, tiếng rầm rì cáu kỉnh của mấy tuần gần đấy đã biến mất; một vẻ tĩnh lặng run rẩy thấm vào các ngóc ngách của chốn này. Bà Richardson, thư ký văn phòng, một con người rất thực tế, qua một đêm đã thủ đắc được một loạt những thầm thì kiểu cách, những điệu bộ rón ra rón rén, và những người mà bà phục vụ đây, cảnh sát trưởng và bộ sậu của ông, Dewey và kíp đặc vụ K.B.I nhập cảng đều lui tới khẽ khàng, chuyện trò với cái giọng kín đáo bí ẩn. Tựa như những người đi săn nấp ở trong rừng, sợ bất kỳ tiếng động hay cử chỉ bất thường nào cũng sẽ làm cho các con thú đang đến gần bỏ chạy.
Dân chúng bàn tán. Phòng Lối mòn của khách sạn Warren, một tiệm cà phê mà giới doanh nhân ở Garden City coi như câu lạc bộ riêng của mình, là một cái hang cứ xì xì xào xào những lời tiên đoán và tin đồn. Một công dân có máu mặt sắp bị bắt tới nơi rồi nhá, người ta nghe nói thế. Hay nghe nói vụ án mạng này là công việc của đám sát thủ mà những kẻ thù của Hội Các Nhà Trồng Lúa mì Bang Kansas thuê làm, hội này là một tổ chức tiến bộ và ông Clutter đóng vai trò quan trọng trong đó. Trong nhiều câu chuyện được nhỏ to này, chuyện gần như chính xác nhất là do một nhà đại lý xe hơi (ông ta không cho biết chính xác nguồn gốc chuyện) đóng góp: “Hình như có một người đã làm việc cho Herb đâu như từ năm 47 hay 48. Một người làm công chăn nuôi bình thường. Hình như đã đi tù, nhà tù bang, và khi còn ở đây hắn ta đã biết ông Herb là người giàu có lắm. Cho nên độ một tháng trước, khi họ thả hắn ra, thì việc đầu tiên hắn làm là đến đây trói mấy người này lại cướp rồi giết.”
Nhưng bảy dặm về phía Tây, trong một làng ở Holcomb, không thấy có một tẻo teo tin tức gây xúc động nào, một lý do là vì ở cả hai nơi cung cấp tin đồn chính của cộng đồng này - bưu điện và quán cà phê Hartman - thảm kịch Clutter một dạo đã trở thành một đề tài bị cấm. “Bản thân tôi nay chả muốn nghe một lời nào nữa,” bà Hartman nói. “Tôi đã bảo họ, chúng ta không thể tiếp tục sống thế này. Nghi ngờ ráo cả, toàn làm cho nhau sợ tưởng chết. Điều tôi nói là, nếu ông bà muốn nói chuyện đó thì xin tránh chỗ tôi đây ra.” Myrt Clare giữ một lập trường khá vững. “Dân đến đây mua con tem vài xu mà lại nghĩ có thể ở thêm ba giờ ba mươi ba phút để moi chuyện nhà Clutter. Vặt mất cánh của người khác đi. Đồ rắn đuôi chuông, rặt là thế cả thôi à. Tôi đâu có thì giờ mà nghe họ chứ. Tôi đang làm việc công - tôi là người đại diện cho chính phủ Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Muốn gì thì đó cũng là bệnh hoạn. Al Dewey và những tay cảnh sát từ Topeka và Kansas City đến đều cỡ cốp, được coi là sắc như dao cả đấy chứ. Nhưng tôi chưa biết có ma nào lại nghĩ họ có cơ may bắt cái đứa làm chuyện kia. Nên tôi cho rằng im mồm đi là khôn. Ông bà sống cho tới khi chết, còn ông bà đi ra sao thì chuyện ấy không quan trọng, chết là chết. Thế nên tại sao chỉ vì ông Clutter bị cắt cổ mà cứ lẵng nhẵng đeo lấy cả một bị đầy những trò nghe thối tai đó làm gì? Kiểu gì thì cũng là bệnh hoạn. Polly Stringer nhà ở tít trên trường học ấy hả? Sáng nay Polly Stringer ở đây mà. Bà ấy bảo chỉ bây giờ, sau hơn một tháng thì trẻ con chúng mới hoàn hồn lại được. Điều này khiến tôi nghĩ: nếu họ bắt được một người thì sao? Nếu thế thì hẳn là một ai đó mà mọi người đều biết mới phải chứ. Và thế chắc là lại quạt cho lửa bùng to lên đây, cái nồi sôi đang bắt đầu nguội đi thì lại bê nó ra. Tôi thì tôi nói là chúng ta đã quá thừa kích động rồi.”
Còn sớm, chưa tới chín giờ, Perry là người khách đầu tiên của tiệm giặt Washateria, một tiệm giặt tự phục vụ lấy. Hắn mở cái va li rơm căng phồng, lôi ra một mớ quần đùi, bít tất, sơ mi (một ít là của hắn, một ít của Dick), ném vào chậu rồi giắt thanh chì - một trong những thanh mua từ ở Mexico về - vào trong một máy để cho máy chạy.
Perry rất thạo cách làm ăn của những cửa tiệm thế này, hắn thường hay đến đó và lấy làm sung sướng được “thư giãn” ngồi yên lặng chờ cho quần áo sạch khô. Nhưng hôm nay thì không. Hắn quá lo sợ. Mặc dù hắn đã cảnh cáo thế nào, Dick vẫn cứ thắng. Bây giờ chúng đã ở đây, quay lại Kansas City - mệt chết đi được, cuốc bộ, thêm vào đó nữa lại lái một chiếc xe ăn cắp! Cả đêm chúng đã phóng chiếc Chevrolet Iowa trong mưa dày hạt, đỗ hai lần để hút xăng, cả hai lần đều hút từ các xe đỗ ở mấy đường phố vắng ngắt của các thị trấn nhỏ đang ngủ yên lành. (Đây là việc của Perry, một việc mà hắn tự chấm điểm mình là “cao thủ vô đối. Chỉ cần một đoạn ống cao su ngắn, thế là đi cùng khắp xứ này đâu đâu tao cũng có xăng chả phải trả tiền.”) Hừng đông chúng đến Kansas City, đầu tiên là ra sân bay, vào phòng vệ sinh nam rửa ráy, cạo râu, đánh răng; hai giờ sau, khi đã làm một giấc ở phòng chờ máy bay, chúng quay trở lại thành phố. Chính ở đây Dick đã thả Perry xuống tiệm giặt Washateria, hứa một tiếng nữa sẽ quay lại đón.
Quần áo đã sạch và khô, Perry nhét vào lại va li. Đã hơn mười giờ. Cứ cho rằng đi đâu đó để “tiêu séc giả” thì Dick cũng đã quá hạn. Hắn chọn một cái ghế dài, ngồi chờ. Chỉ cách có gang tay là một cái ví phụ nữ. Cái ví đang giục bàn tay hắn bò dần tới. Nhưng vóc dáng người chủ cái ví, vạm vỡ nhất trong đám đàn bà đang sử dụng máy giặt, làm cho hắn nhụt chí. Có lần, khi hắn còn là một thằng bé ma cô ở San Francisco, hắn và một “lỏi Tàu” (Tommy Chan à? Hay Tommy Lee?) đã cùng làm ăn với nhau như một “nhóm giật ví”. Perry nhớ lại - và việc đó làm hắn vui lên, hào hứng lên. “Như một lần tụi tôi lẻn đến bên một bà cụ già, rất già, Tommy túm lấy cái ví nhưng bà lão, đúng là một con cọp cái, không chịu buông. Tommy càng giằng khỏe, bà lão càng giữ chặt. Rồi bà ta thấy tôi, bèn nói, “Cứu với! Cứu với!” thì tôi mới nói, “Này bà già, mẹ kiếp, tôi đang cứu nó thì có!” và thụi bà ta tới số. Bà ta ngã xuống đường. Hai đứa lấy được tất cả có chín mươi xu - tôi còn nhớ chính xác. Hai đứa tôi vào một quán ăn ba tàu và ăn dưới gầm bàn.”
Sự đời chẳng thay đổi mấy. Perry đã già hơn hai mươi tuổi và nặng hơn lên gần nửa tạ nhưng tình cảnh vật chất của hắn thì chẳng khấm khá lên được chút nào. Hắn vẫn cứ là thằng ăn bám cầu bơ cầu bất, sống nhờ mấy đồng bạc ăn cắp của người ta (mà có tin nổi không, một đứa thông minh như hắn, tài cán như hắn!).
Mắt hắn vẫn không sao rời được chiếc đồng hồ trên tường. Mười giờ rưỡi, hắn bắt đầu lo lắng. Mười một giờ chân hắn nhức giật lên thon thót, dấu hiệu của cơn hoảng loạn đang đến, bao giờ cũng vậy, “máu tôi sủi bong bóng”. Hắn nhai một viên aspirin, và cố xóa sạch đi - ít nhất là làm mờ đi - những hình ảnh khủng khiếp đang như một đám rước sáng lòa sống động trôi qua đầu hắn: Dick ở trong tay cảnh sát, có lẽ bị bắt trong khi đang viết một tấm séc giả hay mắc vào một vụ phạm luật giao thông tẹp nhẹp nào đó (rồi bị phát hiện là lái một chiếc xe “chôm”). Rất có thể chính trong lúc này Dick đang bị sa lưới giữa vòng vây những thám tử hung hăng. Mà họ chẳng phải đang bàn ba cái chuyện ba láp như séc giả hay ăn cắp xe đâu. Án mạng kìa, đó mới là vấn đề, dù muốn thế nào thì cái mối liên hệ mà Dick cầm chắc là không ai mò ra được đã bị mò ra. Và ngay bây giờ một xe đầy cảnh sát đang trên đường phóng tới Washateria đây.
Nhưng không, hắn tưởng tượng quá đấy thôi, Dick chẳng bao giờ làm thế. Nghĩ mà xem hắn thường nghe Dick nói thế nào. “Chúng có đánh tớ mù đi nữa tớ cũng không bao giờ nói cho nó biết cái gì hết á.” Dĩ nhiên Dick là một “cha phét lác”, hắn chỉ dữ dằn trong những trường hợp hắn rõ ràng là ở trên cơ, Perry biết quá rõ. Thình lình, vừa hay, hắn nghĩ đến một lý do ít làm hắn nản lòng hơn cho việc Dick vắng mặt lâu. Dick đi thăm bố mẹ hắn. Một việc làm nguy hiểm nhưng Dick là thằng “dốc lòng hiếu tử”, hay là hắn tuyên bố mồm như thế, đêm qua trong chuyến đi dài dưới mưa hắn đã bảo Perry, “Tớ muốn gặp ông bà già tớ. Các cụ không nói ra đâu, tớ muốn nói là các cụ sẽ không báo cho viên giám sát tù tạm tha đâu, sẽ không làm việc gì khiến chúng ta rắc rối. Tớ chỉ xấu hổ. Tớ sợ cái điều mẹ tớ sẽ nói. Về các tờ séc. Rồi đi tuốt như chúng ta. Nhưng tớ mong có thể gọi cho các cụ, nghe xem các cụ ra sao.” Nhưng việc đó là bất khả, vì nhà Hickock không có điện thoại; nếu có thì Perry đã reng một cái để xem Dick có đó hay không.
Ít phút sau, hắn lại đinh ninh Dick đã bị bắt thật. Chỗ chân đau của hắn rực nhói lên, lóe sáng khắp cơ thể hắn, và mùi nước giặt giũ, mùi hôi nồng nặc khói, tất cả lập tức làm hắn như phát ốm, kéo bật hắn dậy, đẩy hắn nhào ra cửa. Hắn đứng nơi vệ đường mà nôn như “một thằng say quắc cần câu”. Kansas City! Hắn chẳng đã biết Kansas City là vận đen và đã van Dick lánh cho xa đó sao? Bây giờ, có thể bây giờ, Dick đang hối hận là đã không nghe hắn. Và hắn nghĩ: còn ta thì sao đây, “với một hai hào lẻ và một bó những thanh chì vụn trong túi?” Đi đâu được đây? Ai giúp được hắn chứ? Bobo? Ở đó mà mong! Nhưng chồng mụ thì có thể. Theo tính của Fred Johnson thì có thể sẽ bảo đảm cho Perry một việc làm sau khi ra tù, vậy là giúp hắn giữ lời hứa. Nhưng Bobo không chịu; mụ đã nói như thế chỉ dẫn đến rắc rối, và có thể nguy hiểm nữa. Thế rồi mụ đã biên thư cho Perry nói rõ ràng ra như thế. Một ngày nào đó hắn sẽ trả đũa cho mụ biết tay, vui vẻ tí chơi, chuyện vãn với mụ - khoe khả năng của hắn, nhả ra chi tiết những trò hắn có thể làm với những người như mụ, những người đáng kính, an toàn và phè phỡn chính xác giống như Bobo. Đúng, cho mụ biết hắn có thể nguy hiểm đến thế nào, cho mụ sáng mắt ra. Đó là điều hắn đã làm - đi Denver thăm nhà Johnson. Fred Johnson sẽ đỡ đần để cho cuộc đời mới của hắn bắt đầu khởi động; ông ta cần phải làm thế nếu ông ta muốn tống khứ hắn đi cho khuất mắt.
Lúc đó Dick lại gần hắn ở chỗ vệ đường. “Kìa, Perry, hắn nói, “cậu ốm à?”
m thanh tiếng nói của Dick như một phát tiêm ma túy mạnh, một chất ma túy, xâm chiếm các tĩnh mạch của hắn, gây ra một cơn mê sảng gồm những cảm giác chống chọi nhau: căng thẳng và thư giãn, phẫn nộ và âu yếm. Hai tay nắm lại thành quả đấm, hắn tiến về phía Dick. “Mày, thằng chó,” hắn nói. Dick cười toe toét, nói, “Thôi nào. Chúng ta lại được ăn rồi đây.”
Nhưng theo lệ là phải có giải thích - và cả xin lỗi nữa - thế rồi khi hai đứa ngồi xơi một bát thịt bò ớt đậu ở nhà hàng thịt băm Buýp Phê Đại Bàng mà Dick thích nhất ở Kansas City, Dick nói, “Tớ xin lỗi, bồ. Tớ biết cậu sẽ nổi cơn mà. Thử nghĩ xem, làm thế nào tớ lại đụng ngay một tên cớm. Nhưng vận tớ cũng đỏ gớm, cho nên chắc là tớ thoát được rồi.” Hắn giải thích rằng sau khi chia tay với Perry, hắn đến công ty Markl Buick, là cái hãng xe hơi đã có lần thuê hắn, hy vọng kiếm được một cặp biển số xe để thay cho cặp biển số dễ bị phát hiện của chiếc Chevrolet chúng cuỗm. “Tớ lẻn vào rồi ra mà chẳng ma nào thấy cả. Markl vốn là một nơi nổi tiếng bán xe bẹp xe nát. Quả nhiên là ở đằng sau công ty có một chiếc De Soto bẹp rúm với biển của bang Kansas.” Còn hiện thời thì chúng ở đâu nào? “Ở trên cỗ xe một ngựa của chúng ta đây, bạn ơi.”
Thay biển số xong, Dick ném biển số của bang Iowa vào một bể chứa nước của thành phố. Rồi hắn đỗ lại ở một trạm xăng mà thằng bạn học cùng lớp với hắn trước kia tên là Steve đang làm việc, hắn thuyết phục Steve nhận thanh toán bằng tấm séc năm chục đô, điều trước đây hắn chưa từng làm bao giờ - “bịp một thằng bạn hữu”. Thôi được, hắn chẳng bao giờ gặp lại Steve nữa đâu mà. Đêm nay hắn sẽ “tách hộ khẩu” ra khỏi Kansas City, lần này thì là mãi mãi. Hà cớ gì mà không xiết dăm thằng bạn cũ nào? Với ý nghĩ đó, hắn đã tìm một bạn học cùng lớp khác, làm nghề bán thuốc. Ở đây hắn mua sắm đến bảy mươi đô. “Giờ thì, tối nay, chúng mình sẽ chơi cho tới hai trăm. Tớ đã lên danh sách những nơi đánh phá rồi. Sáu bảy chỗ, bắt đầu ngay từ đây,” hắn nói, ý bảo chính Buýp Phê Đại Bàng đây, nơi mà tất cả mọi người - từ tay đứng quầy cho đến các anh bồi - thảy đều biết hắn và ưa hắn, gọi hắn là Dưa Chua (để vinh danh món khoái khẩu của hắn). “Rồi thì Florida, ta sẽ đến đó. Thấy sao hở bồ? Tớ chẳng đã hứa là chúng mình sẽ ăn Nôen ở Miami đó sao? Y hệt như mọi thằng triệu phú nhá.”
Dewey và đồng sự, đặc vụ K.B.I Clarence Duntz đang đứng chờ bàn trống ở Phòng Lối mòn. Nhìn quanh các bộ mặt quen thuộc vào giờ ăn trưa - đám doanh nhân da thịt mềm nhẽo và cánh chủ trại rám nắng nước da thô - Dewey nhận ra những người quen đặc biệt: bác sĩ Fenton, chuyên viên pháp y địa phương; Tom Mahar, ông giám đốc Warren; Harrison Smith, người đã tranh cử chức chưởng lý tỉnh năm ngoái nhưng thua Duane West, cả Herbert W. Clutter, chủ Trại Lũng Sông và là thành viên dự học Trường Chủ nhật của Dewey. Khoan, khoan nào! Chẳng phải là Dewey đã dự đám tang ông ta hay sao? Thế mà ông ta lại ở đây, ngồi ở góc lượn tròn của Phòng Lối mòn, đôi mắt màu nâu linh hoạt, đôi quai hàm vuông góc, vẻ tốt lành chân chất không hề bị cái chết làm khác đi chút nào. Nhưng Herb không ngồi một mình. Cùng bàn với ông có hai người trẻ tuổi và, nhận ra họ, Dewey bèn huých Duntz.
“Nhìn kìa.”
“Đâu cơ?”
“Quỷ tha ma bắt!”
Hickock và Smith đó! Nhưng hai bên lúc này đều đã nhận ra nhau. Hai thằng kia ngửi thấy nguy hiểm. Chúng quăng mình, qua cửa kính Phòng Lối mòn, chân đi trước, Dewey và Duntz nhảy bổ theo sau, hộc tốc chạy dọc Phố Chính, qua Palmer Jewelry, Norris Drugs, quán cà phê Garden, vòng góc phố xuôi xuống nhà ga rồi chui vào, thụt ra, trốn tìm ú tim giữa một lô những tòa tháp trắng cất giữ hạt ngũ cốc. Dewey rút súng, Duntz cũng vậy, nhưng khi họ nhắm bắn thì xảy ra điều kỳ dị. Thình lình, hết sức khó hiểu, (như trong giấc mơ vậy!) ai cũng đều bơi hết - kẻ đuổi, thằng chạy - đạp thòm thòm cái mặt nước rộng ghê gớm mà Phòng Thương mại Garden City rêu rao là “Bể bơi KHÔNG MẤT TIỀN lớn nhất thế giới”. Khi hai vị thám tử chạy ngang hàng với hai con mồi thì kìa, thêm lần nữa cảnh tượng đó lại nhòa mờ đi, nhòa mờ thành một cảnh tượng khác (Làm sao lại xảy ra cái trò này được nhỉ? Mình đang mê chăng?): nghĩa trang Cảnh Lũng, cái hòn đảo xám xanh của những nấm mồ, những thân cây những lối đi có trồng hoa, một ốc đảo yên bình cành lá xum xuê khe khẽ rì rào tựa như mảng bóng mây râm mát trên những bình nguyên trồng lúa mì rờ rỡ ở phía Bắc thị trấn. Nhưng bây giờ thì Duntz biến mất, còn lại Dewey với hai kẻ bị săn đuổi. Mặc dù không thấy chúng, ông biết chắc chúng đang trốn giữa những người chết, lom khom nấp sau một tấm bia mộ, có khi là bia mộ của chính cha ông: “Alvin Adams Dewey, 06/09/1879-26/01/1948”. Súng trong tay, ông bò dọc các lối mòn trang nghiêm, cho tới khi nghe tiếng cười và mò ra được hướng của nó, ông nhìn thấy Smith và Hickock nhưng chúng không hề ẩn nấp gì hết mà đang đứng xoạc cẳng trên nấm mồ chung hãy còn chưa được khắc tên của Herb, Bonnie, Nancy và Kenyon, chúng đứng dạng chân, tay chống nạnh, đầu ngật ra đằng sau, cười sằng sặc. Dewey bắn... bắn nữa... bắn nữa... Không ai ngã, tuy đứa nào cũng đã bị bắn ba phát trúng tim; chúng chỉ từ từ biến thành trong suốt, từng tí từng tí một hóa thành vô hình, bốc hơi, mặc dù tiếng cười vẫn cứ tràn ra cho tới lúc Dewey cúi xuống, chạy xa khỏi nó, lòng tràn ngập một nỗi tuyệt vọng quá mênh mông và chính nó đã đánh thức ông.
Khi tỉnh lại, ông tựa như là một đứa nhỏ mười tuổi đang ốm sốt và run lật bật; tóc ông ướt đầm, sơ mi sũng mồ hôi dính bết vào người. Căn phòng ở sở cảnh sát, nơi ông đã khóa trái tự nhốt mình trước khi ngủ vùi nơi bàn giấy, thì lờ mờ trong ánh chiều hôm. Lắng tai, ông nghe thấy điện thoại của bà Richardson réo trong buồng làm việc kế bên. Nhưng bà không ở đấy để trả lời; văn phòng đã đóng cửa. Trên đường đi ra, ông đã tính cứ mặc kệ chiếc điện thoại reo, nhưng rồi ông ngập ngừng. Có thể là Marie gọi hỏi xem ông có còn làm việc không, bà có nên chờ ông về ăn tới không.
“Ông A. A. Dewey, xin hỏi. Kansas City đang gọi.”
“Tôi, Dewey đây.”
“Kìa, nói đi, Kansas City. Ngư
Cuối cùng, một tiếng người, đàn bà, song không nhiều nữ tính lắm, hét to, “Tôi đến đây,” nhưng phải đến năm phút sau mới hiện ra. Bà ta mặc một cái áo lao động trong nhà ố bẩn, đôi xăng đan da cao gót băng hàng kim nhũ. Những cái lô túm chặt lấy mái tóc thưa màu vàng nhạt. Mặt bà ta rộng, nạc thịt, đánh phấn, bôi đỏ. Tay cầm một lon bia Miller Hight Life; người sặc mùi bia và thuốc lá cùng sơn móng tay vừa mới bôi xong. Bà ta bảy mươi tư tuổi, nhưng theo ý Nye thì “nom trẻ hơn - có lẽ trẻ hơn mười phút”. Bà nhìn chằm chằm Nye, bộ áo quần màu nâu lịch sự, chiếc mũ nâu bẻ gập vành của ông. Khi ông đưa chiếc huy hiệu ra, bà thích thú; đôi môi bà hé, và Nye thấy lấp lóa hai hàng răng giả. “Ái chà, không ngờ đấy,” bà nói, “O.K. nào ta hãy nghe xem nào.” Ông đưa cho bà một tấm ảnh của Richard Hickock. “Biết hắn không?”
Một tiếng làu bàu phủ định. “Hay hắn?”
Bà nói, “Ái chà. Anh ta có ở đây ít ngày. Nhưng bây giờ thì thôi rồi. Trả phòng từ tháng trước rồi. Ông có muốn coi sổ đăng ký không?”
Nye tì lên bàn làm việc nhìn những móng tay dài có sơn của bà ta dò tìm một trang viết tháu bằng bút chì. Las Vegas là nơi đầu tiên trong ba nơi mà cấp trên của ông muốn ông đến. Cả ba đều được chọn ra vì chúng liên quan tới chuyện Perry Smith. Hai nơi kia là Reno, nơi được cho là bố Perry sống, và San Francisco, nhà của chị Perry, ở đây được biết đến với cái tên bà Frederic Johnson. Tuy Nye có kế hoạch phỏng vấn những người họ hàng này, và một ai đó khác có thể biết được tung tích của kẻ tình nghi, song mục tiêu chính của ông vẫn là tranh thủ sự giúp đỡ của cơ quan pháp luật sở tại. Chẳng hạn, khi đến Las Vegas, ông đã thảo luận vụ Clutter với Trung úy B.J. Handlon, Trưởng ban Thám tử của sở Cảnh sát Las Vegas. Lúc đó, viên trung úy đã viết một công văn ra lệnh cho toàn bộ nhân viên cảnh sát phải duy trì tình trạng báo động đối với Hickock và Smith: “Kansas truy nã về tội vi phạm lời hứa trước tòa; nghe nói đương sự đang lái một chiếc xe Chevrolet 1949 với giấy phép của Kansas số JO - 58269. Những người này chắc chắc có vũ khí nên bị coi là nguy hiểm.” Handlon cũng cử một thám tử giúp Nye “vụ nhà cầm đồ”, như ông nói, “luôn luôn có đám người này ở bất cứ thị trấn cờ bạc nào.” Nye và người thám tử Las Vegas đã cùng nhau kiểm tra từng biên lai cầm đồ được xuất trong tháng trước. Đặc biệt, Nye hy vọng tìm ra một rađiô xách tay nhãn Zenith mà người ta tin rằng đã bị lấy cắp ở nhà Clutter đêm án mạng, nhưng ông không may mắn trong việc này. Tuy nhiên một người cầm đồ đã nhớ ra Smith (“Hắn đi đi lại lại ở đây có đến mười năm rồi”) và đưa ra tấm biên lai về một cái chăn da gấu được cầm trong vòng tuần đầu tháng Mười một. Chính nhờ biên lai này mà Nye đã nắm được địa chỉ cái nhà trọ.
“Đăng ký ngày 13 tháng Mười,” bà chủ trọ nói, ‘trả ngày 11 tháng Mười một.” Nye liếc nhìn chữ ký của Smith. Sự bay bướm của nó, những uốn những móc kiểu cách làm ông ngạc nhiên - một phản ứng mà bà chủ trọ rõ ràng đoán ra, và bà nói. “Ái chà. Mà ông còn phải nghe hắn ta nói nữa cơ. Toàn những từ to tát dài dòng lọt vào tai mình bằng cái giọng thì thầm, lào thào. Tính cách có một không hai đây. Ông lùng hắn ta là vì cái gì - một thằng ma cô nhãi xinh xẻo như thế?”
“Vi phạm lời hứa phóng thích.”
“Ái chà. Đi ngần ấy đường từ Kansas đến vì một vụ vi phạm lời hứa. Được, tôi chỉ là một mẹ tóc vàng ú ớ thôi mà. Tôi tin ông. Nhưng tôi sẽ không kể lại chuyện này cho bất cứ con bé tóc đen nào nghe đâu.” Bà giơ lon bia lên, uống cạn, rồi từ từ lăn cái lon rỗng giữa hai bàn tay nổi gân và lấm chấm đồi mồi. “Muốn làm gì thì làm, những không thể là tay cầm đầu được. Không thể được. Tôi chưa từng gặp người nào mà tôi không ước nổi cỡ giày đâu. Thằng cha này chỉ là một gã ma cô. Đồ ma cô nhãi ranh cố dụ tôi không đòi tiền trọ tuần cuối cùng nó ở đây.” Bà chặc lưỡi, chắc là do nghĩ tới sự hoang đường của một mưu mô như thế.
Nye hỏi tiền phòng của Smith là bao nhiêu.
“Giá quy định. Chín đô một tuần. Thêm năm hào tiền gửi chìa. Dứt khoát trả ngay. Dứt khoát trả trước tháng.”
“Trong khi ở đây, anh ta làm gì? Có bạn bè gì không?”
“Ông nghĩ tôi phải để mắt tới từng đứa mạt hạng đến ở đây hay sao?” bà chủ nhà trọ vặn lại. “Bọn cầu bơ cầu bất. Bọn ma cô. Tôi không quan tâm. Tôi có một đứa con gái lấy được tay cỡ bự.” Rồi bà nói, “Không, hắn chẳng có bạn nào. Ít nhất cũng không thấy hắn ta la cà với ai đặc biệt cả. Lần cuối cùng hắn ở đây, ngày nào hắn cũng mất gần hết thì giờ lỉnh kỉnh với cái xe. Hắn đỗ xe ngoài kia. Một chiếc Ford cũ. Nom như có từ thời hắn ra đời. Hắn sơn lại. Phần mui sơn đen, phần còn lại thì sơn bạc. Rồi hắn viết “Xe bán” lên trên kính chắn gió. Một hôm tôi nghe một dân hấp dừng lại trả bốn chục đô - nghĩa là cao hơn giá trị của nó những bốn chục lần. Nhưng hắn nói hắn không thể để được dưới chín chục. Nói hắn cần tiền để mua vé xe buýt. Trước khi hắn rời đi, tôi nghe nói một người da màu nào đó đã mua phải cái xe.”
“Nói cần tiền mua vé xe buýt, bà có biết anh ta định đi đâu không?”
Bà ta chúm môi lại, cho một điếu thuốc lá vào mồm nhưng mắt vẫn dừng lại ở Nye. “Chơi đẹp đấy nhá. Có tiền lên bàn không? Thưởng chứ?” Bà ta chờ một câu trả lời; khi không có gì xảy ra, bà ta hình như cân nhắc thiệt hơn rồi quyết định tốt nhất là nói. “Vì tôi có cảm tưởng bất kỳ đến đâu hắn ta cũng không có ý ở lại lâu. Cảm tưởng là hắn có ý bỏ bớt lại đồ đạc ở đây. Kiểu như chờ có ngày hắn còn quay lại.” Bà hất đầu về phía trong nhà. “Vào đây, tôi sẽ cho ông thấy là tại sao.”
Những bậc cầu thang. Những gian sảnh xám xịt. Nye ngửi các mùi, phân biệt chúng với nhau: cồn tẩy uế phòng vệ sinh, rượu, mẩu thuốc lá đã dụi tắt. Bên kia một cánh cửa, một tay nghiện đang rên rỉ hát, không biết vui hay sầu. “Nguội đi, Dutch! Tắt máy đi không là ông cuốn gói đấy!” người đàn bà thét. “Đây,” bà bảo Nye, đưa ông vào một nhà kho tối tăm. Bà bật đèn lên. “Đằng kia. Cái thùng đó. Hắn ta hỏi tôi có thể giữ cho đến khi hắn quay lại không.”
Đó là một cái thùng các tông, không bọc nhưng buộc lại bằng dây thừng. Một lời tuyên bố, một cảnh báo phần nào có ý nghĩa một lời nguyền độc, được viết bằng bút chì ngang qua nắp thùng: “Cẩn thận! Tài sản của Perry E.Smith! Cẩn thận!” Nye cởi dây; cái nút thắt, ông không vui khi thấy nó không cùng kiểu với cái nút đơn bọn giết người đã dùng để trói nhà Clutter. Ông bật hai mép thùng. Một con gián vọt ra, bà chủ giẫm ngay lên, nghiền nát nó dưới gót chiếc dép bằng kim nhũ của bà. “Hầy!” bà nói trong khi Nye thận trọng lấy đồ đạc của Smith ra thong thả xem. “Thằng mất dạy. Đây là khăn tắm của tôi.” Cùng với cái khăn tắm, ông Nye tỉ mỉ ghi thành khoản mục vào sổ tay mình: “Một cái gối bẩn ‘kỷ niệm Honolulu’; một chăn trẻ con màu hồng; một quần kaki; một chảo nhôm với cái đánh trứng. “Nhiều thứ bà giằn khác bao gồm một cuốn dán dày đặc những tấm ảnh cắt ra từ tạp chí thể dục thể thao (hình các lực sĩ cử tạ bóng nhoáng mồ hôi) và, bên trong một hộp giày, một loạt các thứ thuốc: bàn chải và bột dùng để đỡ hôi mồm, và cả một lượng aspirin đáng kinh ngạc - ít ra tới một tá hộp, nhiều hộp đã dùng hết.”
“Toàn vứt đi,” bà chủ trọ nói. “Chẳng gì ngoài giẻ rách.” Đúng thế, đây là thứ vô giá trị ngay cả với nhà thám tử đang khát đòi tung tích. Nhưng Nye vẫn thích; mỗi thứ - thuốc đau lợi, cái gối Honolulu nhẫy bóng - đều đem lại cho ông một ấn tượng rõ rệt hơn về người chủ của nó cùng cuộc sống đơn độc, khốn cùng của hắn.
Ngày hôm sau ở Reno, chuẩn bị cho bản báo cáo chính thức, Nye viết: “”
Buổi sáng thì vậy. Chiều hôm ấy Nye lên đường đi tìm Tex John Smith. Nhưng ở chặng dừng đầu tiên, tại bưu điện, một nhân viên ở quầy Gửi phát chung bảo ông chả cần phải tìm đâu xa cả - chả cần ở Nevada - vì “cá thể kia” đã rời đó đi từ hồi tháng Tám trước và hiện đang sống ở lân cận Circle City, Alaska. Dẫu gì thì thư tín của hắn cũng đang được gửi đến đó.
“Chu cha! Cha này thì mới kinh đây,” viên thư ký nói, đáp lại yêu cầu của Nye là hãy tả cho nghe về Smith bố. “Lão này y như ở trong sách ra ấy. Tự nhận là Sói Cô độc. Nhiều thư từ của lão được gửi đến với cái tên Sói Cô độc ấy. Lão không nhận nhiều thư, không, nhưng mà hàng đống ca ta lô và tờ rơi quảng cáo thì có. Ông phải lấy làm lạ về cái số lượng những kẻ cứ gửi hoài mấy thứ này đi, chỉ là để mong nhận lại dăm ba hồi âm. Lão ấy già đến đâu hả? Chắc là sáu chục. Mặc kiểu miền Tây, ủng cao bồi, một cái mũ tổ bố. Lão bảo tôi hồi xưa lão chơi trò rodeo, cưỡi bò cưỡi ngựa bất kham. Tôi nói chuyện với lão ít thôi. Ít năm gần đây hầu như ngày nào lão cũng ở đây. Thi thoảng, lão mất tăm ít lâu, đi xa đâu như một tháng hay gì đó - lúc nào cũng bảo là đi khảo sát. Tháng Tám vừa rồi một hôm có một thanh niên đến quầy đây. Nói là hắn đi tìm bố, Tex John Smith, và hỏi tôi có biết tìm ở đâu không. Hắn trông khác bố nhiều; bố thì mỏng môi và người Ái Nhĩ Lan, anh con thì xem ra gần như da đỏ hẳn, tóc đen như xi đánh ủng, mắt cũng đọ được với tóc. Nhưng sáng hôm sau Sói đi vào khẳng định, bảo đây là con tôi, nó vừa mới phục viên và hai bố con sẽ đi Alaska. Lão là một tay làm ăn ở Alaska. Đâu như có thời lão có một cái khách sạn ở đó, hay một kiểu nhà trọ cho dân đi săn. Lão nói lão tính đi chừng hai năm. Không, từ đấy không bao giờ thấy lão nữa, cả lão lẫn thằng con.”
Gia đình Johnson là dân mới đến trong cái cộng đồng ở San Francisco này - một khu của tầng lớp trung lưu, dân thu nhập trung bình mới xây dựng nằm trên đồi cao phía Bắc thành phố. Chiều ngày 18 tháng Chạp năm 1959, bà Johnson trẻ tuổi đang đợi khách; ba bà hàng xóm sắp đến uống cà phê ăn bánh ngọt và có thể đánh bài. Bà chủ nhà căng thẳng; đây là lần đầu tiên bà chiêu đãi khách trong ngôi nhà mới của mình. Lúc này, trong khi chờ nghe tiếng chuông cửa, bà đang đi soát lại lần cuối cùng, dừng lại nhặt một mẩu sợi vương hay sửa lại cách bày mấy bông hoa Poisettia ngày lễ Nôen. Giống như các ngôi nhà khác trên con phố sườn dốc này, ngôi nhà này là một căn nhà trại thông dụng ở ngoại ô, dễ chịu và chẳng có gì đặc biệt. Bà Johnson yêu nó; bà mê mệt các tấm ván ốp tường bằng gỗ đỏ, các tấm thảm trải dài từ vách này qua vách nọ, những cửa sổ cả sau lẫn trước mở ra cảnh đẹp như tranh vẽ, phong cảnh mà cửa sổ sau nhà đem lại cho mắt nhìn - đồi, thung lũng, rồi thì trời và đại dương. Bà tự hào về mảnh vườn nho nhỏ sau nhà; chồng bà - nghề nghiệp là nhân viên bán bảo hiểm nhưng lại có xu hướng làm thợ mộc - đã dựng lên chung quanh nó một hàng rào bằng cọc trắng, trong vườn là một cái nhà cho gia đình chó, rồi một thùng cát và những cái đu cho trẻ con. Lúc này, cả bốn - con chó, hai đứa bé trai, một đứa bé gái - đang đùa ở trong vườn dưới một bầu trời êm đềm; bà hy vọng chúng sẽ vui vầy trong vườn cho tới khi các bà khách ra về. Khi chuông cửa reo, bà Johnson đi ra, mặc bộ váy mà bà cho là có thể tôn mình lên nhiều nhất, một hàng chun màu vàng ôm bó dáng người bà và làm nổi lên cái ánh ngăm ngăm của nước da Cherokee cũng như màu tóc đen nhánh ốp mượt của bà. Bà mở cửa, chuẩn bị đón khách vào; song thay vì vậy bà thấy hai người đàn ông lạ hoắc - họ chạm tay vào vành mũ và lật cái ví có huy hiệu cảnh sát ra. “Bà là bà Johnson?” một người nói. “Tôi là Nye. Đây là thanh tra Guthrie. Chúng tôi trực thuộc cảnh sát San Francisco, vừa nhận được yêu cầu của bang Kansas liên quan tới em trai bà, Perry Edward Smith. Hình như anh ta đã không đến trình diện với ban quản lý tù theo lời hứa danh dự, liệu bà có thể cho chúng tôi biết những việc làm gần đây của anh ấy không?”
Bà Johnson không thất vọng - và dứt khoát là không ngạc nhiên - khi biết cảnh sát lại một lần nữa bận tâm đến hành tung của em trai bà. Điều làm bà lo ngại là cái viễn cảnh khách mời tới mà lại thấy bà đang bị cảnh sát phỏng vấn. Bà nói, “Không. Không có gì hết. Tôi không gặp Perry bốn năm nay rồi.”
“Đây là một vấn đề nghiêm trọng, thưa bà Johnson,” Nye nói. “Tốt nhất chúng ta nên nói hết với nhau.”
Sau khi chịu thua, đưa họ vào và mời cà phê (họ uống), bà Johnson nói, “Tôi không gặp Perry đã bốn năm nay. Cũng chẳng nghe tin gì từ ngày nó được tha theo lời hứa. Mùa hè vừa rồi, khi ra tù, nó có đến thăm bố tôi ở Reno. Trong thư, bố tôi kể là ông quay về Alaska và đem nó đi theo. Rồi bố tôi lại viết thư, tôi nghĩ là hồi tháng Chín, kể rằng ông rất giận. Ông với Perry đã xích mích với nhau và tách lẻ trước khi hai người đến biên giới. Perry quay lại; bố tôi đi Alaska một mình.”
“Và từ đó ông cụ không viết cho bà nữa?”
“Không.”
“Vậy thì có thể em bà vừa mới lại đến với cụ xong. Tháng vừa rồi.”
“Tôi không biết. Tôi không quan tâm.”
“Quan hệ không tốt?”
“Với Perry ấy hả? Vâng. Tôi sợ nó.”
“Nhưng khi anh ta ở Lansing bà hay viết thư cho anh ta kia mà. Hay là các nhà chức trách ở Kansas đã nói như vậy với chúng tôi,” Nye nói. Người thứ hai, thanh tra Guthrie hình như bằng lòng đứng ở ngoài lề.
“Tôi đã muốn giúp nó. Tôi hy vọng có thể thay đổi được chút nào ý nghĩ của nó. Bây giờ tôi hiểu rõ hơn. Quyền lợi của người khác chẳng có nghĩa gì với Perry cả. Nó chẳng biết kính trọng lấy một ai.”
“Về bạn bè. Bà có biết người bạn nào mà anh ta có thể đến ở cùng được không?”
“Joe James,” bà nói, và giải thích rằng James là một thanh niên da đỏ làm rừng và câu cá sống ở trong một khu rừng gần Bellingham, Washington. Không, bà không quen anh này nhưng bà biết rằng anh ta và gia đình rất hào hiệp, trước đây từng rất tốt với Perry. Người bạn duy nhất của Perry mà bà từng gặp là một người đàn bà trẻ xuất hiện ở bậc cửa nhà Johnson tháng Bảy năm 1955, mang theo một bức thư của Perry trong đó giới thiệu cô ta là vợ nó.
“Nó nói đang gặp khó khăn, nhờ tôi trông nom vợ nó cho tới khi nó nhờ được người đến đón về. Cô gái nom chừng hai mươi tuổi, thế nào hóa ra chỉ mới mười bốn. Và dĩ nhiên cô ta chẳng phải là vợ của ai hết. Nhưng lúc đó tôi cũng thu nhận. Tôi thấy ái ngại cho cô ta, đề nghị cô ta ở với chúng tôi. Cô ta ở lại, nhưng không lâu. Chưa được một tuần. Và khi bỏ đi, cô ta mang theo cả va li quần áo của chúng tôi và mọi thứ đựng trong đó - phần lớn quần áo của tôi và của chồng tôi, bộ đồ ăn bằng bạc và cả cái đồng hồ ở trong bếp nữa.”
“Khi việc đó xảy ra, bà đang sống ở đâu?”
“Denver.”
“Bà đã từng sống ở Fort Scott, Kansas bao giờ chưa?”
“Chưa bao giờ. Tôi chưa bao giờ đến bang Kansas.”
“Bà có người chị em nào ở Fort Scott không?”
“Chị tôi chết rồi. Bà chị duy nhất.”
Nye mỉm cười. Ông nói, “Bà Johnson, bà hiểu cho, chúng tôi đang làm viêc theo một giả định cho rằng em bà sẽ tiếp xúc với bà. Bằng cách viết thư hay gọi điện. Hay đến gặp bà.”
“Tôi hy vọng là không. Vì sự thật là nó không biết chúng tôi đã đổi chỗ ở. Nó cứ nghĩ chúng tôi vẫn còn ở Denver. Nếu ông tìm ra nó, xin ông đừng cho nó địa chỉ của tôi. Tôi sợ.”
“Bà nói thế có phải vì bà nghĩ anh ta có thể làm hại bà không? Làm bị thương về thân thể?”
Bà ta suy nghĩ, và không thể dứt khoát, nói rằng bà không rõ. “Nhưng tôi sợ nó. Tôi luôn luôn sợ nó. Nó có thể coi bộ rất giàu tình cảm, dễ mủi lòng. Hiền lành tử tế. Nó dễ khóc lắm. Đôi khi âm nhạc làm nó hào hứng lên, lúc còn bé nó đã quen khóc vì nó nghĩ rằng mặt trời lặn là đẹp. Hay mặt trăng. Ô, nó có thể lừa được ông đấy. Nó có thể làm cho ông cảm thấy ái ngại cho nó...”
Chuông cửa reo, vẻ ngập ngừng của bà Johnson trước tiếng gọi cửa đã truyền đạt tâm trạng tiến thoái lưỡng nan của bà, và Nye (sau này đã viết về bà rằng, “Suốt cuộc phỏng vấn, bà luôn luôn giữ tư thế điềm tĩnh và tao nhã. Một người có cá tính khác thường”) liền với lấy chiếc mũ nâu bẻ gập vành của mình. “Xin lỗi đã quấy quả bà, bà Johnson. Nhưng nếu bà nghe được gì về Perry thì chúng tôi mong bà có thiện chí mà gọi báo chúng tôi hay. Xin hỏi thanh tra Guthrie.”
Sau khi hai thám tử đi rồi, cái tư thế đã làm cho Nye mến mộ bị rơi vỡ tan tành: một nỗi tuyệt vọng về gia đình mình treo lơ lửng. Bà vật lộn với nó, gạt đẩy đòn đánh toàn diện của nó cho tới khi bữa liên hoan đã vãn và khách khứa ra về, cho tới khi bà cho con cái ăn uống, tắm rửa và nghe chúng đọc kinh đêm xong. Rồi thì tâm trạng, như làn sương mù trên biển hiện đang che mờ những cây đèn đường, đến bủa vây lấy bà. Bà đã nói bà sợ Perry, và bà sợ thật, nhưng có phải chỉ đơn giản là sợ Perry không thôi, hay là sợ cảnh ngộ mà Perry là một phần của nó - những số phận khủng khiếp hình như đã được hứa hẹn sẵn cho bốn đứa con của Florence Buckskin và Tex John Smith? Ông anh cả, người mà bà yêu mến, đã tự bắn mình; Fern ngã hay nhảy từ trên cửa sổ xuống; và Perry thì phạm bạo hành, một tên tội phạm. Cho nên, ở một nghĩa nào đó, bà là kẻ sống sót duy nhất; và điều dằn vặt bà chính là cái ý nghĩ rằng đến lúc nào đó, bà cũng sẽ bị dập vùi, hóa điên, hay mắc phải một căn bệnh nan y, hay mất hết những gì quý nhất đời bà - nhà cửa, chồng con - trong một cơn hỏa hoạn.
Chồng bà đang đi làm ăn xa, và khi chỉ có một mình, bà cũng chưa nghĩ đến rượu bao giờ. Nhưng đêm nay bà đã làm một ly mạnh, rồi nằm lên chiếc đi văng trong phòng khách, một quyển an bum ảnh đặt trên đầu gối.
Tấm ảnh chụp bố bà choán hết trang nhất - một bức chân dung chụp năm 1922, năm ông lấy cô kỵ mã da đỏ, tiểu thư Florence Buckskin. Tấm ảnh đó đã cố định mãi ấn tượng của bà Johnson. Nhờ nó, bà có thể hiểu được tại sao mẹ bà lấy bố, tuy hai người thực chất không hề hợp nhau.
Người thanh niên trong ảnh toát ra phong thái đường đường một đấng nam nhi. Mọi thứ - cái lọn vểnh lên của mái tóc đỏ nâu, mắt trái hơi nheo lại (tựa như đang nhắm bắn), chiếc khăn quàng con con kiểu cao bồi buộc thắt nút quanh cổ - hết sức là hấp đẫn. Nhìn chung, thái độ của bà Johnson với ông bố là mập mờ, nhưng có một phương diện ở bố mà bà luôn luôn kính trọng - sức chịu đựng kiên cường. Bà biết rõ bố có vẻ kỳ dị như thế nào trong con mắt người khác; về mặt này, hình như ông bố cũng kỳ dị với cả bà. Muốn gì thì ông bố vẫn là “một con người chân chính”. Ông cụ làm đủ việc, và làm thật dễ dàng. Ông cụ có thể quật đổ một cái cây đúng vào nơi ông cụ muốn. Ông cụ có thể lột da gấu, chữa đồng hồ, xây nhà, làm bánh, mạng bít cất, hay bắt cá hồi bằng một cái kim bẻ cong và một đoạn dây. Có lần, ông cụ đã sống sót một mình suốt cả mùa đông ở vùng đại hoang bang Alaska.
Một mình: theo ý bà Johnson, đó là cách những người đàn ông như thế nên sống. Vợ con, một đời sống e dè không phải là để cho họ.
Bà lật mở mấy trang ảnh chụp thời thơ ấu - những bức ảnh chụp tại các bang Utah, Nevada, Idaho, Oregon. Sự nghiệp kỵ mã trị ngựa bất kham của “Tex và Flo” đã chấm dứt, cả gia đình sống trên một xe tải cũ đi lang thang khắp cả nước săn lùng việc làm, một thứ khó tìm vào năm 1933. “Gia đình Tex John Smith hái quả ở Oregon, năm 1933” là câu chú thích dưới bức chụp bốn đứa trẻ chân đất mặc quần yếm, nhất loạt đều có vẻ mặt hốc hác mỏi mệt. Quả dại hoặc bánh mì ăn cắp giầm vào sữa đặc thường là thứ duy nhất họ ăn. Barbara Johnson nhớ lại một lần gia đình phải sống nhiều ngày bằng chuối nẫu, kết quả là Perry bị đau bụng; nó rên la suốt đêm, trong khi Bobo, tức là Barbara thì kêu khóc vì sợ em chết.
Bobo hơn Perry ba tuổi và rất yêu em; nó là đồ chơi duy nhất của cô, một con búp bê mà cô tắm rửa, chải đầu, hôn hít và đôi khi đét đòn. Đây có một bức ảnh hai đứa cùng tắm truồng trong một vụng nước trong như kim cương ở Colorado, đứa em, một thằng quỷ con bụng ỏng, rám nắng đen sì, đang nắm chặt tay chị mà cười rúc rích, tựa hồ dòng suối đổ xuống tung tóe có cả những ngón tay ma quái cù người. Trong một bức khác (bà Johnson không chắc, nhưng bà nghĩ có lẽ nó được chụp ở một trại chăn nuôi hẻo lánh tại Nevada, nơi gia đình đã ở khi cuộc xung đột cuối cùng giữa bố mẹ, một cuộc xích mích kinh khủng trong đó các thứ roi ngựa, nước sôi đèn dầu đều được sử dụng làm vũ khí, đưa cuộc hôn nhân đến bờ tan vỡ), bà và Perry ngồi trên một con ngựa lùn, đầu sát đầu, má chạm má; sau lưng những quả núi khô nỏ bốc cháy.
Sau khi đám trẻ con và mẹ chúng đến sống ở San Francisco, tình yêu thương em của Bobo nhạt dần rồi khi nguội hẳn. Nó không còn là bé cưng của cô mà là một đồ man rợ, một thằng ăn cắp, một thằng trấn lột. Vụ đầu tiên nó bị bắt bị ghi tên vào sổ cảnh sát là vào ngày 27 tháng Mười năm 1936 - lần sinh nhật thứ tám của nó. Cuối cùng, sau nhiều lần bị giữ tại nhà cải tạo và trung tâm giáo dưỡng trẻ vị thành niên, nhờ sự bảo lãnh của bố nó lại được trở về, và nhiều năm sau Bobo mới lại gặp lại nó, trừ trong mấy bức ảnh mà thỉnh thoảng Tex John gửi cho các đứa con kia của mình - những bức ảnh được dán lên trên các chú thích viết bằng mực trắng là một phần nội dung của quyển an bum. Có “Perry, bố và con chó Etkimô”, “Perry và bố đang đãi vàng”, “Perry săn gấu ở Alaska”, Trong bức thư cuối cùng này, Perry là một cậu trai mười lăm tuổi đội mũ lông đi giày trượt tuyết, đứng giữa hàng cây nặng trĩu tuyết, một khẩu súng quàng dưới cánh tay; mặt mũi bơ phờ, con mắt thì buồn và rất mệt, nhìn tấm ảnh đó, bà Johnson lại nhớ đến một “vụ” Perry gây ra khi hắn tới thăm bà ở Denver. Quả thực, đó là lần cuối cùng bà gặp hắn - mùa xuân năm 1955. Hai chị em đang bàn về tuổi thơ ấu của mình với Tex John thì thình lình Perry, vốn đã có quá nhiều rượu trong người rồi, liền đẩy bà sát vào tường rồi ghìm chặt bà ở đó. “Tôi là một thằng mọi,” Perry nói. “Có thể thôi. Một kẻ mà ông ta có thể sai làm mửa mật ra mà chẳng phải trả lấy một đồng xu. Không, Bobo, tôi đang nói đây. Câm ngay, không thì tôi ném bà xuống sông bây giờ. Như một lần tôi đang đi qua một cây cầu ở Nhật thì có một gã đứng trên đó, tôi chưa hề gặp gã ta trước đó bao giờ, nhưng tôi cứ nhấc gã lên mà ném xuống sông.”
“Làm ơn đi. Bobo. Nghe tôi này. Chị nghĩ là tôi thích tôi ư? Ôi! Đáng ra tôi có thể là một người như thế nào ấy chứ! Nhưng cái lão chết giấp ấy lão có cho tôi cơ hội nào đâu. Lão không cho tôi đi học. O.K. O.K. Tôi là một đứa hư. Nhưng có lúc tôi đã xin đi học. Tôi là một đứa có đầu óc sáng láng cơ mà. Nói vậy để nhớ ra chị không biết. Đầu óc sáng láng mà lại có tài nữa. Nhưng không có học, vì lão không muốn tôi học bất cứ cái gì, chỉ là cốt khuân vác như thế nào cho lão thôi. Đần độn. Ngu dốt. Lão muốn tôi như vậy cơ. Để cho tôi không bao giờ thoát ra khỏi tay lão. Nhưng chị ấy, Bobo. Chị được đi học. Chị và Jimmy và Fern. Các người đứa khỉ nào cũng được học hành. Tất cả, trừ tôi. Tôi thù ghét các người, tất cả - ông già và tất cả các người.”
Làm như với các anh chị hắn đời lót bằng hoa hồng không bằng! Có lẽ là thế thật, nếu đó có nghĩa là dọn các đống nôn mửa của mẹ, là chẳng được mặc cái gì là đẹp, chẳng được ăn cái gì cho no. Nhưng cũng đúng là cả ba đều được đi học tới nơi tới chốn. Thực tế là Jimmy đã đỗ đầu lớp - một vinh dự có được hoàn toàn nhờ vào nghị lực bản thân anh ấy. Chính điều ấy đã làm cho việc anh tự sát có vẻ như một điềm gở đến thế, Barbara Johnson cảm thấy vậy. Tính cách mạnh, rất dũng cảm, hay lam hay làm - hình như những cái đó không hề là yếu tố quyết định trong số phận của các đứa con nhà Tex John. Họ cùng chia sẻ một số phận bất hạnh mà đức hạnh không sao giúp họ cưỡng lại được. Không phải là Perry hay Fern có đức hạnh gì cho cam. Khi Fern mười bốn tuổi, chị đổi tên, và trong suốt những ngày còn lại của đời mình chị ấy đã có biện minh cho việc đổi tên đó là phải: Joy[10]. Chị là một cô gái thoải mái vô tư, “người tình của tất cả mọi người” - đúng hơn là của quá nhiều người, vì chị thiên vị với đàn ông, mặc dù vì lẽ gì đấy chị chẳng được may mắn lắm với họ. Vì lẽ gì đấy, loại người chị ưa chẳng biết sao cứ luôn bỏ rơi chị. Mẹ chết trong một cơn say ngất lịm, thế nên chị sợ uống rượu - nhưng chị vẫn uống. Trước tuổi hai mươi, mỗi sáng chị chào ngày mới bằng một chai bia. Rồi một đêm hè, chị ngã từ trên cửa sổ một phòng khách sạn xuống. Khi đang rơi xuống, chị đập vào mái cổng dẫn vào một nhà hát, bắn tung lên rồi lăn vào bánh một chiếc xe tắc xi. Ở trên kia, trong căn phòng trống không, cảnh sát tìm thấy đôi giày của chị, một ví tiền, một chai uýt ki rỗng.
Người ta có thể thông cảm và tha thứ cho Fern, nhưng Jimmy thì khác. Bà Johnson nhìn bức ảnh trong đó anh mặc quần áo lính thủy; hồi chiến tranh anh phục vụ cho hải quân. Mảnh khảnh, một thủy thủ trẻ tuổi nước da tai tái có bộ mặt dài dài mang đôi chút thánh thiện khắc khổ, anh đứng quàng eo một cô gái sau này anh cưới và theo đánh giá của bà Johnson thì đáng lẽ không nên cưới, vì hai người này chẳng có gì hợp nhau sất - anh Jimmy nghiêm túc với cô gái San Diego mười mấy tuổi đầu quen bám các hạm tàu mà chuỗi hạt thủy tinh phản chiếu lại một vầng mặt trời nay đã ố nhạt từ lâu. Nhưng cái mà Jimmy dành cho cô gái đã vượt quá tình yêu thông thường; nó là đam mê - một đam mê có phần nào bệnh lý. Còn cô gái, cô ắt phải yêu anh, yêu anh vô cùng, bằng không thì cô đã chẳng làm như đã làm. Giá mà Jimmy tin như thế nhỉ! Hay là có khả năng tin được thế. Nhưng lòng ghen tuông đã cầm tù anh rồi. Anh bị cắn xé bởi ý nghĩ về đám đàn ông mà cô từng ngủ cùng trước khi lấy anh; hơn nữa, anh đinh ninh rằng cô vẫn còn tính ăn nằm bừa bãi - rằng mỗi khi anh đi biển hay thậm chí chỉ xa cô có một ngày thôi, cô liền phản bội anh ngay với cả lô cả lốc người tình, anh không ngừng bắt cô phải nhận là đã có những người tình như vậy. Thế rồi cô chĩa khẩu súng vào một điểm - giữa hai mắt mình và lấy ngón chân bấm cò. Khi tìm thấy cô, Jimmy không báo cảnh sát. Anh bế cô đặt lên giường rồi nằm xuống bên cạnh cô. Ngay hôm sau vào khoảng sắp rạng đông, anh lắp đạn lại vào súng và tự sát.
Đối diện với bức ảnh Jimmy và vợ là một bức ảnh chụp Perry mặc binh phục. Ảnh được cắt ra từ một tờ báo, có dán kèm theo một đoạn bài báo: “Sở Chỉ huy Quân đội Hoa Kỳ, Alaska. Binh nhì Perry E. Smith, 23 tuổi, cựu chiến binh đầu tiên của quân đội từng tham chiến ở Triều Tiên quay về Anchorage, Alaska, được Đại úy Mason, Sĩ quan Truyền thông đón tiếp khi đến Căn cứ Không quân Elmendorf. Smith phục vụ 15 tháng ở sư đoàn số 24 với tư cách lính kỹ thuật. Chuyến đi của anh từ Seattle đến Anchorage là quà tặng của Hãng Hàng không Bắc Thái Bình Dương. Cô Lynn Marquis, tiếp viên hàng không, mỉm cười đón tiếp anh. (Ảnh chính thức của Quân đội Hoa Kỳ).” Đại úy Mason chìa tay ra, nhìn binh nhì Perry, nhưng binh nhì Perry lại nhìn vào máy quay. Trông vẻ mặt chú em, bà Johnson nhìn thấy, hay tưởng tượng thấy, không phải lòng biết ơn mà là sự ngạo mạn, và thay vì tự hào thì lại là hết sức vênh vang tự phụ. Thật không thể nào tin rằng khi đi qua một cây cầu hắn đã gặp một người và đã ném người đó khỏi cầu. Dĩ nhiên hắn đã làm vậy. Điều đó bà không bao giờ nghi ngờ.
Bà gấp quyển an bum lại, mở ti vi, nhưng nó không làm bà khuây khỏa được. Giả dụ hắn đến thì sao? Các thám tử đã tìm bà; cớ gì Perry lại không tìm? Nó chẳng cần mong bà giúp nó, thậm chí bà còn không cho nó vào nữa kia. Cửa chính khóa, nhưng cửa ra vườn thì không. Mảnh vườn trắng xóa sương mù của biển; nó có thể là một cuộc tụ hội những hồn ma lắm. Mẹ, Jimmy và Fern. Khi bà John ra gài chốt cửa lại, trong đầu bà người chết lẫn người sống đều như đang hiển hiện.
Một cơn giông đột ngột. Mưa. Trút như thác. Dick chạy. Perry cũng chạy, nhưng không nhanh bằng; chân hắn ngắn hơn, mà hắn lại vướng cái va li quần áo. Dick đến được nơi trú ẩn - một nhà kho cạnh xa lộ - trước hắn khá lâu. Trong khi rời Omaha, sau một đêm ngủ nhờ ở Nhà của Đội quân Cứu rỗi, chúng đã được một tài xế xe tải cho đi nhờ qua biên giới bang Nebraska vào bang Iowa. Nhưng nhiều giờ trước đó thì chúng cuốc bộ. Trời đổ mưa khi chúng còn cách khu định cư Tenville Junction ở Iowa mười sáu dặm về phía Bắc.
Nhà kho tối om.
“Dick ơi,” Perry gọi.
“Lại đây!” Dick nói. Hắn đang nằm dài trên một ổ cỏ khô.
Ướt sũng, run lẩy bẩy, Perry buông người xuống cạnh hắn. “Tớ rét quá,” hắn nói, và rúc vào trong cỏ khô. “Tớ rét quá, nếu cỏ này bốc lửa mà thiêu cháy tớ tớ cũng cóc cần.” Hắn cũng đói nữa. Đói lả. Đêm qua chúng đã ăn cháo bố thí của Đội quân Cứu rỗi, còn hôm nay cái duy nhất nuôi sống chúng là mấy thanh sô cô la và kẹo cao su Dick thó được ở quầy kẹo bánh của một tiệm thuốc. “Còn sô cô la Hershey nữa không?” Perry hỏi.
Không, nhưng hãy còn một gói kẹo cao su. Chúng chia nhau rồi nằm xuống nhai, mỗi đứa nhai hai thanh rưỡi kẹo cao su Doublemint, cái hương vị Dick thích (Perry thì thích vị quả hơn là bạc hà). Tiền trở thành vấn đề. Sự thiếu tiền gay gắt khiến Dick đi tới quyết định rằng cú sau đây của chúng sẽ là cái mà Perry coi là “cú liều của một gã điên rồ” - quay lại Kansas City. Khi Dick giục về đó lần đầu tiên, Perry đã nói, “Cậu phải đi khám đốc tờ đi.” Bây giờ, chen chúc bên nhau trong bóng đêm lạnh lẽo, lắng nghe mưa lạnh lẽo mịt mù, chúng lại bắt đầu bàn bạc, Perry một lần nữa liệt kê ra các mối nguy hiểm của một bước đi như vậy, vì lần này chắc chắn Dick đã bị truy nã về tội vi phạm lời hứa danh dự rồi - “nếu như không có gì nghiêm trọng hơn thế nữa”. Nhưng Dick không dễ bị thuyết phục. Hắn nài một lần nữa rằng Kansas City là cái nơi duy nhất hắn tin dứt khoát mình sẽ “cho đi lọt thành công những tấm séc giả. Mẹ khỉ, tớ biết là ta phải cẩn thận. Tớ biết chúng nó đã phát trát bắt. Vì những tấm séc chúng ta tiêu trước đây. Nhưng chúng ta sẽ hành động lẹ. Một hôm thôi là xong liền. Nếu vớ được khá, chúng ta sẽ đến Florida thử xem sao. Qua Nôen ở Miami - nếu thấy hay hay thì ở hết mùa đông tại đó.” Nhưng Perry nhai kẹo cao su, run lập cập và dằn dỗi. Dick nói, “Gì thế, bồ? Cái vụ kia ấy ư? Làm quái gì cậu cứ không quên được thế nhỉ? Chúng nó đã tìm ra được mối liên hệ nào đâu. Không bao giờ.”
Perry nói, “Có thể cậu sai đấy. Và nếu cậu sai thì có nghĩa là Cái Xó.” Cả hai đứa trước đây chưa bao giờ nhắc đến hình phạt nặng nhất ở bang Kansas - treo cổ, hay là chết trong Cái Xó, như dân tù trong trại giam bang Kansas gọi mấy cái lán có thiết bị cần thiết để treo cổ tử tù.
Dick nói, “Anh diễn viên hài ơi. Cậu giết tớ thì có đấy.” Hắn đánh que diêm, định hút một điếu thuốc nhưng nhờ ánh lửa hắn nhìn thấy một cái gì. Hắn đứng dậy, đi qua gian nhà kho đến một cái chuồng bò. Một chiếc xe đỗ trong chuồng bò, một chiếc Chevrolet hai cửa, đời 1956, hai màu đen trắng. Chìa khóa vẫn nằm trong ổ.
Dewey đã quyết định không cho “dân thường” biết tí nào về đột phá quan trọng này trong vụ Clutter - ông quyết tâm đến độ lấy vào nhóm công tác tin cậy của mình hai anh mõ rao chuyên nghiệp của Garden City: Bill Brown, biên tập viên tờ Điện tín Garden City và người điều hành đài phát thanh địa phương, KIUL.
Vẽ phác qua tình hình, ông nhấn mạnh đến các lý do khiến ông coi bí mật là quan trọng hàng đầu: “Hãy nhớ là có khả năng hai người này vô tội.”
Đây là một khả năng không dễ bác bỏ, Floyd Wells, người cung cấp thông tin, có thể dễ dàng đặt chuyện; không ít tù nhân hy vọng giành được ân huệ hoặc thu hút được sự chú ý của nhà chức trách nên đã bịa ra các chuyện tương tự. Song dù cho mỗi lời của Wells đều là khuôn vàng thước ngọc thì Dewey và các đồng nghiệp ông vẫn chưa tìm được một mẩu bằng chứng vững chắc - “bằng chứng pháp đình” nào. Cái gì họ phát hiện ra mà lại không thể bị diễn giải thành sự trùng hợp có thể tin được, tuy kỳ lạ? Cho dù Smith đi đến Kansas thăm Hickock bạn hắn, cho dù Hickock sở hữu một khẩu súng thuộc loại đã được dùng để gây án, và cho dù các nghi phạm đã bày ra một chứng cứ ngoại phạm giả để kể về hành tung của chúng vào cái đêm 14 tháng Mười một, song đâu phải nhất thiết vì vậy mà chúng là những kẻ sát nhân hàng loạt. “Nhưng chúng ta gần như chắc chắn là chúng. Chúng ta đều nghĩ như thế. Nếu không thì chúng ta cho báo động khắp mười bảy bang, từ Arkansas đến Oregon làm gì? Nhưng trong đầu thì hãy cứ nhớ cho rằng: có thể phải hàng năm trời chúng ta mới tóm được chúng. Chúng có thể đã rời nhau rồi. Hay bỏ vùng đất này đi. Chúng có cơ tới tận Alaska - mất tăm ở đấy thì chả khó gì. Chúng còn xổng thì vụ này còn chưa xong. Nói thẳng ra, công việc đang giẫm chân tại chỗ thế này thì muốn thế nào chúng ta cũng chẳng tiến được là bao cả. Chúng ta có thể chẹt cổ bọn chó đẻ này ngày mai mà không thể chứng minh được cái quái gì.”
Dewey không cường điệu. Ngoài hai dấu gót ủng, một mang hình viên kim cương và một nhãn Móng Mèo, bọn giết người không để lại một manh mối nào. Có vẻ chúng hết sức thận trọng cho nên chắc hẳn đã quăng mấy cái ủng kia từ lâu. Cả chiếc rađiô - cho dù chúng đã ăn cắp nó - điều mà Dewey vẫn có phần ngập ngừng không muốn công nhận bởi vì theo ông việc này tỏ ra “trái ngược đến mức lố bịch” với mức độ ghê gớm của tội ác và sự xảo quyệt của bọn tội phạm, “không thể quan niệm nổi” rằng những đứa này vào một ngôi nhà với hy vọng tìm thấy một két sắt bộn tiền, thế rồi tìm không thấy thì lại cho rằng tàn sát cả một gia đình vì dăm ba đô la và một chiếc rađiô xách tay bé tẹo là chuyện thích đáng. “Không có lời thú tội, chúng ta sẽ không bao giờ kết tội được,” ông nói. “Ý kiến tôi là thế. Do đó chúng ta thận trọng mấy cũng không thừa. Chúng nghĩ là chúng đã thoát được vụ này. Được, chúng ta lại muốn chúng nghĩ thế đấy. Chúng càng cảm thấy an toàn thì chúng ta càng sớm tóm được chúng.”
Nhưng bí mật là thứ hàng xa xỉ không quen thuộc ở một thị trấn cỡ Garden City. Bất cứ ai đến văn phòng cảnh sát trưởng - ba gian phòng lèo tèo đồ đạc và người quá đông ở tầng bốn của tòa án hạt - đều có thể phát hiện một không khí kỳ lạ, gần như hung hiểm. Cảnh tíu tít, tiếng rầm rì cáu kỉnh của mấy tuần gần đấy đã biến mất; một vẻ tĩnh lặng run rẩy thấm vào các ngóc ngách của chốn này. Bà Richardson, thư ký văn phòng, một con người rất thực tế, qua một đêm đã thủ đắc được một loạt những thầm thì kiểu cách, những điệu bộ rón ra rón rén, và những người mà bà phục vụ đây, cảnh sát trưởng và bộ sậu của ông, Dewey và kíp đặc vụ K.B.I nhập cảng đều lui tới khẽ khàng, chuyện trò với cái giọng kín đáo bí ẩn. Tựa như những người đi săn nấp ở trong rừng, sợ bất kỳ tiếng động hay cử chỉ bất thường nào cũng sẽ làm cho các con thú đang đến gần bỏ chạy.
Dân chúng bàn tán. Phòng Lối mòn của khách sạn Warren, một tiệm cà phê mà giới doanh nhân ở Garden City coi như câu lạc bộ riêng của mình, là một cái hang cứ xì xì xào xào những lời tiên đoán và tin đồn. Một công dân có máu mặt sắp bị bắt tới nơi rồi nhá, người ta nghe nói thế. Hay nghe nói vụ án mạng này là công việc của đám sát thủ mà những kẻ thù của Hội Các Nhà Trồng Lúa mì Bang Kansas thuê làm, hội này là một tổ chức tiến bộ và ông Clutter đóng vai trò quan trọng trong đó. Trong nhiều câu chuyện được nhỏ to này, chuyện gần như chính xác nhất là do một nhà đại lý xe hơi (ông ta không cho biết chính xác nguồn gốc chuyện) đóng góp: “Hình như có một người đã làm việc cho Herb đâu như từ năm 47 hay 48. Một người làm công chăn nuôi bình thường. Hình như đã đi tù, nhà tù bang, và khi còn ở đây hắn ta đã biết ông Herb là người giàu có lắm. Cho nên độ một tháng trước, khi họ thả hắn ra, thì việc đầu tiên hắn làm là đến đây trói mấy người này lại cướp rồi giết.”
Nhưng bảy dặm về phía Tây, trong một làng ở Holcomb, không thấy có một tẻo teo tin tức gây xúc động nào, một lý do là vì ở cả hai nơi cung cấp tin đồn chính của cộng đồng này - bưu điện và quán cà phê Hartman - thảm kịch Clutter một dạo đã trở thành một đề tài bị cấm. “Bản thân tôi nay chả muốn nghe một lời nào nữa,” bà Hartman nói. “Tôi đã bảo họ, chúng ta không thể tiếp tục sống thế này. Nghi ngờ ráo cả, toàn làm cho nhau sợ tưởng chết. Điều tôi nói là, nếu ông bà muốn nói chuyện đó thì xin tránh chỗ tôi đây ra.” Myrt Clare giữ một lập trường khá vững. “Dân đến đây mua con tem vài xu mà lại nghĩ có thể ở thêm ba giờ ba mươi ba phút để moi chuyện nhà Clutter. Vặt mất cánh của người khác đi. Đồ rắn đuôi chuông, rặt là thế cả thôi à. Tôi đâu có thì giờ mà nghe họ chứ. Tôi đang làm việc công - tôi là người đại diện cho chính phủ Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Muốn gì thì đó cũng là bệnh hoạn. Al Dewey và những tay cảnh sát từ Topeka và Kansas City đến đều cỡ cốp, được coi là sắc như dao cả đấy chứ. Nhưng tôi chưa biết có ma nào lại nghĩ họ có cơ may bắt cái đứa làm chuyện kia. Nên tôi cho rằng im mồm đi là khôn. Ông bà sống cho tới khi chết, còn ông bà đi ra sao thì chuyện ấy không quan trọng, chết là chết. Thế nên tại sao chỉ vì ông Clutter bị cắt cổ mà cứ lẵng nhẵng đeo lấy cả một bị đầy những trò nghe thối tai đó làm gì? Kiểu gì thì cũng là bệnh hoạn. Polly Stringer nhà ở tít trên trường học ấy hả? Sáng nay Polly Stringer ở đây mà. Bà ấy bảo chỉ bây giờ, sau hơn một tháng thì trẻ con chúng mới hoàn hồn lại được. Điều này khiến tôi nghĩ: nếu họ bắt được một người thì sao? Nếu thế thì hẳn là một ai đó mà mọi người đều biết mới phải chứ. Và thế chắc là lại quạt cho lửa bùng to lên đây, cái nồi sôi đang bắt đầu nguội đi thì lại bê nó ra. Tôi thì tôi nói là chúng ta đã quá thừa kích động rồi.”
Còn sớm, chưa tới chín giờ, Perry là người khách đầu tiên của tiệm giặt Washateria, một tiệm giặt tự phục vụ lấy. Hắn mở cái va li rơm căng phồng, lôi ra một mớ quần đùi, bít tất, sơ mi (một ít là của hắn, một ít của Dick), ném vào chậu rồi giắt thanh chì - một trong những thanh mua từ ở Mexico về - vào trong một máy để cho máy chạy.
Perry rất thạo cách làm ăn của những cửa tiệm thế này, hắn thường hay đến đó và lấy làm sung sướng được “thư giãn” ngồi yên lặng chờ cho quần áo sạch khô. Nhưng hôm nay thì không. Hắn quá lo sợ. Mặc dù hắn đã cảnh cáo thế nào, Dick vẫn cứ thắng. Bây giờ chúng đã ở đây, quay lại Kansas City - mệt chết đi được, cuốc bộ, thêm vào đó nữa lại lái một chiếc xe ăn cắp! Cả đêm chúng đã phóng chiếc Chevrolet Iowa trong mưa dày hạt, đỗ hai lần để hút xăng, cả hai lần đều hút từ các xe đỗ ở mấy đường phố vắng ngắt của các thị trấn nhỏ đang ngủ yên lành. (Đây là việc của Perry, một việc mà hắn tự chấm điểm mình là “cao thủ vô đối. Chỉ cần một đoạn ống cao su ngắn, thế là đi cùng khắp xứ này đâu đâu tao cũng có xăng chả phải trả tiền.”) Hừng đông chúng đến Kansas City, đầu tiên là ra sân bay, vào phòng vệ sinh nam rửa ráy, cạo râu, đánh răng; hai giờ sau, khi đã làm một giấc ở phòng chờ máy bay, chúng quay trở lại thành phố. Chính ở đây Dick đã thả Perry xuống tiệm giặt Washateria, hứa một tiếng nữa sẽ quay lại đón.
Quần áo đã sạch và khô, Perry nhét vào lại va li. Đã hơn mười giờ. Cứ cho rằng đi đâu đó để “tiêu séc giả” thì Dick cũng đã quá hạn. Hắn chọn một cái ghế dài, ngồi chờ. Chỉ cách có gang tay là một cái ví phụ nữ. Cái ví đang giục bàn tay hắn bò dần tới. Nhưng vóc dáng người chủ cái ví, vạm vỡ nhất trong đám đàn bà đang sử dụng máy giặt, làm cho hắn nhụt chí. Có lần, khi hắn còn là một thằng bé ma cô ở San Francisco, hắn và một “lỏi Tàu” (Tommy Chan à? Hay Tommy Lee?) đã cùng làm ăn với nhau như một “nhóm giật ví”. Perry nhớ lại - và việc đó làm hắn vui lên, hào hứng lên. “Như một lần tụi tôi lẻn đến bên một bà cụ già, rất già, Tommy túm lấy cái ví nhưng bà lão, đúng là một con cọp cái, không chịu buông. Tommy càng giằng khỏe, bà lão càng giữ chặt. Rồi bà ta thấy tôi, bèn nói, “Cứu với! Cứu với!” thì tôi mới nói, “Này bà già, mẹ kiếp, tôi đang cứu nó thì có!” và thụi bà ta tới số. Bà ta ngã xuống đường. Hai đứa lấy được tất cả có chín mươi xu - tôi còn nhớ chính xác. Hai đứa tôi vào một quán ăn ba tàu và ăn dưới gầm bàn.”
Sự đời chẳng thay đổi mấy. Perry đã già hơn hai mươi tuổi và nặng hơn lên gần nửa tạ nhưng tình cảnh vật chất của hắn thì chẳng khấm khá lên được chút nào. Hắn vẫn cứ là thằng ăn bám cầu bơ cầu bất, sống nhờ mấy đồng bạc ăn cắp của người ta (mà có tin nổi không, một đứa thông minh như hắn, tài cán như hắn!).
Mắt hắn vẫn không sao rời được chiếc đồng hồ trên tường. Mười giờ rưỡi, hắn bắt đầu lo lắng. Mười một giờ chân hắn nhức giật lên thon thót, dấu hiệu của cơn hoảng loạn đang đến, bao giờ cũng vậy, “máu tôi sủi bong bóng”. Hắn nhai một viên aspirin, và cố xóa sạch đi - ít nhất là làm mờ đi - những hình ảnh khủng khiếp đang như một đám rước sáng lòa sống động trôi qua đầu hắn: Dick ở trong tay cảnh sát, có lẽ bị bắt trong khi đang viết một tấm séc giả hay mắc vào một vụ phạm luật giao thông tẹp nhẹp nào đó (rồi bị phát hiện là lái một chiếc xe “chôm”). Rất có thể chính trong lúc này Dick đang bị sa lưới giữa vòng vây những thám tử hung hăng. Mà họ chẳng phải đang bàn ba cái chuyện ba láp như séc giả hay ăn cắp xe đâu. Án mạng kìa, đó mới là vấn đề, dù muốn thế nào thì cái mối liên hệ mà Dick cầm chắc là không ai mò ra được đã bị mò ra. Và ngay bây giờ một xe đầy cảnh sát đang trên đường phóng tới Washateria đây.
Nhưng không, hắn tưởng tượng quá đấy thôi, Dick chẳng bao giờ làm thế. Nghĩ mà xem hắn thường nghe Dick nói thế nào. “Chúng có đánh tớ mù đi nữa tớ cũng không bao giờ nói cho nó biết cái gì hết á.” Dĩ nhiên Dick là một “cha phét lác”, hắn chỉ dữ dằn trong những trường hợp hắn rõ ràng là ở trên cơ, Perry biết quá rõ. Thình lình, vừa hay, hắn nghĩ đến một lý do ít làm hắn nản lòng hơn cho việc Dick vắng mặt lâu. Dick đi thăm bố mẹ hắn. Một việc làm nguy hiểm nhưng Dick là thằng “dốc lòng hiếu tử”, hay là hắn tuyên bố mồm như thế, đêm qua trong chuyến đi dài dưới mưa hắn đã bảo Perry, “Tớ muốn gặp ông bà già tớ. Các cụ không nói ra đâu, tớ muốn nói là các cụ sẽ không báo cho viên giám sát tù tạm tha đâu, sẽ không làm việc gì khiến chúng ta rắc rối. Tớ chỉ xấu hổ. Tớ sợ cái điều mẹ tớ sẽ nói. Về các tờ séc. Rồi đi tuốt như chúng ta. Nhưng tớ mong có thể gọi cho các cụ, nghe xem các cụ ra sao.” Nhưng việc đó là bất khả, vì nhà Hickock không có điện thoại; nếu có thì Perry đã reng một cái để xem Dick có đó hay không.
Ít phút sau, hắn lại đinh ninh Dick đã bị bắt thật. Chỗ chân đau của hắn rực nhói lên, lóe sáng khắp cơ thể hắn, và mùi nước giặt giũ, mùi hôi nồng nặc khói, tất cả lập tức làm hắn như phát ốm, kéo bật hắn dậy, đẩy hắn nhào ra cửa. Hắn đứng nơi vệ đường mà nôn như “một thằng say quắc cần câu”. Kansas City! Hắn chẳng đã biết Kansas City là vận đen và đã van Dick lánh cho xa đó sao? Bây giờ, có thể bây giờ, Dick đang hối hận là đã không nghe hắn. Và hắn nghĩ: còn ta thì sao đây, “với một hai hào lẻ và một bó những thanh chì vụn trong túi?” Đi đâu được đây? Ai giúp được hắn chứ? Bobo? Ở đó mà mong! Nhưng chồng mụ thì có thể. Theo tính của Fred Johnson thì có thể sẽ bảo đảm cho Perry một việc làm sau khi ra tù, vậy là giúp hắn giữ lời hứa. Nhưng Bobo không chịu; mụ đã nói như thế chỉ dẫn đến rắc rối, và có thể nguy hiểm nữa. Thế rồi mụ đã biên thư cho Perry nói rõ ràng ra như thế. Một ngày nào đó hắn sẽ trả đũa cho mụ biết tay, vui vẻ tí chơi, chuyện vãn với mụ - khoe khả năng của hắn, nhả ra chi tiết những trò hắn có thể làm với những người như mụ, những người đáng kính, an toàn và phè phỡn chính xác giống như Bobo. Đúng, cho mụ biết hắn có thể nguy hiểm đến thế nào, cho mụ sáng mắt ra. Đó là điều hắn đã làm - đi Denver thăm nhà Johnson. Fred Johnson sẽ đỡ đần để cho cuộc đời mới của hắn bắt đầu khởi động; ông ta cần phải làm thế nếu ông ta muốn tống khứ hắn đi cho khuất mắt.
Lúc đó Dick lại gần hắn ở chỗ vệ đường. “Kìa, Perry, hắn nói, “cậu ốm à?”
m thanh tiếng nói của Dick như một phát tiêm ma túy mạnh, một chất ma túy, xâm chiếm các tĩnh mạch của hắn, gây ra một cơn mê sảng gồm những cảm giác chống chọi nhau: căng thẳng và thư giãn, phẫn nộ và âu yếm. Hai tay nắm lại thành quả đấm, hắn tiến về phía Dick. “Mày, thằng chó,” hắn nói. Dick cười toe toét, nói, “Thôi nào. Chúng ta lại được ăn rồi đây.”
Nhưng theo lệ là phải có giải thích - và cả xin lỗi nữa - thế rồi khi hai đứa ngồi xơi một bát thịt bò ớt đậu ở nhà hàng thịt băm Buýp Phê Đại Bàng mà Dick thích nhất ở Kansas City, Dick nói, “Tớ xin lỗi, bồ. Tớ biết cậu sẽ nổi cơn mà. Thử nghĩ xem, làm thế nào tớ lại đụng ngay một tên cớm. Nhưng vận tớ cũng đỏ gớm, cho nên chắc là tớ thoát được rồi.” Hắn giải thích rằng sau khi chia tay với Perry, hắn đến công ty Markl Buick, là cái hãng xe hơi đã có lần thuê hắn, hy vọng kiếm được một cặp biển số xe để thay cho cặp biển số dễ bị phát hiện của chiếc Chevrolet chúng cuỗm. “Tớ lẻn vào rồi ra mà chẳng ma nào thấy cả. Markl vốn là một nơi nổi tiếng bán xe bẹp xe nát. Quả nhiên là ở đằng sau công ty có một chiếc De Soto bẹp rúm với biển của bang Kansas.” Còn hiện thời thì chúng ở đâu nào? “Ở trên cỗ xe một ngựa của chúng ta đây, bạn ơi.”
Thay biển số xong, Dick ném biển số của bang Iowa vào một bể chứa nước của thành phố. Rồi hắn đỗ lại ở một trạm xăng mà thằng bạn học cùng lớp với hắn trước kia tên là Steve đang làm việc, hắn thuyết phục Steve nhận thanh toán bằng tấm séc năm chục đô, điều trước đây hắn chưa từng làm bao giờ - “bịp một thằng bạn hữu”. Thôi được, hắn chẳng bao giờ gặp lại Steve nữa đâu mà. Đêm nay hắn sẽ “tách hộ khẩu” ra khỏi Kansas City, lần này thì là mãi mãi. Hà cớ gì mà không xiết dăm thằng bạn cũ nào? Với ý nghĩ đó, hắn đã tìm một bạn học cùng lớp khác, làm nghề bán thuốc. Ở đây hắn mua sắm đến bảy mươi đô. “Giờ thì, tối nay, chúng mình sẽ chơi cho tới hai trăm. Tớ đã lên danh sách những nơi đánh phá rồi. Sáu bảy chỗ, bắt đầu ngay từ đây,” hắn nói, ý bảo chính Buýp Phê Đại Bàng đây, nơi mà tất cả mọi người - từ tay đứng quầy cho đến các anh bồi - thảy đều biết hắn và ưa hắn, gọi hắn là Dưa Chua (để vinh danh món khoái khẩu của hắn). “Rồi thì Florida, ta sẽ đến đó. Thấy sao hở bồ? Tớ chẳng đã hứa là chúng mình sẽ ăn Nôen ở Miami đó sao? Y hệt như mọi thằng triệu phú nhá.”
Dewey và đồng sự, đặc vụ K.B.I Clarence Duntz đang đứng chờ bàn trống ở Phòng Lối mòn. Nhìn quanh các bộ mặt quen thuộc vào giờ ăn trưa - đám doanh nhân da thịt mềm nhẽo và cánh chủ trại rám nắng nước da thô - Dewey nhận ra những người quen đặc biệt: bác sĩ Fenton, chuyên viên pháp y địa phương; Tom Mahar, ông giám đốc Warren; Harrison Smith, người đã tranh cử chức chưởng lý tỉnh năm ngoái nhưng thua Duane West, cả Herbert W. Clutter, chủ Trại Lũng Sông và là thành viên dự học Trường Chủ nhật của Dewey. Khoan, khoan nào! Chẳng phải là Dewey đã dự đám tang ông ta hay sao? Thế mà ông ta lại ở đây, ngồi ở góc lượn tròn của Phòng Lối mòn, đôi mắt màu nâu linh hoạt, đôi quai hàm vuông góc, vẻ tốt lành chân chất không hề bị cái chết làm khác đi chút nào. Nhưng Herb không ngồi một mình. Cùng bàn với ông có hai người trẻ tuổi và, nhận ra họ, Dewey bèn huých Duntz.
“Nhìn kìa.”
“Đâu cơ?”
“Quỷ tha ma bắt!”
Hickock và Smith đó! Nhưng hai bên lúc này đều đã nhận ra nhau. Hai thằng kia ngửi thấy nguy hiểm. Chúng quăng mình, qua cửa kính Phòng Lối mòn, chân đi trước, Dewey và Duntz nhảy bổ theo sau, hộc tốc chạy dọc Phố Chính, qua Palmer Jewelry, Norris Drugs, quán cà phê Garden, vòng góc phố xuôi xuống nhà ga rồi chui vào, thụt ra, trốn tìm ú tim giữa một lô những tòa tháp trắng cất giữ hạt ngũ cốc. Dewey rút súng, Duntz cũng vậy, nhưng khi họ nhắm bắn thì xảy ra điều kỳ dị. Thình lình, hết sức khó hiểu, (như trong giấc mơ vậy!) ai cũng đều bơi hết - kẻ đuổi, thằng chạy - đạp thòm thòm cái mặt nước rộng ghê gớm mà Phòng Thương mại Garden City rêu rao là “Bể bơi KHÔNG MẤT TIỀN lớn nhất thế giới”. Khi hai vị thám tử chạy ngang hàng với hai con mồi thì kìa, thêm lần nữa cảnh tượng đó lại nhòa mờ đi, nhòa mờ thành một cảnh tượng khác (Làm sao lại xảy ra cái trò này được nhỉ? Mình đang mê chăng?): nghĩa trang Cảnh Lũng, cái hòn đảo xám xanh của những nấm mồ, những thân cây những lối đi có trồng hoa, một ốc đảo yên bình cành lá xum xuê khe khẽ rì rào tựa như mảng bóng mây râm mát trên những bình nguyên trồng lúa mì rờ rỡ ở phía Bắc thị trấn. Nhưng bây giờ thì Duntz biến mất, còn lại Dewey với hai kẻ bị săn đuổi. Mặc dù không thấy chúng, ông biết chắc chúng đang trốn giữa những người chết, lom khom nấp sau một tấm bia mộ, có khi là bia mộ của chính cha ông: “Alvin Adams Dewey, 06/09/1879-26/01/1948”. Súng trong tay, ông bò dọc các lối mòn trang nghiêm, cho tới khi nghe tiếng cười và mò ra được hướng của nó, ông nhìn thấy Smith và Hickock nhưng chúng không hề ẩn nấp gì hết mà đang đứng xoạc cẳng trên nấm mồ chung hãy còn chưa được khắc tên của Herb, Bonnie, Nancy và Kenyon, chúng đứng dạng chân, tay chống nạnh, đầu ngật ra đằng sau, cười sằng sặc. Dewey bắn... bắn nữa... bắn nữa... Không ai ngã, tuy đứa nào cũng đã bị bắn ba phát trúng tim; chúng chỉ từ từ biến thành trong suốt, từng tí từng tí một hóa thành vô hình, bốc hơi, mặc dù tiếng cười vẫn cứ tràn ra cho tới lúc Dewey cúi xuống, chạy xa khỏi nó, lòng tràn ngập một nỗi tuyệt vọng quá mênh mông và chính nó đã đánh thức ông.
Khi tỉnh lại, ông tựa như là một đứa nhỏ mười tuổi đang ốm sốt và run lật bật; tóc ông ướt đầm, sơ mi sũng mồ hôi dính bết vào người. Căn phòng ở sở cảnh sát, nơi ông đã khóa trái tự nhốt mình trước khi ngủ vùi nơi bàn giấy, thì lờ mờ trong ánh chiều hôm. Lắng tai, ông nghe thấy điện thoại của bà Richardson réo trong buồng làm việc kế bên. Nhưng bà không ở đấy để trả lời; văn phòng đã đóng cửa. Trên đường đi ra, ông đã tính cứ mặc kệ chiếc điện thoại reo, nhưng rồi ông ngập ngừng. Có thể là Marie gọi hỏi xem ông có còn làm việc không, bà có nên chờ ông về ăn tới không.
“Ông A. A. Dewey, xin hỏi. Kansas City đang gọi.”
“Tôi, Dewey đây.”
“Kìa, nói đi, Kansas City. Ngư
Tác giả :
Truman Capote